-
Thông tin
-
Quiz
Phân tích Tuyên ngôn độc lập chọn lọc hay nhất | Ngữ văn 12
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam mà còn nhà một nhà nghệ thuật đầy tài năng. Bác đã để lại cho kho tàng văn học nước ta hàng loạt những tác phẩm có giá trị. Bác viết văn, viết thơ không chỉ để thỏa mãn niềm đam mê dành cho văn chương mà những tác phẩm ấy có một vai trò rất quan trọng với kháng chiến, với cách mạng. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Văn mẫu 12 637 tài liệu
Ngữ Văn 12 1 K tài liệu
Phân tích Tuyên ngôn độc lập chọn lọc hay nhất | Ngữ văn 12
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam mà còn nhà một nhà nghệ thuật đầy tài năng. Bác đã để lại cho kho tàng văn học nước ta hàng loạt những tác phẩm có giá trị. Bác viết văn, viết thơ không chỉ để thỏa mãn niềm đam mê dành cho văn chương mà những tác phẩm ấy có một vai trò rất quan trọng với kháng chiến, với cách mạng. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Chủ đề: Văn mẫu 12 637 tài liệu
Môn: Ngữ Văn 12 1 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:



Tài liệu khác của Ngữ Văn 12
Preview text:
Phân tích Tuyên ngôn độc lập chọn lọc hay nhất
Bản Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc vào ngày 2 tháng 9
năm 1945. Đây là một áng văn lập quốc vĩ đại, là một văn kiện lịch sử có giá trị vô cùng to lớn. Dưới
đây là bài viết Phân tích Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Luật Minh Khuê kính mời quý
bạn đọc cùng tham khảo.
Phân tích Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam mà còn nhà một nhà nghệ
thuật đầy tài năng. Bác đã để lại cho kho tàng văn học nước ta hàng loạt những tác phẩm có giá trị.
Bác viết văn, viết thơ không chỉ để thỏa mãn niềm đam mê dành cho văn chương mà những tác phẩm
ấy có một vai trò rất quan trọng với kháng chiến, với cách mạng. Một trong những áng văn mà người
để lại có giá trị đến mãi sau này chính là "Tuyên ngôn độc lập" - một tác phẩm chính luận đầy mẫu
mực, một văn kiện lịch sử vô cùng quan trọng đánh dấu bước chuyển mình lịch sử của dân tộc, khai
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Bản "Tuyên ngôn độc lập" được được viết vào ngày 26 tháng 8 năm 1945, khi Bác Hồ rời chiến khu
Việt Bắc về Hà Nội và nhanh chóng soạn thảo tại căn nhà số 48, phố Hàng Ngang. Tới ngày 2 tháng 9
năm 1945, trên quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập. Để tạo
nên một áng văn chính luận đầy mẫu mực, Hồ Chí Minh đã sử dụng những lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh
thép và những bằng chứng xác thực không thể chối cãi. Áng văn này còn chất chứa cả một tấm lòng
yêu nước sâu sắc, một niềm tự hào dân tộc mạnh mẽ, một sự khát khao độc lập tự do đến cháy bỏng
và ý chí quyết tâm để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc của Bác.
Mở đầu bản tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những lý lẽ đầy thuyết phục từ những văn
kiện lịch sử mà các quốc gia lớn đã từng tuyên bố để làm cơ sở cho bản tuyên ngôn của mình. Người
đã đưa ra một đoạn trong bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền
bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Đây là những quyền lợi chính đáng mà
ai cũng được hưởng, là những quyền lợi bất khả xâm phạm. Từ đây, Bác đã nhấn mạnh, khẳng định
chắc chắn rằng "tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Điều này có nghĩa là không riêng dân tộc nào, mà tất cả các
dân tộc trên toàn thế giới đều cần và xứng đáng được đối xử công bằng, hưởng các quyền vốn dĩ
được hưởng. Để những lý lẽ được thuyết phục hơn, Bác đã tiếp tục trích dẫn một đoạn trong bản
Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791: "Người ta sinh ra tự do và bình
đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do về bình đẳng và quyền lợi". Trích dẫn này đã tiếp tục
bổ sung và khẳng định rằng không chỉ riêng Bác hay nước Mỹ, mà nước Pháp cũng đồng tình với quan
điểm này. Tại sao Bác Hồ lại lựa chọn những lý lẽ trong Tuyên ngôn của Mỹ và Pháp mà không phải là
một quốc gia nào khác? Bởi lúc bấy giờ đó là hai đế quốc hùng mạnh bậc nhất, lại mang tư tưởng tiến
bộ. Nếu như trên thế giới đã công nhận các quyền cơ bản của hai quốc gia này thì cũng sẽ phải công
nhận các quyền đó với Việt Nam. Hơn nữa, một trong hai nước đó chính là kẻ thù xâm lược ta, điều
này như đã giáng một đòn vào âm mưu cũng như thứ luận điệu xảo trá của kẻ thù khi đang nhòm ngó
và muốn quay lại xâm lược ta lần nữa. Bên cạnh đó, khi đặt bản tuyên ngôn của nước ta ngang hàng
với bản tuyên ngôn của hai cường quốc thì lại càng tăng thêm sự thuyết phục. Điều đó càng chứng tỏ
rằng nền độc lập của dân tộc ta là có căn cứ chính đáng đầy sức thuyết phục. Cuối cùng, Người đã sử
dụng một câu ngắn gọn nhưng đầy sức nặng để kết lại: "Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được".
