THU VỊNH
Nguyễn Khuyến nhà thơ Nôm kiệt xuất của dân tộc ta cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Tình
bạn, tinh nghĩa vợ chồng, cha con, tinh làng xóm quê hương..được ông nói đến rất hay trong
nhiều bài thơ tuyệt bút như: “Khóc Dương Khuê”, “Bạn đến chơi nhà”, Di chúac”, Mùa
xuân dặn các con”,….Viết về làng cảnh quê hương, Tam Nguyên Yên Đổ nổi tiếng nhất với
chùm t thu: “Thu ẩm”, “Thu điếu”, “Thu vịnh”. Mỗi bài thơ thu một vẻ “mười phân vẹn
mười”. Thi Xuân Diệu đã bình rất sâu sác, rất hay về bài thơ này. Ông cho rằng: “Thu vịnh”
bài t “mạng cái hồn của cảnh vật mùa thu hơn cả”
Hai câu đề miêu tả bầu trời thu, làn gió ngọn tre làng:
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc phơ gió hắt hiu.”
Bầu trời trong xanh. Không một gợn mây, xanh ngắt một màu. Bầu trời thu thật đẹp, cao
thăm thẳm mấy tầng cao”. Ba tiếng “mấy tầng cao” còn gợi tả cái thoáng đãng, bát ngát,
mênh mông của bầu trời thu đồng quê những ngày nắng đẹp. Nguyễn Khuyến trong cả ba
bài thơ đều tả bầu trời thu “xanh ngắt”: “Tầng mây lửng trời xanh ngắt” (Thu điếu) “Da
trời ai nhuộm xanh ngắt?” ( Thu ẩm). Sau này, trong bài “Nguyệt cầm”, Xuân Diệu viết về
trời thu: Mây vắng, trời trong như thuỷ tinh”. Đó là những câu thơ tả bầu trời thu Việt Nam
chứa chan thi vị.
Câu thơ thứ hai cho ta nhiều cảm giác. Từ láy “lơ phơ” “hắt hiu” gợi tả trạng thái cảm c
nhẹ nhàng, lành mạnh thoáng buồn. Những ngọn tre, ngọn măng cao vút, uốn cong n
chiếc cần câu (cần trúc) đang đu đưa, phơ, lay động trước làn gió thu nhè nhẹ thổi. Cảm
giác “hắt hiu”, thấm thía một nỗi buồn, từ lòng người toả ra trong không gian vắng lặng,
mênh mông. Ngọn gió, ngọn trúc ấy mang theo cả một hồn thu hiu hắt. Ngòi bút thi nhân
thật tinh thế trong cảm nhận biểu hiện về sắc thu, nét thu nhiều man mác,bâng khuâng.
Hai câu trong phần thực, tác giả nói về nước thu, trăng thu. Trong bài “Thu điếu”, Nguyễn
Khuyến đã từng viết về cái “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo…Sóng biếc theo làn hơi gợn tí”.
đây, ông cũng nói về sắc biếc của nước thu, nhưng mặt ao đã phủ mờ sương khói. Cảnh
vật trở nên màng, huyền ảo:
“Nước biếc trông như tầng khói ph.
Qua bài “Thu ẩm”, Tam Nguyên Yên Đổ lại tả trăng thu qua mặt ao biếc: “Làn ao lóng lánh
bóng trăng loe”. Trăng thu rất đẹp, nhất những đêm rằm, trời trong xanh.
