CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
MỞ BÀI:
Văn chương mở đường cho hiện thực đến với độc giả bằng cái nghệ của ngôn từ
cái sâu của những trái tim đầy rung cảm; đến lượt mình, hiện thực làm công việc
nâng tầm giá trị bảo toàn sức sống cho nghệ thuật văn chương. Nguyễn Minh
Châu một trong những nhà văn đã nhạy bén nắm bắt được ý nghĩa của chu trình
bổ trợ ấy. Vậy nên trong thời kỳ đổi mới sau những năm 1975, văn học bước
chuyển mình theo sự vận động của thời đại thì ông vẫn kiên quyết hướng ngòi bút
xoay theo kim chỉ nam đời sống, từ chỗ khai thác chất sử thi lãng mạn thời chiến
chuyển sang góc nhìn tìm tòi, khám phá vẻ đẹp đời thường. nhà văn luôn tồn tại
một “mối quan hoài thường trực v số phận, hạnh phúc của những người chung
quanh mình”, điều đó được thể hiện nét trong “Bến quê”, “Cỏ lau” còn cả
“Chiếc thuyền ngoài xa” - truyện ngắn được viết năm 1983 thể được xem là c
phẩm thành công nhất của thi nhân
Trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp chống Mỹ, Nguyễn Minh Châu
người mở đường cây bút tiên phong trong văn học thời đổi mới. Sự nghiệp
cầm bút của ông bắt đầu từ những năm 1960 với thể loại truyện ngắn, chủ yếu phản
ánh hiện thực khốc liệt của chiến tranh. Ca ngợi tinh thần dũng cảm, Sự hi sinh
tự do đất nước của những người chiến cách mạng. Đến cuối những năm 80 của
thế kỉ XX, Nguyễn Minh Châu chuyển hướng sáng tác. Ông đi vào khám phá
những vấn đ về đạo đức, cảm hứng thế sự, đời mang đậm chất triết nhân sinh
trong giai đoạn văn học mới và được xem “Vị khai quốc công thần của triều đại
văn học mới”-“người mở đường tinh anh tài năng”. Truyện ngắn CTNX lần đầu
được in trong tập Bến q sau đó lấy làm tên chung cho một tập truyện ngắn cùng
tên, một sáng tác thuộc giai đoạn thứ hai của nhà văn. In đậm phong cách tự sự
triết lý, tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn cùng
những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về “Nghệ thuật cuộc đời”
HAI PHÁT HIỆN:
Ý kiến của Standal: Văn học tấm gương phản chiếu đời sống hội” muốn đề
cập đến tính hiện thực trong văn chương. Nhưng ý kiến của nin lại cho rằng:
“Nghệ thuật không đòi hỏi người ta thừa nhận các tác phẩm của như là hiện
thực.” Nghĩa văn học không nguyên xi hiện thực đời sống o tác phẩm. Hiện
thực trong tác phẩm được phản ánh thông qua lăng kính chủ quan của người nghệ
sĩ, thể hiện thái độ, tưởng, quan điểm thẩm của nhà văn Hai ý kiến trên vẻ
đối lập nhưng thực chất bổ sung cho nhau. Ý kiến của Standal bổ sung cho ý kiến
của Leenin để nhấn mạnh chức năng của văn học: văn học phản ánh hiện thực,
nhưng hiện thực ấy được khúc xạ qua cái nhìn chủ quan, tưởng, tình cảm sự
sáng tạo của người nghệ sĩ.
Vấn đ đặt ra hai ý kiến là đúng đắn, một trong những chức năng của văn học
giúp con người nhận thực đời sống hội. Nhà văn lấy chất liệu cuộc sống
hiện thực, từ đó cung cấp cho con người nhưng tri thức về hội, làm giàu vốn tri
thức của con người. Bởi văn học cuốn bách khoa toàn thư” về đời sống con
người. Nhà văn “người thư trung thành của thời đại”, không tách rời khỏi hiện
thực mà luôn “mở hồn ra đón lấy vang vọng của đất trời”, khám phá ra những vấn
đề của hội con người. Thạch Lam trong “Hai đứa trẻ” đã khám phá ra hiện
thực cuộc sống túng, quẩn quanh, tẻ nhạt, không tương lai; con người sống âm
thầm không ước mơ. Hay Nam Cao trong Đời thừa” đã phản ánh hiện thực hội
bóp nghẹt ước của người nghệ sĩ, ghì đôi cánh cảm xúc của họ bởi thực tại
cơm áo gạo tiền ghì sát đất” khiến họ rơi vào bế tắc, bi kịch. Đó bi kịch của vi
phạm lẽ sống tình thương đạo đức nghề nghiệp. Như vậy, các nhà văn đã tập
trung việc phản ánh hiện thực làm nhiệm vụ - đây cũng là mối trăn trở lớn nhất
của Nguyễn Minh Châu.
Truyện lôi cuốn người đọc ngay t dòng đầu tiên bởi tác giả chọn hình thức kể theo
ngôi thứ nhất, nhân vật tôi nghệ nhiếp ảnh Phùng. Với ngôi kể như vậy, câu
chuyện phát triển một cách tự nhiên, chân thật. Phùng một nhiếp ảnh tài năng
tâm huyết, anh được ông trưởng phòng yêu cầu chụp một tấm ảnh hoàn toàn thế
giới tĩnh vật để in trong bộ sưu tập chuyên đề về thuyền biển. Anh đã “phục
kích trên bờ biển giao điểm ngày vừa rạng, đêm chưa tắt” đ hi vọng được
tấm ảnh ưng ý. Sau gần một tuần tìm kiếm, vác máy ảnh tha thẩn, Phùng mới bắt
gặp cảnh “đắt trời cho”. Kể lại quá trình để chụp được tấm ảnh như ý của người
nghệ sĩ, nhà văn đã cho độc giả thấy được sự miệt mài trong lao động nghệ thuật.
Đứng trước biển cả mênh mông đã một tuần, vậy Phùng chưa thể chụp được
tấm ảnh nào ưng ý về cảnh thuyền biển. Chi tiết rất nhỏ, nhưng nhà văn đặt ra
vấn đề: lĩnh vực sáng tạo, không cho phép chúng ta cẩu thả; người nghệ ngoài tài
năng, cần phải lòng đam mê, sự tận tụy với nghề. cuối cùng, nghệ Phùng
đã có một khoảnh khắc tuyệt vời nhất khi anh bắt gặp một cảnh đắt trời cho khiến
anh “trở nên bối rối, trong tim như cái bóp thắt vào”: “trước mặt tôi là một
bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét hồ lòe nhòe
vào bầu sương trắng như sữa pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời
chiếu vào” bằng việc sử dụng phép liệt hàng loạt sự vật “mũi thuyền”, “sương
trắng”, “ánh mặt trời”,... đoạn văn miêu tả đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên
tuyệt đẹp, thể hiện sự nhạy cảm của một tâm hồn nghệ tài hoa. Sự liên tưởng
khung cảnh trước mắt đẹp n “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ
khi nhìn qua “những cái mắt lưới” mang tính ước lệ đã nâng tầm nghệ thuật của
thiên nhiên vùng biển vào lúc bình minh. Cảnh trời hiện lên huyền ảo bởi “mũi
thuyền in một nét hồ” lên “bầu sương trắng” điểm xuyết bởi “chút u
hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”, bức tranh vừa mang nét tĩnh tại với bóng
người “im phăng phắc” in trên nền thuyền, vừa hài hòa sống động với bước đi
chậm chạp của mũi thuyền “đang hướng vào bờ”. Khung cảnh tuyệt diệu thôi thúc
Phùng hối hả bấm “liên thanh” một hồi hết một phần cuốn phim” cả Nguyễn
Minh Châu - cũng với cương vị một người nghệ dụng hết tài hoa ngôn từ miêu
tả. Các từ láy “lòe nhòe”, “hồng hồng”, “phăng phắc”, “khum khum” khiến cho
khung cảnh thêm phần mộng ảo, n thực như hư. ng loạt so sánh nảy ra trong
đầu được viết trong đoạn trích đã khắc họa chân thực hơn, đậm chất tạo hình
của đoạn trích, để người đọc chạm gần hơn cái màu trắng “như sữa” của ơng
hay cái tĩnh “như tượng” của con người. Bố cục và ánh sáng được căn chỉnh hài
hòa như cố ý phô ra vẻ đẹp hoàn hảo, chiếm cứ trái tim nghệ sĩ. Đứng trước cái đẹp
tuyệt diệu, chính Phùng cho nh nhũng khám phá sáng tạo, điều băn khoăn
“chẳng biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính đạo đức” cũng
lời khẳng định cho linh cảm về chân - thiện - mỹ tồn tại trong nghệ thuật, có tác
dụng thanh lọc tâm hồn, giúp con người trở nên “trong ngần” cao khiết. Niềm
hạnh phúc của người nghệ chính cái hân hoan của khám phá sáng tạo,
“bản thân cái đẹp chính hạnh phúc”. Người nghệ phải kiên trì, tìm kiếm bằng
tất cả đam khi, cái đẹp đến từ những thứ nhỏ nhặt nhất, vào những lúc
không ngờ nhất bởi đó vẻ đẹp tự nhiên, hài hòa từ cảnh đến người.
Thông qua sự phát hiện đầu tiên trong hành trình tìm kiếm của nhân vật Phùng,
ngòi bút tài hoa vừa giàu chất hiện thực, vừa mang suy ngẫm sâu sắc của Nguyễn
Minh Châu đã miêu tả vẻ mờ ảo siêu thực của bức tranh bình minh vùng biển bằng
vốn liếng ngôn từ giản d nhưng xác đáng sự liên tưởng lãng mạn đầy chất thơ.
Bố cục bức tranh được sắp xếp hài hòa bằng ngôn từ thể hiện chất họa trong từng
dòng văn. Từ đó nhà văn không chỉ tái hiện khung cảnh, ông còn đem đến
những phát hiện nghệ thuật mới mẻ, sâu sắc, đầy g trị. Thông qua cảnh đẹp thiên
nhiên phát hiện của nhân vật Phùng trong đoạn trích trên
Đứng trước bức tranh thiên nhiên hoàn ấy, người nghệ hạnh phúc cùng bởi
đó sản phẩm của hóa công hiếm hoi lắm anh mới gặp. Với tâm hồn nhạy
cảm, Phùng đã cảm thấy thăng hoa trong giây phút y, hơn thế, anh cảm
nhận “khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Nguyễn Minh Châu đã miêu tả thật
tinh tế những rung động mãnh liệt tận thẳm sâu m hồn nghệ Phùng. Suốt một
đời cầm máy, anh chưa từng gặp vẻ đẹp diệu của tạo hóa đã ban tặng cho con
người như thế này. Thiên nhiên vốn vĩ, sao đến tận bây giờ Phùng mới thấy? Đó
sự may mắn hay chính là quà tặng cho những ai biết tìm tòi, sáng tạo, biết dấn
thân? Nếu không lăn lộn với thực tế, liệu Phùng gặp những tuyệt tác của hóa
công này không? Liệu có rơi vào tình trạng “khép phòng văn hục viết/nắng trôi
đi oan uổng biết bao ngày” (Chế Lan Viên). Qua Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn
gửi tới thông điệp sâu sắc về cách nhìn nhận cuộc sống: không chỉ riêng người
nghệ cả chúng ta, cần dụng tâm khi quan sát cuộc sống để phát hiện vẻ đẹp
chân chính nhìn thấy sự chân-thiện-mỹ tồn tại trong cái đẹp ấy.
