

Preview text:
Giăng sáng (Nam Cao)
Nam Cao là cây bút xuất sắc của trào lưu văn học hiện thực, với biệt tài viết truyện ngắn, tiểu thuyết.
Các sáng tác của ông thường hướng về hai đề tài chính: ông xót thương cho số phận bần cùng của những người
nông dân, miêu tả quá trình lưu manh hóa của họ. Không chỉ thể, ông còn bày tỏ sự thông cảm trước những con
người trí thức của xã hội thời đó, vì cuộc sống áo cơm mà tha hóa. Điển hình, tư tưởng đó được khắc họa với
nghệ thuật tự sự đặc sắc qua truyện ngắn “Giăng Sáng”.
Trước tiên, mạch trần thuật không được thuật lại theo trình tự thời gian. Tác phẩm bắt đầu từ khi Điền
nhận được bốn chiếc ghế mây. Sau đó, tác giả đã quay ngược trở lại quá khứ để giải thích tại sao Điền lại có
bốn chiếc ghê mây đó, làm cho người đọc tò mò về tính huống truyện tác phẩm, tăng tính hấp dẫn cho câu
chuyện, đồng thời cũng cung cấp cho người đọc để hình dung về con người, suy tư của Điền trong quá khứ:
“Điền chắng muốn lấy bốn cái ghế tí nào. Chao ôi! Cũng mang tiếng ghế mây!” Mạch trần thuật không xảy ra
theo trình tự nhất định, có sự đảo lộn về thứ tự diễn ra sự việc là một đặc trưng của truyện ngắn hiện đại.
Tình huống truyện của “Giăng sáng” xoay quanh sự việc mỗi tối Điền đem bốn chiếc ghế mây ra sân
cùng vợ con ngồi ngắm trăng. Đây là một tình huống truyện nhận thức, hành động cũng như mang tính éo le,
chính đó đã tạo bước ngoặt cho câu chuyện, giúp người đọc khám phá được thế giới nội tâm, những suy tư của
Điền. Cũng từ đó, ta thấy được ước mộng văn chương của Điền. Anh yêu thơ văn, mộng làm văn sĩ, dù vậy, cái
nghèo đã khiến Điền phải tạm quên cái mộng văn chương để kiếm tiền, nhưng qua đó cũng gửi gắm tư tưởng
văn chương của chính Nam Cao: thực trạng xã hội đẩy gia đình người trí thức vào bi kịch cơm áo gạo tiền, làm
họ rơi vào tình trạng sống mòn, nhưng họ vẫn sẽ luôn tự ý thức, đấu tranh với bản thân.
Truyện được kể theo ngôi kể thứ ba, trong đó, tác giả chủ yếu miêu tả nội tâm, suy nghĩ của Điền, nhân
vật trung tâm của tác phẩm thay vì tập trung mô tả hành động của nhân vật. Từ đó, tác giả cũng làm được nổi
bật xung đột tâm lý của Điền: anh có ước mơ được tự mình viết những tác phẩm văn học nhưng do hoàn cảnh
nghèo đói của gia đình mà anh phải tạm quên cái mộng văn chương để kiếm tiền. Hơn nữa, người kể chuyện
còn thể hiện thái độ đồng cảm, thấu hiểu cho Điền, nhất khi miêu tả hoàn cảnh của anh. Nhà anh “kiết xác xơ”,
các em của anh không được đi học, không được ăn no khiến mẹ anh gồng thuê, gánh mướn kiếm tiền. Hơn nữa,
còn qua cách xưng hô tên “Điền” ta cũng thấy được thái độ kính trọng của tác giả với anh. Tuy nhiên, Nam Cao
cũng bộc lộ thái độ nghiêm khắc với những suy nghĩ ích kỉ của Điền, mỗi khi anh ngầm phê phán vợ: “Điền
vẫn trách vợ Điền như thế đấy. Điền có ngờ đâu chính Điền cũng một tật”, mỗi khi anh muốn thoát khỏi hiện tại.