Câu t tiếp theo, thi nhân nói v ngôi n cỏ năm gian của mình mở rộng cửa đón trăng
thu. Trăng đủng đỉnh, mặc nhiên, nhởn nhơ vào thăm nhà thơ: “Song thưa để mặc bóng
trăng vào.” Mười ba thế kỉ trước, trên bến Tầm Dương đã cảnh “Quanh thuyền trăng dãi
nước trôi lạnh ng” (Bạch Dị). Cuộc đời nàng kỹ nữ đơn, lạnh lẽo quá! Còn đây,
trăng với thi nhân bạn tri âm. Trăng với người giao hoà. Trăng mặc nhiên đến, nhà thơ đón
trăng qua chiếc song thưa của ngôi nhà cỏ.Một cuộc đời thanh bạch, thanh cao đáng trân
trọng. Trăng cũng mang theo hồn thu, đúng như Xuân Diệu đã nhận xét về Thu vịnh. Trong
bài thơ chữ Hán “Hạnh Thiên Trường hành cung” của vua Trần Nhân Tông (1258-1308) có
câu:
Nguyệt vô sự chiếu nhân sự
Thuỷ hữu thu hàm thiên hữu thu”.
( Trăng s chiếu người sự,
Nước thu lồng trời thu).
Thơ cổ viết bằng chữ Nôm hay chữ Hán, khi nói về trăng thu, nước thu đều hữu tinh như
vậy.
Phần luận nói về hoa tiếng ngỗng. Hai câu t cấu trúc đăng đối, cân xứng. Cái nhìn thấy
(hoa) đối xứng với cái nghe thấy ( tiếng ngỗng) hồ, bâng khuâng:
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào”.
Quá khứ hiện tại, màu sắc âm thanh làm xao động tâm tưởng thi sĩ. Câu t hàm nghĩa
ý tại ngôn ngoại. Hoa hoa “hoa năm ngoái”. Một tiếng chim lạc đàn từ trời cao vọng
xuống giữa đêm khuya, hồ xa xăm, nhà thơ chợt nghe rồi băn khoăn tự hỏi: “Ngỗng
nước nào?”. Câu thơ của Nguyễn Khuyến làm ta xúc động nhớ đến câu thơ Đỗ Phủ trong bài
Thu hứng”: Khóm cúc tuôn rơi ng lệ cũ Con thuyền buộc chặt mối tinh nhà”. Người
thì thương nhớ q nhà trong cảnh ly hương, người thì đang sống trong nỗi buồn đau của
người dân mất nước. Nguyễn Khuyến, trong một số bài thơ đã mượn tiếng cuốc, kín đáo giãi
bày nỗi niềm tâm sự thầm kín của mình: yêu nước, thương nhà nhưng lại bất lực trước thời
cuc.
Đó tiếng chim nhắc nhở:
“Văng vẳng tai nghe tiếng chích chòe,
Lặng đi kẻo động khách lòng quê.
(…) Lại còn giục giã về hay ở?
Đôi gót phong trần vẫn khỏe khoe.
(Về hay ở)
Đó tiếng cuốc khắc khoải “tiếc xuân..nhớ nước”:
“Năm canh máu chảy đêm vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
phải tiếc xuân đứng gọi,
Hay nhớ nước vẫn nằm mơ…?”
(Cuốc kêu cảm hứng)
Cả trong ba bài thơ thu, hình ảnh nhân vật trữ tinh hiện lên rất trong hai câu kết. Lúc
một c già “Tựa gối ôm cần lâu chẳng được đâu đớp động dưới chân bèo” (Thu điếu).
Lúc một nhà nho thanh bạch ngồi uống rượu ngà ngà say: “Rượu tiếng rằng hay, hay chả
mấy - Độ năm ba chén đã say nhè” ( Thu ẩm). Trong “Thu vịnh” lại một thi cảm hứng
dâng n dào dạt muốn cất bút vịnh thu, nhưng ngập ngừng băn khoăn:
“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.”