Giữa chốn tha nhân, không phải ai cũng thấu dáng hình người nghệ sĩ, nhưng sản
phẩm của họ thì trường tồn cùng năm tháng.Phùng đang say sưa sáng tạo, cố thu
vào chiếc máy ảnh những khoảnh khắc tuyệt vời nhất. Tâm hồn đang ngập tràn
niềm vui sướng, anh đã liên tưởng đến “bản thân cái đẹp chính đạo đức” bởi
chính Đôxtôipxki từng khẳng định “Cái đẹp cứu rỗi thế giới”. Thế nhưng điều
đang chờ đợi Phùng sau cảnh tượng được như “bức tranh mực tàu của một danh
họa thời cổ” ấy? Liệu đằng sau cái đẹp phải cái thiện n cảm nhận ban đầu
của người nghệ sĩ?
Không yên trầm mặc như vẻ ngoài vốn thấy, từ chiếc thuyền ấy, tấn bi kịch gia
đình được khơi ra đầy nhức nhối. Như một trò đùa quái đản của cuộc sống, cũng
chính bằng đôi mắt mới vừa được gột rửa bởi vẻ đẹp huyền ảo như của chiếc
thuyền, Phùng chứng kiến một cặp vợ chồng bước ra từ nơi ấy xé toạc hết những
mộng ảo đầy lung linh của bình minh buổi sớm. Người đàn bà xấu xí, “trạc ngoài
bốn mươi”, mang thân hình đậm nét dân làng chài, “cao lớn với những đường
nét thô kệch”, khuôn mặt mệt mỏi tái ngắt; người đàn ông lưng rộng cong
như một chiếc thuyền, i tóc tổ quạ, chân đi ch bát, hai con mắt độc d tuôn
ra lời lẽ lỗ mãng: “C ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi y giờ”. Tình
huống truyện được đẩy lên cao trào với sự xuất hiện của người đàn làng chài
người chồng phu. Có ai ngờ rằng n sau phông nền tươi đẹp khi nãy hiện thực
đau đớn phũ phàng. Hiện lên với vẻ ngoài xác xơ, việc tác giả không đặt tên cụ thể
đã phần nào ngụ ý về số phận chông chênh, hèn mọn của người đàn làng chài.
Sống cùng người chồng tàn nhẫn, chị đầy cam chịu khi hứng lấy những trận đòn
roi, “không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”,
người phụ ấy cũng giống n M trong “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Hoài
“sống lâu trong cái khổ” nên “quen khổ rồi”. Chưa kịp can thiệp thì một lần nữa,
Phùng sững sờ khi thấy Phác lao thẳng vào bố mình “nhanh như một viên đạn”, anh
không ngờ rằng cậu loắt choắt, hồn nhiên vẫn bám theo mình lâu nay, cùng
mình ngắm sao lại khỏe đến thế, lúc bùng lên giận dữ cũng cục cằn hùng hổ như
thế. “giặt lấy cái thắt lưng quật vào lưng bố để bảo vệ người mẹ đáng thương,
tội nghiệp. Người đàn cứng rắn bị đánh cũng không la, nhưng sao lúc này lại
cảm thấy đau như thế. Vừa cay đắng tủi nhục đã tổn thương con khi để chứng
kiến cảnh bạo hành, vừa nghẹn ngào chua xót khi nhìn thấy lòng căm hận của con
với bố nó. Đấy tấm lòng yêu thương của một người mẹ, một người vợ, hay chính
phẩm chất vốn của người phụ nữ. ràng một phát hiện nào đó, cái “ngước
mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu’ đã truyền tải cho người đọc
thấy tấm lòng tự trọng cả thương con của chị. Ch van nài chồng để “được” lên
bờ đánh, cũng không muốn tủi nhục như thế trước mặt con thơ. Cảnh bạo lực
trong gia đình hàng chài khiến Phùng cay đắng nhận ra nghịch sâu cay ẩn sau vỏ
bọc hoàn mỹ. Anh ngộ ra chân của việc nhìn nhận cuộc sống, không thể đơn
giản hóa cần cái nhìn đa chiều sâu sắc hơn. Bởi, hóa ra đằng sau vẻ đẹp
“toàn bích” đầy nghệ thuật anh vừa vội thu vào máy ảnh lại chẳng phải
“đạo đức”. “hạnh phúc” hay g trị chân-thiện-mỹ chân chính sự tồn tại của
cái ác, cái xấu. Tấn bi kịch đen tối của gia đình làng chài như thứ nước rửa độc hại
làm nhòe mờ đi ánh sáng huyền mộng của tấm ảnh bình minh vừa mới nãy. Phùng
tái nhận ra nghịch của đời sống khi đặt song song cùng nghệ thuật. Nghệ
thuật vốn bắt nguồn t cuộc đời nhưng anh chỉ tiếp cận xự li xa vời. Cuộc đời
không đơn giản xuôi chiều luôn chứa đựng những nghịch lý, cái đẹp đôi khi bị
cái ác che mờ phủ kín, tâm con người cũng đầy phức tạp, ẩn chứ không dễ
hiểu thấu, giải một ch đơn giản.
Bằng giọng văn giản dị giàu chất hiện thực, Nguyễn Minh Châu đã dựng nên một
tình huống truyện độc đáo ý nghĩa chiêm nghiệm sâu sắc. Trái với văn phong
nhẹ nhàng, thấm đẫm chất thơ trong lần miêu t khung cảnh sớm mai, ngòi bút hữu
lực của tác giả xoáy sâu vào hiện thực tàn khốc, lời văn vẫn giản dị nhưng chứa sức
lực vạch trần tố cáo. Chiếc thuyền hình ảnh nghệ thuật mang tính biểu trưng
đắt giá. Khi xa đầy thi vị, lãng mạn nhưng khi gần nó chở đầy một hiện thực tàn
khốc. Như vậy, cái “xa” “gần” trong nghệ thuật, trong cuộc sống không chỉ
được đo bằng khoảng cách địa mức độ tiếp cận, thâm nhập của người nghệ
sĩ. Đôi mắt nhân đạo của nhà văn đã tìm kiếm, thông qua việc lên án thực trạng bạo
lực gia đình còn đồng thời truyền tải niềm đồng cảm đến với số phận nhân vật. T
hiện thực từ nghệ thuật, phát hiện thứ hai mở ra một chiêm nghiệm mới cho
nhân vật nghệ Phùng và cho cả độc giả về cách nhìn nhận cuộc sống tiếp nhận
cuộc sống theo chiều sâu. Chỉ khi chứng kiến cảnh ợng phi thẫm phi nhân
tính kia, anh mới vỡ ra bao điều. Người nghệ không chỉ quyền phản ánh cái
đẹp, hơn thế nữa, họ còn phải phản ánh cho chân thực cuộc sống cực của bao
kiếp người. Bởi, cuộc đời vốn tồn tại những mặt đối lập; những nghịch k
lường. Người nghệ chân chính phải luôn lắng nghe những âm thanh đa chiều của
thế giới đang tồn sinh quanh mình.
Văn học phản ánh đời sống không nguyên xi hiện thực vào trong tác phẩm.
hiện thực đó được lọc qua cái nhìn của người nghệ sĩ, thể hiện dụng ý của tác giả.
vậy, trong tác phẩm, hiện thực đôi khi được cấu, đậm hơn. Nếu nhà văn
chỉ chụp ảnh cuộc sống thì không cần đến vai trò của n văn. Sứ mệnh của nghệ
phản ánh hiện thực theo cái mới, hướng con người đến vẻ đẹp chân- thiện- mĩ.
Nam Cao từng nói: Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm
theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào
sâu tìm tòi, suy nghĩ, khơi những nguồn chưa ai khơi sáng tạo những chưa
có”.
Với CTNX nhà văn Nguyễn Minh Châu đem đến những nhận thức sâu sắc về con
người, về cuộc đời, trải lên những trang văn của mình bằng cái nhìn đa chiều. Nhà
văn thu hẹp ng kính trong phạm vi cuộc sống một gia đình nhưng lại mở ra những
vấn đề lớn lao sâu sắc không kém phần nhức nhối, chứa đựng c một vấn đề hội
vấn đề nhân sinh.
NGƯỜI ĐÀN BÀ:
Vẻ đẹp truyền thống người phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay đã được các n văn
quan tâm phản ánh, đề cao trân trọng ngợi ca. Mảng đề tài này kết tinh nhiều
kiệt tác trong văn học trung đại. Từ Nguyễn Dữ, Nguyễn Gia Thiều, Hồ Xuân
Hương, đến Nguyễn Du dường như văn học không bao giờ dừng chân trong việc
khám phá, phát lộ hết các tầng bậc của vẻ đẹp truyền thống người phụ nữ Việt
Nam. Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu sự tiếp nối thành công, góp
thêm một tiếng nói về mảng đề tài quen thuộc này. Truyện đã xây dựng xuất sắc
kiểu nhân vật thế sự đời qua hình ảnh người đàn hàng chài, người phụ nữ lao
động tần tảo lam lũ, có nhiều phẩm cách đáng quý. Nguyệt trong Mảnh trăng cuối
rừng nhân vật hoàn mỹ, từ tưởng đến cái tên, sợi tóc không vết, óng chuốt
trữ tình, đầy chất sử thi lãng mạn thì người đàn hàng chài bề ngoài trông thô
nhám, xấu nhưng bên trong thẳm sâu tâm hồn lại ẩn dấu một hạt ngọc, tỏa sáng
những vẻ đẹp đáng trân trọng, rất tiêu biểu cho vẻ đẹp truyền thống của người phụ
nữ Việt Nam.
Nhà văn đặt nhân vật n của mình vào trạng huống không tên. Qua toàn bộ câu
chuyện, người đọc không biết tên người đàn khổn khổ tội nghiệp ấy tên gì, tác
giả đã gọi tên nhân vật một cách phiếm định. Khi t người đàn hàng chài- gọi
theo giới tính công việc nghề nghiệp, khi thì mụ- gọi theo tuổi tác có ý mai
mỉa cay cực, lúc lại gọi chị ta theo cách người đứng ngoài cuộc khách quan.
Tất cả những cách gọi ấy mang một thông điệp sâu xa. Chị cũng danh như hàng
trăm, hàng triệu người đàn bà khác cái vùng biển này, chẳng khác, họ đều
giống nhau sự lam nghèo khó; họ đều giống nhau vẻ đẹp tính phổ phổ
quát của người phụ nữ Việt Nam muôn đời tần tảo, chịu thương chịu khó, hết lòng
hạnh phúc gia đình.
Cái xấu đã đeo đuổi ch n định mệnh, ngay từ u thơ: “Từ nhỏ tuổi tôi đã một
đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa.. , để rồi hạnh phúc đến với
chị thực khó khăn, chật vật. Còn đây, dưới cái nhìn của người nghệ nhiếp ảnh,
chị hiện ra Người đàn trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của người
đàn vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt
mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt dường như buồn ngủ. Ch qua
vài chấm phá về tuổi tác, ngoại hình, dáng vẻ mệt mỏi , tác giả đã vẽ ra trước mắt
người đọc đôi nét về thân phận bất hạnh, cảnh ngộ vô cùng tội nghiệp của chị.
Người đọc cảm giác hình ảnh người đàn hàng chài đang từ từ bước ra từ
chiếc thuyền đi thẳng vào trang giấy; người đàn bà ấy lẩn khuất đâu đó, ta vẫn
thường gặp ngoài đời thực. Đặc biệt, hình ảnh chị với tấm lưng áo bạc phếch
miếng vá, nửa thân ướt sũng gợi cho ta nỗi xót xa, niềm trắc ẩn mênh mông. Cuộc
sống mưu sinh lam cực nhọc, đầy bấp bênh nơi đầu sóng ngọn gió in hằn trên
tấm thân gầy của chị: đôi mắt mệt mỏi sau một đêm thức trắng, ngày tất bật cho
chồng cho con, thường xuyên gánh chịu những đòn roi man của người chồng
phu. Xấu, nghèo như hai tiền án lửng mang đến cái khổ. Kéo theo cả cuộc đời
của người đàn chìm trong éo le, bất hạnh, đẩy một người xứng đáng có được
hạnh phúc như ý trở thành nạn nhân của cái nghèo bạo lực gia đình.