Không chỉ qua tình huống truyện, ngôi kể, thái độ của người kể chuyện, Nam Cao còn sử dụng điểm
nhìn để xây dựng nhân vật Điền. Với anh, tác giả chủ yếu miêu tả anh qua điểm nhìn bên trong. Như ta biết,
Điền là một người có học, anh từng làm một ông giáo trường tư trong ngót ba năm. Không chỉ thế, Điền còn ôm
mộng văn chương, muốn sáng tạo những tác phẩm văn học để đời. Anh từng nguyện cam chịu tất cả những
thiếu thốn, đọa đầy mà văn nhân nước phải chịu, anh “sẵn lòng từ chối một chỗ làm kiếm mỗi tháng tram bạc,
nếu có thể kiếm được năm đồng bạc về nghề văn.” Mặt khác, dù viết lách suốt mấy năm trời nhưng Điền lại
chằng kiếm được đồng nào cả. Sự túng thiếu khiến anh phải từ bỏ mộng văn chương để kiếm tiền, khiến anh trở
thành một người nhỏ nhen, tính toán. Đến lúc nhận lượng từ ông hiệu trưởng, Điền phải nhẩm tính: “Như vậy,
tất cả có già giặn lắm mới tốn chừng đồng bạc”. Bao nhiêu phân vân, tính toán dở khóc dở cười xuất hiện trong
đầu óc anh. “Chao ôi! Cũng mang tiếng là ghế mây!. . Cái thì xộc xệch, cái thì bốn chân rúm lại, và chẳng cái
nào là nước sơn không róc cả ra như là da thằng hủi. Trông đủ thảm.”. Câu văn cho thấy tâm trạng xót xa, khổ
tâm hết sức của Điền. Hiện thực phũ phàng là vậy, nó còn phũ phàng hơn khi ta thấy được cuộc đấu tranh gay
gắt của Điền qua điểm nhìn bên trong. Việc chọn giữa ước mơ cao cả và hiện thực nghèo túng đã khiến anh dày
vò, day dứt rất nhiều, Điền không thể thanh thản chọn một con đường. Tuy vậy, anh tìm đến ánh trăng để xoa
dịu nỗi lòng mình. Điền yêu trăng lắm, anh coi trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp sang trọng của nghệ thuật. Lúc
ngắm trăng, Điền dường như muốn thoát khỏi thực tại: “Tưởng tượng của Điền tỏa rộng ra như một ánh trăng.
Điền nghĩ đến những cuộc tình duyên lãng mạn với những người đàn bà đẹp chỉ biết trăng điểm và yêu đường.”
Nhưng ánh trăng cũng đã mang đến một sự khai sáng nghệ thuật: “Nghệ thuật chính là cái ánh trăng xanh
huyền ảo, nó làm đẹp đến cả những cảnh thật ra chỉ tầm thường, xấu xa.” Cuối cùng, Điền tiếp tục viết những
tác phẩm văn chương nhưng lại là trong tiếng gắt gỏng của vợ và tiếng khóc của con. Đó chính là quyết định
của một người nghệ sĩ chân chính khi chọn từ bỏ thứ ánh trăng giả dối để chắp bút viết những trang văn từ
chính những cảnh đời lầm than và phản ánh sự khốn khổ của một kiếp người. Ngoài điểm nhìn bên trong, Điền
cũng được miêu tả qua điểm nhìn bên ngoài, của người kể chuyện khi miêu tả sự hổ thẹn với những suy nghĩ
của mình: “Điền cúi mặt, bẽn lẽn như bị bắt gặp làm việc xấu .” Khác với Điền, vợ ông, Thị, thì lại được chủ
yếu miêu tả qua điểm nhìn bên ngoài. Thị thường được khắc họa qua điểm nhìn của Điền: “Trán vợ Điền phằng
phiu, mặt thị tươi trăng êm xoa nước mát lên da. Da mềm dịu.” Không chỉ thế, ta còn thấy được tính cách của
chị qua điểm nhìn của Điền. Theo Điền, Thị lúc nào cũng tính toán, luôn luôn tính toán, cảm thấy xót xa và
không muốn đem bốn chiếc ghế mấy ra để ngồi mà muốn cất đi, giữ gìn. Tính Thị là như thế những Thị vẫn rất
yêu con, yêu chồng. Thị nhìn ăn để chồng ăn, nhịn mặc cho chồng mặc… Ngoài ra, điểm nhìn bên ngoài còn
được sử dụng để miêu tả dáng vẻ, hành động của thị khi mắng con, bị áp lực trước hoàn cảnh nghèo đói: “Vợ
Điền tức quá, phát đen đét vào lưng con bé ốm và quăng nó xuống giường như một con mèo: “Kệ cha mày! Cho mày chết đi!”
Trên hết, “Giăng sáng” dường như là bản tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao. Qua nhân vật Điền, ông
muốn thể hiện rằng “nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối nghệ thuật
có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than”. Ông đã lên án lối văn chương nghệ thuật vị
nghệ thuật vì quay lưng với cuộc sống, một người nghệ sĩ khi cầm bút phải đến gần hơn với nhân dân để thay
họ cất lên tiếng khóc bi ai đồng thời vẽ nên những cảnh đời đốn mạc trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Và
tư tưởng này được khắc họa rõ một phần do Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật tự sự xuất sắc.