Ông Đào nào nhà thơ lại thẹn? Đó Đào Tiềm, tức Đào Uyên Minh, một danh cao
khiết đời nhà Tấn bên Trung Quốc, nổi tiếng với bài Quy khứ lai từ”. Ông không mấy đấu
gạo phải khom lưng uốn gối, đã trả áo từ quan, trở về vui t điền viên, ươm cúc,
uống rượu làm thơ. Ch thẹn trong câu thơ cách nói kín đáo, khiêm nhường của Tam
Nguyên Yên Đổ: rất khâm phục Đào Tiềm, cách ứng xử của ông Đào gương sáng cho nhà
thơ noi theo. Qua hai câu kết trong bài “Thu vịnh”, Nguyễn Khuyến đã thổ lộ tâm ý mình,
khẳng định nhân cách trong sạch của kẻ dứt khoát thoát khỏi ng danh lợi, không cam
tâm làm tay sai cho thực dân Pháp. ông đã nói hơn bài“Di chúc”.
“Đề vào mấy chữ trong bia,
Rằng: - Quan nhà Nguyễn cáo về đã u.
“Thu vịnh” đem đến cho ta bao cảm xúc thẩm mỹ về cái thanh, cái trong, cái nhẹ, cái cao của
cảnh vật mùa thu đồng quê. Trong cảnh quyện tinh. Trong tinh vương vấn cái hồn, cái thần
của cảnh. Những nét vẽ, những đường nét chấm phá của thi rất tinh tế, điêu luyện. Từ
cách dùng từ, đặt câu đến niêm, luật đối của một bài thơ thất ngôn bát Đường luật, từ
ngoại cảnh đến tâm tinh… “Thu vịnh” một thi phẩm toàn bích. Viết về a thu, vịnh a
thu đã mấy ai viết hay như Nguyễn Khuyến! Ông là nhà thơ lớn, uyên bác biệt tài, tiêu
biểu cho nền văn học Việt Nam hồi cuối thế kỉ XIX, đầu thế k XX. Tự o thay cho n t
của cảnh sắc làng quê.
“Thu vịnh” như lắng vào hồn ta tinh sông núi với hồn thu đồng quê trăm năm về trước, man
mác vơi đầy, thể hiện một tâm hồn thanh cao cùng trong sáng của thi Tam Nguyên
Yên Đổ.

Preview text:

THU VỊNH
Nguyễn Khuyến là nhà thơ Nôm kiệt xuất của dân tộc ta cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Tình
bạn, tinh nghĩa vợ chồng, cha con, tinh làng xóm quê hương. được ông nói đến rất hay trong
nhiều bài thơ tuyệt bút như: “Khóc Dương Khuê”, “Bạn đến chơi nhà”, “Di chúac”, “ Mùa
xuân dặn các con”,….Viết về làng cảnh quê hương, Tam Nguyên Yên Đổ nổi tiếng nhất với
chùm thơ thu: “Thu ẩm”, “Thu điếu”, “Thu vịnh”. Mỗi bài thơ thu là một vẻ “mười phân vẹn
mười”. Thi sĩ Xuân Diệu đã bình rất sâu sác, rất hay về bài thơ này. Ông cho rằng: “Thu vịnh”
là bài thơ “mạng cái hồn của cảnh vật mùa thu hơn cả”
Hai câu đề miêu tả bầu trời thu, làn gió và ngọn tre làng:
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.”
Bầu trời trong xanh. Không một gợn mây, xanh ngắt một màu. Bầu trời thu thật đẹp, cao
thăm thẳm “mấy tầng cao”. Ba tiếng “mấy tầng cao” còn gợi tả cái thoáng đãng, bát ngát,
mênh mông của bầu trời thu đồng quê những ngày nắng đẹp. Nguyễn Khuyến trong cả ba
bài thơ đều tả bầu trời thu “xanh ngắt”: “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” (Thu điếu) – “Da
trời ai nhuộm mà xanh ngắt?” ( Thu ẩm). Sau này, trong bài “Nguyệt cầm”, Xuân Diệu viết về
trời thu: “ Mây vắng, trời trong như thuỷ tinh”. Đó là những câu thơ tả bầu trời thu Việt Nam chứa chan thi vị.