Bị chồng đánh đập, hành hạ liên tục: “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận
nặng”. Cả nước không một người chồng nào như hắn.” Cứ khi nào lão thấy khổ
quá lại xách chị ra đánh”, như để trút giận, như đánh một con thú. Lão còn
nguyền rủa cay độc vào chị: bằng cái giọng rên rỉ, đau đớn: Mày chết đi cho ông
nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Thật kinh khủng man! Trong
truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Hoài, nhân vật Mị trước sự dại của đánh
đập áp bức, vẫn mang trong mình sức mạnh tiềm ng, đợi ngày hội thoát
thân, thoát khỏi đọa đày. Với tình huống tương tự nhưng dưới ngòi bút của Nguyễn
Minh Châu ta lại thấy n cuộc đời của người đi biển phải trải qua sóng to gió lớn,
muốn tồn tại phải chấp nhận. Chị chấp nhận, cam chịu nhẫn nhục thầm lặng để
mặc những đớn đau hàng ngày trút xuống thể mềm yếu của mình. Sức chịu đựng
của chị khiến ta bất bình cảm phục, ngỡ ngàng trước những điều tưởng chừng
phi lý. Bị đòn roi không chạy, không tìm kế thoát thân, âm thầm chịu đựng đ vượt
qua, coi đó như sự trừng phạt một tội lỗi g gớm do mình gây ra, không biểu
hiện vùng dậy. chết s chết cùng chồng, cùng con trên thuyền. Sự chấp nhận hy
sinh đã cho chị một i gia đình tuy không ấm êm nhưng các con chị không phải
vơ, đồng thời cho người đàn một sức mạnh biên để vượt qua nỗi đau thân
xác tinh thần, nỗi cơ cực nhọc nhằn, lam của cuộc sống thuyền chài.
Hơn thế nữa sự nhẫn nhịn của chị còn xuất phát t chính lòng tự trọng bản
năng hy sinh của người phụ nữ. . Chị xin chồng được đưa lên bờ đánh n
một đặc cách. Rút cục cũng bởi không muốn con nhìn thấy cảnh bố đánh mẹ. Tâm
hồn trẻ nhỏ một tờ giấy trắng, bạo lực th mực đen hôi hám. Một khi đàn
con của chị trông thấy cảnh cha đánh mẹ, tâm hồn của chúng đã bị bấy bẩn và vỡ
vụn, đáng sợ gấp bội lần nỗi đau thể xác. Hiểu được điều này, chị cũng không thấy
đau nữa.Chỉ khi hành động phu của chồng bị Phác người khách lạ chứng
kiến, bấy giờ chị mới thấy đau. Càng vỡ òa hơn nữa khi chứng kiến cảnh con đánh
bố, để bảo vệ mẹ. Một tổn thương lớn về lòng tự trọng khi phải để người khác
chứng kiến cảnh đau lòng, chồng đánh vợ, con đánh cha. Những nỗi đau, tổn
thương chồng lấn lên nhau dội xuống đầu chị. Nếu không phải người đàn hàng
chài với những đặc thù của cuộc sống sông nước hẳn không ai có th chịu đựng
vượt qua những nỗi đau khổ này. Dường như, từ cội nguồn nhân sinh thế tục,
người phụ nữ bao giờ cũng gánh chịu những thiệt thòi, bất hạnh. những bất
hạnh thiệt thòi ấy lại nhân lên với người phụ nữ nhan sắc bị hạn chế, thêm chuyện
sinh nhai, cái nghèo bám riết, đeo đẳng. Người đàn hàng chài dường như hội đủ
những yếu tố cấu thành cuộc đời tăm tối, cực.
Nhìn người đàn hàng chài, ta thấy đó một người quê mùa thất học, Ấy vậy
đằng sau sự hạn chế đó người phụ nữ thương con, thấu hiểu, trải đời rất
sâu sắc lẽ đời. :”Đàn trên thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không sống
cho mình như trên mặt đất được” lẽ đây câu nói hay nhất, gợi nhiều suy nghĩ
nhất trong lòng độc giả, thể hiện nhiều nhất vẻ đẹp tâm hồn người đàn hàng chài.
Đối với chị chẳng làm được điều hơn ngoài tình thương yêu ngọt ngào đắng
chát dành cho các con, nhất thằng Phác. Tránh cho con khỏi phạm phải tội lớn
nhất của đời người, tội bất hiếu. Bởi thế, chị sợ thằng lại làm điều dại dột với
cha, đã gửi lên rừng nhờ bố nuôi nửa năm. Khi thấy phản kháng với cha, chị
“lạy con” để giữ cho thằng bé không phải suốt đời ân hận một lần “lỗi đạo làm
con”. Nhưng khi chiếc thắt lưng kia lại rơi ngược lại lên khuôn ngực người đàn ông
người ra tay lại chính Phác, chị luôn day dút nỗi mặc cảm khi chưa làm tròn
bổn phận của người làm mẹ, không thể che chở cho tâm hồn non nớt ấy khỏi vết
thương lòng.
Qua chi tiết thằng Phác đứa con chị yêu quý nhất, chỉ bởi giống hệt bố nó. Đã
khẳng định rằng mụ yêu thương luôn cả lão chồng phu đã hành hạ mụ suốt đời.
Chị hiểu điều đã khiến con trai “cục tính nhưng hiền lành, không bao giờ
đánh đập ai” trở thành kẻ độc dữ, thô bạo. người đàn ông ấy là tr cột của gia
đình nghèo đói, đông con, sống bằng nghề chài lưới lênh đênh. Cả gia đình chen
chúc trên cái thuyền nhỏ, quanh năm trôi dạt trên biển. Những khi biển động thì cả
tháng trời “ăn xương rồng luộc chấm muối” Sự nghèo đói khó khăn đã dày
người đàn ông kia kh sở không m người đàn bà!
Nếu Chí Po, con quỷ
dữ làng Đại, lúc vật trong nỗi đơn tận cùng đã chửi, hắn chửi như
người say rượu hát. Nam Cao viết lạnh lùng chua xót Kh cho hắn
khổ cho cả ng Đại, hắn lại không biết t”. Lão chồng của người đàn
hàng chài cũng thế. Là tr cột, là đàn ông phải rắn rỏi, không được yếu
mềm. Những định kiến kia tình chèn ép một con người đến đường
cùng, tra tấn bản chất lương thiện dần tha hóa u nhọt. Chẳng còn cách
nào mỗi lần uất nghẹn, bế tắc cuộc mưu sinh, không tiền để chạy
trốn cuộc đời trong men rượu, lão lại đánh vợ.
CUỘC ĐỐI THOẠI TÒA ÁN HUYỆN (PHẨM CHẤT: HIỂU ĐỜI)
Nhà văn đã dựng lên đoạn đối thọai với Đẩu Phùng để nhân vật người đàn
điều kiện thể hiện suy nghĩ dày dặn của mình, bên trong người phụ nữ lam tầng
lớp hạ lưu lại ấp “viên ngọc” sáng ngời đầy thông tuệ, chị trải đời thấu hiểu lẽ
đời. Nhưng oái oăm thay, nhân vật người đàn khốn khổ của Nguyễn Minh Châu
không đi theo chuẩn mực s đông, chị nhất mực van nài, chấp nhận mọi hình phạt:
“Quý tòa bắt tội con cũng được, cầm con cũng được. Nhưng đừng bắt con bỏ
nó”. Người đàn sẵn sàng chịu đựng khung hình phạt cao nhất chứ dứt khoát
không bỏ chồng, nguyện ý giam hãm chính mình trong đời sống như địa ngục trần
gian. Hành động khẩn thiết chắp tay lạy vái lia lịa” giọng điệu khẩn thiết như
bóp chặt duy Phùng Đẩu, cảm giác gian phòng “tự nhiên bị hút hết không khí,
trở nên ngột ngạt”. Cả Phùng Đẩu đều không thể nén được sự khó hiểu dẫn đến
bực dọc lòng tốt của nh lại đổi lấy một quyết định ngu muội, cố chấp thế. Họ
tin chắc cách nhìn của mình đúng, đinh ninh rằng người đàn ông kia xấu cũng
chắc mẩm rằng người đàn ấy thật tăm tối nhận thức biết bao khi chối từ lời
khuyên này. Vị chánh án trẻ tuổi không giấu nổi s thất vọng qua cách xưng đổi
từ “chị” thành “bà”. Nhưng hai người nào biết đâu, ẩn sâu trong quyết định vẻ
nực cười hiện thực đời sống đôi khi tàn khốc. Hạnh phúc đấu tranh ta vẫn
thường tụng ca thực hành, đôi khi bất chấp ấy, với chị thật nghĩa, người đàn
nhận ra sợ hãi hơn bao giờ hết một bi kịch khác, đó cảnh đói khổ của
những đứa con cả niềm đau của con trẻ khi gia đình tan vỡ. Tấm lòng người mẹ
không cho phép người đàn bà ấy tự tay đập nát hạnh phúc gia đình vốn đã chắp .
Theo quan niệm của chị, “ông trời sinh ra người đàn bà đẻ con nuôi con khôn
lớn” đàn bà, nhất nhấn mạnh đàn trên thuyền chúng tôi” phải sống con.
Chị vẫn nhận ra hạnh phúc giản đơn, lóe sáng trong cuộc đời mình “Ở trên thuyền
cũng lúc chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”. lẽ đây mới cội nguồn hạnh
phúc để chị biết mình cần phải hy sinh chấp nhận đớn đau. Cái giá cho hạnh
phúc với chị thật xứng đáng, không phàn nàn, bị đòn roi man r tàn bạo Con
người chị hy sinh đến tột cùng. Hẳn với chị muốn tồn tại, muốn duy trì hạnh phúc
đương nhiên phải chấp nhận thua thiệt về mình. Người phụ nữ Việt Nam, không ít
những trường hợp phải chấp nhận hiện thực đắng cay này n một phương thức đ
hạnh phúc gia đình được tồn tại.
Bước ngoặt câu chuyện thêm một lần nữa được m ra, nhưng lần y nhằm giải
thích cho những khúc mắc vẫn xoáy sâu trong lòng Đẩu, Phùng cả người đọc.
Số phận người đàn được phơi bày chính câu chuyện cuộc sống cần chiêm
nghiệm, bóc tách. Đột nhiên, người đàn “mất hết cái vẻ ngoài khúm núm, sợ
sệt”, từ cách xưng “con”-”quý tòa” đổi thành “chị” “các chú”, người phụ nữ ấy
lấy được sự điềm nhiên tâm sự với họ như những người thân cận với lời lẽ chân
tình được chiêm nghiệm trong cả cuộc đời đầy lo toan, vất vả, chị nhấn mạnh: T
“cảm ơn lòng tốt của các chú” chị thẳng thắn phê bình khiến các nhà làm luật
thực thi luật pháp phải ngã ngửa: “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu phải
người làm ăn cho nên c chú đâu hiểu được cái việc của người m ăn, lam lũ,
khó nhọc. Bấy nhiêu lời nói mộc mạc thôi, đủ cứa vào lòng Đẩu Phùng. Cái lý
của chị giản đơn, tốt thôi chưa đủ, tốt theo kiểu nghĩ cho một bên, bỏ các bên còn
lại, tình sẽ phá nát hạnh phúc gia đình. Điều quan trọng cả vị chánh án
người nghệ nhiếp ảnh đã không thể hiểu được, họ đâu phải người làm ăn, đâu
hiểu việc lam lũ, k nhọc của người làm ăn. Như vậy, muốn hiểu đời, hiểu người
phải sống cuộc sống người khác, phải trải nghiệm, không nên nhìn theo cái nhìn
của kẻ ban phát, của kẻ bề trên. Về điều này, nhà văn Nam Cao đã từng cảnh báo
sâu sắc phải cố tìm hiểu.