Chỉ với một câu văn ngắn nhưng cho chúng ta thấy được một sự quyết liệt trong cách viết của Bác và
hiện lên trong đó là một khát khao đem về cho dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam sự tự do, bình
đẳng giống như các quốc gia khác trên thế giới vậy. Những dẫn chứng, lý lẽ được Chủ tịch Hồ Chí Minh
lựa chọn đầy sức thuyết phục đã có những tác động mạnh mẽ đến toàn dân tộc, đồng thời ngầm phê
phán những hành động xảo trá, đi ngược lại với những gì cha ông đã lập ra của người Pháp cũng như
gợi sự ủng hộ của nhân dân Pháp và các dân tộc yêu chuộng hoà bình trên thế giới.
Sau khi đưa ra những lý lẽ ấy, Bác đã làm cho chúng trở nên thuyết phục hơn bằng cách vạch trần bộ
mặt thật của thực dân Pháp bằng những chứng cứ rõ ràng: "Thế mà hơn tám mươi năm nay, bọn thực
dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành
động của chúng khác hẳn với nhân đạo và chính nghĩa". Trước hết, chúng đã tước đi những tự do về
chính trị của dân tộc Việt Nam "tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút quyền tự do dân chủ
nào...", "chúng thẳng tay chém giết những người tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng", "chúng thi hành
những luật pháp dã man", "chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống
nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết"... Về kinh tế, chúng đã "bóc lột dân ta đến tận
xương tuỷ, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều", rồi chúng đưa ra biết
bao nhiêu nhưng thứ sưu thuế vô lý, chèn ép nhân dân ta đến bước đường cùng. Chao ôi những tội ác
tày trời của Pháp đã được Bác liệt kê ngắn gọn nhưng đầy chân thực, sắc bén đã cho chúng ta thấy
được những hành động tàn ác, không có tính người đáng lên án của chúng. Bác đã xé toạc cái lớp mặt
nạ giả dối của sự "khai hoá" mà bao lâu này chúng sử dụng để bịp bợm, để giấu đi sự tàn bạo, xấu xa của chúng.
Bên cạnh việc bóc trần luận điệu "khai hóa" ấy, Hồ Chủ tịch lại tiếp tục bác bỏ sự "bảo hộ" xảo trá để
che đậy những âm mưu bẩn thỉu của bọn thực dân Pháp. Bác đã nêu ra dẫn chứng đầy thuyết phục về
việc dù có tiếng bảo hộ thế nhưng sự thật là Pháp đã hai lần dâng nước ta cho phát xít Nhật trong
vòng 5 năm. Điều này dẫn đến hậu quả vô cùng đau thương, khiến cho hơn 2 triệu đồng bào ta đã bị
chết đói. Chúng còn từ chối việc liên minh với ta chống Nhật dù mang tiếng bảo hộ, chúng quay lại
khủng bố, đàn áp khiến cho quân và dân ta tổn thất nặng nề...Chỉ với bấy nhiêu dẫn chứng, Bác đã xé
tan đi cái mặt nạ của sự 'khai hoá" và "bảo hộ", cho tất cả đều thấy được bộ mặt giả nhân giả nghĩa
của kẻ thù. Đến cuối cùng, Bác một lần nữa nhấn mạnh rằng: "Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước
ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì
nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà" và "Sự
thật là nhân dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp". Điều này đã thêm
một lần nữa xác thực việc nước Việt Nam không hề nhận sự khai hoá hay bảo hộ từ Pháp, hoàn toàn tách biệt với Pháp.
Sau khi đã đưa ra những lý lẽ và các luận điểm đầy sức thuyết phục, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi đến
kết luận: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc
lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
vững quyền tự do, độc lập ấy!". Ở đây Người đã sử dụng những lời lẽ đầy hùng hồn, kết cấu trùng lặp
để liên tục xoáy sâu vào độc lập và tự do của dân tộc. Những lời lẽ ấy xuất phát từ một trái tim yêu
nước, yêu dân đến nồng nàn, yêu chuộng hòa bình, ghét chiến tranh. Đó còn là những khao khát cháy
bỏng không chỉ của riêng Người mà của toàn dân tộc Việt Nam, muốn cả thế giới biết được rằng Việt
Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền lãnh thổ và toàn bộ người dân Việt Nam đều có thể hi sinh
tất cả để bảo vệ thứ thiêng liêng, cao quý ấy.
Như vậy, bản Tuyên Ngôn độc lập với một hệ thống luận điểm, luận cứ đầy thuyết phục thật xứng
đáng là một áng văn chính luận xuất sắc. Bên cạnh đó, đây còn là một văn kiện lịch sử có ý nghĩa vô
cùng to lớn với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đánh dấu một bước ngoặt vô cùng vĩ
đại trong lịch sử dân tộc - một cánh cửa mở ra một kỉ nguyên của độc lập, tự do và dân chủ ở nước ta.