Câu thơ thứ hai cho ta nhiều cảm giác. Từ láy “lơ phơ” và “hắt hiu” gợi tả trạng thái cảm xúc
nhẹ nhàng, lành mạnh và thoáng buồn. Những ngọn tre, ngọn măng cao vút, uốn cong như
chiếc cần câu (cần trúc) đang đu đưa, lơ phơ, lay động trước làn gió thu nhè nhẹ thổi. Cảm
giác “hắt hiu”, thấm thía một nỗi buồn, từ lòng người toả ra trong không gian vắng lặng,
mênh mông. Ngọn gió, ngọn trúc ấy mang theo cả một hồn thu hiu hắt. Ngòi bút thi nhân
thật tinh thế trong cảm nhận và biểu hiện về sắc thu, nét thu nhiều man mác,bâng khuâng.
Hai câu trong phần thực, tác giả nói về nước thu, trăng thu. Trong bài “Thu điếu”, Nguyễn
Khuyến đã từng viết về cái “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo…Sóng biếc theo làn hơi gợn tí”.
Ở đây, ông cũng nói về sắc biếc của nước thu, nhưng mặt ao đã phủ mờ sương khói. Cảnh
vật trở nên mơ màng, huyền ảo:
“Nước biếc trông như tầng khói phủ.”
Qua bài “Thu ẩm”, Tam Nguyên Yên Đổ lại tả trăng thu qua mặt ao biếc: “Làn ao lóng lánh
bóng trăng loe”. Trăng thu rất đẹp, nhất là những đêm rằm, trời trong xanh.
Câu thơ tiếp theo, thi nhân nói về ngôi nhà cỏ năm gian của mình mở rộng cửa đón trăng
thu. Trăng đủng đỉnh, mặc nhiên, nhởn nhơ vào thăm nhà thơ: “Song thưa để mặc bóng
trăng vào.” Mười ba thế kỉ trước, trên bến Tầm Dương đã có cảnh “Quanh thuyền trăng dãi
nước trôi lạnh lùng” (Bạch Cư Dị). Cuộc đời nàng kỹ nữ cô đơn, lạnh lẽo quá! Còn ở đây,
trăng với thi nhân là bạn tri âm. Trăng với người giao hoà. Trăng mặc nhiên đến, nhà thơ đón
trăng qua chiếc song thưa của ngôi nhà cỏ.Một cuộc đời thanh bạch, thanh cao đáng trân
trọng. Trăng cũng mang theo hồn thu, đúng như Xuân Diệu đã nhận xét về “Thu vịnh. Trong
bài thơ chữ Hán “Hạnh Thiên Trường hành cung” của vua Trần Nhân Tông (1258-1308) có câu:
“ Nguyệt vô sự chiếu nhân vô sự
Thuỷ hữu thu hàm thiên hữu thu”.
( Trăng vô sự chiếu người vô sự,
Nước có thu lồng trời có thu).
Thơ cổ dù viết bằng chữ Nôm hay chữ Hán, khi nói về trăng thu, nước thu đều hữu tinh như vậy.
Phần luận nói về hoa và tiếng ngỗng. Hai câu thơ cấu trúc đăng đối, cân xứng. Cái nhìn thấy
(hoa) đối xứng với cái nghe thấy ( tiếng ngỗng) mơ hồ, bâng khuâng:
“ Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào”.
Quá khứ và hiện tại, màu sắc và âm thanh làm xao động tâm tưởng thi sĩ. Câu thơ hàm nghĩa
ý tại ngôn ngoại. Hoa là hoa cũ “hoa năm ngoái”. Một tiếng chim lạc đàn từ trời cao vọng
xuống giữa đêm khuya, mơ hồ xa xăm, nhà thơ chợt nghe rồi băn khoăn tự hỏi: “Ngỗng
nước nào?”. Câu thơ của Nguyễn Khuyến làm ta xúc động nhớ đến câu thơ Đỗ Phủ trong bài
“ Thu hứng”: “Khóm cúc tuôn rơi dòng lệ cũ – Con thuyền buộc chặt mối tinh nhà”. Người
thì thương nhớ quê nhà trong cảnh ly hương, người thì đang sống trong nỗi buồn đau của
người dân mất nước. Nguyễn Khuyến, trong một số bài thơ đã mượn tiếng cuốc, kín đáo giãi
bày nỗi niềm tâm sự thầm kín của mình: yêu nước, thương nhà nhưng lại bất lực trước thời cuộc.
