






Preview text:
Phân tích các quan điểm về con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Quan niệm về con người
- Dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng, Hồ Chí Minh đã đưa ra
quan niệm về con người. Theo Người, con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt sinh học
và mặt xã hội, là chủ thể của các mối quan hệ xã hội trong lịch sử, là chủ thể sáng tạo và hưởng
thụ các giá trị vật chất và tinh thần của xã hội. Đối với Người, giải phóng con người, đem lại
hạnh phúc cho con người mục đích cao nhất, là giá trị nhân văn nhất. “Nghĩ cho cùng, mọi vấn
đề… là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân,
thương nhân loại đau khổ, bị áp bức”.
- Con người là một thực thể mang tính xã hội: “Chữ Người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ
hàng, bạn bè. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng hơn nữa là cả loài người”. Con người ở đây
vừa là mỗi thành viên cụ thể, vừa là những cộng đồng người cụ thể trong xã hội. Trong cộng
đồng con người Việt Nam, quan hệ gia đình, anh em, họ hàng là rất quan trọng; Hơn nữa, nét
độc đáo trong cộng đồng người Việt Nam là quan hệ đồng bào, cùng một nguồn gốc “con Rồng
cháu Tiên ”. Hồ Chí Minh rất coi trọng sức mạnh cộng đồng người Việt Nam, tìm mọi cách để
bồi dưỡng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong quá trình cách mạng Việt Nam.
- Con người trước hết là người lao động, nhân dân lao động - chủ thể đích thực sáng tạo ra lịch
sử xã hội: Hồ Chí Minh đã tiếp thu quan điểm Mác - Lênin đặt con người trong lịch sử sản xuất
vật chất để xem xét. Người khẳng định con người là chủ thể sáng tạo mọi giá trị vật chất, tinh
thần; lao động sáng tạo của người là giá trị cao nhất, nhân bản nhất của con người. Ở Việt Nam,
đó là công nhân, nông dân trí thức, bộ đội. , họ là chủ thể sáng tạo xã hội mới. Chính vì vậy, Hồ
Chí Minh cho rằng “trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân “Người yêu cầu cán bộ phải
biết ơn những người dân lao động bình thường vì cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, phương tiện
chúng ta sử dụng là do công sức lao động của nhân dân sáng tạo ra. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhân dân lao động là chủ thể sáng tạo lịch sử xã hội là một trong những cơ sở lý luận để Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam với đặc trưng cơ bản hàng
đầu là một xã hội do nhân dân, mà trước hết là nhân dân lao động, làm chủ. Trong hoạch định
đường lối chính sách, Đảng và Nhà nước phải luôn xuất phát từ lợi ích của nhân dân lao động.
Mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước nếu không còn phù hợp với nguyện vọng, lợi
ích của nhân dân đều phải bãi bỏ.
- Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn là sự thống nhất giữa con người cá nhân và
con người xã hội. Người khẳng định chủ nghĩa xã hội không hề phủ nhận cá nhân, không chà
đạp lên lợi ích cá nhân; mà ngược lại, hơn hẳn bất kì một chế độ xã hội nào trong lịch sử, chủ
nghĩa xã hội luôn tôn trọng lợi ích cá nhân, tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển tự do và toàn
diện của cá nhân. Hồ Chí Minh không chỉ nhấn mạnh mà còn rất quan tâm đến con người tập thể,
con người thuộc một tầng lớp nhân dân cụ thể trong xã hội. Người tìm hiểu tâm thấu hiểu nhu
cầu, lợi ích của các tư, nguyện vọng, chia sẻ niềm vui tầng lớp nhân dân, từ nông dân, công nhân,
bộ đội, phụ nữ, thanh niên đến các cụ phụ lão, các cháu nhi đồng . . . Trong chỉ đạo thực tiễn, Hồ
Chí Minh không chỉ động viên, phát huy tinh thần tập thể, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, mà
còn biết khơi dậy những phẩm chất tốt đẹp trong mỗi con người cụ thể, làm cho những đức tính
tốt đẹp đó “nảy nở như hoa mùa xuân ”. Để giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa con người cá
nhân và con người xã hội, Hồ Chí Minh quan tâm giải quyết mối quan hệ lợi ích. Người đã biết
kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, lợi ích gần và lợi ích xa, lợi ích vật chất và lợi
ích tinh thần . . . tạo nên động lực nhằm tích cực hóa nhân tố con người. Từ đây, Đảng Cộng sản
Việt Nam đưa ra các chính sách xã hội xuất phát từ lợi ích của các tầng lớp người, để tập hợp, tổ
chức, đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân trong mặt trận dân tộc thống nhất, tạo sức mạnh
tổng hợp để đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
- Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh được xem xét trong sự thống nhất giữa tính giai
cấp, tính dân tộc và tính nhân loại. Khi đề cập đến con người, Hồ Chí Minh không chỉ đề cập
đến “người phương Đông”, “người châu Á ”, “người châu Âu”. mà còn đề cập một cách cụ thể
hơn đến “người da vàng”, “người da trắng”, “người da đen", "người Đông Dương, “người Pháp,
người Việt Nam”,…Như vậy, con người bao giờ cũng thuộc về một chủng tộc, sắc tộc, dân tộc,
thuộc về một quốc gia nhất định. Bên cạnh việc nói đến con người dân tộc, Người đặc biệt chú ý
con người giai cấp như ‘ người bị áp bức, ‘ người bị bóc lột, “tên tư bản ”, nhà độc tài, công nhân,
nông dân, the thuyền ”. Người khẳng định, trên thế giới này, chỉ có hai giống người giống người
bóc lột và giống người lao động, và nhấn mạnh tình hữu ai giai cấp. Người luôn tự đặt mình về
phía các giai cấp lao động, nói lên tiếng nói phản đối áp bức, bóc lột, đấu tranh để giải phóng con
người khỏi mọi sự tha hoá.