Chỉ một cái chép miệng, mắt chị như đang nhìn suốt c đời mình: Giá tôi đẻ ít đi,
hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn. Vấn nạn đẻ nhiều dẫn đến cái
nghèo, bên cạnh đó chị còn nhìn ra một nguyên nhân nữa, sự hạn chế của phương
tiện mưu sinh sông nước, việc trời không yên, biển không lặng để làm ăn. Sao chị
không tính được chuyện làm n trên đất để an cư, lạc nghiệp. Nhưng chính chị đã
thấy hiện thực làm n trên đất một chỗ đâu thể làm được cái nghề lưới
cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai vì không bỏ nghề được! Cách giải
cho thấy nhận thức của chị không giản đơn.. Chỗ rất quan trọng nhưng phải tiện
cho công việc để mưu sinh. Một người có học vấn n Đẩu nhưng không thấy được
điều ấy, nên anh mới hỏi một câu trên trời: Vậy sao không lên bờ ở. Câu hỏi
này khiến ta liên tưởng đến cậu ấm con nhà giàu hỏi một người ăn xin đang đói
lả: Đói, sao không lấy nhân sâm ăn?
Người đàn khi này, lại lập luận theo một lẽ thường tình “Bởi các chú không
phải đàn người đàn trên một chiếc thuyền không đàn ông” . Đúng vậy,
đàn sống môi trường ng nước nếu không nhẫn nhịn, gặp chuyện bát đũa
biết cậy nhờ ai, nếu không cam chịu, gặp lúc biển động sóng lớn biết nương tựa
vào đâu để nuôi đàn con. Căng thẳng được đẩy lên đình điểm của cao trào khi Đẩu
trút tiếng thở dài chua chát: “Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, trên thuyền phải
một người đàn ông hắn man rợ, tàn bạo.” Người đàn bây giờ hạ giọng mềm
mại: “Phải cũng khi biển động sóng gió chứ chú ? Mặt khác, trong đau khổ triền
miên, người đàn ấy vẫn chắt lọc được niềm hạnh phúc nhỏ giọt đáng quý: “vả
lại, trên chiếc thuyền cũng lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui
vẻ”. Niềm hạnh phúc nhỏ nhoi, đáng thương chị cam tâm đánh đổi để gìn giữ.
Giữ ánh nhìn của người trong cuộc, chị nói về chồng nh với cái nhìn vị tha,
mang hàm ơn thấu hiểu. Người đàn ông ấy đã cho ch một mái ấm gia đình dẫu
chị xấu xí, thô kệch, đó niềm hạnh phúc không thể ngờ trong nhận thức của
người đàn bà. dẫu đã chịu bao nhiêu đau khổ, dày vò, chị vẫn nhìn chồng mình
với đôi mắt nguyên ban đầu, dù thô lỗ cộc cằn nhưng đã từng người hiền lành,
trầm tính, chỉ cuộc sống tàn nhẫn đã bào mòn con người ấy. Đó những lời lẽ
bao biện người phụ nữ dành cho chồng mình bởi chị thấy thấu hiểu thông
cảm cho những tha hóa trong tâm tính người đàn ông. Đó chính do chị nhất
quyết không từ bỏ cuộc hôn nhân này
Một cái vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của i phố huyện vùng biển. Thật
không ngờ hai người đàn ông mạnh mẽ, hiểu biết vừa mới hậm hực tức tối suy
nghĩ cam chịu k hiểu của chị ta giờ đây lại b những lời phân bua chân thành của
người phụ nữ thất học y làm cho ngỡ ngàng. một khoảnh khắc chợt bừng tỉnh
ngộ ra trong tâm trí người ngoài cuộc. Những lẽ chất phác nhưng đầy sắc sảo
“thấu tình đạt lý” của người đàn làm cả hai bối rối. Chánh án Đẩu nghệ
Phùng giải quyết vấn đề bằng sự rạch ròi theo khuôn pháp, nghệ Phùng nhìn
nhận cuộc sống xuôi theo quan niệm đạo đức, họ đều ý định giúp đỡ đáng quý
xuất phát từ lòng tốt. Nhưng bấy nhiêu thôi chưa đủ, họ quen duy một chiều,
cách đánh giá phiến diện, giản đơn nên không thể hiểu hết được những ẩn khuất
trong cuộc sống đầy trớ trêu. Hóa ra cuộc sống vốn đầy rẫy những oái oăm, vấn đề
đôi khi không tồn tại sự lựa chọn nào đúng hơn hay tốt nhất, con người khi ấy
phải biết chấp nhận thỏa hiệp với những nghịch chiến đấu hàng ngày với bất
hạnh. Lẽ thường pháp luật, công bằng hay lòng tốt ng chưa đủ để hóa giải
những điều ngang trái nếu không biết cách nhìn nhận vào chiều sâu vấn đề. Đó
chính bài học khám phá bừng ngộ nhà văn muốn độc giả chiêm nghiệm
trong suốt diễn tiến trích đoạn này.
Qua nhân vật người đàn hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của
Nguyễn Minh Châu, tác giả đã đem đến cho người đọc niềm cảm thương sâu sắc
với thân phận khổ đau của người phụ nữ, đồng thời giúp ta cảm nhận được một số
phương diện vẻ đẹp truyền thống của họ: Sự chịu đựng hy sinh hết lòng chồng,
con, luôn cháy sáng tinh thần lạc quan, khát vọng sống mạnh mẽ, khả năng vươn
lên để xây dựng, vun đắp hạnh phúc gia đình Những vẻ đẹp ấy củng cố thêm niềm
tin cho mỗi người vào cuộc sống vốn không ít truân chuyên này. Biện pháp đối lập
giữa hoàn cảnh tính cách, đối lập giữa ngoại hình bên ngoài tâm hồn bên
trong nhân vật đã tôn lên được những vẻ đẹp, những phẩm chất đáng ngợi ca hình
tượng người phụ nữ này. Ẩn trong những vẻ đẹp truyền thống đó, tác giả cũng đặt
ra vấn đề nhức nhối của cuộc sống hiện nay: nạn bạo hành gia đình, sự nghèo đói
thất học, sự tha hóa nhân cách Cảm hứng ngợi ca vẻ đẹp người phụ nữ cũng được
kín đáo, lồng trong cảm hứng thế sự, lên án tố o những ngang trái, nghịch lý, bất
công. Có thể nói, hình nh người đàn hàng chài trong truyện Chiếc thuyền ngoài
xa chính hình ảnh tiêu biểu, hiện thân cho vẻ đẹp truyền thống của người phụ n
Việt Nam. Trong cuộc đời đa sự,kiếp người đa đoan, chúng ta cần những hành
động thiết thực để người phụ nữ không bị chà đạp, để h được hưởng hạnh phúc
trọn vẹn, xứng đáng với những gì họ có, họ đã hy sinh.
GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO:
Trước hết thông qua tình huống truyện trên bãi biển tác giả Nguyễn Minh Châu
muốn nêu lên những mặt tối trong hội sau giải phóng. Tác giả gay gắt lên án nạn
bạo lực gia đình thông qua sai lầm của người đàn ông, hơn nữa Nguyễn Minh Châu
không chỉ dừng lại việc lên án, ông còn đi sâu vào nhấn mạnh hậu quả, hệ lụy
của thông qua nhân vật người đàn Phác, bạo lực gia đình đã làm tổn
thương thể xác lẫn tinh thần của người gánh chịu, làm tan vỡ niềm tin trong trẻo
của trẻ thơ. Đồng thời ca ngợi tình mẫu tử, lên tiếng bảo vệ khát vọng được mái
ấm hạnh phúc của trẻ nhỏ, Đó chính khao khát đấu tranh cho cái thiện
Nguyễn Minh Châu hằng theo đuổi. Bên cạnh đó tấm lòng thương cảm, thấu hiểu
sâu sắc cho số phận cuộc đời của hững con người vùng biển nói riêng, những
con người cuộc sống luôn bấp bênh, lam lũ, vất vả sau cách mạng nói chung. Do
những hậu quả 2 cuộc chiến tranh kéo dài gần 120 năm đã để lại trên đất nước
ta bao gồm: Sự đói nghèo, lạc hậu, sự thiếu hụt của tri thức, giáo dục,.. là những
con người bôn ba kham khổ, nhưng tìm tòi mới phát hiện, ẩn sâu trong trái
tim họ viên ngọc sáng mang vẻ đẹp cao quý, đáng trân trọng. Cuối cùng tổng kết
lại giá trị nhân đạo của Chiếc thuyền ngoài xa chỉ nằm gọn trong một chữ “thiện”.
đã góp phần làm hoàn chỉnh quan điểm chân-thiện-mỹ nhà n hằng theo đuổi
trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình.
GIÁ TR HIỆN THC
:
Giá trị hiện thực mà Nguyễn Minh Châu gửi gắm qua Chiếc
thuyền ngi xa không chỉ số phận của những người phụ nữ, sự ngang trái, bi kịch
những gia đình nghèo trong hội mà n là những trăn trở về cuộc đời: làm sao để
đất nước ta khi đã hoà bình, tất cả mọi người đều được no đủ, được học hành, để
thể vơi bớt những hoàn cảnh, số phận đáng thương. qua đó, nhà văn Nguyễn Minh
Châu cũng rút ra bài học cho những nghệ rằng khi nhìn nhận cuộc sống, con người
phải có cái nhìn đa diện đa chiều, phải biết đi sâu khám phá những bản chất đằng sau
vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.
NGHỆ THUẬT:
Với tình huống truyện độc đáo tình huống nhận thức ý nghĩa khám phá phát
hiện về sự thật đời sống nhà văn thấm thía, nhấn mạnh mối quan hệ giữa nghệ thuật
cuộc đời. Tác gi lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn thích hợp, làm cho câu chuyện trở
nên gần gũi, chân thực sức thuyết phục. Ngôn ngữ nhân vật sinh động giản dị,
phù hợp với từng nhân vật. Lời văn giản dị sâu sắc, vừa thủ thỉ, trầm nh, thấp
thoáng nụ cười khoan hòa, mộc mạc nhiều vị dễ đi vào ng người.