Đó là tiếng chim nhắc nhở: “Văngvẳngtainghetiếngchíchchòe,
Lặng đi kẻo động khách lòng quê.
(…) Lại còn giục giã về hay ở?
Đôi gót phong trần vẫn khỏe khoe.” (Về hay ở)
Đó là tiếng cuốc khắc khoải “tiếc xuân. nhớ nước”:
“Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ…?” (Cuốc kêu cảm hứng)
Cả trong ba bài thơ thu, hình ảnh nhân vật trữ tinh hiện lên rất rõ trong hai câu kết. Lúc là
một cụ già “Tựa gối ôm cần lâu chẳng được – Cá đâu đớp động dưới chân bèo” (Thu điếu).
Lúc là một nhà nho thanh bạch ngồi uống rượu ngà ngà say: “Rượu tiếng rằng hay, hay chả
mấy - Độ năm ba chén đã say nhè” ( Thu ẩm). Trong “Thu vịnh” lại là một thi sĩ cảm hứng
dâng lên dào dạt muốn cất bút vịnh thu, nhưng ngập ngừng băn khoăn:
“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.”
Ông Đào nào mà nhà thơ lại thẹn? Đó là Đào Tiềm, tức là Đào Uyên Minh, một danh sĩ cao
khiết đời nhà Tấn bên Trung Quốc, nổi tiếng với bài “Quy khứ lai từ”. Ông không vì mấy đấu
gạo mà phải khom lưng uốn gối, đã trả áo mũ từ quan, trở về vui thú điền viên, ươm cúc,
uống rượu làm thơ. Chữ “thẹn” trong câu thơ là cách nói kín đáo, khiêm nhường của Tam
Nguyên Yên Đổ: rất khâm phục Đào Tiềm, cách ứng xử của ông Đào là gương sáng cho nhà
thơ noi theo. Qua hai câu kết trong bài “Thu vịnh”, Nguyễn Khuyến đã thổ lộ tâm ý mình,
khẳng định nhân cách trong sạch của kẻ sĩ dứt khoát thoát khỏi vòng danh lợi, không cam
tâm làm tay sai cho thực dân Pháp. Và ông đã nói rõ hơn ở bài“Di chúc”.
“Đề vào mấy chữ trong bia,
Rằng: - Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu.”
“Thu vịnh” đem đến cho ta bao cảm xúc thẩm mỹ về cái thanh, cái trong, cái nhẹ, cái cao của
cảnh vật mùa thu đồng quê. Trong cảnh quyện tinh. Trong tinh vương vấn cái hồn, cái thần
của cảnh. Những nét vẽ, những đường nét chấm phá của thi sĩ rất tinh tế, điêu luyện. Từ
cách dùng từ, đặt câu đến niêm, luật và đối của một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật, từ
ngoại cảnh đến tâm tinh… “Thu vịnh” là một thi phẩm toàn bích. Viết về mùa thu, vịnh mùa
thu đã mấy ai viết hay như Nguyễn Khuyến! Ông là nhà thơ lớn, uyên bác và có biệt tài, tiêu
biểu cho nền văn học Việt Nam hồi cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Tự hào thay cho nhà thơ của cảnh sắc làng quê.
“Thu vịnh” như lắng vào hồn ta tinh sông núi với hồn thu đồng quê trăm năm về trước, man
mác vơi đầy, thể hiện một tâm hồn thanh cao và vô cùng trong sáng của thi sĩ Tam Nguyên Yên Đổ.