- Là một người mácxít chân chính, Hồ Chí Minh quan niệm đấu tranh giai cấp là phương tiện
để giải phóng con người; nhưng Người không hề tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp, mà tuỳ
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể để có thể đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích giai cấp. Dù nhấn
mạnh sức mạnh dân tộc, coi chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn nhất, nhưng Hồ Chí Minh cũng
không hề coi nhẹ vấn đề giai cấp. Người chỉ phê phán những ai áp dụng quan điểm giai cấp một
cách giáo điều máy móc vào điều kiện Việt Nam. Ngay từ đầu, Người đã xác định cách mạng
Việt Nam phải đi theo con đường xã hội chủ nghĩa và lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư
tường. Đó chính là mục tiêu và hệ tư tưởng mang tính giai cấp của giai cấp công nhân. Đối với
Hồ Chí Minh, giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức bóc lột, xây dựng xã hội xã hội chủ
nghĩa - một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh - luôn luôn là mục tiêu
cao nhất, xuyên suốt, trở thành hoài bão phấn đấu suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người.
- Sự nghiệp cách mạng Việt Nam mà Hồ Chí Minh phấn đấu là giành độc lập dân tộc, tiến lên
chủ nghĩa xã hội và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới. Đó là
sự kết hợp nhuần nhuyễn mục tiêu giải phóng giai cấp, dân tộc và nhân loại. Xuất phát từ quan
điểm coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận không tách rời cách mạng thế giới, giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội – tức là kết hợp sức mạnh giai cấp - dân tộc - thời
đại mà Hồ Chí Minh đã cùng Đảng Cộng sản Việt Nam đưa cách mạng Việt Nam đi từ thăng lợi
này đến thăng lợi khác. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và giải phóng con người là một hệ
thống quan điểm toàn diện, phong phú và sâu sắc nằm ở trung tâm toàn bộ tư tưởng của Người.
Bởi vì, toàn bộ mục đích và cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh là giải phóng giai
cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng con người. Đây là sự kế thừa, phát triển sáng tạo tư tưởng
về con người trong tư tưởng văn hóa dân tộc, nhân loại mà trực tiếp, quyết định là chủ nghĩa Mác
- Lênin. Tư tưởng về con người và giải phóng con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh được phát
triển lên một tầm cao mới phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam và đến nay vẫn giữ nguyên
giá trị, có ý nghĩa khoa học và cách mạng to lớn trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
2. Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng và tiến bộ xã hội
Con người, tự do và hạnh phúc của con người là vấn đề trung tâm trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Mục tiêu cao nhất, bao trùm và thường xuyên mà Hồ Chí Minh cống hiến toàn bộ cuộc đời là
độc lập, tự do, hạnh phúc của con người. Đó là lợi ích lớn nhất của con người Việt Nam. “Tôi chỉ
có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành “. Với hoài bão
thiêng liêng cùng sự đấu tranh không ngừng nghỉ, hy sinh quên mình để hiện thực hóa lý tưởng
đó, Hồ Chí Minh đã trở thành một biểu tượng cao cả, trường tồn trong lòng dân tộc Việt Nam và
nhân loại tiến bộ vì sự nghiệp giải phóng con người.