Preview text:

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA MỞ BÀI:
Văn chương mở đường cho hiện thực đến với độc giả bằng cái nghệ của ngôn từ và
cái sâu của những trái tim đầy rung cảm; đến lượt mình, hiện thực làm công việc
nâng tầm giá trị và bảo toàn sức sống cho nghệ thuật văn chương. Nguyễn Minh
Châu là một trong những nhà văn đã nhạy bén nắm bắt được ý nghĩa của chu trình
bổ trợ ấy. Vậy nên trong thời kỳ đổi mới sau những năm 1975, dù văn học có bước
chuyển mình theo sự vận động của thời đại thì ông vẫn kiên quyết hướng ngòi bút
xoay theo kim chỉ nam đời sống, từ chỗ khai thác chất sử thi lãng mạn thời chiến
chuyển sang góc nhìn tìm tòi, khám phá vẻ đẹp đời thường. Ở nhà văn luôn tồn tại
một “mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những người chung
quanh mình”, điều đó được thể hiện rõ nét trong “Bến quê”, “Cỏ lau” và còn cả
“Chiếc thuyền ngoài xa” - truyện ngắn được viết năm 1983 có thể được xem là tác
phẩm thành công nhất của thi nhân
Trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Nguyễn Minh Châu
người mở đường và cây bút tiên phong trong văn học thời kì đổi mới. Sự nghiệp
cầm bút của ông bắt đầu từ những năm 1960 với thể loại truyện ngắn, chủ yếu phản
ánh hiện thực khốc liệt của chiến tranh. Ca ngợi tinh thần dũng cảm, Sự hi sinh vì
tự do đất nước của những người chiến sĩ cách mạng. Đến cuối những năm 80 của
thế kỉ XX, Nguyễn Minh Châu chuyển hướng sáng tác. Ông đi vào khám phá
những vấn đề về đạo đức, cảm hứng thế sự, đời tư mang đậm chất triết lý nhân sinh
trong giai đoạn văn học mới và được xem là “Vị khai quốc công thần của triều đại
văn học mới”-“người mở đường tinh anh và tài năng”. Truyện ngắn CTNX lần đầu
được in trong tập Bến quê sau đó lấy làm tên chung cho một tập truyện ngắn cùng
tên, là một sáng tác thuộc giai đoạn thứ hai của nhà văn. In đậm phong cách tự sự
triết lý, tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn cùng
những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về “Nghệ thuật và cuộc đời” HAI PHÁT HIỆN:
Ý kiến của Standal: “ Văn học là tấm gương phản chiếu đời sống xã hội” muốn đề
cập đến tính hiện thực trong văn chương. Nhưng ý kiến của Lê nin lại cho rằng:
“Nghệ thuật không đòi hỏi người ta thừa nhận các tác phẩm của nó như là hiện
thực.” Nghĩa là văn học không bê nguyên xi hiện thực đời sống vào tác phẩm. Hiện
thực trong tác phẩm được phản ánh thông qua lăng kính chủ quan của người nghệ
sĩ, thể hiện thái độ, tư tưởng, quan điểm thẩm mĩ của nhà văn Hai ý kiến trên có vẻ
đối lập nhưng thực chất bổ sung cho nhau. Ý kiến của Standal bổ sung cho ý kiến
của Leenin để nhấn mạnh chức năng của văn học: văn học phản ánh hiện thực,
nhưng hiện thực ấy được khúc xạ qua cái nhìn chủ quan, tư tưởng, tình cảm và sự
sáng tạo của người nghệ sĩ.
Vấn đề đặt ra ở hai ý kiến là đúng đắn, vì một trong những chức năng của văn học
là giúp con người nhận thực đời sống xã hội. Nhà văn lấy chất liệu là cuộc sống
hiện thực, từ đó cung cấp cho con người nhưng tri thức về xã hội, làm giàu vốn tri
thức của con người. Bởi văn học là cuốn “ bách khoa toàn thư” về đời sống và con
người. Nhà văn là “người thư kí trung thành của thời đại”, không tách rời khỏi hiện
thực mà luôn “mở hồn ra đón lấy vang vọng của đất trời”, khám phá ra những vấn
đề của xã hội và con người. Thạch Lam trong “Hai đứa trẻ” đã khám phá ra hiện
thực cuộc sống tù túng, quẩn quanh, tẻ nhạt, không tương lai; con người sống âm
thầm không ước mơ. Hay Nam Cao trong “ Đời thừa” đã phản ánh hiện thực xã hội
bóp nghẹt ước mơ của người nghệ sĩ, ghì đôi cánh cảm xúc của họ bởi thực tại
“ cơm áo gạo tiền ghì sát đất” khiến họ rơi vào bế tắc, bi kịch. Đó là bi kịch của vi
phạm lẽ sống tình thương và đạo đức nghề nghiệp. Như vậy, các nhà văn đã tập
trung và việc phản ánh hiện thực làm nhiệm vụ - đây cũng là mối trăn trở lớn nhất của Nguyễn Minh Châu.
Truyện lôi cuốn người đọc ngay từ dòng đầu tiên bởi tác giả chọn hình thức kể theo
ngôi thứ nhất, nhân vật tôi – nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Với ngôi kể như vậy, câu
chuyện phát triển một cách tự nhiên, chân thật. Phùng là một nhiếp ảnh có tài năng
và tâm huyết, anh được ông trưởng phòng yêu cầu chụp một tấm ảnh hoàn toàn thế
giới tĩnh vật để in trong bộ sưu tập chuyên đề về thuyền và biển. Anh đã “phục
kích trên bờ biển ở giao điểm ngày vừa rạng, đêm chưa tắt” để hi vọng có được
tấm ảnh ưng ý. Sau gần một tuần tìm kiếm, vác máy ảnh tha thẩn, Phùng mới bắt
gặp cảnh “đắt trời cho”. Kể lại quá trình để chụp được tấm ảnh như ý của người
nghệ sĩ, nhà văn đã cho độc giả thấy được sự miệt mài trong lao động nghệ thuật.
Đứng trước biển cả mênh mông đã một tuần, vậy mà Phùng chưa thể chụp được
tấm ảnh nào ưng ý về cảnh thuyền và biển. Chi tiết rất nhỏ, nhưng nhà văn đặt ra
vấn đề: lĩnh vực sáng tạo, không cho phép chúng ta cẩu thả; người nghệ sĩ ngoài tài
năng, cần phải có lòng đam mê, sự tận tụy với nghề. Và cuối cùng, nghệ sĩ Phùng
đã có một khoảnh khắc tuyệt vời nhất khi anh bắt gặp một “cảnh đắt trời cho” khiến
anh “trở nên bối rối, trong tim như có cái gì bóp thắt vào”: “trước mặt tôi là một
bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe
vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời
chiếu vào” bằng việc sử dụng phép liệt kê hàng loạt sự vật “mũi thuyền”, “sương
mù trắng”, “ánh mặt trời”,. . đoạn văn miêu tả đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên
tuyệt đẹp, thể hiện sự nhạy cảm của một tâm hồn nghệ sĩ tài hoa. Sự liên tưởng
khung cảnh trước mắt đẹp như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”
khi nhìn qua “những cái mắt lưới” mang tính ước lệ đã nâng tầm nghệ thuật của
thiên nhiên vùng biển vào lúc bình minh. Cảnh trời hiện lên huyền ảo bởi “mũi
thuyền in một nét mơ hồ” lên “bầu sương mù trắng” và điểm xuyết bởi “chút màu
hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”, bức tranh vừa mang nét tĩnh tại với bóng
người “im phăng phắc” in trên nền thuyền, vừa hài hòa sống động với bước đi
chậm chạp của mũi thuyền “đang hướng vào bờ”. Khung cảnh tuyệt diệu thôi thúc
Phùng hối hả bấm “liên thanh” một hồi hết một phần tư cuốn phim” và cả Nguyễn
Minh Châu - cũng với cương vị một người nghệ sĩ dụng hết tài hoa ngôn từ miêu
tả. Các từ láy “lòe nhòe”, “hồng hồng”, “phăng phắc”, “khum khum” khiến cho
khung cảnh thêm phần mộng ảo, như thực như hư. Hàng loạt so sánh nảy ra trong
đầu và được viết trong đoạn trích đã khắc họa chân thực hơn, tô đậm chất tạo hình
của đoạn trích, để người đọc chạm gần hơn cái màu trắng “như sữa” của sương mù
hay cái tĩnh “như tượng” của con người. Bố cục và ánh sáng được căn chỉnh hài
hòa như cố ý phô ra vẻ đẹp hoàn hảo, chiếm cứ trái tim nghệ sĩ. Đứng trước cái đẹp
tuyệt diệu, chính Phùng có cho mình nhũng khám phá và sáng tạo, điều băn khoăn
“chẳng biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức” cũng là
lời khẳng định cho linh cảm về chân - thiện - mỹ tồn tại trong nghệ thuật, nó có tác
dụng thanh lọc tâm hồn, giúp con người trở nên “trong ngần” và cao khiết. Niềm
hạnh phúc của người nghệ sĩ chính là cái hân hoan của khám phá và sáng tạo, vì
“bản thân cái đẹp chính là hạnh phúc”. Người nghệ sĩ phải kiên trì, tìm kiếm bằng
tất cả đam mê và có khi, cái đẹp đến từ những thứ nhỏ nhặt nhất, vào những lúc
không ngờ nhất bởi đó là vẻ đẹp tự nhiên, hài hòa từ cảnh đến người.
Thông qua sự phát hiện đầu tiên trong hành trình tìm kiếm của nhân vật Phùng,
ngòi bút tài hoa vừa giàu chất hiện thực, vừa mang suy ngẫm sâu sắc của Nguyễn
Minh Châu đã miêu tả vẻ mờ ảo siêu thực của bức tranh bình minh vùng biển bằng
vốn liếng ngôn từ giản dị nhưng xác đáng và sự liên tưởng lãng mạn đầy chất thơ.
Bố cục bức tranh được sắp xếp hài hòa bằng ngôn từ thể hiện chất họa trong từng
dòng văn. Từ đó mà nhà văn không chỉ tái hiện khung cảnh, ông còn đem đến
những phát hiện nghệ thuật mới mẻ, sâu sắc, đầy giá trị. Thông qua cảnh đẹp thiên
nhiên và phát hiện của nhân vật Phùng trong đoạn trích trên
Đứng trước bức tranh thiên nhiên hoàn mĩ ấy, người nghệ sĩ hạnh phúc vô cùng bởi
vì đó là sản phẩm của hóa công mà hiếm hoi lắm anh mới gặp. Với tâm hồn nhạy
cảm, Phùng đã cảm thấy thăng hoa trong giây phút này, hơn thế, anh cảm
nhận “khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Nguyễn Minh Châu đã miêu tả thật
tinh tế những rung động mãnh liệt tận thẳm sâu tâm hồn nghệ sĩ Phùng. Suốt một
đời cầm máy, anh chưa từng gặp vẻ đẹp diệu kì của tạo hóa đã ban tặng cho con
người như thế này. Thiên nhiên vốn kì vĩ, sao đến tận bây giờ Phùng mới thấy? Đó
là sự may mắn hay chính là quà tặng cho những ai biết tìm tòi, sáng tạo, biết dấn
thân? Nếu không lăn lộn với thực tế, liệu Phùng có gặp những tuyệt tác của hóa
công này không? Liệu có rơi vào tình trạng “khép phòng văn hì hục viết/nắng trôi
đi oan uổng biết bao ngày” (Chế Lan Viên). Qua Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn
gửi tới thông điệp sâu sắc về cách nhìn nhận cuộc sống: không chỉ riêng người
nghệ sĩ mà cả chúng ta, cần dụng tâm khi quan sát cuộc sống để phát hiện vẻ đẹp
chân chính và nhìn thấy sự chân-thiện-mỹ tồn tại trong cái đẹp ấy.
Giữa chốn tha nhân, không phải ai cũng thấu rõ dáng hình người nghệ sĩ, nhưng sản
phẩm của họ thì trường tồn cùng năm tháng.Phùng đang say sưa sáng tạo, cố thu
vào chiếc máy ảnh những khoảnh khắc tuyệt vời nhất. Tâm hồn đang ngập tràn
niềm vui sướng, anh đã liên tưởng đến “bản thân cái đẹp chính là đạo đức” bởi
chính Đôxtôipxki từng khẳng định “Cái đẹp cứu rỗi thế giới”. Thế nhưng điều gì
đang chờ đợi Phùng sau cảnh tượng được ví như “bức tranh mực tàu của một danh
họa thời cổ” ấy? Liệu đằng sau cái đẹp có phải là cái thiện như cảm nhận ban đầu của người nghệ sĩ?