- Toàn bộ cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh là quá trình đấu tranh vì mục đích giải phóng con
người. Trong lời ra mắt báo Người cùng khổ, Người chủ trương “đi từ giải phóng những người
nô lệ mất nước, những người lao động cùng khổ đến giải phóng con người ”. Ở Hồ Chí Minh,
lòng yêu Tổ quốc gắn bó chặt chẽ với lòng yêu nhân dân bao la, sâu sắc. Người có lòng yêu
thương sâu sắc đến con người : “Lòng yêu thương của tôi đến nhân dân và nhân loại không bao
giờ thay đổi”. Trong Di chúc, Người viết : “Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho
toàn dân, toàn Đảng, toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào
thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế”.
- Người xác định mục đích của chủ nghĩa xã hội là vì hạnh phúc con người : “Mục đích chủ
nghĩa xã hội là gì? Nói một cách giản đơn và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”. Lý tưởng phấn đấu của Người không
trừu tượng mà cụ thể và gắn liền với lợi ích của con người, vì con người : “Nước độc lập mà dân
không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì ”. Người nêu lên tiêu
chí căn bản của chủ nghĩa xã hội : “Chủ nghĩa xã hội là dân giàu, nước mạnh”. Hồ Chí Minh
nhấn mạnh Đảng và Nhà nước phải luôn luôn chăm lo đến con người. “Đầu tiên là công việc đối
với con người”, “hễ còn người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn thì Đảng vẫn đau thương, cho
đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ”; Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và
văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
- Như vậy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh về con người có điểm tương đồng với quan điểm
của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác Lênin. Nhưng nét độc đáo ở Hồ Chí Minh là Người xem xét
con người từ truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam, từ một nước thuộc địa nghèo nàn, lạc
hậu, trình độ dân trí thấp. Nếu bắt đầu từ những điều rộng lớn, từ lý luận cao siêu thì có thể rất
khó đi vào lòng dân. Xuất phát từ truyền thống dân tộc, Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm
“Người “một cách ngắn gọn mộc mạc dễ hiểu, để qua đó nhằm làm cho mọi người hiểu rằng :
“Vậy là, dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và
giống người bị bóc lột ”. “Trên quả đất, có hàng muôn triệu người. Song, số người ấy có thể chia
thành hai hạng : người Thiện và người Ác”. Đối với những người bị bóc lột thì đoàn kết, yêu
thương. Đối với hạng người bóc lột thì phải kiên quyết đánh đổ. Chúng ta thấy, đây chính là tư
duy sáng tạo của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh coi con người là vốn quý nhất, thương yêu vô hạn và tin tưởng tuyệt đối
vào con người.
-Hồ Chí Minh coi con người là vốn quý nhất, trong đó, Người nhấn mạnh : “Trong bầu trời
không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của toàn
dân”. Con người được giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo đúng đắn sẽ tạo ra tất cả. “Người là gốc của làng nước” .
- Hồ Chí Minh luôn luôn có tư tưởng kính trọng nhân dân. Tư tưởng đó được biểu hiện trong
thực tế thông qua nếp sống thanh bạch, ứng xử có văn hoá, chân thành lắng nghe ý kiến nhân dân,
trân trọng thành tích chiến đấu, lao động, công tác của các tầng lớp nhân dân. Hồ Chí Minh luôn
động viên khuyến khích nhân dân, coi nhân dân là vĩ đại. Từ tư tưởng kính trọng nhân dân Hồ
Chí Minh không xa rời nhân dân, không dành đặc quyền, đặc lợi cho mình. Mọi tư tưởng, hành
động của Người đều vì lợi ích nhân dân : “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì hại
cho dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân thì dân mới yêu ta, kính ta”.
- Hồ Chí Minh luôn trân trọng sinh mệnh con người, rất chú trọng tiết kiệm sức người. Nối tiếp
truyền thống nhân đạo của dân tộc, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người luôn
bảo vệ con người, hạn chế đến mức thấp nhất sự hi sinh xương máu của nhân dân. Để bảo vệ
sinh mệnh của nhân dân, Người chủ trương lập chiến khu, sơ tán nhân dân lúc có chiến tranh.
Trong cách mạng tháng Tám 1945, Người đã lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân tạo thời cơ, nắm thời
cơ để phát động cách mạng ít đồ máu nhất. Người đã phát triển sáng tạo nghệ thuật biết đánh
thắng từng bước, quyết tâm tổ chức quần chúng đấu tranh giành thắng lợi cho cách mạng : “Thà
hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ ”. Trong giờ
phút hiểm nghèo của cách mạng, Người kêu gọi cán bộ, chiến sĩ, quân dân : “Quyết tử cho Tổ
quốc quyết sinh ”. Người luôn quan tâm đến chính sách khoan thư sức dân, an dân, dưỡng dân,
đưa tiết kiệm lên thành quốc sách, kiên quyết chống tham ô, lãng phí. Người giáo dục cán bộ
phải biết quý trọng tài sản của nhân dân. Hồ Chí Minh luôn luôn tin tưởng vào mặt tốt, mặt tiến
bộ của con người, tin tưởng sức mạnh tuyệt đối của nhân dân.
- Hồ Chí Minh luôn luôn nhìn nhận mặt tiến bộ, tính cực của con người và tin tưởng ở con người,
kể cả những người lầm đường lạc lối. Hồ Chí Minh trân trọng phần thiện, dù nhỏ nhất, ở
mỗi người. Ở Hồ Chí Minh, lòng khoan dung đối với con người là rộng lớn và cao cả. Người
nhìn nhận con người trong tính đa dạng, như năm ngón tay dài ngắn khác nhau, như mấy mươi
triệu con người Việt Nam có người thế này, người thế khác nhưng có điểm chung đều là con
người Việt Nam, cùng con Lạc, cháu Hồng và ít nhiều đều yêu nước. Hồ Chí Minh luôn luôn tin
tưởng vô hạn vào sức mạnh của toàn dân được tổ chức, đoàn kết trong đấu tranh cách mạng.
Trong Thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp, Người viết : “Chúng ta phải làm gì ? (…) Đối
với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, đoàn kết họ, huấn
luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập”… Trong hoàn cảnh chiến tranh vô cùng khốc
liệt, Người kêu gọi nhân dân : “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn
nữa. Song, nhân dân Việt Nam quyết không sợ…”; Còn non, còn nước, còn người; Thắng giặc
Mĩ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay ”.
- Hồ Chí Minh khẳng định động lực lớn nhất của cách mạng Việt Nam chính là đại đoàn kết toàn
dân tộc. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết Thành công, thành công, đại thành công ”. Người căn
dặn thanh niên : “Không có việc gì khỏi Chỉ sợ lòng không bền Đào núi và lấp biển Quyết chi ắt
làm nên ”. Trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn khẳng định và quán
triệt sâu sắc điểm chủ nghĩa Mác - Lênin : “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng ”. Người tin
tưởng tuyệt đối vào sức mạnh của truyền thống yêu nước Việt Nam : “Dân ta có một lòng nồng
nàn yêu nước ”. Lòng tin của Người có cơ sở khoa học và thực tiễn. Nhân dân bị áp bức bóc lột
sẽ có sức mạnh cách mạng dời non lấp bể : “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương
giấu một cái gì sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến”. Khi phát
hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản Việt Nam ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, Người
khẳng định công nông là gốc cách mạng, nước lẩy dẫn làm gốc.
3. Phương thức sử dụng và phát huy vai trò động lực con người
- Hồ Chí Minh giải quyết mối quan hệ giữa sử dụng đúng và sử dụng khéo con người. Người
quan niệm “dụng nhân như dụng mộc ”. Người quan tâm đến vấn đề tuyển chọn, bồi dưỡng và
sử dụng nhân tài trong và ngoài Đảng. Quan điểm của Người trong vấn đề cán bộ là kết hợp cán
bộ già và cán bộ trẻ để phát huy được ưu điểm, khắc phục nhược điểm trong đội ngũ cán bộ.
Người luôn coi con người là động lực quyết định, trong đó đội ngũ cán bộ có vai trò trực tiếp
quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng.
- Hồ Chí Minh giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu và động lực cách mạng, giải quyết mối
quan hệ giữa mục tiêu gần và mục tiêu xa, cụ thể hóa mục tiêu chủ nghĩa xã hội phù hợp từng
giai đoạn cách mạng. Chủ nghĩa xã hội trong quan niệm của Người rất cụ thể, gần gũi với nhu
cầu, nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân. Người đề ra những chủ trương chính sách để từng
bước hiện thực hóa mục tiêu đó.
- Hồ Chí Minh quan tâm việc kết hợp giữa lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, trong đó, coi trọng
phát huy vai trò động lực chính trị - tinh thần. Người chú trọng tuyên truyền giáo dục, động viên
kịp thời các hành động tích cực của con người; đề ra và thi hành chính sách xã hội hướng tới con
người, phát động các phong trào cách mạng nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo của mọi tầng
lớp nhân dân; đồng thời, Người chú trọng phát hiện, khắc phục các nhân tố tiêu cực, chống chủ
nghĩa cá nhân. Giá trị bền vững và lớn nhất tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề phát huy tính tích
cực, con người và giải phóng con người chủ động, tự giác, sáng tạo của con người trong sự
nghiệp cách mạng ở nước ta .
Document Outline
- -Là một người mácxít chân chính, Hồ Chí Minh quan n
- 2.Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách
- Hồ Chí Minh coi con người là vốn quý nhất, thương
- 3.Phương thức sử dụng và phát huy vai trò động lực c