Không yên ả và trầm mặc như vẻ ngoài vốn thấy, từ chiếc thuyền ấy, tấn bi kịch gia
đình được khơi ra đầy nhức nhối. Như một trò đùa quái đản của cuộc sống, cũng
chính bằng đôi mắt mới vừa được gột rửa bởi vẻ đẹp huyền ảo như mơ của chiếc
thuyền, Phùng chứng kiến một cặp vợ chồng bước ra từ nơi ấy và xé toạc hết những
mộng ảo đầy lung linh của bình minh buổi sớm. Người đàn bà xấu xí, “trạc ngoài
bốn mươi”, mang thân hình đậm nét dân cư làng chài, “cao lớn với những đường
nét thô kệch”, khuôn mặt mệt mỏi và tái ngắt; người đàn ông lưng rộng và cong
như một chiếc thuyền, mái tóc tổ quạ, chân đi chữ bát, hai con mắt độc dữ và tuôn
ra lời lẽ lỗ mãng: “Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”. Tình
huống truyện được đẩy lên cao trào với sự xuất hiện của người đàn bà làng chài và
người chồng vũ phu. Có ai ngờ rằng ẩn sau phông nền tươi đẹp khi nãy là hiện thực
đau đớn phũ phàng. Hiện lên với vẻ ngoài xác xơ, việc tác giả không đặt tên cụ thể
đã phần nào ngụ ý về số phận chông chênh, hèn mọn của người đàn bà làng chài.
Sống cùng người chồng tàn nhẫn, chị đầy cam chịu khi hứng lấy những trận đòn
roi, “không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”,
người phụ ấy cũng giống như Mị trong “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài
“sống lâu trong cái khổ” nên “quen khổ rồi”. Chưa kịp can thiệp thì một lần nữa,
Phùng sững sờ khi thấy Phác lao thẳng vào bố mình “nhanh như một viên đạn”, anh
không ngờ rằng cậu bé loắt choắt, hồn nhiên vẫn bám theo mình lâu nay, cùng
mình ngắm sao lại khỏe đến thế, lúc bùng lên giận dữ cũng cục cằn và hùng hổ như
thế. Nó “giặt lấy cái thắt lưng quật vào lưng bố” để bảo vệ người mẹ đáng thương,
tội nghiệp. Người đàn bà cứng rắn bị đánh cũng không la, nhưng sao lúc này lại
cảm thấy đau như thế. Vừa cay đắng tủi nhục vì đã tổn thương con khi để nó chứng
kiến cảnh bạo hành, vừa nghẹn ngào chua xót khi nhìn thấy lòng căm hận của con
với bố nó. Đấy là tấm lòng yêu thương của một người mẹ, một người vợ, hay chính
là phẩm chất vốn có của người phụ nữ. Rõ ràng ở một phát hiện nào đó, cái “ngước
mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu’ đã truyền tải cho người đọc
thấy tấm lòng tự trọng và cả thương con của chị. Chị van nài chồng để “được” lên
bờ mà đánh, cũng vì không muốn tủi nhục như thế trước mặt con thơ. Cảnh bạo lực
trong gia đình hàng chài khiến Phùng cay đắng nhận ra nghịch lý sâu cay ẩn sau vỏ
bọc hoàn mỹ. Anh ngộ ra chân lý của việc nhìn nhận cuộc sống, không thể đơn
giản hóa mà cần có cái nhìn đa chiều và sâu sắc hơn. Bởi, hóa ra đằng sau vẻ đẹp
“toàn bích” đầy nghệ thuật mà anh vừa vội vã thu vào máy ảnh lại chẳng phải là
“đạo đức”. “hạnh phúc” hay giá trị chân-thiện-mỹ chân chính mà là sự tồn tại của
cái ác, cái xấu. Tấn bi kịch đen tối của gia đình làng chài như thứ nước rửa độc hại
làm nhòe mờ đi ánh sáng huyền mộng của tấm ảnh bình minh vừa mới nãy. Phùng
tê tái nhận ra nghịch lý của đời sống khi đặt nó song song cùng nghệ thuật. Nghệ
thuật vốn dĩ bắt nguồn từ cuộc đời nhưng anh chỉ tiếp cận ở xự li xa vời. Cuộc đời
không đơn giản xuôi chiều mà luôn chứa đựng những nghịch lý, cái đẹp đôi khi bị
cái ác che mờ và phủ kín, tâm tư con người cũng đầy phức tạp, bí ẩn chứ không dễ
hiểu thấu, lý giải một cách đơn giản.
Bằng giọng văn giản dị giàu chất hiện thực, Nguyễn Minh Châu đã dựng nên một
tình huống truyện độc đáo có ý nghĩa chiêm nghiệm sâu sắc. Trái với văn phong
nhẹ nhàng, thấm đẫm chất thơ trong lần miêu tả khung cảnh sớm mai, ngòi bút hữu
lực của tác giả xoáy sâu vào hiện thực tàn khốc, lời văn vẫn giản dị nhưng chứa sức
lực vạch trần và tố cáo. Chiếc thuyền là hình ảnh nghệ thuật mang tính biểu trưng
đắt giá. Khi xa đầy thi vị, lãng mạn nhưng khi gần nó chở đầy một hiện thực tàn
khốc. Như vậy, cái “xa” và “gần” trong nghệ thuật, trong cuộc sống không chỉ
được đo bằng khoảng cách địa lý mà là mức độ tiếp cận, thâm nhập của người nghệ
sĩ. Đôi mắt nhân đạo của nhà văn đã tìm kiếm, thông qua việc lên án thực trạng bạo
lực gia đình còn đồng thời truyền tải niềm đồng cảm đến với số phận nhân vật. Từ
hiện thực và từ nghệ thuật, phát hiện thứ hai mở ra một chiêm nghiệm mới cho
nhân vật nghệ sĩ Phùng và cho cả độc giả về cách nhìn nhận cuộc sống và tiếp nhận
cuộc sống theo chiều sâu. Chỉ khi chứng kiến cảnh tượng phi thẫm mĩ và phi nhân
tính kia, anh mới vỡ ra bao điều. Người nghệ sĩ không chỉ có quyền phản ánh cái
đẹp, hơn thế nữa, họ còn phải phản ánh cho chân thực cuộc sống cơ cực của bao
kiếp người. Bởi, cuộc đời vốn tồn tại những mặt đối lập; có những nghịch lí khó
lường. Người nghệ sĩ chân chính phải luôn lắng nghe những âm thanh đa chiều của
thế giới đang tồn sinh quanh mình.
Văn học phản ánh đời sống không bê nguyên xi hiện thực vào trong tác phẩm. Mà
hiện thực đó được lọc qua cái nhìn của người nghệ sĩ, thể hiện dụng ý của tác giả.
Vì vậy, trong tác phẩm, hiện thực đôi khi được hư cấu, tô đậm hơn. Nếu nhà văn
chỉ chụp ảnh cuộc sống thì không cần đến vai trò của nhà văn. Sứ mệnh của nghệ sĩ
là phản ánh hiện thực theo cái mới, hướng con người đến vẻ đẹp chân- thiện- mĩ.
Nam Cao từng nói: “ Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm
theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào
sâu tìm tòi, suy nghĩ, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”.
Với CTNX nhà văn Nguyễn Minh Châu đem đến những nhận thức sâu sắc về con
người, về cuộc đời, trải lên những trang văn của mình bằng cái nhìn đa chiều. Nhà
văn thu hẹp ống kính trong phạm vi cuộc sống một gia đình nhưng lại mở ra những
vấn đề lớn lao sâu sắc không kém phần nhức nhối, chứa đựng cả một vấn đề xã hội – vấn đề nhân sinh. NGƯỜI ĐÀN BÀ:
Vẻ đẹp truyền thống người phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay đã được các nhà văn
quan tâm phản ánh, đề cao trân trọng và ngợi ca. Mảng đề tài này kết tinh ở nhiều
kiệt tác trong văn học trung đại. Từ Nguyễn Dữ, Nguyễn Gia Thiều, Hồ Xuân
Hương, đến Nguyễn Du dường như văn học không bao giờ dừng chân trong việc
khám phá, phát lộ hết các tầng bậc của vẻ đẹp truyền thống người phụ nữ Việt
Nam. Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là sự tiếp nối thành công, góp
thêm một tiếng nói về mảng đề tài quen thuộc này. Truyện đã xây dựng xuất sắc
kiểu nhân vật thế sự đời tư qua hình ảnh người đàn bà hàng chài, người phụ nữ lao
động tần tảo lam lũ, có nhiều phẩm cách đáng quý. Nguyệt trong Mảnh trăng cuối
rừng là nhân vật hoàn mỹ, từ lý tưởng đến cái tên, sợi tóc không tì vết, óng chuốt
trữ tình, đầy chất sử thi lãng mạn thì người đàn bà hàng chài bề ngoài trông thô
nhám, xấu xí nhưng bên trong thẳm sâu tâm hồn lại ẩn dấu một hạt ngọc, tỏa sáng
những vẻ đẹp đáng trân trọng, rất tiêu biểu cho vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.
Nhà văn đặt nhân vật nữ của mình vào trạng huống không tên. Qua toàn bộ câu
chuyện, người đọc không biết tên người đàn bà khổn khổ tội nghiệp ấy tên gì, tác
giả đã gọi tên nhân vật một cách phiếm định. Khi thì là người đàn bà hàng chài- gọi
theo giới tính và công việc nghề nghiệp, khi thì là mụ- gọi theo tuổi tác có ý mai
mỉa cay cực, lúc lại gọi là chị ta theo tư cách người đứng ngoài cuộc khách quan.
Tất cả những cách gọi ấy mang một thông điệp sâu xa. Chị cũng vô danh như hàng
trăm, hàng triệu người đàn bà khác ở cái vùng biển này, chẳng có gì khác, họ đều
giống nhau ở sự lam lũ nghèo khó; họ đều giống nhau ở vẻ đẹp có tính phổ phổ
quát của người phụ nữ Việt Nam muôn đời tần tảo, chịu thương chịu khó, hết lòng vì hạnh phúc gia đình.
Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, ngay từ ấu thơ: “Từ nhỏ tuổi tôi đã là một
đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa. ” , để rồi hạnh phúc đến với
chị thực khó khăn, chật vật. Còn đây, dưới cái nhìn của người nghệ sĩ nhiếp ảnh,
chị hiện ra Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của người
đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt
mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như buồn ngủ. Chỉ qua
vài chấm phá về tuổi tác, ngoại hình, dáng vẻ mệt mỏi , tác giả đã vẽ ra trước mắt
người đọc đôi nét về thân phận bất hạnh, cảnh ngộ vô cùng tội nghiệp của chị.
Người đọc có cảm giác hình ảnh người đàn bà hàng chài đang từ từ bước ra từ
chiếc thuyền vó đi thẳng vào trang giấy; người đàn bà ấy lẩn khuất đâu đó, ta vẫn
thường gặp ở ngoài đời thực. Đặc biệt, hình ảnh chị với tấm lưng áo bạc phếch có
miếng vá, nửa thân ướt sũng gợi cho ta nỗi xót xa, niềm trắc ẩn mênh mông. Cuộc
sống mưu sinh lam lũ cực nhọc, đầy bấp bênh nơi đầu sóng ngọn gió in hằn trên
tấm thân gầy của chị: đôi mắt mệt mỏi sau một đêm thức trắng, ngày tất bật cho
chồng cho con, thường xuyên gánh chịu những đòn roi dã man của người chồng vũ
phu. Xấu, nghèo như hai tiền án lửng lơ mang đến cái khổ. Kéo theo cả cuộc đời
của người đàn bà chìm trong éo le, bất hạnh, đẩy một người xứng đáng có được
hạnh phúc như ý trở thành nạn nhân của cái nghèo và bạo lực gia đình.
Bị chồng đánh đập, hành hạ liên tục: “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận
nặng”. Cả nước không có một người chồng nào như hắn.” Cứ khi nào lão thấy khổ
quá là lại xách chị ra đánh”, như là để trút giận, như đánh một con thú. Lão còn
nguyền rủa cay độc vào chị: “bằng cái giọng rên rỉ, đau đớn: Mày chết đi cho ông
nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Thật kinh khủng và dã man! Trong
truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, nhân vật Mị trước sự tê dại của đánh
đập áp bức, vẫn mang trong mình sức mạnh tiềm tàng, đợi ngày có cơ hội thoát
thân, thoát khỏi đọa đày. Với tình huống tương tự nhưng dưới ngòi bút của Nguyễn
Minh Châu ta lại thấy như cuộc đời của người đi biển phải trải qua sóng to gió lớn,
muốn tồn tại phải chấp nhận. Chị chấp nhận, cam chịu nhẫn nhục thầm lặng để
mặc những đớn đau hàng ngày trút xuống cơ thể mềm yếu của mình. Sức chịu đựng
của chị khiến ta bất bình và cảm phục, ngỡ ngàng trước những điều tưởng chừng
phi lý. Bị đòn roi không chạy, không tìm kế thoát thân, âm thầm chịu đựng để vượt
qua, coi đó như sự trừng phạt một tội lỗi ghê gớm do mình gây ra, không có biểu
hiện vùng dậy. Có chết sẽ chết cùng chồng, cùng con trên thuyền. Sự chấp nhận hy
sinh đã cho chị một mái gia đình tuy không ấm êm nhưng các con chị không phải
bơ vơ, đồng thời cho người đàn bà một sức mạnh vô biên để vượt qua nỗi đau thân
xác và tinh thần, nỗi cơ cực nhọc nhằn, lam lũ của cuộc sống thuyền chài.
Hơn thế nữa sự nhẫn nhịn của chị còn xuất phát từ chính lòng tự trọng và bản
năng hy sinh của người phụ nữ. . Chị xin chồng được đưa lên bờ mà đánh như
một đặc cách. Rút cục cũng bởi không muốn con nhìn thấy cảnh bố đánh mẹ. Tâm
hồn trẻ nhỏ là một tờ giấy trắng, mà bạo lực là thứ mực đen hôi hám. Một khi đàn
con của chị trông thấy cảnh cha đánh mẹ, tâm hồn của chúng đã bị bấy bẩn và vỡ
vụn, đáng sợ gấp bội lần nỗi đau thể xác. Hiểu được điều này, chị cũng không thấy
đau nữa.Chỉ khi hành động vũ phu của chồng bị Phác và người khách lạ chứng
kiến, bấy giờ chị mới thấy đau. Càng vỡ òa hơn nữa khi chứng kiến cảnh con đánh
bố, để bảo vệ mẹ. Một tổn thương lớn về lòng tự trọng khi phải để người khác
chứng kiến cảnh đau lòng, chồng đánh vợ, con đánh cha. Những nỗi đau, tổn
thương chồng lấn lên nhau dội xuống đầu chị. Nếu không phải người đàn bà hàng
chài với những đặc thù của cuộc sống sông nước hẳn không ai có thể chịu đựng và
vượt qua những nỗi đau khổ này. Dường như, từ cội nguồn nhân sinh và thế tục,
người phụ nữ bao giờ cũng gánh chịu những thiệt thòi, bất hạnh. Và những bất
hạnh thiệt thòi ấy lại nhân lên với người phụ nữ nhan sắc bị hạn chế, thêm chuyện
sinh nhai, cái nghèo bám riết, đeo đẳng. Người đàn bà hàng chài dường như hội đủ
những yếu tố cấu thành cuộc đời tăm tối, cơ cực.
Nhìn người đàn bà hàng chài, ta thấy đó là một người quê mùa thất học, Ấy vậy mà
đằng sau sự hạn chế đó là người phụ nữ thương con, thấu hiểu, trải đời và rất
sâu sắc lẽ đời. :”Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không sống
cho mình như trên mặt đất được” Có lẽ đây là câu nói hay nhất, gợi nhiều suy nghĩ
nhất trong lòng độc giả, thể hiện nhiều nhất vẻ đẹp tâm hồn người đàn bà hàng chài.
Đối với chị chẳng làm được điều gì hơn ngoài tình thương yêu ngọt ngào mà đắng
chát dành cho các con, nhất là thằng Phác. Tránh cho con khỏi phạm phải tội lớn
nhất của đời người, tội bất hiếu. Bởi thế, chị sợ thằng bé lại làm điều gì dại dột với
cha, đã gửi nó lên rừng nhờ bố nuôi nửa năm. Khi thấy nó phản kháng với cha, chị
“lạy con” để giữ cho thằng bé không phải suốt đời ân hận vì một lần “lỗi đạo làm
con”. Nhưng khi chiếc thắt lưng kia lại rơi ngược lại lên khuôn ngực người đàn ông
mà người ra tay lại chính là Phác, chị luôn day dút nỗi mặc cảm khi chưa làm tròn
bổn phận của người làm mẹ, không thể che chở cho tâm hồn non nớt ấy khỏi vết thương lòng.
Qua chi tiết thằng Phác đứa con chị yêu quý nhất, chỉ bởi nó giống hệt bố nó. Đã
khẳng định rằng mụ yêu thương luôn cả lão chồng vũ phu đã hành hạ mụ suốt đời.
Chị hiểu điều gì đã khiến gã con trai “cục tính nhưng hiền lành, không bao giờ
đánh đập ai” trở thành kẻ độc dữ, thô bạo. Vì người đàn ông ấy là trụ cột của gia
đình nghèo đói, đông con, sống bằng nghề chài lưới lênh đênh. Cả gia đình chen
chúc trên cái thuyền nhỏ, quanh năm trôi dạt trên biển. Những khi biển động thì cả
tháng trời “ăn xương rồng luộc chấm muối” Sự nghèo đói khó khăn đã dày vò
người đàn ông kia khổ sở không kém gì người đàn bà! Nếu Chí Phèo, con quỷ
dữ làng Vũ Đại, lúc vật vã trong nỗi cô đơn tận cùng đã chửi, hắn chửi như
người say rượu hát. Nam Cao viết lạnh lùng mà chua xót “Khổ cho hắn và
khổ cho cả làng Vũ Đại, hắn lại không biết hát”. Lão chồng của người đàn
bà hàng chài cũng thế. Là trụ cột, là đàn ông phải rắn rỏi, không được yếu
mềm. Những định kiến kia vô tình chèn ép một con người đến đường
cùng, tra tấn bản chất lương thiện dần tha hóa u nhọt. Chẳng còn cách
nào mỗi lần uất nghẹn, bế tắc vì cuộc mưu sinh, không có tiền để chạy
trốn cuộc đời trong men rượu, lão lại đánh vợ.
CUỘC ĐỐI THOẠI Ở TÒA ÁN HUYỆN (PHẨM CHẤT: HIỂU ĐỜI)
Nhà văn đã dựng lên đoạn đối thọai với Đẩu và Phùng để nhân vật người đàn bà có
điều kiện thể hiện suy nghĩ dày dặn của mình, bên trong người phụ nữ lam lũ tầng
lớp hạ lưu lại ấp ủ “viên ngọc” sáng ngời đầy thông tuệ, chị trải đời và thấu hiểu lẽ
đời. Nhưng oái oăm thay, nhân vật người đàn bà khốn khổ của Nguyễn Minh Châu
không đi theo chuẩn mực số đông, chị nhất mực van nài, chấp nhận mọi hình phạt:
“Quý tòa bắt tội con cũng được, cầm tù con cũng được. Nhưng đừng bắt con bỏ
nó”. Người đàn bà sẵn sàng chịu đựng khung hình phạt cao nhất chứ dứt khoát
không bỏ chồng, nguyện ý giam hãm chính mình trong đời sống như địa ngục trần
gian. Hành động khẩn thiết “chắp tay lạy vái lia lịa” và giọng điệu khẩn thiết như
bóp chặt tư duy Phùng và Đẩu, cảm giác gian phòng “tự nhiên bị hút hết không khí,
trở nên ngột ngạt”. Cả Phùng và Đẩu đều không thể nén được sự khó hiểu dẫn đến
bực dọc vì lòng tốt của mình lại đổi lấy một quyết định ngu muội, cố chấp thế. Họ
tin chắc cách nhìn của mình là đúng, đinh ninh rằng người đàn ông kia xấu và cũng
chắc mẩm rằng người đàn bà ấy thật tăm tối nhận thức biết bao khi chối từ lời
khuyên này. Vị chánh án trẻ tuổi không giấu nổi sự thất vọng qua cách xưng hô đổi
từ “chị” thành “bà”. Nhưng hai người nào biết đâu, ẩn sâu trong quyết định có vẻ
nực cười là hiện thực đời sống đôi khi tàn khốc. Hạnh phúc là đấu tranh ta vẫn
thường tụng ca và thực hành, đôi khi bất chấp ấy, với chị thật vô nghĩa, người đàn
bà nhận ra và sợ hãi hơn bao giờ hết một bi kịch khác, đó là cảnh đói khổ của
những đứa con và cả niềm đau của con trẻ khi gia đình tan vỡ. Tấm lòng người mẹ
không cho phép người đàn bà ấy tự tay đập nát hạnh phúc gia đình vốn đã chắp vá.
Theo quan niệm của chị, “ông trời sinh ra người đàn bà đẻ con và nuôi con khôn
lớn” và đàn bà, nhất là nhấn mạnh “đàn bà trên thuyền chúng tôi” phải sống vì con.
Chị vẫn nhận ra hạnh phúc giản đơn, lóe sáng trong cuộc đời mình “Ở trên thuyền
cũng có lúc chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”. Có lẽ đây mới là cội nguồn hạnh
phúc để chị biết mình cần phải hy sinh và chấp nhận đớn đau. Cái giá cho hạnh
phúc với chị thật xứng đáng, không phàn nàn, dù bị đòn roi man rợ và tàn bạo Con
người chị hy sinh đến tột cùng. Hẳn với chị muốn tồn tại, muốn duy trì hạnh phúc
đương nhiên phải chấp nhận thua thiệt về mình. Người phụ nữ Việt Nam, không ít
những trường hợp phải chấp nhận hiện thực đắng cay này như một phương thức để
hạnh phúc gia đình được tồn tại.
Bước ngoặt câu chuyện thêm một lần nữa được mở ra, nhưng lần này nó nhằm giải
thích cho những khúc mắc vẫn xoáy sâu trong lòng Đẩu, Phùng và cả người đọc.
Số phận người đàn bà được phơi bày chính là câu chuyện cuộc sống cần chiêm
nghiệm, bóc tách. Đột nhiên, người đàn bà “mất hết cái vẻ ngoài khúm núm, sợ
sệt”, từ cách xưng “con”-”quý tòa” đổi thành “chị” và “các chú”, người phụ nữ ấy
lấy được sự điềm nhiên và tâm sự với họ như những người thân cận với lời lẽ chân
tình được chiêm nghiệm trong cả cuộc đời đầy lo toan, vất vả, chị nhấn mạnh: Từ
“cảm ơn lòng tốt của các chú” chị thẳng thắn phê bình khiến các nhà làm luật và
thực thi luật pháp phải ngã ngửa: “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là
người làm ăn cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn, lam lũ,
khó nhọc. Bấy nhiêu lời nói mộc mạc thôi, đủ cứa vào lòng Đẩu và Phùng. Cái lý
của chị giản đơn, tốt thôi chưa đủ, tốt theo kiểu nghĩ cho một bên, bỏ các bên còn
lại, vô tình sẽ phá nát hạnh phúc gia đình. Điều quan trọng mà cả vị chánh án và
người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã không thể hiểu được, vì họ đâu phải người làm ăn, đâu
hiểu việc lam lũ, khó nhọc của người làm ăn. Như vậy, muốn hiểu đời, hiểu người
phải sống cuộc sống người khác, phải trải nghiệm, không nên nhìn theo cái nhìn
của kẻ ban phát, của kẻ bề trên. Về điều này, nhà văn Nam Cao đã từng cảnh báo
sâu sắc phải cố tìm mà hiểu.
Chỉ một cái chép miệng, mắt chị như đang nhìn suốt cả đời mình: Giá tôi đẻ ít đi,
hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn. Vấn nạn đẻ nhiều dẫn đến cái
nghèo, bên cạnh đó chị còn nhìn ra một nguyên nhân nữa, sự hạn chế của phương
tiện mưu sinh sông nước, ở việc trời không yên, biển không lặng để làm ăn. Sao chị
không tính được chuyện làm nhà trên đất để an cư, lạc nghiệp. Nhưng chính chị đã
thấy hiện thực làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề lưới vó
cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở vì không bỏ nghề được! Cách lý giải
cho thấy nhận thức của chị không giản đơn. Chỗ ở rất quan trọng nhưng phải tiện
cho công việc để mưu sinh. Một người có học vấn như Đẩu nhưng không thấy được
điều ấy, nên anh mới hỏi một câu trên trời: Vậy sao không lên bờ mà ở. Câu hỏi
này khiến ta liên tưởng đến cậu ấm con nhà giàu hỏi một người ăn xin đang đói
lả: Đói, sao không lấy nhân sâm mà ăn?
Người đàn bà khi này, lại lập luận theo một lẽ thường tình là “Bởi vì các chú không
phải là đàn bà người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông” . Đúng vậy,
đàn bà sống ở môi trường sông nước nếu không nhẫn nhịn, gặp chuyện bát đũa
xô biết cậy nhờ ai, nếu không cam chịu, gặp lúc biển động sóng lớn biết nương tựa
vào đâu để nuôi đàn con. Căng thẳng được đẩy lên đình điểm của cao trào khi Đẩu
trút tiếng thở dài chua chát: “Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, trên thuyền phải có
một người đàn ông dù hắn man rợ, tàn bạo.” Người đàn bà bây giờ hạ giọng mềm
mại: “Phải cũng có khi biển động sóng gió chứ chú ? Mặt khác, trong đau khổ triền
miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được niềm hạnh phúc nhỏ giọt đáng quý: “vả
lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui
vẻ”. Niềm hạnh phúc nhỏ nhoi, đáng thương mà chị cam tâm đánh đổi để gìn giữ.
Giữ ánh nhìn của người trong cuộc, chị nói về chồng mình với cái nhìn vị tha,
mang hàm ơn và thấu hiểu. Người đàn ông ấy đã cho chị một mái ấm gia đình dẫu
chị xấu xí, thô kệch, đó là niềm hạnh phúc không thể ngờ trong nhận thức của
người đàn bà. Và dẫu đã chịu bao nhiêu đau khổ, dày vò, chị vẫn nhìn chồng mình
với đôi mắt nguyên sơ ban đầu, dù thô lỗ cộc cằn nhưng đã từng là người hiền lành,
trầm tính, chỉ vì cuộc sống tàn nhẫn đã bào mòn con người ấy. Đó là những lời lẽ
bao biện mà người phụ nữ dành cho chồng mình bởi chị thấy thấu hiểu và thông
cảm cho những tha hóa trong tâm tính người đàn ông. Đó chính là lý do chị nhất
quyết không từ bỏ cuộc hôn nhân này
Một cái gì vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển. Thật
không ngờ hai người đàn ông mạnh mẽ, hiểu biết vừa mới hậm hực tức tối vì suy
nghĩ cam chịu khó hiểu của chị ta giờ đây lại bị những lời phân bua chân thành của
người phụ nữ thất học ấy làm cho ngỡ ngàng. Có một khoảnh khắc chợt bừng tỉnh
và ngộ ra trong tâm trí người ngoài cuộc. Những lý lẽ chất phác nhưng đầy sắc sảo
vì “thấu tình đạt lý” của người đàn bà làm cả hai bối rối. Chánh án Đẩu và nghệ sĩ
Phùng giải quyết vấn đề bằng sự rạch ròi theo khuôn pháp, nghệ sĩ Phùng nhìn
nhận cuộc sống xuôi theo quan niệm đạo đức, họ đều có ý định giúp đỡ đáng quý
xuất phát từ lòng tốt. Nhưng bấy nhiêu thôi là chưa đủ, họ quen tư duy một chiều,
cách đánh giá phiến diện, giản đơn nên không thể hiểu hết được những ẩn khuất
trong cuộc sống đầy trớ trêu. Hóa ra cuộc sống vốn đầy rẫy những oái oăm, vấn đề
đôi khi không tồn tại sự lựa chọn nào là đúng hơn hay tốt nhất, con người khi ấy
phải biết chấp nhận thỏa hiệp với những nghịch lý và chiến đấu hàng ngày với bất
hạnh. Lẽ thường và pháp luật, công bằng hay lòng tốt cũng chưa đủ để hóa giải
những điều ngang trái nếu không biết cách nhìn nhận vào chiều sâu vấn đề. Đó
chính là bài học khám phá và bừng ngộ mà nhà văn muốn độc giả chiêm nghiệm
trong suốt diễn tiến trích đoạn này.
Qua nhân vật người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của
Nguyễn Minh Châu, tác giả đã đem đến cho người đọc niềm cảm thương sâu sắc
với thân phận khổ đau của người phụ nữ, đồng thời giúp ta cảm nhận được một số
phương diện vẻ đẹp truyền thống của họ: Sự chịu đựng hy sinh hết lòng vì chồng,
vì con, luôn cháy sáng tinh thần lạc quan, khát vọng sống mạnh mẽ, khả năng vươn
lên để xây dựng, vun đắp hạnh phúc gia đình Những vẻ đẹp ấy củng cố thêm niềm
tin cho mỗi người vào cuộc sống vốn không ít truân chuyên này. Biện pháp đối lập
giữa hoàn cảnh và tính cách, đối lập giữa ngoại hình bên ngoài và tâm hồn bên
trong nhân vật đã tôn lên được những vẻ đẹp, những phẩm chất đáng ngợi ca ở hình
tượng người phụ nữ này. Ẩn trong những vẻ đẹp truyền thống đó, tác giả cũng đặt
ra vấn đề nhức nhối của cuộc sống hiện nay: nạn bạo hành gia đình, sự nghèo đói
thất học, sự tha hóa nhân cách Cảm hứng ngợi ca vẻ đẹp người phụ nữ cũng được
kín đáo, lồng trong cảm hứng thế sự, lên án tố cáo những ngang trái, nghịch lý, bất
công. Có thể nói, hình ảnh người đàn bà hàng chài trong truyện Chiếc thuyền ngoài
xa chính là hình ảnh tiêu biểu, hiện thân cho vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ
Việt Nam. Trong cuộc đời đa sự,kiếp người đa đoan, chúng ta cần có những hành
động thiết thực để người phụ nữ không bị chà đạp, để họ được hưởng hạnh phúc
trọn vẹn, xứng đáng với những gì họ có, họ đã hy sinh.
GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO:
Trước hết thông qua tình huống truyện trên bãi biển tác giả Nguyễn Minh Châu
muốn nêu lên những mặt tối trong xã hội sau giải phóng. Tác giả gay gắt lên án nạn
bạo lực gia đình thông qua sai lầm của người đàn ông, hơn nữa Nguyễn Minh Châu
không chỉ dừng lại ở việc lên án, mà ông còn đi sâu vào nhấn mạnh hậu quả, hệ lụy
của nó thông qua nhân vật người đàn bà và Phác, bạo lực gia đình đã làm tổn
thương thể xác lẫn tinh thần của người gánh chịu, làm tan vỡ niềm tin trong trẻo
của trẻ thơ. Đồng thời ca ngợi tình mẫu tử, lên tiếng bảo vệ khát vọng được có mái
ấm hạnh phúc của trẻ nhỏ, Đó chính là khao khát đấu tranh cho cái thiện mà
Nguyễn Minh Châu hằng theo đuổi. Bên cạnh đó là tấm lòng thương cảm, thấu hiểu
sâu sắc cho số phận và cuộc đời của hững con người vùng biển nói riêng, những
con người có cuộc sống luôn bấp bênh, lam lũ, vất vả sau cách mạng nói chung. Do
những hậu quả mà 2 cuộc chiến tranh kéo dài gần 120 năm đã để lại trên đất nước
ta bao gồm: Sự đói nghèo, lạc hậu, sự thiếu hụt của tri thức, giáo dục,. Dù là những
con người bôn ba kham khổ, nhưng có tìm tòi mới có phát hiện, ẩn sâu trong trái
tim họ là viên ngọc sáng mang vẻ đẹp cao quý, đáng trân trọng. Cuối cùng tổng kết
lại giá trị nhân đạo của Chiếc thuyền ngoài xa chỉ nằm gọn trong một chữ “thiện”.
đã góp phần làm hoàn chỉnh quan điểm chân-thiện-mỹ mà nhà văn hằng theo đuổi
trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình.
GIÁ TRỊ HIỆN THỰC: Giá trị hiện thực mà Nguyễn Minh Châu gửi gắm qua Chiếc
thuyền ngoài xa không chỉ là số phận của những người phụ nữ, sự ngang trái, bi kịch
những gia đình nghèo trong xã hội mà còn là những trăn trở về cuộc đời: làm sao để
đất nước ta khi đã hoà bình, tất cả mọi người đều được no đủ, được học hành, để có
thể vơi bớt những hoàn cảnh, số phận đáng thương. Và qua đó, nhà văn Nguyễn Minh
Châu cũng rút ra bài học cho những nghệ sĩ rằng khi nhìn nhận cuộc sống, con người
phải có cái nhìn đa diện đa chiều, phải biết đi sâu khám phá những bản chất đằng sau
vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. NGHỆ THUẬT:
Với tình huống truyện độc đáo là tình huống nhận thức có ý nghĩa khám phá phát
hiện về sự thật đời sống nhà văn thấm thía, nhấn mạnh mối quan hệ giữa nghệ thuật
và cuộc đời. Tác giả lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn thích hợp, làm cho câu chuyện trở
nên gần gũi, chân thực và có sức thuyết phục. Ngôn ngữ nhân vật sinh động giản dị,
phù hợp với từng nhân vật. Lời văn giản dị mà sâu sắc, vừa thủ thỉ, trầm tĩnh, thấp
thoáng nụ cười khoan hòa, mộc mạc nhiều dư vị dễ đi vào lòng người.
Document Outline

  • CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA MỞ BÀI:
  • HAI PHÁT HIỆN:
  • NGƯỜI ĐÀN BÀ:
    • CUỘC ĐỐI THOẠI Ở TÒA ÁN HUYỆN (PHẨM CHẤT: HIỂU ĐỜI
    • GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO:
    • NGHỆ THUẬT: