Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến | Văn mẫu lớp 12

Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến mang đến 2 gợi ý cách viết kèm theo 7 mẫu cực hay. Giúp cho các em học sinh tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức biết cách phân tích và hiểu được thông điệp mà nhà văn muốn gửi đến bạn đọc. Đây sẽ là nguồn tư liệu cực kì hữu ích, gồm cả mẫu ngắn gọn và đầy đủ để các bạn tham khảo, lựa chọn theo sức viết của mình.

Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Dàn ý vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Dàn ý số 1
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Quang Dũng
- Giới thiệu bài thơ Tây Tiến
- Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận
II. Thân bài
- Hoàn cảnh ra đời bài thơ Tây Tiến
- Giới thiệu một số nét về những người lính Tây Tiến: hoàn cảnh xuất thân
1. Trải qua nhiều gian khổ nhưng vẫn lạc quan, kiên cường
- Trên chặng đường hành quân, họ đối mặt với biết bao hiểm nguy miền núi Tây
Bắc hoang sơ và dữ dội:
Địa hình hiểm trở, quanh co, gập ghềnh: địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi
sự hẻo lánh, xa xôi; các từ láy giàu tính tạo hình: “khúc khuỷu”, “thăm
thẳm”, “heo hút”, điệp từ “dốc”
Nhịp thơ bẻ đôi “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” gợi tả sự nguy
hiểm tột cùng.
Hình ảnh nhân hóa: “cọp trêu người”, “thác gầm thét” gợi sự hoang sơ, man
dại; thời gian: “chiều chiều”, “đêm đêm” những người lính phải thường
xuyên đối mặt với điều hiểm nguy chốn rừng thiêng nước độc.
Sử dụng phần lớn các thanh trắc nhằm nhấn mạnh sự trắc trở, ghập ghềnh
của địa hình.
Hình ảnh “súng ngửi trời” thể hiện tầm cao của núi non mà người lính phải
vượt qua nhưng cũng có cái hóm hỉnh của người lính trong đó.
- Họ sống chiến đấu trong điều kiện khắc nghiệt, thiếu thốn, bệnh tật: “đoàn
binh không mọc tóc”, “ xanh màu lá”, nhưng vẫn mạnh mẽ “dữ oai hùm”.
2. Có tâm hồn lãng mạn, hào hoa
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
- những con người nặng tình: nỗi nhớ thốt lên thành lời “Tây Tiến ơi” tiếng
gọi thân thương, “nhớ chơi vơi”, “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói” nỗi nhớ
thường trực, bao trùm không gian.
- Nhạy cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống: “nhà ai Pha Luông...”, “Mai
Châu mùa em...”, thanh bằng tạo cảm giác nhẹ nhàng, yên bình.
- Say mê trước cái đẹp trong đêm trại đuốc hoa:
Không khí đêm liên hoan tưng bừng với màu sắc rực rỡ, lộng lẫy: “bừng
lên”, “hội đuốc hoa”, “khèn lên man điệu”; con người duyên dáng: “xiêm
áo”, “nàng e ấp”.
Tâm hồn người lính bay bổng, say mê trong không khí ấm áp tình người:
“Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.
- Khung cảnh sông nước, con người vùng Tây Bắc:
Đẹp huyền ảo, hoang dại, thiêng liêng: “Chiều sương”, “hồn lau nẻo bến bờ”
Con người lao động bình dị, mộc mạc: “dáng người trên độc mộc”, cảnh vật
duyên dáng, đầy sức sống: “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
- Họ những con người tâm hồn lãng mạn, trái tim yêu thương “Mắt trừng gửi
mộng”/ “Đêm Nội dáng kiều thơm”, lấy hình bóng người thương nơi quê
nhà làm động lực chiến đấu.
- Niềm thương, nỗi nhớ, tình cảm gắn bó luôn gửi lại nơi núi rừng Tây Bắc “Ai lên
Tây Tiến ... / Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
3. Mang vẻ đẹp bi tráng, hào hùng
- Vẻ đẹp bi tráng thể hiện qua sự hi sinh anh dũng của họ:
Hình ảnh người lính Tây Tiến “dãi dầu không bước nữa”, “gục lên súng mũ
bỏ quên đời”: có thể hiểu hai câu thơ đơn thuần miêu tả khoảnh khắc nghỉ
ngơi của người lính sau cuộc hành quân dài, cũng có thể hiểu đó là sự nghỉ
ngơi vĩnh viễn trong sự thanh thản.
Sẵn sàng cống hiến tuổi trẻ của mình cho đất nước “rải rác biên cương mồ
viễn xứ”, “chẳng tiếc đời xanh”, “anh về đất”, luôn ra đi thanh thản, nhẹ
nhàng.
Cái chết đã được lí tưởng hóa như hình ảnh những tráng sĩ xưa: “áo bào”,
“khúc độc hành”; thiên nhiên cũng đau đớn thay cho nỗi đau họ phải chịu.
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Đoàn quân Tây Tiến một thời từng quyết tâm ra đi: “người đi không hẹn
ước” “thăm thẳm một chia phôi. (liên hệ so sánh với câu thơ: “Người ra đi
đầu không ngoảnh lại/ sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” trong bài thơ Đất
Nước của Nguyễn Đình Thi)
- Nêu cảm nhận riêng về hình tượng người lính Tây Tiến.
- Khái quát một số giá trị nghệ thuật tiêu biểu: bút pháp lãng mạn kết hợp với hiện
thực, những sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ: nghệ thuật đối, tương phản, ..
sáng tạo trong việc sử dụng hình ảnh thơ.
- Tổng kết giá trị nội dung: bài thơ đã tái hiện v đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng
của núi rừng Tây Bắc; hình tượng người lính.
III. Kết bài
- Khẳng định lại vẻ đẹp của hình tượng người lính Tây Tiến.
Dàn ý số 2
1. Mở bài
Giới thiệu về hình tượng người lính xưa từ đó liên hệ với hình ảnh người lính Tây
Tiến trong bài thơ: "Tây Tiến" của Quang Dũng. Đặc biệt hình tượng người lính
trong khổ thơ:
" Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc...Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
2. Thân bài:
a. Khái quát đầu: giới thiệu về tác giả, tác phẩm hình tượng người lính trong
thơ ca
Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính
Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp khác nhau,
trong đó có cả học sinh, sinh viên.
Đoạn thơ cần phân tích là đoạn thứ ba của bài thơ, trong đó Quang Dũng đã
khắc họa hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng
mạn, thấm đẫm tinh thần bi tráng.
....
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
b. Vẻ đẹp ngoại hình: dữ dội, lẫm liệt, oai phong vượt qua mọi khó khăn nơi
chiến trường khắc nghiệt đoàn binh không mọc tóc”, khoác trên mình màu áo
xanh người lính băng băng tiến về phía trước
c. Vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn của người lính Tây Tiến
Có tâm hồn lãng mạn, hào hoa
Là những con người nặng tình: nỗi nhớ thốt lên thành lời “Tây Tiến ơi” là
tiếng gọi thân thương, “nhớ chơi vơi”, “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói” là
nỗi nhớ thường trực, bao trùm không gian.
Nhạy cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống: “nhà ai Pha Luông ...”,
“Mai Châu mùa em ...”, thanh bằng tạo cảm giác nhẹ nhàng, yên bình.
Say mê trước cái đẹp trong đêm trại đuốc hoa:
Không khí đêm liên hoan tưng bừng với màu sắc rực rỡ, lộng lẫy: “bừng
lên”, “hội đuốc hoa”, “khèn lên man điệu”; con người duyên dáng: “xiêm
áo”, “nàng e ấp”.
Tâm hồn người lính bay bổng, say mê trong không khí ấm áp tình người:
“Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.
Họ là những con người có tâm hồn lãng mạn, trái tim yêu thương “Mắt
trừng gửi mộng”/ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, lấy hình bóng người
thương nơi quê nhà làm động lực chiến đấu.
Niềm thương, nỗi nhớ, tình cảm gắn bó luôn gửi lại nơi núi rừng Tây Bắc
“Ai lên Tây Tiến ... / Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
d. Mang vẻ đẹp bi tráng, hào hùng
Vẻ đẹp bi tráng thể hiện qua sự hi sinh anh dũng của họ:
Hình ảnh người lính Tây Tiến “dãi dầu không bước nữa”, “gục lên súng bỏ
quên đời”: thể hiểu hai câu thơ đơn thuần miêu tả khoảnh khắc nghỉ ngơi của
người lính sau cuộc hành quân dài, cũng thể hiểu đó sự nghỉ ngơi vĩnh viễn
trong sự thanh thản.
Sẵn sàng cống hiến tuổi trẻ của mình cho đất nước “rải rác biên cương mồ
viễn xứ”, “chẳng tiếc đời xanh”, “anh về đất”, luôn ra đi thanh thản, nhẹ
nhàng.
Cái chết đã được lí tưởng hóa như hình ảnh những tráng sĩ xưa: “áo bào”,
“khúc độc hành”; thiên nhiên cũng đau đớn thay cho nỗi đau họ phải chịu.
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Đoàn quân Tây Tiến một thời từng quyết tâm ra đi: “người đi không hẹn
ước” “thăm thẳm một chia phôi. (liên hệ so sánh với câu thơ: “Người ra đi
đầu không ngoảnh lại/ sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” trong bài thơ Đất
Nước của Nguyễn Đình Thi)
Khái quát cuối:
Nêu cảm nhận riêng về hình tượng người lính Tây Tiến.
Khái quát một số giá trị nghệ thuật tiêu biểu: bút pháp lãng mạn kết hợp với
hiện thực, những sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ: nghệ thuật đối,
tương phản, .. sáng tạo trong việc sử dụng hình ảnh thơ.
Tổng kết giá trị nội dung: bài thơ đã tái hiện vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ
mộng của núi rừng Tây Bắc; hình tượng người lính.
Liên hệ với hình tượng người lính trong nhiều bài thơ khác: VD: Bài thơ về
tiểu đội xe không kính
3. Kết bài
Khẳng định lại vẻ đẹp của hình tượng người lính Tây Tiến: trải qua nhiều
gian khổ nhưng vẫn lạc quan, kiên cường luôn có tâm hồn lãng mạn, hào
hoa, mang vẻ đẹp hào hùng, bi tráng.
Dàn ý số 3
I. Mở bài:
- Cuộc kháng chiến chống Pháp đi qua để lại những dâu ấn không thể phai mờ
trong tâm hồn dân tộc. Đó điểm hội tụ của một triệu tấm lòng yêu nước, môi
trường thử thách tinh thần chiến đấu ngoan cường bất khuất của nhân dân ta. Cuộc
kháng chiến còn làm nảy sinh biết bao hình ảnh đẹp mà đẹp nhất là hình ảnh người
lính.
- Quang Dũng là nhà thơ của lính, đã sống một đời lính thật oanh liệt hào hùng. Có
lẽ vì vậy mà đời lính đã ăn sâu vào đời thơ.
- "Tây Tiến" là bài thơ của lính viết v lính nên khi đọc lên ta thấy ngay chất bi
tráng của những chàng trai "Thạch Sanh thế kỉ XX".
"Tây tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu dữ oai hùm Mắt trừng gửi
mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay
chiếu, anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
II. Thân bài:
1. Khái quát:
Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947. Thành phần chủ
yếu là các thanh niên trí thức Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào
bảo vệ biên giới phía tây. Năm 1948, Tây Tiến giải thể để thành lập Trung đoàn
52. Quang Dũng cũng chuyển sang đơn vị khác. Sau khi rời khỏi đơn vị chưa
được bao lâu, Quang Dũng đã sáng tác bài thơ này. Đây đoạn thơ thứ ba trong
bài "Tây Tiến".
2. Khái niệm:
- Bi tráng trong tác phẩm văn học được thể hiện ở việc miêu tả hiện thực, không né
tránh cái bi, tức cái gian khổ, đau thương. Cái bi thường được biểu hiện giọng
điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ hào hùng.
- Chiến trường Tây Tiến ác liệt, hoang vu, nhiều thú dữ, bệnh sốt rét rừng gây
nhiều tử vong, nhiều chiến sĩ đã ngã xuống trên đường hành quân... Đó là cái bi,
cái hiện thực khốc liệt của cuộc chiến. Quang Dũng không lẩn tránh cái bi nhưng
đem đến cho cái bi màu sắc và âm hưởng tráng lệ, hào hùng để thành chất bi tráng.
Cái “tráng" này là của Quang Dũng của cả một lớp trai trẻ như ông thời ấy,
mang trong lòng một bầu máu nóng "thề quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Cái
"tráng" ấy lại được luồng gió yêu nước của thời anh hùng rực lửa thời bây giờ thổi
vào nên lại càng hào hùng, rực rỡ. Đúng "bài thơ này đã được khí phách của cả
một thời đại ùa vào, chắp cánh" để cho cái chất bi tráng ấy bay lên như một nét đẹp
hiếm có của một thời thơ.
3. Chất bi tráng ở khổ 3:
- Chất bi tráng làm nên sắc diện của bài thơ, mặt trong tác phẩm, nhưng nổi
in đậm nhất đoạn thơ thứ 3 khi Quang Dũng miêu tả chân dung người lính.
Giữa nền thiên nhiên khắc nghiệt, hình ảnh người lính hiện lên thật bi tráng.
Quang ng đã dùng những hình ảnh sát hiện thực để đậm cái phi thường của
người lính:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
- Hai câu thơ đầu gợi lên vẻ đẹp bi tráng. Đầu tiên đó là cái bi thương được gợi lên
từ ngoại hình của người lính: ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da dẻ xanh như tàu lá.
thể nhận ra cách diễn đạt tinh tế của Quang Dũng khi nhà thơ miêu tả một đoàn
quân "xanh như tàu lá" chứ không phải xanh xao. Người lính Tây tiến như hòa với
thiên nhiên cây lá, ốm không yêu, gầy ốm vẫn trẻ trung, tràn đầy sức sống.
Nhắc đến hình ảnh "Đoàn quân không mọc tóc" tác giả đã gợi lên hình ảnh anh "vệ
trọc" một thời. Câu thơ tả cái ngang tàng của người lính, lại như nét đùa vui
hóm hỉnh, không cần tóc mọc. đói rét, bệnh tật muôn vàn gian khổ, nhưng
người lính vẫn bừng bừng khí thế, vẫn "dữ oai hùm". Cái bi nghiệt ngã nhưng
không hề lấn át cái hùng. tiều tụy về hình hài nhưng tinh thần vẫn khỏe
khoắn, dũng mãnh như chúa sơn lâm, vẫn kiên định tưởng cách mạng qua hình
ảnh đôi mắt ngời sáng: "Mắt trừng... thơm". Đó cái mộng chiến đấu chiến
thắng. đây, ta thấy được cái chí cái tình của người lính. "Chí" trong ánh mắt
quyết tử, "tình" bâng khuâng trong giấc mơ lãng mạn: "Đêm....thom". Hình ảnh
Nội dáng kiều thơm hiện về trong đêm nguồn động viên, cổ đối với
các chiến sĩ. Một tháng kỉ niệm êm đềm trong sáng ấy đã tiếp sức cho họ trong
cuộc chiến đấu gian nan. Có lẽ lí tưởng cách mạng khiến tình yêu thương thêm cao
cả, lớn lao. Đó hai nét khắc họa chân thực và cảm động về cả một thế hệ người
Việt dằn lòng gạt tình riêng, ra đi vì nghĩa lớn.
- Gọi về trong kí ức, Quang Dũng nhắc đến sự hi sinh của người lính Tây Tiến. Tác
giả nhìn thẳng vào trong cái bi nhưng đem đến cho một vẻ đẹp hào hùng, lẫm
liệt và sang trọng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay
chiếu, anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
- nói về cái chết, nỗi đau thương mất mát nhưng Quang Dũng lại không dùng
những từ ngữ bi ai. Cách dùng từ Hán Việt "biên cương", "viễn xứ", "áo bào" trang
trọng đã khiến cái bi thương, lạnh lẽo mờ đi, làm cho sự hi sinh của chiến Tây
Tiến được đặt vào một không khí thiêng liêng trang trọng, tạo tâm thế ngưỡng mộ
đầy tôn kính cho người đọc. cảm giác ảm đạm, ngậm ngùi nhanh chóng bị xóa
đi bởi tứ thơ mạnh mẽ, rắn rỏi như một lời tuyên thệ trong câu 2.
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
- Hình tượng t đậm chất bi tráng, khẳng định mạnh mẽ khí phách của tuổi trẻ
một thời không chỉ tự nguyện chấp nhận còn vượt lên trên cái chết, sẵn sàng
dâng hiến c sự sống, cả tuổi trẻ cho nghĩa lớn của dân tộc. Họ đã ra đi với tất cả
lòng say của người thanh niên yêu nước, sẵn sàng hiến dâng phần đời đẹp nhất
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
cho đất nước. người chưa kịp yêu một người con gái, ngã vào lòng đất vẫn còn
con trai. Tuổi trẻ ai chẳng mang trong mình một khát vọng hạnh phúc tình yêu,
ai chẳng mong cho mình được sống với tuổi thanh xuân hạnh phúc đầy hoa mộng.
Thế nhưng người lính đây lại chẳng tiếc cho mình, phải chăng họ cái máu anh
hùng của thời đại đã in đậm trong trí não hòa cùng dòng u Lạc Hồng mây ngàn
năm lịch sử. Hình ảnh người lính bi tráng hào hùng bởi Quang Dũng đã nói
được một điều cốt lõi trong nhân cách của người lính, đó là biết hi sinh, biết gian
khổ nhưng vẫn cứ ra đi, họ ra đi "chẳng tiếc đời xanh" bởi họ hiến dâng tuổi thanh
xuân chotưởng cao đẹp, chiến đấu vì tổ quốc. Họ ra đi ngã xuống thanh thản
không một chút vướng bận:
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
- Cách nói "áo bào thay chiêu" cách nói bi tráng hóa s hi sinh của người lính.
Hiện thực bi thương khốc liệt đã được thi vị hóa qua hình nh "áo bào" thật sang
trọng để các anh "v đây' thanh thản, nhẹ nhàng. Quang Dũng kể lại "khi tử sĩ
nằm xuống không đủ manh chiếu để liệm, nói áo bào thay chiêu mượn cách nói
của thơ trước đây để an ủi những người đồng chí vừa n xuống." Hơn nữa, "áo
bào" còn gợi ra hình ảnh của các bậc tướng xưa hùng dũng hiên ngang thì cái
chết của những người lính cũng xứng tầm oai phong trang trọng như thế. Bi hùng,
bi tráng chứ không bi thương, bi lụy... Tinh thần ấy còn được nâng đỡ câu t
"Sống... hành". Thiên nhiên gầm lên khúc tráng ca làm rung chuyển cả trời đất đưa
các anh về với cõi vĩnh hằng. Câu thơ vang dội như một khúc nhạc kỳ vĩ. Âm
hưởng bi hùng của khúc chiêu hồn tử dội lên từ chữ "gầm". Tiếng gầm ấy
khúc nhạc bi tráng, khúc nhạc tiễn đưa người lính về nơi an nghỉ cuối cùng. Khúc
tráng ca của thiên nhiên trở thành tiếng khóc lớn nâng sự hi sinh của người lính lên
tầm sử thi.
III. Kết bài:
- Tóm lại, thành công của đoạn thơ là nhà thơ đã sử dụng nhiều từ Hán Việt gợi sắc
thái cổ tích trang nghiêm; sử dụng nghệ thuật đối lập, nhân hóa, nói giảm nói tránh.
Lời thơ hàm súc, vừa đượm chất hiện thực vừa gợi chất hào hùng đã dựng lên bức
tượng đài về người lính Tây Tiến, dấu ấn của một thời đại bi thương nhưng đầy bi
tráng. Vẻ đẹp ấy không chỉ của những người lính Tây Tiến còn gương mặt
tinh thần bất tử của người lính Việt Nam nói chung trong suốt các cuộc trường
chinh vệ quốc vĩ đại.
Vẻ đẹp hào hoa bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 1
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Nhắc đến Quang Dũng nhắc đến một trong những thế hnhà thơ được tôi luyện
trưởng thành trong bom lửa thời kháng chiến chống Pháp. Ông một người
đa tài, có thể vẽ tranh, sáng tác nhạc, nhưng vẫn nổi tiếng và được nhiều người biết
đến với cách một nhà thơ. Phong cách thơ Quang Dũng nổi bật lên chất phóng
khoáng, hào hoa đầy lãng mạn. Bài thơ Tây Tiến một bài thơ đem lại dấu ấn
đậm nét, khắc ghi Quang Dũng vào sâu tâm trí độc giả. Nhớ về đồng đội, những
miền đất binh đoàn xưa, nơi tác giả từng vào sinh ra tử, nhà thơ đã thác
tâm sự qua sự khắc họa đậm nét vẻ đẹp hào hoa, hào hùng bi tráng của hình
tượng người lính Tây Tiến.
Đề tài người lính là một đề tài vốn đã quen thuộc trong thi ca. Bởi người lính chính
trung tâm, linh hồn, sức mạnh mũi nhọn của dân tộc. Cuộc trường chính
của n tộc băng qua hai kẻ t khổng l Pháp Mỹ, những kẻ thù mạnh mẽ
nhất thế giới. Chính vậy, hình tượng người lính, những chàng Thạch Sanh của
thế kỷ XX càng in đậm trong các sáng tác thơ văn. Ta bắt gặp một người lính chân
chất thôn quê, mộc mạc, hiền lành nhưng lòng căm thù ngút ngàn trong Đồng c
của Chính Hữu; người chiến nặng ân tình, trở về với nắng vàng Ba Đình hoa
lệ nhưng vẫn thầm nhắc nhở mình, tự dặn mình phải luôn nhớ nghĩa tình của một
Việt Bắc đã hi sinh quá nhiều suốt 15 năm gắn bó trong Việt Bắc của Tố Hữu…
Vẻ đẹp vừa bi thương vừa hào hùng của đoàn quân Tây Tiến trên đường hành
quân:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa ngoại hình ốm yếu tâm hồn bên trong đã làm
nên khí chất mạnh mẽ của người lính. “Đoàn binh không mọc tóc” với “quân xanh
màu lá” không giống kiểu von “văn chương” thường thấy. đây, “không mọc
tóc” cách nói ngang tàng rất lính, hóm hỉnh vui đùa với khó khăn gian khổ của
mình. Câu thơ không gợi ý nghĩ bi đát mặc dù ai cũng hiểu sự không mọc tóc và
làn da xanh màu đây chính hậu quả của bệnh sốt rét. Thế nhưng ta lại cảm
tưởng trong giọng thơ lời đây t hảo, về bức chân dung lạ đến khác biệt, h
thành đặc trưng mà chỉ lính Tây Tiến mới có.
Cái bi thương của người lính được gợi lên từ ngoại hình ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc,
da dẻ xanh như u lá. Thực tế gian khổ thiếu thốn đã làm cho người lính đa dẻ
xanh xao, Sốt rét làm họ trụi cả tóc. Quang Dũng không hề che giấu. Song, cái
nhìn lãng mạn của ông đã thấy họ ốm không yếu, đã nhìn thấy bên trong cái
hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường. Đặc biệt hơn, với
câu thơ: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” không những gợi cho ta những
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
gương mặt rắn rỏi, gân guốc, những dáng hình làm chúa sơn lâm cũng phải run
hơi, hai chữ đoàn binh, như kết đọng lại trong một khối vững chắc, lại sử dụng
từ Hán Việt, lẽ đó, đọc câu thơ, ngỡ binh đoàn dũng xưa, với sức mạnh
của ngàn năm lịch sử, đang hùng dũng ùa vào trong tâm trí độc giả. Mạnh mẽ, oai
phong biết bao.
Nhưng dáng hình chưa đủ, phải khắc hoạ thêm ánh “mắt trừng”, để đậm thêm
khí chất dũng tướng, mãnh liệt: Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”. “Mắt trừng”
đó là đôi mắt đang quắc sáng, phóng tia nhìn giận dvề phía địch thủ. Ánh mắt ấy
hướng về biên giới, nơi kẻ thù, nơi t địa, cũng lãnh thổ quốc gia, vừa chứa
trong đó lòng căm thù sâu sắc, chứa trong đó d sắt gan vàng bảo vệ biên cương,
lại ánh lên cả khao khát lập chiến công hiển hách. Ta chợt nhớ lại hình ảnh đội
quân từ hổ trong thơ Phạm Ngũ Lão: “Tam quân ti hổ khí thôn ngưu”, hay như
trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi: “Sĩ tốt kén tay từ hồ, bề tôi chọn kẻ vuốt
nanh”. Những người lính, những anh bộ đội cụ Hồ của thế kỷ XX vẫn mang trong
mình dáng dấp, hào khí, sức mạnh của thời Sát Thát chảy trong huyết quản.
Đến câu tiếp, chất hào hoa của lính Tây Tiến bật lên rệt: “ĐêmNội dáng
kiều thơm”. “Dáng Kiều thơm” ấy chính là vầng sáng lung linh trong kí ức, làm
hiện nét đa tình đời sống tình cảm dạt dào của người lính, vôn thường bị che
phủ. dáng kiều, ta nhận ra những người lính ấy tâm hồn n rất trẻ, còn chứa
trái tim yêu đương mãnh liệt. dáng kiều để chỉ người con gái xinh đẹp, đó có thể là
người thường, người yêu của những chàng lính trẻ, nhv họ, đó điểm tựa tinh
thần vững vàng để người lính chắc tay súng. Hoá ra, sau vẻ t ráp bề ngoài, bên
trong người lính Tây Tiến lại ấm nóng một trái tim đa tình, hào hoa. Lính Tây Tiến
vốn những chàng trai còn học sinh, sinh viên, “xếp bút nghiên theo việc đao
cung”, cho nên, những tâm hồn ấy vẫn đầy lãng mạn và bay bổng.
Vẻ đẹp hào hoa, hào hùng người lính còn được thể hiện qua lý tưởng hết sức thiêng
liêng, cao đẹp:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Chiến trường là nơi chết chóc, là khu tử địa, đi dễ khó về. Đời xanh là chỉ cuộc đời
đang độ đẹp tươi nhất, căng tràn nhất. Những người lính đường cái độ tươi đẹp
nhất của cuộc đời đó, vậy sẵn sàng lao vào chốn tử địa, chẳng tiếc. Bởi họ
đi vì lý tưởng thật cao đẹp: chiến đấu cho quê hương, chết cho quê hương, quyết tử
cho tổ quốc quyết sinh.
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Chiến tranh, bao giờ thiếu đi sự mất mát. Quang Dũng, lẽ nhà thơ dám
bước vào thế giới tang thương đó để làm bật lên chất hào hùng:
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Khi miêu tnhững người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn
chìm người đọc vào cải bị thương, bị lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái
bị thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của tưởng, của tinh thần lãng mạn.
Chính vậy hình ảnh những nấm mồ chiến rải rác nơi rừng hoang biên giới
xa xôi đã bị mờ đi trước tưởng quên mình Tổ quốc của người lính Tây Tiến.
Cái sự thật bi thảm những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả
mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của nhà thơ, lại được bọc trong những tấm áo
bào sang trọng. Và rồi, cái bị thương ấy bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của
dòng sông Mã.
Cái chết, sự hi sinh của những người lính Tây Tiến được nhà thơ miêu tả thật trang
trọng. Cái chết ấy đã tạo được sự cảm thương sâu sắc thiên nhiên. dòng sông
đã trân trọng đưa tiễn linh hồn người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm
hùng. Họ ra đi, nhưng tráng c thì còn sống mãi, đó tinh thần của những bậc
trượng phu, ra đi nghĩa lớn, như vị đại tướng quân Trần Quốc Tuấn từng viết:
“Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gọi trong da ngựa, ta
cũng vui lòng”.
Tây Tiến bức tượng đài bổ sung thêm cho hình tượng người lính, xuyên suốt
chiều dài lịch scủa một đất nước nhiều những đau thương mất mát. Nếu điểm
lại, ta sẽ thấy những người con của đất Việt anh hùng: người lính mang hào khí
Đông A và cải trang chí nam nhi mạnh mẽ với khao khát lập công danh trong T
lòng của Phạm Ngũ Lão. Người lính nông dân chân chất nhưng đầy hào hùng, bất
khuất, dùng những vũ khí thô sơ mà đối chọi lại với tàu đồng súng nổ trong Văn tế
nghĩa Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu. Hình tượng tập thể đoàn quân ra trận
mạnh mẽ, khi thê rợp trời, dòng người như thác lũ khiến đất rung trời chuyển trong
Việt Bắc của Tố Hữu…
thể nói hình tượng người lính đều hiện lên trong sức mạnh, đó là sức mạnh của
ý chi phí thường, sức mạnh của niềm tin tưởng. Những người chiến đều bật lên
vẻ đẹp của tưởng, và sự ý thức và trách nhiệm. Họ là những con người gánh vác
đại nghiệp, người tiên phong, sức mạnh mũi nhọn chiến đấu chống lại k thù
xâm lược, Nếu trong các sáng tác v người lính, chủ yếu nhấn mạnh đến sự mạnh
mẽ, tầm vóc, sự anh hùng, bất khuất, thì Quang Dũng tạo một nét vẽ trần trụi hơn
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
khi miêu tả về lính Tây Tiến. Đó những người lính da dẻ xanh xao, sốt rét, trụi
cả tóc. Nhưng qua ngòi bút lãng mạn của ông đã biên họ thành những bức chân
dung lẫm liệt, oai hùng. Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn
thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của những người lính Tây Tiến
những tâm hồn còn rất trẻ, những trái tim rạo rực, khao khát yêu đương (Đêm
Hà Nội dáng kiều thơm). Một thế giới tâm hồn đầy mộng mơ là nét đặc trưng, biến
thành huy hiệu riêng của lính Tây Tiến.
Nét cuối cùng khiến lính Tây Tiến trở nên đặc biệt, đó khi Quang Dũng cho h
hiện lên qua sự hi sinh mất mát. Thậm chí, ta còn thấy cái tàn khốc của chiến tranh
qua những vần thơ. Đây điều các tác giả cố tránh đi khi nói về người lính
chiến tranh.
Từ nỗi nhớ v một đoàn binh, về những con người cụ thể đã hóa thân thành nỗi
nhớ về một mảnh đất, một quê hương, Tây Tiến đã trở thành nỗi nhớ, niềm yêu tha
thiết của Quang Dũng. Chạm khắc vào trái tim độc giả những vẻ đẹp riêng lạ, Tây
Tiến hoá bất tử trong lòng bao thế hệ, bởi chính những vẻ đẹp hào hoa, hào hùng bi
tráng của thời đại.
Vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến - Mẫu 2
Nổi bật trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của
người lính. Khắc họa chân dung chiến Tây Tiến với vẻ đẹp hào hoa, hào hùng,
đậm chất bi tráng, Quang Dũng khẳng định, ngợi ca tinh thần yêu nước, chủ nghĩa
anh hùng của chiến sĩ Tây Tiến, chiến sĩ Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.
Bài thơ Tây Tiến ra đời vào thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp khi
những chàng trai “mang chí nam nhi thời loạn,” “xếp bút nghiên ra xa trường”. Họ
coi gian nan “nợ anh hùng phải vay” nên sẵn sàng dấn thân đương đầu với mọi
gian nan thử thách trong hàng binh trận mạc. Họ ra đi b lại sau lưng mình “gian
nhà không mặc k gió lung lay”, b lại sau lưng “luống cày đất đỏ, tiếng đêm
trường”, họ ra đi “lột sắt đường tàu rèn thêm dao kiếm/ Áo vải chân không đi lùng
giặc đánh”. Họ nam nhi thời loạn với vẻ đẹp của người thanh niên Việt Nam
“trượng phu chí anh hùng”. Nhưng họ cũng những con người khi “Súng
gươm vứt bỏ lại hiền như xưa” nên bản thân họ chứa đựng hai vẻ đẹp hào hùng
hào hoa.
Hào hùng vẻ đẹp mang phẩm chất, cốt cách mạnh mẽ thuộc về ý chí. Hào hoa
thuộc về tình cảm lãng mạn. Hai nét hào hùnghào hoa dường như đối lập nhau,
hào hùng ý chí sức mạnh hào khí của một lớp thanh niên mang tinh thần
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
thời đại “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Hào hoa lại một tâm hồn mềm mại
lãng mạn “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, “Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ”.
Viết về người lính trong chiến tranh văn học nói chung, t ca nói riêng chủ yếu
chỉ đề cập đến vẻ đẹp dũng cảm anh hùng ít khi bộc lộ vẻ đẹp lãng mạn tình tứ
trong tâm hồn người lính, thực ra đây chính một điểm thành công của Tây Tiến,
chính nhờ điểm thành công này vẻ đẹp của người lính mang sắc thái vừa
riêng biệt vừa cùng với vẻ đẹp của người lính trong các bài thơ khác. Đồng chí của
Chính Hữu, Cá nước của Tố Hữu… đã hoàn chỉnh về vẻ đẹp của anh bộ đội cụ Hồ
trong kháng chiến chống Pháp.
Vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của người lính Tây Tiến hiện lên qua cuộc sống chiến
đấu cùng gian khổ. Một cuộc vạn trường chinh Tây Tiến đầy gian nan thử
thách. Núi cao, dốc đứng, thác ghềnh, vực sâu… lúc như chìm vào thung lũng
sương hay đỉnh núi cao chọc trời Tây Bắc “Sài Khao sương lấp đoàn quân
mỏi”. Có lúc đoàn quân rơi vào trận địa của núi non trùng điệp:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Thiên nhiên cứ cố tình giăng ra biết bao thử thách bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng bẻ
gãy ý chí của con người. Người lính Tây Tiến cứ thầm lặng dấn thân, cứ dần vượt
qua hiểm trở của ltrình oai linh của rừng thiêng núi độc. Sự rình của thú dữ,
sự dãi dầu của thân xác. Rồi cái chết hiện ra, người lính Tây Tiến phải đối mặt với
tất cả:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.
Hào hùng nhất cũng lãng mạn nhất lẽ lúc Quang Dũng khắc họa chân
dung người lính:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Chân dung ấy được khắc họa bởi hai nét vẽ chủ đạo: Bi và Tráng. Bi bi thương.
Tráng hào hùng. “Bi tráng” vừa đối lập cũng vừa thống nhất hài hòa, nghĩa
là vừa đau thương vừa hào hùng hay càng đau thương càng hào hùng. Bi thương ấy
hiện lên qua ngoại hình người lính ốm đau, tiều tụy, đầu trọc “không mọc tóc”, da
dẻ xanh xao, héo úa “quân xanh màu lá”. Ma thiêng nước độc của Tây Bắc thật
khủng khiếp. Lam sơn chướng khí núi rừng và hậu quả của sốt rét rừng ác tính, của
đói rét, gian khổ đã bào mòn đi sức trẻ của những người lính. Sốt rét là một thực tế
khắc nghiệt. Thơ ca kháng chiến chống Pháp không ít những lần nhắc đến như thế:
“Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”.
(Chính Hữu)
Sốt rét đến “Má anh vàng nghệ” (Tố Hữu), đến “Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật/
Đâu còn tươi nữa những ngày xanh” (Thôi Hữu)…n lính Tây Tiến sốt rét đến
rụng hết tóc trông đến kỳ dị.
Đối lập với “bi” “Tráng”. Nghệ thuật tương phản giữa cái bên trong trong (tinh
thần) và cái bên ngoài (ngoại hình) đã tạo nên vẻ đẹp của Tây Tiến. Đoàn quân ốm
không yếu, bi vẫn hùng vì: Hình ảnh “không mọc tóc” gợi cái ngang tàng,
ngạo nghễ, coi thường gian khổ của chất lính trẻ luôn hóm hỉnh đùa vui. Từ “đoàn
binh” mang nghĩa rộng hơn “đoàn quân” để chỉ sự đông đảo, hùng mạnh. Ba từ
“dữ oai m” phi thường hóa người lính. Đó những con người đang làm chủ
tình thế, áp đảo kẻ thù. thế cái hùng lấn át cái bi, sức mạnh chiến đấu lấn át
hoàn cảnh tạo nên một tập thể có sức mạnh “thôn Ngưu đẩu”.
Hai câu thơ tiếp, người lính hiện lên bởi vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa trong mộng
trong mơ:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Vẻ đẹp Lãng mạn vẻ đẹp tâm hồn vượt qua hiện thực gian khổ hướng tới niềm
lạc quan. Ở đây, trong gian khổ thiếu thốn nhưng người lính vẫn mộng mơ.
“Mắt trừng” đôi mắt vừa chí vừa tình: “Chí” trong ý chí đánh giặc. Đôi
mắt y đang gửi về bên kia biên giới giấc mộng đánh giặc, mộng lập công, mộng
hòa bình, mộng trở về. “Tình” trong tình yêu quê hương, con người. Đôi mắt ấy
gửi vào giấc v Nội: “Đêm Nội”. Nội là quê hương của người
lính cũng thủ đô yêu dấu. Nội của cả nước, của biết bao vần thơ trong nỗi
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
nhớ. Một Nguyễn Đình Thi xao xuyến với mùi hương cốm mới, một làn hơi may
rất mỏng, lá vàng rơi…
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
Huỳnh Văn Nghệ “Nhớ Bắc” với “Từ thuở mang gươm đi mở cõi/Trời Nam
thương nhớ đất Thăng Long”. Người lính Tây Tiến ra đi thì mãi nhớ về một
Nội với “dáng kiều thơm”. Kiều thơm ch bóng dáng những người bạn gái đẹp,
thanh lịch, dịu dàng. Còn hình ng trong mộng của Quang Dũng (Theo lời kể
của nhà thơ Vân Long thì người người yêu Quang Dũng dạo ấy tên chữ lót
Kiều).
Từng một thời bài thơ Tây Tiến bị xem là “có vấn đề” cũng vì chất mộng mơ trong
hai câu thơ này. Nhưng thời gian đã chứng minh cho sự bất tử của nó, chất lãng
mạn chính liều thuốc tinh thần cho người lính vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt
thời bấy giờ. Đó lãng mạn cách mạng chứ không phải cái lãng mạn kiểu
“mộng hão”, “mộng rớt” của giai cấp tiểu sản như Hoài Thanh một số nhà
phê bình từng nhận xét.
Giữa những ngày gian khổ các chiến Tây Tiến vẫn vui vẫn sống vẫn giữ nguyên
cốt cách hào hùng, hào hoa của mình, h t chức những đêm lửa trại tưng bừng
náo nhiệt:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ”.
Cái dữ dội khốc liệt của chiến tranh biến mất chỉ còn lại không gian tràn ngập ánh
sáng chập chờn hội đuốc hoa và tâm hồn người lính như bốc men say trong hội vui
thắm thiết của tình quân dân. Câu thơ “Kìa em xiêm áo tự bao giờ” bộc lộ tất cả cái
ngỡ ngàng vui sướng cái đắm say của tâm hồn lại có cái hóm hỉnh, tinh nghịch của
lính. Có thể hình dung những tâm hồn hào hoa ấy đang đắm chìm trong vẻ đẹp của
những bóng hồng Tây Bắc. Người lính như được chắp cánh bởi v đẹp con người
và cảnh vật vùng Tây Bắc, như đang bay lên trong tiếng nhạc điệu khèn.
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Phải một cái đó thật lãng mạn đắm say trong tâm hồn Quang Dũng nên ông
mới viết được những câu thơ hay đến thế. Những chữ “xiêm áo”, “man điệu”,
“khèn lên,” “nhạc về” gợi lên vẻ đẹp ảo, một vẻ đẹp vừa gần vừa xa của một
khung cảnh nơi xứ lạ phương xa, làm lòng người như đắm say, xốn xang hơn.
Đi suốt bài tta gặp cái chất bốc tếu, cái ngang tàng kiêu bạc của người lính Tây
Tiến rất rõ. Vừa treo mình cùng hơi thở nặng nhọc trên các dốc núi cheo leo ta gặp
ngay cụm từ “súng ngửi trời” rất dí dỏm, rất lính. Thiên nhiên miền Tây dữ dội với
núi cao, vực thẳm, thác gầm lùi lại phía sau người lính. Vẻ đẹp tâm hồn lạc quan
của người lính được nhân lên sánh ngang thiên nhiên hùng vĩ. Đi suốt toàn bài thơ
cái chất hào hùng của người lính hiện lên qua hiện thực gian khổ thiếu thốn tột
cùng “sương lấp,” “đoàn quân mỏi,” “dãi dầu”, “không bước nữa,” “bỏ quên đời”
với ý chí dấn thân thái độ kiên định sắt đá “chẳng tiếc đời xanh,” “không hẹn ước,”
“chẳng về xuôi.”
Đến cái chết cũng thật hào hoa, hào hùng. Nói đến người lính, nói đến chiến tranh
không thể tránh khỏi cái chết. Cái chết vẫn một mối đe dọa, một sự thật đáng
ngại rất bi thảm, nhưng qua ngòi bút Quang Dũng ta lại thấy được ý chí dấn
thân của người lính Tây Tiến, có thể nói ngay cái chết cũng rất đỗi hào hùng người
lính Tây Tiến dù có chết cũng “không rời vũ khí, không xa đội ngũ”.
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Rồi những cái chết nơi rừng hoang biên giới “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”.
Nhưng câu thơ thứ hai lại vang lên như một lời thề “Chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh”, đúng là giọng điệu của bậc trượng phu “Coi cái chết nhẹ như lông hồng”
sáng ngời chí trai cường: “Chí làm trai dặm nghìn da ngựa/Gieo Thái Sơn nhẹ tựa
hồng mao”.
Còn với người lính Tây Tiến:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Lời thơ đã đầy vẻ kiêu dũng lên cực điểm, hai chữ “áo bào” lấy từ văn học cổ để
tái tạo ở đây vẻ đẹp tráng sĩ làm mờ đi thực trạng thiếu thốn , gợi được hào khí của
chí trai thời loạn. Chữ “về” nói thái độ ngạo nghễ của người tráng đi vào cái
chết. Phong Lan trong “Bài thơ Tây Tiến – tượng đài bất tử về người lính vô danh”
đã i về vẻ đẹp của người lính Tây Tiến qua cái chết như sau: “Lý tưởng cách
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
mạng đã truyền cho các chàng trai Tây Tiến chất anh hùng ngang tàng và chất men
say lãng mạn ngay cả khi họ chết cũng như phảng phất nét nghệ sĩ tài tử”.
Ngày nay đọc lại “Tây Tiến” của Quang Dũng, bỗng thấy nhớ đến nao lòng một
thời kỳ lịch sử bi tráng của dân tộc, một thời đại “Một đi không trở lại”. Các anh đã
ngã xuống cho “lá cờ cách mạng thêm đỏ thắm”, cho tượng đài tự do được tôn cao.
Lịch sử sẽ mãi nhớ tên các anh những người anh hùng bất tử.
Khắc họa vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của người lính, bài thơ “Tây Tiến” của Quang
Dũng ngợi ca một thế hệ thanh niên với tưởng “Chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh” – họ là những con người đã nguyện dâng hiến máu xương mình cho tổ quốc.
Thời gian đã đi qua, gió bụi thời gian thể phù mờ bao huyền thoại nhưng tượng
đài về người chiến binh Tây Tiến năm xưa thì mãi mãi bất tử cùng thời gian. Càng
trân trọng yêu quý thế hệ cha anh ngày ấy đã n xuống hòa bình, thế hệ
thanh niên chúng ta ngày nay phải quyết tâm sống sao cho thật xứng đáng.
Xem thêm: Phân tích bài thơ Tây Tiến
Vẻ đẹp hào hùng của người lính Tây Tiến - Mẫu 3
Quang Dũng đã dựng bức tượng đài v người lính danh trong khổ thơ thứ ba
của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng
hoàn thiện bức tượng đài về chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa.
Chân dung người lính hiện lên ở khổ thơ thứ 3 có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa v
đẹp tâm hồn, tưởng chiến đấu phẩm chất hy sinh anh dũng. thể nói cả bài
thơ một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh
khác thường.
Chân dung đoàn binh Tây Tiến được chạm khắc bằng nét bút vừa hiện thực vừa
lãng mạn. Các chi tiết như lấy từ đời sống hiện thực khúc xạ qua tâm hồn thơ
Quang Dũng để rồi sau đó hiện lên trên trang thơ đầy sức hấp dẫn. Dọc theo hành
trình, vẻ đẹp hào hùng kiêu dũng cứ lấp lánh dần lên, đến khi người lính Tây Tiến
đối mặt với dịch bệnh, đối mặt với cái chết thì nó thật chói người, nét nào cũng sắc
sảo lạ lùng và đầy lãng mạn:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Chữ dùng của Quang Dũng đây thật lạ. Nếu mở đầu đoạn thơ tác giả dùng từ
“Đoàn quân” thì đây tác giả dùng “Đoàn binh”. Cũng đoàn quân y thôi nhưng
khi dùng “Đoàn binh” thì gợi hình ảnh đoàn chiến binh khí, khí thế xung
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
trận át đi vẻ ốm yếu của bệnh tật. Ba chữ “không mọc tóc” là đảo thế bị động thành
chủ động. Không còn đoàn quân bị sốt rét rừng lâm tiều tuỵ đi rụng hết cả tóc.
Giọng điệu của câu thơ cứ y như họ cố tình không mọc tóc vậy. Nghe ngang
tàng kiêu bạc và thấy rõ sự bốc tếu rất lính tráng.
Các chi tiết “không mọc tóc, quân xanh u lá” diễn tả cái gian khổ khác thường
của cuộc đời người lính trên một địa bàn hoạt động đặc biệt. Di chứng của những
trận sốt rét rừng triền miên “tóc không mọc” da xanh tái. Nhưng đối lập với
ngoại hình tiều tụy ấy là sức mạnh phi thường từ bên trong phát ra từ tư thế “dữ oai
hùm”. Với nghệ thuật tương phản chỉ 2 dòng thơ Quang Dũng làm nổi bật vẻ khác
thường của đoàn quân Tây Tiến. Họ hiện lên như hình ảnh tráng sĩ trượng phu một
thuở qua hai câu tiếp:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
“Mắt trừng” biểu thị s dồn nén căm uất đến cao độ như khả năng thiêu đốt
quân thù qua ánh sáng của đôi mắt. Hình ảnh thơ làm nổi bật ý chí của đoàn binh
Tây Tiến. đây người lính Tây Tiến được đề cập đến với tất cả thực trạng mệt
mỏi, vất v qua các từ “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”. Chính từ thực trạng
này chân dung người lính sinh động chân thực. Thế nhưng vượt lên trên khó
khăn thiếu thốn, tâm hồn người lính vẫn cất cánh “Đêm Nội dáng kiều
thơm”. Câu thơ ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Ban ngày “Mắt
trừng gửi mộng” giấc mộng chinh phục hướng về phía trận mạc như¬ng khi bom
đạn yên rồi giấc mộng ấy lại hướng về phía sau cũng hướng về phía trước, phía
tương lai hẹn ước. Một ngày vtrong chiến thắng để nối lại giấc xưa. ý chí thì
mãnh liệt, tình cảm thì say đắm. Hai nét đẹp hài hòa trong tính cách của những
chàng trai Tây Tiến.
Quang Dũng đã dùng hình ảnh đối lập: một bên nấm mồ, một bên ý chí của
những người chiến binh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
“Mồ viễn xứ” những nấm mồ những nơi xa vắng hoang lạnh. Những nấm mồ
rải rác trên đường hành quân, nhưng không thể cản được ý chí quyết ra đi của
người lính. Câu thơ sau chính u trả lời dứt khoát của những con người đứng
cao hơn cái chết:
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Chính tình yêu quê hương đất nước sâu nặng đã giúp người lính coi cái chết nhẹ
tựa lông hồng. Khi cần họ sẵn sàng hy sinh cho nghĩa lớn một cách thanh thản bình
yên ngiấc ngủ quên. Câu thơ vang lên nmột lời thề đúng là cái chết của bậc
trượng phu:
“Áo bào thay chiếu anh về đất”
Nếu nngười tráng phong kiến thuở trước coi da ngựa bọc thây lí tưởng thì
anh bộ đội cụ Hồ ngày nay chiến đấu hi sinh Tổ quốc một cách tự nhiên thầm
lặng. Hình nh “áo bào” làm tăng không k cổ kính trang trọng cho cái chết của
người lính. Hai chữ “áo bào” lấy t văn học cổ tái tạo vẻ đẹp của một tráng
làm mờ đi thực tại thiếu thốn gian khổ chiến trường. cũng gợi được o
khí của chí trai “thời loạn sẵn sàng chết giữa sa trường lấy da ngựa bọc thây. Chữ
“về” nói được thái độ nhẹ nhõm, ngạo nghễ của người tráng sĩ đi vào cái chết “Anh
về đất” hình ảnh đầy sức mạnh ngợi ca. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thiêng
liêng, người lính Tây Tiến trở về trong niềm chở che của đất mẹ quê hương, của
đồng đội. Trở về với nơi đã sinh dưỡng ra mình. Trước những cái chết cao cả ở địa
bàn xa xôi hẻo lánh sông Mã là nhân vật chứng kiến và tiễn đưa.
Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh sông Mã, con sông y gắn liền với lịch sử
đoàn quân Tây Tiến. Sông chứng kiến mọi gian khổ, mọi chiến công gi
đây lại chứng kiến sự hy sinh của người lính. Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi
tráng của sông Mã.
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Dòng sông chứng nhân của một thời k hào hùng, chứng kiến cái chết của
người tráng sĩ, gầm lên khúc độc hành bi phẫn, làm rung động cả một chốn
hoang sơ. Câu thơ cái không khí chiến trận của bản anh hùng ca thời cổ. Câu
thơ đề cập đến mất mát đau thương mà vẫn hùng tráng.
Bốn câu kết:
Bốn câu thơ kết thúc được viết n những dòng chữ ghi vào mộ chí. Những dòng
sông ấy cũng chính là lời thề của các chiến sĩ vệ quốc quân.
“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy”
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
“Mùa xuân” thể được dùng nhiều nghĩa: thời điểm thành lập đoàn quân Tây
Tiến (mùa xuân 1947), mùa xuân của đất nước, mùa xuân (tuổi thanh xuân) của
đời các chiến sĩ.
Hình ảnh “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”, “chẳng về xuôi” bỏ mình trên đường
hành quân “Hồn về Sầm Nứa”: chí nguyện của các chiến sang nước bạn hợp
đồng tác chiến với quân tình nguyện Lào chống thực dân Pháp, thực hiện tưởng
đến cùng. Bởi vậy đã ngã xuống trên đường hành quân hồn (tinh thần của các
anh) vẫn đi cùng với đồng đội, vẫn sống trong lòng đồng đội: Vang vọng âm
hưởng văn tế của Nguyễn Đình Chiểu: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”.
Vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến - Mẫu 4
Mọi cuộc chiến tranh rồi s qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của
những anh hùng danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc
tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng
của đất nước đã ngã xuống nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch
sử.
trong thơ Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về
người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm
lược nước ta. Đó bức tượng đài đã làm cho những người chiến yêu nước từng
ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian:
“Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
“Tây Tiến” của Quang Dũng dòng hồi ức vô cùng thương nhớ v những đồng
đội của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng người
đã hy sinh, những người đã trở về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng
những người mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay miền viễn xứ. Chính thế
Quang Dũng không chỉ dựng lại cả một hình ảnh của đoàn binh Tây Tiến trên
những chặng đường hành quân gian khổ hy sinh “đời vẫn cứ tươi” như 14
dòng thơ đầu tiên. Quang Dũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
người lính với một đời sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao là
tình quân dân. Quang Dũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người
lính Tây Tiến trong tác phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ
giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý
nghĩa để tạo ấn tượng mạnh để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc
hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dân tộc. Đó là bức tượng đài
sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng n chúng ta đã
thấy trong các câu thơ
“Tây Tiến đoàn quân ….. khúc độc hành”
Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc hoạ lên từ những đường
nét nhằm đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu n những đoạn t trước đó
người lính mới chỉ hiện ra trong đoàn quân mỏi trong câu:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”
hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình
nước thì đây hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như rừng. Cảm
hứng chân thực của Quang Dũng đã khôngtránh việc mô tả cuộc sống gian khổ
người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc
được (chứ không phải họ cố tình cạo trọc để đánh giáp cho dễ như nhiều
người từng nói). Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ
xanh màu lá nguỵ trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tụy. Nhưng thế giới tinh thần
của người lính lại cho thấy họ chính những người chiến binh anh hùng, họ còn
chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo, hùm beo.
Cái giỏi của Quang Dũng là tả người lính với những nét khắc khổ tiều tụy
nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi câu thơ “Tây Tiến
đoàn binh không mọc tóc” với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu t
như “tiến”, “mọc tóc”. Nhờ những thanh trắc ấy âm hưởng của câu thơ vút lên.
Chẳng những thế, họ còn cả một đoàn binh. 2 chữ “đoàn binh” âm Hán Việt đã
gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. đặc biệt hai chữ “Tây
Tiến” mở đầu câu thơ không chỉ còn tên gọi của đoàn binh nữa, gợi ra hình
ảnh một đoàn binh dù đầu không mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về phía Tây.
Thủ pháp tương phản Quang Dũng sử dụng u thơ “Quân xanh u dữ
oai hùm” không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính còn
thấm sâu u sắc văn hoá của dân tộc. đây, nhà thơ không chỉ muốn nói rằng
những người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm, không phải muốn “động vật hoá”
người lính Tây Tiến muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng một
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
hình ảnh quen thuộc trong thơ n xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi người anh
hùng vệ quốc trong câu thơ
“Hoành sóc giang san cáp kỷ thu
Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu”
Và ngay cả Hồ Chí Minh trong “Đăng sơn” cũng viết:
“Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu
Thể diện sài long xâm lược quân”
thể nói Quang Dũng đã s dụng một típ mang đậm màu sắc phương Đông
để câu thơ mang âm vang của lịch sử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền
với sức mạnh truyền thống của dân tộc. Đọc câu thơ: “Quân xanh màu lá dữ oai
hùm” ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông á.
Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi Quang Dũng bổ
sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Trước hết đó một v đẹp tấm lòng luôn hướng về Tổ quốc, hướng về Thủ đô.
Người lính dẫu nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi lòng lúc nào cũng hướng
về Hà Nội. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:
“Từ thuở mang gươm đi mở nước
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”
Người lính Tây Tiến dẫu “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” niềm thương nỗi
nhớ vẫn hướng về một “dáng kiều thơm”. Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta
phê phán thói tiểu sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn người lính sức
mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của
con người Việt Nam. Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc
những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính con người
có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng
cầm gươm theo tiếng gọi của non sông còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian
khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều
thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội – Thăng Long xưa.
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng
tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật
và tạo được những ấn tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ Quang Dũng.
Nếu như 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình nh một đoàn
binh với những bước chân Tây Tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm
hồn hết sức lãng mạn t đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc
bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ
phân tích từng hình ảnh riêng rđộc lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi luỵ về
cái chết của người lính mà thơ ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca
kháng chiến phần lớn chỉ quan tâm đến cái hùng không quan tâm đến cái bi.
Nhưng nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu
Quang Dũng đã tả một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm
hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức
bay bổng.
thể thấy câu thơ: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” nếu tách riêng ra rất dễ gây
cảm giác nặng nề bởi đó câu thơ nói về cái chết, vnấm mồ của người lính Tây
Tiến nơi “viễn xứ”. Từng chữ từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt
nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm mồ, lại
những nấm mồ “rải rác” dễ gợi sự hoang lạnh, lại “rải rác” nơi “viễn xứ”,
những nấm mồ ấy càng gợi sự đơn côi cút. Quang Dũng muốn nói tới nơi yên
nghỉ của những người đồng đội.
Trong Chinh phụ ngâm:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
“Hồn tử sĩ gió về ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn”
Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình nh những nấm mồ rải rác nơi biên
cương đã trở về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi
đó chính là nấm mồ của những người con anh dũng
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Đồng thời cũng chính câu thơ thứ 2 đã làm cho những nấm m rải rác kia được
nâng lên những tầng cao của đài tưởng niệm, của Tổ quốc đối với người lính đã
tiếng gọi của chiến trường hiến dâng tuổi xanh của mình. Trong thơ Quang
Dũng luôn một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như vậy.
Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ
“áo bào thay chiếu anh về đất”
Bao nhiêu thương yêu của Quang Dũng trong một câu thơ như vậy về một đồng
đội của mình. Ai bảo Quang Dũng không xót thương những người đồng đội của
mình ra đi trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái
thuở những người lính Tây Tiến chết sốt rét nhiều hơn chết chiến trận. Lại
trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn nên tiễn đưa người chết không cả một
chiếc quan tài. Hoàng Lộc trong “Viếng bạn” cũng đã viết v cảnh tiễn đưa như
thế.
"Ở đây không manh ván
Chôn anh bằng tấm chăn
Của đồng bào Cứa Ngàn
Tặng tôi ngày sơ tán”
Chỉ điều câu thơ của Quang Dũng không dừng lại mức tả thực đẩy lên
thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm,
cổ kính. ng người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ có chính tấm áo
của người lính. hiểu theo cách nào thì cũng phải thấy Quang Dũng đã tráng lệ
hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo bào sự hy sinh của người
lính đã được coi s trở về với đất nước, với núi sông. Cụm từ “anh về đất” nói
về i chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng
hình ảnh tráng lệ. Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca “Sông
Mã gầm lên khúc độc hành”.
Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn,
Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng
vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong
thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ
chống thực dân Pháp. Đó bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của
cuộc kháng chiến ấy. Đó bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của
Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. thế từ
bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về
những người con anh hùng ấy.
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến - Mẫu 5
Tây Tiến một bài t tiêu biểu của Quang ng, thành tựu của thơ ca kháng
chiến chống Pháp, là một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính. Trần
Văn đã từng những nhân xét như: “Trước Tây Tiến Quang Dũng đã những
khúc dạo đàn khá hay nhưng thật sự chỉ đến Tây Tiến Quang Dũng mới thực sự
trình làng một phong cách thơ, một diện mạo thơ”. Đó một phong cách hồn hậu,
hào hoa. Không những thế qua bài thơ Tây Tiến ta thấy được v đẹp bi tráng của
những anh hùng Tây Tiến.
Trước hết khổ thơ đầu của bài, Quang Dũng thể hiện s thể hiện nỗi nhớ của
mình về đoàn quân Tây Tiến thông qua nỗi nhớ ấy ta thấy được những hình ảnh bi
tráng thể hiện vẻ đẹp của những anh hùng Tây Tiến:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Nỗi nhớ ấy bắt đầu bằng tiếng gọi Tây Tiến ơi. Tiếng gọi đó sao nghe tha thiết
như thế, nvọng vào không gian của con sông Mã, quay ngược lại với những
kỉ niệm thời xưa. Một thời đạn bom nhưng cũng rất vui tươi hào hùng. Nỗi nhớ ấy
nỗi nhớ chơi vơi. Hiệp vần “ơi” cho ta thấy một cảm giác vang xa nỗi nhớ ấy
như vọng vào mấy năm trước để trở về những kỉ niệm vui tươi ấy. Hai địa danh Sài
Khao và Mường Lát hiện lên khắc sâu vào nỗi nhớ của tác giả. Hai địa danh ấy gắn
với những cuộc hành quân của đoàn quân tây tiến. Thật khá khen cho cái “đêm
hơi”. Đó sự di chuyển nhẹ nhàng của những chiến đoàn quân tây tiến hay
chính những hơi sương trong đêm hành quân ấy thể hiện những khó khăn vất vả
của đoàn quân.
Cuộc hành quân ấy còn nhiều gian nan và chính những gian nan ấy đã làm nên vẻ
đẹp bi tráng của những anh hùng tây tiến:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Những câu thơ ấy đã mang đến những hình ảnh của cuộc hành quân gian khổ của
Tây Tiến. những câu thơ với mật độ thanh trắc dày đặc đã cho thấy được sự trúc
trắc trong chính đường đi của đoàn quân. như lột tả hết những độ cao sâu thăm
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
thẳm những đoàn quân tây tiến kia phải vượt qua. Dẫu xuống nơi vực sâu
thăm thẳm hay đến những núi cao tưởng như ngọn súng chạm đến tầng mây kia thể
hiển một vẻ đẹp hiên ngang của người lính tây tiến. Những độ cao độ sâu ấy được
tính bằng ngàn thước. mục đích của nhằm nhấn mạnh vào những gian khổ
đoàn quân phải vượt qua. Đến câu thơ cuối thì một dòng toàn thanh bằng lại được
xuất hiện như lại cho những câu thơ mang nhiều thanh trắc. Sự bằng ấy mang
đến cho chúng ta một cảm giác thật sự yên bình.
Những gian nan khó khăn ấy mở nguồn cho hình ảnh đẹp vi tráng của những người
lính ấy:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Hình ảnh người lính gục lên súng mũ dãi dầu không bước nữa là một hình ảnh đẹp.
Câu nói y thể hiện sự nói giảm đi i chết, cái hi sinh của những người chiến
ấy. Đó một vẻ đẹp bi tráng, cái hi sinh kia bi nhưng trong cái bi ấy ta lại thấy
một i tráng lệ cùng. Mất đi nhưng người lính ấy chết trong thế nhẹ nhõm
không đau đớn chỉ b quên đời thôi. Tác giả lại nhớ đến những kỉ niệm với
những buổi chiều ban đêm với những con thú dữ gầm lên. Quang Dũng nhớ
những đêm mùa nếp xôi ở Mai Châu.
Đến đoạn thơ tiếp theo hình ảnh những người lính Tây tiến hiện lên với những đêm
liên hoan văn nghệ trên mảnh đất Lào với những gái Viêng Chăn xinh đẹp kiều
diễm với tình dân quân thân thiết đẹp sao. từ những đêm liên hoan ấy những
người con của tổ quốc lại ra đi trong buổi chiều với sự quyến luyến của bao người.
Và từ đó hình ảnh của những chàng trai Tây Tiến cũng hiện lên thật khổ cực mà lại
thật oai hùng:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Những gái Viêng Chăn trong đêm liên hoan ấy e ấp trong những điệu kèn tiếng
trống. Sau đêm liên hoan ấy những chàng trai tây tiến lại lên đường ra đi để bảo vệ
biên giới. Hình ảnh những người chiến sĩ tây tiến hiện lên với những ngoại hình cụ
thể:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Đây những câu t tả về những người chiến tây tiến. Những người lính ấy
xuất hiện với hình ảnh một đoàn binh không mọc tóc. Những câu thơ có thể hiểu
theo hai cách. Đó đoàn quân ấy cắt tóc đi để phù hợp với điều kiện chiến đấu
gian khổ. Hay cũng có thể hiểu rằng sinh hoạt trong chốn rừng thiêng nước độc rửa
chân rụng lông, gội đầu rụng tóc. Hay chính là kết quả của những trận sốt rét
rừng. hiểu cách thì đoàn quân Tây Tiến vẫn hiện n thật đẹp. Hình ảnh quân
xanh màu những hình ảnh gầy ốm nhưng không hề yếu vẫn dữ oai
hùm. Mắt trừng gợi cho ta liên tưởng đến sự căm thù giặc của những anh hùng tây
tiến. Hay đó chính sự thức trắng không ngủ được lo cho biên giới hoặc mở
mắt để nhớ những bóng kiều thơm kia. những câu thơ này được coi mộng rớt
buồn rơi.
Những đoạn thơ cuối bài đoạn thơ thể hiện nhất vẻ đẹp bi tráng của những
anh hùng Tây Tiến:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
.........
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Đó sự hi sinh của những người chiến ấy, h phần lớn những trí thức
Thành ngày đêm nghĩ đến quê nhà với những bóng hồng trong tim mong một ngày
nào đó sẽ được gặp lại mà giờ đây có những người mồ rải rác khắp biên cương. Đó
chính là cái bi của vẻ đẹp người lính. Nhưng nó lại rất tráng vì người ta chết đi vì
tưởng cao cả của mình thì đó chính cái chết đẹp. Những áo bào t thay bằng
chiếu thể hiện sự giản dcủa những người lính. Chiến trường khắc nghiệt làm cho
anh phải ra đi chỉ mảnh chiếu che thân. Và con sông một mình vang lên
khúc nhạc như đưa tiễn linh hồn các anh về nơi an nghỉ cuối cùng.
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Qua đây ta thấy được những vẻ đẹp bi tráng của những chiến binh tây tiến, cảm
nhận được như thế chúng ta càng thêm yêu hơn những con người vì quê hương
quyết tâm gìn giữ thà hi sinh tất cả cũng không chịu rời bước để rồi trở thành một
bức tượng đài bằng thơ vĩnh cửu với thời gian.
Vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến - Mẫu 6
Trong thời đấu tranh chống giặc cứu nước, người lính trở thành một hình tượng
trung tâm được nhiều nghệ đi vào khai thác, thể hiện. “Tây Tiến” của Quang
Dũng cũng một trong số những sáng tác như thế. Tác phẩm đã thực sự thành
công khi đi vào khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến trong thời kháng chiến
chống Pháp trong đó vẻ đẹp bi tráng v đẹp nổi bật để lại trong người đọc
nhiều xúc cảm.
“Tây Tiến” là bài thơ viết về binh đoàn Tây Tiến nơi nhà thơ đã từng sống và chiến
đấu. Những người lính trong binh đoàn phần đông thanh niên Nội, chiến đấu
trong hoàn cảnh gian khổ, vô cùng thiếu thốn về mọi mặt nhưng vẫn phơi phới tinh
thần lãng mạn anh hùng. Ở họ có vẻ đẹp tinh nghịch hào hoa của chàng trai đất
thành nhưng cũng thật kiêu hùng, can đảm trong cuộc chiến đấu. Miêu tả về họ,
Quang Dũng sử dụng bút pháp lãng mạn cảm hứng ngợi ca khiến cho dù trải
qua đau thương, gian khổ thì người lính vẫn hiện lên mang vẻ đẹp thật đặc biệt: bi
tráng mà không hề bi lụy.
Chất bi tráng đây trước hết có được là do được đặt trên nền của bức tranh thiên
nhiên hùng diễm lệ, thơ mộng đầy hoang sơ, ẩn. Mảnh đất Tây Bắc
vừa môi trường sống chiến đấu của người lính nhưng cũng vừa mang trong
mình vẻ đẹp riêng. Con người đặt trong đó vừa chan hòa, giao cảm với thiên nhiên
lại vừa đối lập bị thiên nhiên thử thách. Trước cái heo hút của cồn mây, cái gập
ghềnh của “dốc thăm thẳm”, của “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”, người
lính vẫn vượt lên trên, giành về nh thế chủ động. Chinh phục đỉnh cao để nhìn
lên và phát hiện ra một hình ảnh đầy dí dỏm: “súng ngửi trời”. Vượt qua núi đá gập
ghềnh để được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mờ ảo đầy màu sắc của nhà ai Pha Luông
mưa xa khơi”. Vượt qua cái mệt mỏi của chặng đường hành quân, mở rộng lòng
mình ra đón nhận vẻ đẹp bất ngờ của thiên nhiên, của một cánh hoa về trong đêm
hơi… Bằng cách đặt nhân vật vào bức tranh thiên nhiên như vậy, Quang Dũng đã
khẳng định vẻ đẹp dũng cảm kiên cường nhưng cũng rất tinh nghịch, lãng mạn của
người lính Tây Tiến.
Cũng trong thiên nhiên đó, người lính Tây Tiến xuất hiện với tầm vóc bi tráng,
khác thường:
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Gian khổ của chiến tranh đã làm cho hình hài người lính trở nên tiều tụy thế nhưng
dưới con mắt lạc quan, đầy sức mạnh niềm vui sống lại trở thành nét rất
riêng, thành cái “uy” của họ. Cụm từ miêu tả “dữ oai hùm” vừa thể hiện sức mạnh
oai phong lẫm liệt của những người đang cầm ng bảo vệ quê hương, lại vừa n
chứa sau đó nét lạc quan, hài hước của họ. Bài thơ xuất hiện một hình ảnh đối lập
độc đáo:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm”
Người lính được khắc họa trong s hài hòa giữa một chàng trai thành tâm hồn
lãng mạn một người lính dũng cảm kiên cường, sẵn sàng hi sinh Tổ quốc.
Chúng không hề đối lập mà bổ sung cho nhau, tôn vẻ đẹp của nhau lên.
Những khó khăn người lính phải đối mặt cùng, nhiều khi cả cái chết.
Ấy vậy khi nói về i chết, Quang Dũng đã nói đến họ trong những hình ảnh
thật đặc biệt:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
thế “gục lên súng bỏ quên đời” bi tráng, thanh thản, dung dị đầy tính
truyền cảm. phảng phất chất nghệ sĩ, tài tử, kiêu hùng khi từ giã cuộc sống của
người chiến sĩ. Đã ngã xuống vẫn như thế cùng đồng đội tiếp bước hành
quân. Đến mảng hồi ức này, ta cảm thấy trong lời thơ của Quang Dũng sự trầm
lắng, xót xa nhưng tuyệt đối không hề bi lụy. Nó làm ta nhớ đến tư thế của anh giải
phóng quân thời chống Mĩ hi sinh trên đường bay Tân Sơn Nhất.
“Anh giải phóng quân Trên đường bay Tân Sơn Nhất
Tì súng trên xác trực thăng
Và anh chết khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”
Ngợi ca người lính Tây Tiến, Quang Dũng không hề ngần ngại khi nói đến cái chết
của họ. Bởi chính trong cái chết, người chiến sĩ hiện lên càng đẹp đẽ:
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Cõi chết trong cách nhìn của Quang Dũng tức cũng cái nhìn của tất cả những
người lính Tây Tiến cũng khác thường tạo hình dữ dội. nói lên cái tột cùng
cực lẫn cái lẫm liệt kiêu hùng. Trong cuộc chiến đấu một mất một còn, “rải rác
biên cương mồ viễn xứ” là điều người lính luôn thấu hiểu. Nhưng không vì thế mà
nó làm nhụt đi ý chí chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Mỗi người lính Tây Tiến điều
tâm niệm: “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, nghĩa họ tình nguyện cống
hiến tuổi thanh xuân của mình cho đất nước, cống hiến thanh thản trọn vẹn
không đòi hỏi nhận lại một điều gì cả.
Cái chết thiếu thốn không thế làm giảm đi vẻ đẹp của người lính. Người
chiến sĩ ra đi như một vị anh hùng thần thoại:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Tấm áo trước nay người lính vẫn thường hay mặc trở thành “áo bào” đưa anh về
với đất mẹ. Và sự ra đi có chứng kiến, tiễn đưa của núi sông, trời đất. Khúc gầm dữ
dội của dòng sông khiến cho cái chết trở nên hào hùng. là khúc bi ca tiễn đưa
những con người gần gũi nhưng cũng thật vĩ đại.
Người lính hiện lên mang vẻ đẹp bi trángkhông hề bi lụy. Cái bi tráng thể hiện
trong những gian khổ mất mát, đau thương to lớn, nhưng tinh thần lại hiên ngang,
bất khuất, coi thường gian khổ, coi thường cái chết; thể hiện trong cái khổ vẫn
đẹp, chết mà vẫn hùng của người chiến sĩ.
Làm nên vẻ đẹp bi tráng này, điều đầu tiên phải kể đến cảm hứng bút pháp
lãng mạn của Quang Dũng khi xây dựng hình tượng nhân vật. Cảm hứng lãng mạn
hướng tới những cái cao cả, sẵn sàng x thân, hi sinh tất cả cho tưởng của cộng
đồng, của dân tộc. Chính đã tạo ra nhà thơ cái nhìn tính anh hùng cổ điển
trong hình ảnh người lính, đặc biệt trước cái chết của họ. Bút pháp lãng mạn khắc
họa người lính Tây Tiến những nét phi thường, kết hợp với sắc thái bi tráng
trong hình tượng tạo nên tính sử thi đặc biệt của bài thơ, đúc kết lại trong lòng
người đọc những tình cảm tốt đẹp.
Góp phần tạo nên vđẹp bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến còn giọng
điệu thơ hào sảng với hình ảnh chi tiết ấn tượng mạnh mẽ. Thiên nhiên con
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
người vừa đối lập lại vừa đồng điệu. Sự đối lập trong hệ thống hình ảnh, giữa thực
tế chiến đấu đời sống tinh thần phong phú, tinh tế, nhạy cảm; giữa những khó
khăn gian khổ với niềm lạc quan tin tưởng vào cuộc sống. Tất cả làm nên hình
tượng về người lính Tây Tiến còn lại mãi với thời gian.
“Tây Tiến” bài thơ ngợi ca hình tượng người lính trong thời kháng chiến
chống giặc ngoại xâm, khi “những ngày vui sao cả nước n đường” đi chiến đấu:
“Lớp cha trước lớp con sau / Đã thành chiến chung câu quân hành”. Vẻ đẹp bi
tráng của người lính Tây Tiến đã trở thành một biểu tượng đẹp cho tinh thần yêu
nước chiến đấu kiên cường của dân tộc Việt Nam, thêm một “dáng đứng Việt
Nam tạc vào thế kỉ…”
Vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến - Mẫu 7
Ra đời trong thời đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Tây Tiến
một hồi tưởng rất đẹp, những kniệm đầy sống động về người chiến trong đoàn
quân Tây Tiến. Hồi tưởng của một anh lính tài hoa tinh thần xả thân nghĩa
lớn - Quang Dũng. Cho nên, khác với vẻ đẹp của các bài tcùng thời, vẻ đẹp của
Tây Tiến vẻ đẹp hài hoà, hào hoa, bi tráng. Bài t mở đầu với một tiếng gọi
dồn chứa tâm trạng, thoạt đầu đọc lên có vẻ lạ lùng:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Hai câu thơ xác định hai khoảng không gian khác nhau. Không gian thực tại
không gian hồi tưởng. Tuy nhiên, chỉ độc giả mới nhận ra rành điều đó, còn
đối với nhà thơ, khi ông nói xa rồi là khi những hình ảnh của một quá khứ chưa xa,
đang ập tới; nhấc bổng ông khỏi mảnh đất thực tại, để hồn thơ lơ lửng, chơi vơi
trong cõi nhớ cũng xa rồi chứ đâu chỉ "Sông Mã".
Vậy là, chẳng cần đến sự dẫn dắt dềnh dàng nhằm chuyển vùng không gian cho
người đọc, một thời Tây Tiến đã hiện lên tức khắc trước mắt ta. Trong ức nhà
thơ, các ấn tượng hãy còn nóng hổi, tươi nguyên và cái nặng nhọc, vất vả ngày nào
dường như còn chưa tan hẳn, ta thấy các địa danh được hiện lên, tất cả hãy còn đây
rành rành trong tâm trí.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Sự hiện tại hóa quá khứ dưới tác động của một ức sâu mạnh đã vẽ nên một bức
tranh đầy ấn tượng về thiên nhiên khắc nghiệt nhưng cũng tràn đầy thơ mộng.
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Thiên nhiên ấy thường vần thử thách các chiến sĩ, đôi khi muốn vùi lấp những sinh
mạng nhỏ trong những khoảnh khắc của thung lũng sương mù. Nhưng cũng
chính khung cảnh này, khiến tâm hồn của các chàng trai gốc Nội được một
phen bay bổng. Nếu "sương lấp" lạnh lùng, nặng nề đe dọa bao nhiêu thì "hoa về"
lại nhẹ nhõm, tươi tắn, ấm áp bấy nhiêu. "Mường lát hoa về trong đêm hơi" - câu
thơ nhiều thanh bằng diễn tả một trạng thái lâng lâng. Dĩ nhiên là cái lâng lâng vừa
đến sau một chặng đường mỏi mệt. Khung cảnh rừng núi đoàn quân Tây Tiến
đã bước chân qua, vừa thơ mộng lại vừa hùng vĩ. Một bức tranh làm xao động lòng
ta như một bức tranh thủy mặc hiện đại: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Lại
những nét vẽ thật táo báo, câu thơ như bẻ gãy làm đôi: "Ngàn thước lên cao, ngàn
thước xuống". lúc, hình ảnh núi rừng rộn lên bởi tiếng gầm thét, lại có lúc
hình ảnh nên thơ, duyên dáng về một gái cùng con thuyền độc mộc trên dòng
sông chảy xiết.. Cảm hứng lãng mạn của Quang Dũng không làm hạn hẹp đề tài,
trái lại, qua cảm hứng này, tâm hồn ông rộng mở với toàn cảnh của núi rừng Tây
Bắc, khiến tâm hồn ta đẹp một cách phóng khoáng.
Kết thúc đoạn thơ, đợt sóng cồn của ức bị đánh thức đột ngột hình như tan dần.
Đợt sóng mới chưa được hình thành nên lúc này kí ức được kéo giãn ra. nhẹ nhàng
lan tỏa để các hình ảnh tươi tắn hơn. Độc giả lại được dịp "nghỉ ngơi" để thể
nghiêng ngả theo điệu múa trong đêm liên hoan văn nghệ với Doanh trại bừng lên
hội đuốc hoa" và được thả hồn "đong đưa" theo cánh hoa tươi trên dòng nước lũ.
Thiên nhiên trong Tây Tiến bao giờ cũng là một nhân vật quan trọng, tràn đầy sinh
lực thấm đượm tình người. Hồn t tinh tế của tác giả "bắt" rất nhạy một làn
sương chiều mỏng, một dáng hoa lau núi phất phơ đơn sơ bất chợt. Rồi n thơ
thổi hồn mình vào đó để lại mãi trong ta một niềm bâng khuâng, thương mến.
Và một ánh thơ đẹp xuất hiện như mây chiều biên ải:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ.
Tây Tiến hiện lên khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, kì với đủ cả núi cao, vực
thẳm, dốc đứng, thác gầm cùng cồn mây heo hút, dòng hoa trôi với khói lên,
sương lấp, mưa xa khơi... Trên cái nền thiên nhiên kì vĩ, dữ dội ấy, nổi bật lên hình
ảnh đoàn quân Tây Tiến "nhỏ bé" như bị ngập hút đi. Nhưng chính sự đối chọi,
tương phản đó càng tăng thêm khí phách anh hùng của đoàn quân Cách mạng,
kẻ thù, cũng như gian khổ không thế khuất phục nổi. Hình ảnh những người lính
qua nét vẽ của Quang Dũng thật khác thường. Khác thường sự gian khổ cùng
cực: ăn đói, mặc rét, bệnh tật, sốt rét đến xanh da, trụi tóc. Khác thường chỗ tác
giả cố ý không miêu tả một gương mặt chiến riêng biệt với tên tuổi c thế nào,
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
ông đã dồn các phẩm chất tốt đẹp của những tráng Tây Tiến thành gương mặt
chung của cả một đoàn quân.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Ta có thể hiểu, đây là hình ảnh khá chân thật về diện mạo bên ngoài người lính mũ
cài ngụy trang, thân thể xanh xao sốt rét. Nhưng cảm hứng đây lại tràn đầy
một nỗi niềm thân quen. Từ thân quen thấy cái anh hùng của họ. Câu thơ tạo
nên hình ảnh đối lập, bề ngoài thì xanh như lá, thiếu sức sống, nhưng bên trong
người chiến thế hiện một phong độ anh hùng, oai như hùm nơi "rừng thiêng
nước độc". Câu thơ "Quân xanh màu dữ oai hùm" đã gợi được dũng khí của
người chiến binh thuở ấy. Nó mang cái dáng dấp kiêu hùng của người coi thường
gian khổ. hi sinh để giữ cái thế hiên ngang của đoàn quân Tây Tiến. Với bút pháp
lãng mạn cảm hứng say nồng, Quang Dũng đã dựng nên cái tương phản trong
hình ảnh để rồi hòa hợp với tâm hồn làm cho ta thấu hiểu và cảm thông, tìm thấy
đây một hình ảnh đẹp.
Người Hà Nội trở thành người chiến binh thì cái oai phong cũng rất Hà Nội. Quang
Dũng đã viết đúng hình ảnh người lính Tây Tiến từ Hà Nội chiến tranh mà ra đi:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Thực ra hai câu t ấy chỉ là nỗi lòng của n thơ muốn bộc lộ thật đậm, thật
chất lính của người thanh niên Nội tài hoa lãng mạn. Lại người nói: thời
chiến chinh ác liệt nói về giấc "dáng kiều thơm" xa rời tinh thần chiến đấu.
Thực ra cuộc đời con người vô cùng phong phú,tâm trạng của chàng trai Hà Nội lại
càng những nét hào hoa tình cảm riêng. Cho nên nói người lính Tây Tiến
"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm", chỉ tô đậm cái đẹp của những con người ấy
thôi. n nữa, vẻ đẹp chân thực không bao giờ làm cho con người giảm sút lòng
chiến đấu. Phẩm chất người lính qua hồi tưởng của Quang Dũng đã hiện lên vừa
hào hùng, hào hoa và cũng vừa bi tráng. Nhà thơ đã nhìn thẳng vào những tổn thất,
hi sinh để viết những câu thơ:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Câu thơ có cái gì xót xa gợi niềm cảm thương trong lòng người đọc. Miền đất biên
ải xa xôi đã yên nghỉ bao cuộc đời người lính. Nơi đó chút gì hoang vắng g
rợn trước những nấm mồ viễn xứ. Nhưng rồi sau đó cảm hứng thơ lại bừng lên
những suy nghĩ thật hào hùng "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh", thể hiện một
sự quên mình của lớp trẻ thanh niên đầy nghĩa khí. Phương châm sống của họ cao
đẹp giản dị. Thời ấy không ít thơ viết về người chiến nhưng chỉ Tây Tiến
của Quang Dũng mạnh dạn nói đến cái chết. Cái chết tạo nên vinh quang của tuổi
xanh thầm lặng mà cao cả hiến mình cho dân tộc.
Nét đặc sắc của Quang Dũng trong Tây Tiến n thể hiện một ngòi bút sắc sảo
tinh tế. Viết về chiến tranh, nhưng cả bài thơ không một chữ nào về trận đánh,
về tiếng súng, về máu đổ hay về kẻ thù. Người đọc vẫn hình dung rất rõ gương mặt
không khí của chiến tranh. Điều lạ lùng là bài thơ ba lần nói đến cái chết của
người chiến sĩ trong các trường hợp khác nhau, nhưng không một lần nhà thơ nhắc
tới từ "chết" hoặc "hi sinh". Nhà thơ đã thay thế từ "chết" bằng các cụm từ giản dị
"về đất", "bỏ quên đời", "hồn về"... Đến đoạn thơ cuối lí tưởng cách mạng tuổi
trẻ đã truyền cho các chàng trai Tây Tiến chất anh hùng ngang tàng và cả chất men
say lãng mạn đáng yêu. Ngay cả khi họ chết cũng phảng phất vẻ nghệ sĩ - tài tử, cái
đẹp bi tráng chứ không bi lụy.
Để tiễn người lính Tây Tiến hi sinh, Quang Dũng không cần đến một lời ngợi ca
sáo mòn nào, cũng không cần đến một giọt nước mắt... Ông chỉ để cho trời đất
chứng giám, thu nhận thể xác linh hồn người lính vào lòng: "Sông gầm lên
khúc độc hành" tiếc thương đưa người lính Tây Tiến vào cõi bất tử. Bởi vì, k từ
đây khúc độc hành" tiếc thương đưa người lính Tây Tiến vào cõi bất tử. Bởi vì, kể
từ đây hồn các anh đã hòa quyện vào cỏ cây, sông núi để trở thành "hồn thiêng đất
nước".
Nhà phê bình Phong Lan nhận định: "Tây Tiến một tượng đài bất tử vngười lính
danh". Bất tử bởi chính vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, bi tráng này. do vậy,
người lính Tây Tiến qua bài thơ cùng tên của Quang Dũng sẽ sống mãi trong i
vĩnh hằng và trong thế giới nhân sinh.
| 1/34

Preview text:

Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Dàn ý vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến Dàn ý số 1 I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Quang Dũng
- Giới thiệu bài thơ Tây Tiến
- Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận II. Thân bài
- Hoàn cảnh ra đời bài thơ Tây Tiến
- Giới thiệu một số nét về những người lính Tây Tiến: hoàn cảnh xuất thân
1. Trải qua nhiều gian khổ nhưng vẫn lạc quan, kiên cường
- Trên chặng đường hành quân, họ đối mặt với biết bao hiểm nguy ở miền núi Tây
Bắc hoang sơ và dữ dội:
● Địa hình hiểm trở, quanh co, gập ghềnh: địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi
sự hẻo lánh, xa xôi; các từ láy giàu tính tạo hình: “khúc khuỷu”, “thăm
thẳm”, “heo hút”, điệp từ “dốc”
● Nhịp thơ bẻ đôi “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” gợi tả sự nguy hiểm tột cùng.
● Hình ảnh nhân hóa: “cọp trêu người”, “thác gầm thét” gợi sự hoang sơ, man
dại; thời gian: “chiều chiều”, “đêm đêm” những người lính phải thường
xuyên đối mặt với điều hiểm nguy chốn rừng thiêng nước độc.
● Sử dụng phần lớn các thanh trắc nhằm nhấn mạnh sự trắc trở, ghập ghềnh của địa hình.
● Hình ảnh “súng ngửi trời” thể hiện tầm cao của núi non mà người lính phải
vượt qua nhưng cũng có cái hóm hỉnh của người lính trong đó.
- Họ sống và chiến đấu trong điều kiện khắc nghiệt, thiếu thốn, bệnh tật: “đoàn
binh không mọc tóc”, “ xanh màu lá”, nhưng vẫn mạnh mẽ “dữ oai hùm”.
2. Có tâm hồn lãng mạn, hào hoa
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
- Là những con người nặng tình: nỗi nhớ thốt lên thành lời “Tây Tiến ơi” là tiếng
gọi thân thương, “nhớ chơi vơi”, “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói” là nỗi nhớ
thường trực, bao trùm không gian.
- Nhạy cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống: “nhà ai Pha Luông...”, “Mai
Châu mùa em...”, thanh bằng tạo cảm giác nhẹ nhàng, yên bình.
- Say mê trước cái đẹp trong đêm trại đuốc hoa:
● Không khí đêm liên hoan tưng bừng với màu sắc rực rỡ, lộng lẫy: “bừng
lên”, “hội đuốc hoa”, “khèn lên man điệu”; con người duyên dáng: “xiêm áo”, “nàng e ấp”.
● Tâm hồn người lính bay bổng, say mê trong không khí ấm áp tình người:
“Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.
- Khung cảnh sông nước, con người vùng Tây Bắc:
● Đẹp huyền ảo, hoang dại, thiêng liêng: “Chiều sương”, “hồn lau nẻo bến bờ”
● Con người lao động bình dị, mộc mạc: “dáng người trên độc mộc”, cảnh vật
duyên dáng, đầy sức sống: “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
- Họ là những con người có tâm hồn lãng mạn, trái tim yêu thương “Mắt trừng gửi
mộng”/ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, lấy hình bóng người thương nơi quê
nhà làm động lực chiến đấu.
- Niềm thương, nỗi nhớ, tình cảm gắn bó luôn gửi lại nơi núi rừng Tây Bắc “Ai lên
Tây Tiến ... / Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
3. Mang vẻ đẹp bi tráng, hào hùng
- Vẻ đẹp bi tráng thể hiện qua sự hi sinh anh dũng của họ:
● Hình ảnh người lính Tây Tiến “dãi dầu không bước nữa”, “gục lên súng mũ
bỏ quên đời”: có thể hiểu hai câu thơ đơn thuần miêu tả khoảnh khắc nghỉ
ngơi của người lính sau cuộc hành quân dài, cũng có thể hiểu đó là sự nghỉ
ngơi vĩnh viễn trong sự thanh thản.
● Sẵn sàng cống hiến tuổi trẻ của mình cho đất nước “rải rác biên cương mồ
viễn xứ”, “chẳng tiếc đời xanh”, “anh về đất”, luôn ra đi thanh thản, nhẹ nhàng.
● Cái chết đã được lí tưởng hóa như hình ảnh những tráng sĩ xưa: “áo bào”,
“khúc độc hành”; thiên nhiên cũng đau đớn thay cho nỗi đau họ phải chịu.
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
● Đoàn quân Tây Tiến một thời từng quyết tâm ra đi: “người đi không hẹn
ước” “thăm thẳm một chia phôi. (liên hệ so sánh với câu thơ: “Người ra đi
đầu không ngoảnh lại/ sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” trong bài thơ Đất
Nước của Nguyễn Đình Thi)
- Nêu cảm nhận riêng về hình tượng người lính Tây Tiến.
- Khái quát một số giá trị nghệ thuật tiêu biểu: bút pháp lãng mạn kết hợp với hiện
thực, những sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ: nghệ thuật đối, tương phản, ..
sáng tạo trong việc sử dụng hình ảnh thơ.
- Tổng kết giá trị nội dung: bài thơ đã tái hiện vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng
của núi rừng Tây Bắc; hình tượng người lính. III. Kết bài
- Khẳng định lại vẻ đẹp của hình tượng người lính Tây Tiến. Dàn ý số 2 1. Mở bài
Giới thiệu về hình tượng người lính xưa từ đó liên hệ với hình ảnh người lính Tây
Tiến trong bài thơ: "Tây Tiến" của Quang Dũng. Đặc biệt hình tượng người lính ở trong khổ thơ:
" Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc...Sông Mã gầm lên khúc độc hành.” 2. Thân bài:
a. Khái quát đầu: giới thiệu về tác giả, tác phẩm và hình tượng người lính trong thơ ca
● Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính
Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp khác nhau,
trong đó có cả học sinh, sinh viên.
● Đoạn thơ cần phân tích là đoạn thứ ba của bài thơ, trong đó Quang Dũng đã
khắc họa hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng
mạn, thấm đẫm tinh thần bi tráng. ● ....
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
b. Vẻ đẹp ngoại hình: dữ dội, lẫm liệt, oai phong vượt qua mọi khó khăn nơi
chiến trường khắc nghiệt “ đoàn binh không mọc tóc”, khoác trên mình màu áo
xanh người lính băng băng tiến về phía trước
c. Vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn của người lính Tây Tiến
Có tâm hồn lãng mạn, hào hoa
● Là những con người nặng tình: nỗi nhớ thốt lên thành lời “Tây Tiến ơi” là
tiếng gọi thân thương, “nhớ chơi vơi”, “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói” là
nỗi nhớ thường trực, bao trùm không gian.
● Nhạy cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống: “nhà ai Pha Luông ...”,
“Mai Châu mùa em ...”, thanh bằng tạo cảm giác nhẹ nhàng, yên bình.
Say mê trước cái đẹp trong đêm trại đuốc hoa:
● Không khí đêm liên hoan tưng bừng với màu sắc rực rỡ, lộng lẫy: “bừng
lên”, “hội đuốc hoa”, “khèn lên man điệu”; con người duyên dáng: “xiêm áo”, “nàng e ấp”.
● Tâm hồn người lính bay bổng, say mê trong không khí ấm áp tình người:
“Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.
● Họ là những con người có tâm hồn lãng mạn, trái tim yêu thương “Mắt
trừng gửi mộng”/ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, lấy hình bóng người
thương nơi quê nhà làm động lực chiến đấu.
● Niềm thương, nỗi nhớ, tình cảm gắn bó luôn gửi lại nơi núi rừng Tây Bắc
“Ai lên Tây Tiến ... / Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
d. Mang vẻ đẹp bi tráng, hào hùng
Vẻ đẹp bi tráng thể hiện qua sự hi sinh anh dũng của họ:
Hình ảnh người lính Tây Tiến “dãi dầu không bước nữa”, “gục lên súng mũ bỏ
quên đời”: có thể hiểu hai câu thơ đơn thuần miêu tả khoảnh khắc nghỉ ngơi của
người lính sau cuộc hành quân dài, cũng có thể hiểu đó là sự nghỉ ngơi vĩnh viễn trong sự thanh thản.
● Sẵn sàng cống hiến tuổi trẻ của mình cho đất nước “rải rác biên cương mồ
viễn xứ”, “chẳng tiếc đời xanh”, “anh về đất”, luôn ra đi thanh thản, nhẹ nhàng.
● Cái chết đã được lí tưởng hóa như hình ảnh những tráng sĩ xưa: “áo bào”,
“khúc độc hành”; thiên nhiên cũng đau đớn thay cho nỗi đau họ phải chịu.
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
● Đoàn quân Tây Tiến một thời từng quyết tâm ra đi: “người đi không hẹn
ước” “thăm thẳm một chia phôi. (liên hệ so sánh với câu thơ: “Người ra đi
đầu không ngoảnh lại/ sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” trong bài thơ Đất
Nước của Nguyễn Đình Thi) Khái quát cuối:
● Nêu cảm nhận riêng về hình tượng người lính Tây Tiến.
● Khái quát một số giá trị nghệ thuật tiêu biểu: bút pháp lãng mạn kết hợp với
hiện thực, những sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ: nghệ thuật đối,
tương phản, .. sáng tạo trong việc sử dụng hình ảnh thơ.
● Tổng kết giá trị nội dung: bài thơ đã tái hiện vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ
mộng của núi rừng Tây Bắc; hình tượng người lính.
● Liên hệ với hình tượng người lính trong nhiều bài thơ khác: VD: Bài thơ về tiểu đội xe không kính 3. Kết bài
● Khẳng định lại vẻ đẹp của hình tượng người lính Tây Tiến: trải qua nhiều
gian khổ nhưng vẫn lạc quan, kiên cường luôn có tâm hồn lãng mạn, hào
hoa, mang vẻ đẹp hào hùng, bi tráng. Dàn ý số 3 I. Mở bài:
- Cuộc kháng chiến chống Pháp đi qua để lại những dâu ấn không thể phai mờ
trong tâm hồn dân tộc. Đó là điểm hội tụ của một triệu tấm lòng yêu nước, là môi
trường thử thách tinh thần chiến đấu ngoan cường bất khuất của nhân dân ta. Cuộc
kháng chiến còn làm nảy sinh biết bao hình ảnh đẹp mà đẹp nhất là hình ảnh người lính.
- Quang Dũng là nhà thơ của lính, đã sống một đời lính thật oanh liệt hào hùng. Có
lẽ vì vậy mà đời lính đã ăn sâu vào đời thơ.
- "Tây Tiến" là bài thơ của lính viết về lính nên khi đọc lên ta thấy ngay chất bi
tráng của những chàng trai "Thạch Sanh thế kỉ XX".
"Tây tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi
mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay
chiếu, anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. II. Thân bài: 1. Khái quát:
Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947. Thành phần chủ
yếu là các thanh niên trí thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào
bảo vệ biên giới phía tây. Năm 1948, Tây Tiến giải thể để thành lập Trung đoàn
52. Quang Dũng cũng chuyển sang đơn vị khác. Sau khi rời khỏi đơn vị cũ chưa
được bao lâu, Quang Dũng đã sáng tác bài thơ này. Đây là đoạn thơ thứ ba trong bài "Tây Tiến". 2. Khái niệm:
- Bi tráng trong tác phẩm văn học được thể hiện ở việc miêu tả hiện thực, không né
tránh cái bi, tức cái gian khổ, đau thương. Cái bi thường được biểu hiện ở giọng
điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ hào hùng.
- Chiến trường Tây Tiến ác liệt, hoang vu, nhiều thú dữ, bệnh sốt rét rừng gây
nhiều tử vong, nhiều chiến sĩ đã ngã xuống trên đường hành quân... Đó là cái bi, là
cái hiện thực khốc liệt của cuộc chiến. Quang Dũng không lẩn tránh cái bi nhưng
đem đến cho cái bi màu sắc và âm hưởng tráng lệ, hào hùng để thành chất bi tráng.
Cái “tráng" này là của Quang Dũng và của cả một lớp trai trẻ như ông thời ấy,
mang trong lòng một bầu máu nóng "thề quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Cái
"tráng" ấy lại được luồng gió yêu nước của thời anh hùng rực lửa thời bây giờ thổi
vào nên lại càng hào hùng, rực rỡ. Đúng là "bài thơ này đã được khí phách của cả
một thời đại ùa vào, chắp cánh" để cho cái chất bi tráng ấy bay lên như một nét đẹp
hiếm có của một thời thơ.
3. Chất bi tráng ở khổ 3:
- Chất bi tráng làm nên sắc diện của bài thơ, có mặt trong tác phẩm, nhưng nổi rõ
và in đậm nhất ở đoạn thơ thứ 3 khi Quang Dũng miêu tả chân dung người lính.
Giữa nền thiên nhiên khắc nghiệt, hình ảnh người lính hiện lên thật là bi tráng.
Quang Dũng đã dùng những hình ảnh sát hiện thực để tô đậm cái phi thường của người lính:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
- Hai câu thơ đầu gợi lên vẻ đẹp bi tráng. Đầu tiên đó là cái bi thương được gợi lên
từ ngoại hình của người lính: ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da dẻ xanh như tàu lá. Có
thể nhận ra cách diễn đạt tinh tế của Quang Dũng khi nhà thơ miêu tả một đoàn
quân "xanh như tàu lá" chứ không phải xanh xao. Người lính Tây tiến như hòa với
thiên nhiên cây lá, ốm mà không yêu, gầy ốm mà vẫn trẻ trung, tràn đầy sức sống.
Nhắc đến hình ảnh "Đoàn quân không mọc tóc" tác giả đã gợi lên hình ảnh anh "vệ
trọc" một thời. Câu thơ tả cái ngang tàng của người lính, lại như có nét đùa vui
hóm hỉnh, không cần tóc mọc. Dù đói rét, bệnh tật và muôn vàn gian khổ, nhưng
người lính vẫn bừng bừng khí thế, vẫn "dữ oai hùm". Cái bi nghiệt ngã nhưng
không hề lấn át cái hùng. Dù có tiều tụy về hình hài nhưng tinh thần vẫn khỏe
khoắn, dũng mãnh như chúa sơn lâm, vẫn kiên định lí tưởng cách mạng qua hình
ảnh đôi mắt ngời sáng: "Mắt trừng... thơm". Đó là cái mộng chiến đấu và chiến
thắng. Ở đây, ta thấy được cái chí và cái tình của người lính. "Chí" trong ánh mắt
quyết tử, "tình" bâng khuâng trong giấc mơ lãng mạn: "Đêm....thom". Hình ảnh Hà
Nội và dáng kiều thơm hiện về trong đêm mơ là nguồn động viên, cổ vũ đối với
các chiến sĩ. Một tháng kỉ niệm êm đềm trong sáng ấy đã tiếp sức cho họ trong
cuộc chiến đấu gian nan. Có lẽ lí tưởng cách mạng khiến tình yêu thương thêm cao
cả, lớn lao. Đó là hai nét khắc họa chân thực và cảm động về cả một thế hệ người
Việt dằn lòng gạt tình riêng, ra đi vì nghĩa lớn.
- Gọi về trong kí ức, Quang Dũng nhắc đến sự hi sinh của người lính Tây Tiến. Tác
giả nhìn thẳng vào trong cái bi nhưng đem đến cho nó một vẻ đẹp hào hùng, lẫm liệt và sang trọng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay
chiếu, anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
- Dù nói về cái chết, nỗi đau thương mất mát nhưng Quang Dũng lại không dùng
những từ ngữ bi ai. Cách dùng từ Hán Việt "biên cương", "viễn xứ", "áo bào" trang
trọng đã khiến cái bi thương, lạnh lẽo mờ đi, làm cho sự hi sinh của chiến sĩ Tây
Tiến được đặt vào một không khí thiêng liêng trang trọng, tạo tâm thế ngưỡng mộ
đầy tôn kính cho người đọc. Và cảm giác ảm đạm, ngậm ngùi nhanh chóng bị xóa
đi bởi tứ thơ mạnh mẽ, rắn rỏi như một lời tuyên thệ trong câu 2.
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
- Hình tượng thơ đậm chất bi tráng, khẳng định mạnh mẽ khí phách của tuổi trẻ
một thời không chỉ tự nguyện chấp nhận mà còn vượt lên trên cái chết, sẵn sàng
dâng hiến cả sự sống, cả tuổi trẻ cho nghĩa lớn của dân tộc. Họ đã ra đi với tất cả
lòng say mê của người thanh niên yêu nước, sẵn sàng hiến dâng phần đời đẹp nhất
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
cho đất nước. Có người chưa kịp yêu một người con gái, ngã vào lòng đất vẫn còn
là con trai. Tuổi trẻ ai chẳng mang trong mình một khát vọng hạnh phúc tình yêu,
ai chẳng mong cho mình được sống với tuổi thanh xuân hạnh phúc đầy hoa mộng.
Thế nhưng người lính ở đây lại chẳng tiếc cho mình, phải chăng ở họ cái máu anh
hùng của thời đại đã in đậm trong trí não hòa cùng dòng máu Lạc Hồng mây ngàn
năm lịch sử. Hình ảnh người lính bi tráng và hào hùng bởi Quang Dũng đã nói
được một điều cốt lõi trong nhân cách của người lính, đó là biết hi sinh, biết gian
khổ nhưng vẫn cứ ra đi, họ ra đi "chẳng tiếc đời xanh" bởi họ hiến dâng tuổi thanh
xuân cho lý tưởng cao đẹp, chiến đấu vì tổ quốc. Họ ra đi và ngã xuống thanh thản
không một chút vướng bận:
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
- Cách nói "áo bào thay chiêu" là cách nói bi tráng hóa sự hi sinh của người lính.
Hiện thực bi thương khốc liệt đã được thi vị hóa qua hình ảnh "áo bào" thật sang
trọng để các anh "về đây' thanh thản, nhẹ nhàng. Quang Dũng có kể lại "khi tử sĩ
nằm xuống không đủ manh chiếu để liệm, nói áo bào thay chiêu là mượn cách nói
của thơ trước đây để an ủi những người đồng chí vừa ngã xuống." Hơn nữa, "áo
bào" còn gợi ra hình ảnh của các bậc võ tướng xưa hùng dũng hiên ngang thì cái
chết của những người lính cũng xứng tầm oai phong trang trọng như thế. Bi hùng,
bi tráng chứ không bi thương, bi lụy... Tinh thần ấy còn được nâng đỡ ở câu thơ
"Sống... hành". Thiên nhiên gầm lên khúc tráng ca làm rung chuyển cả trời đất đưa
các anh về với cõi vĩnh hằng. Câu thơ vang dội như một khúc nhạc kỳ vĩ. Âm
hưởng bi hùng của khúc chiêu hồn tử sĩ dội lên từ chữ "gầm". Tiếng gầm ấy là
khúc nhạc bi tráng, khúc nhạc tiễn đưa người lính về nơi an nghỉ cuối cùng. Khúc
tráng ca của thiên nhiên trở thành tiếng khóc lớn nâng sự hi sinh của người lính lên tầm sử thi. III. Kết bài:
- Tóm lại, thành công của đoạn thơ là nhà thơ đã sử dụng nhiều từ Hán Việt gợi sắc
thái cổ tích trang nghiêm; sử dụng nghệ thuật đối lập, nhân hóa, nói giảm nói tránh.
Lời thơ hàm súc, vừa đượm chất hiện thực vừa gợi chất hào hùng đã dựng lên bức
tượng đài về người lính Tây Tiến, dấu ấn của một thời đại bi thương nhưng đầy bi
tráng. Vẻ đẹp ấy không chỉ của những người lính Tây Tiến mà còn là gương mặt
tinh thần bất tử của người lính Việt Nam nói chung trong suốt các cuộc trường chinh vệ quốc vĩ đại.
Vẻ đẹp hào hoa bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 1
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Nhắc đến Quang Dũng là nhắc đến một trong những thế hệ nhà thơ được tôi luyện
và trưởng thành trong bom lửa thời kì kháng chiến chống Pháp. Ông là một người
đa tài, có thể vẽ tranh, sáng tác nhạc, nhưng vẫn nổi tiếng và được nhiều người biết
đến với tư cách một nhà thơ. Phong cách thơ Quang Dũng nổi bật lên chất phóng
khoáng, hào hoa đầy lãng mạn. Bài thơ Tây Tiến là một bài thơ đem lại dấu ấn
đậm nét, khắc ghi Quang Dũng vào sâu tâm trí độc giả. Nhớ về đồng đội, những
miền đất và binh đoàn xưa, nơi mà tác giả từng vào sinh ra tử, nhà thơ đã kí thác
tâm sự qua sự khắc họa đậm nét vẻ đẹp hào hoa, hào hùng và bi tráng của hình
tượng người lính Tây Tiến.
Đề tài người lính là một đề tài vốn đã quen thuộc trong thi ca. Bởi người lính chính
là trung tâm, là linh hồn, là sức mạnh mũi nhọn của dân tộc. Cuộc trường chính
của dân tộc băng qua hai kẻ thù khổng lồ là Pháp và Mỹ, những kẻ thù mạnh mẽ
nhất thế giới. Chính vì vậy, hình tượng người lính, những chàng Thạch Sanh của
thế kỷ XX càng in đậm trong các sáng tác thơ văn. Ta bắt gặp một người lính chân
chất thôn quê, mộc mạc, hiền lành nhưng lòng căm thù ngút ngàn trong Đồng chí
của Chính Hữu; người chiến sĩ nặng ân tình, dù trở về với nắng vàng Ba Đình hoa
lệ nhưng vẫn thầm nhắc nhở mình, tự dặn mình phải luôn nhớ nghĩa tình của một
Việt Bắc đã hi sinh quá nhiều suốt 15 năm gắn bó trong Việt Bắc của Tố Hữu…
Vẻ đẹp vừa bi thương vừa hào hùng của đoàn quân Tây Tiến trên đường hành quân:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa ngoại hình ốm yếu và tâm hồn bên trong đã làm
nên khí chất mạnh mẽ của người lính. “Đoàn binh không mọc tóc” với “quân xanh
màu lá” không giống kiểu ví von “văn chương” thường thấy. Ở đây, “không mọc
tóc” là cách nói ngang tàng rất lính, hóm hỉnh vui đùa với khó khăn gian khổ của
mình. Câu thơ không gợi ý nghĩ bi đát mặc dù ai cũng hiểu sự không mọc tóc và
làn da xanh màu lá ở đây chính là hậu quả của bệnh sốt rét. Thế nhưng ta lại cảm
tưởng trong giọng thơ là lời đây tự hảo, về bức chân dung lạ đến khác biệt, hoá
thành đặc trưng mà chỉ lính Tây Tiến mới có.
Cái bi thương của người lính được gợi lên từ ngoại hình ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc,
da dẻ xanh như màu lá. Thực tế gian khổ thiếu thốn đã làm cho người lính đa dẻ
xanh xao, Sốt rét làm họ trụi cả tóc. Quang Dũng không hề che giấu. Song, cái
nhìn lãng mạn của ông đã thấy họ ốm mà không yếu, đã nhìn thấy bên trong cái
hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường. Đặc biệt hơn, với
câu thơ: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” không những gợi cho ta những
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
gương mặt rắn rỏi, gân guốc, những dáng hình làm chúa sơn lâm cũng phải run
hơi, mà hai chữ đoàn binh, như kết đọng lại trong một khối vững chắc, lại sử dụng
từ Hán Việt, vì lẽ đó, đọc câu thơ, mà ngỡ binh đoàn dũng sĩ xưa, với sức mạnh
của ngàn năm lịch sử, đang hùng dũng ùa vào trong tâm trí độc giả. Mạnh mẽ, oai phong biết bao.
Nhưng dáng hình chưa đủ, phải khắc hoạ thêm ánh “mắt trừng”, để tô đậm thêm
khí chất dũng tướng, mãnh liệt: Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”. “Mắt trừng”
đó là đôi mắt đang quắc sáng, phóng tia nhìn giận dữ về phía địch thủ. Ánh mắt ấy
hướng về biên giới, nơi kẻ thù, nơi tử địa, cũng là lãnh thổ quốc gia, vừa chứa
trong đó lòng căm thù sâu sắc, chứa trong đó dạ sắt gan vàng bảo vệ biên cương,
lại ánh lên cả khao khát lập chiến công hiển hách. Ta chợt nhớ lại hình ảnh đội
quân từ hổ trong thơ Phạm Ngũ Lão: “Tam quân ti hổ khí thôn ngưu”, hay như
trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi: “Sĩ tốt kén tay từ hồ, bề tôi chọn kẻ vuốt
nanh”. Những người lính, những anh bộ đội cụ Hồ của thế kỷ XX vẫn mang trong
mình dáng dấp, hào khí, sức mạnh của thời Sát Thát chảy trong huyết quản.
Đến câu tiếp, chất hào hoa của lính Tây Tiến bật lên rõ rệt: “Đêm mơ Hà Nội dáng
kiều thơm”. “Dáng Kiều thơm” ấy chính là vầng sáng lung linh trong kí ức, làm
hiện rõ nét đa tình và đời sống tình cảm dạt dào của người lính, vôn thường bị che
phủ. Mơ dáng kiều, ta nhận ra những người lính ấy tâm hồn còn rất trẻ, còn chứa
trái tim yêu đương mãnh liệt. dáng kiều để chỉ người con gái xinh đẹp, đó có thể là
người thường, người yêu của những chàng lính trẻ, nhớ về họ, đó là điểm tựa tinh
thần vững vàng để người lính chắc tay súng. Hoá ra, sau vẻ thô ráp bề ngoài, bên
trong người lính Tây Tiến lại ấm nóng một trái tim đa tình, hào hoa. Lính Tây Tiến
vốn là những chàng trai còn là học sinh, sinh viên, “xếp bút nghiên theo việc đao
cung”, cho nên, những tâm hồn ấy vẫn đầy lãng mạn và bay bổng.
Vẻ đẹp hào hoa, hào hùng người lính còn được thể hiện qua lý tưởng hết sức thiêng liêng, cao đẹp:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Chiến trường là nơi chết chóc, là khu tử địa, đi dễ khó về. Đời xanh là chỉ cuộc đời
đang độ đẹp tươi nhất, căng tràn nhất. Những người lính đường cái độ tươi đẹp
nhất của cuộc đời đó, vậy mà sẵn sàng lao vào chốn tử địa, mà chẳng tiếc. Bởi họ
đi vì lý tưởng thật cao đẹp: chiến đấu cho quê hương, chết cho quê hương, quyết tử cho tổ quốc quyết sinh.
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Chiến tranh, có bao giờ thiếu đi sự mất mát. Quang Dũng, có lẽ là nhà thơ dám
bước vào thế giới tang thương đó để làm bật lên chất hào hùng:
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn
chìm người đọc vào cải bị thương, bị lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái
bị thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn.
Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới
xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến.
Cái sự thật bi thảm những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả
mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của nhà thơ, lại được bọc trong những tấm áo
bào sang trọng. Và rồi, cái bị thương ấy bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã.
Cái chết, sự hi sinh của những người lính Tây Tiến được nhà thơ miêu tả thật trang
trọng. Cái chết ấy đã tạo được sự cảm thương sâu sắc ở thiên nhiên. Và dòng sông
Mã đã trân trọng đưa tiễn linh hồn người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm
hùng. Họ ra đi, nhưng tráng chí thì còn sống mãi, đó là tinh thần của những bậc
trượng phu, ra đi vì nghĩa lớn, như vị đại tướng quân Trần Quốc Tuấn từng viết:
“Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gọi trong da ngựa, ta cũng vui lòng”.
Tây Tiến là bức tượng đài bổ sung thêm cho hình tượng người lính, xuyên suốt
chiều dài lịch sử của một đất nước nhiều những đau thương và mất mát. Nếu điểm
lại, ta sẽ thấy những người con của đất Việt anh hùng: người lính mang hào khí
Đông A và cải trang chí nam nhi mạnh mẽ với khao khát lập công danh trong Tỏ
lòng của Phạm Ngũ Lão. Người lính nông dân chân chất nhưng đầy hào hùng, bất
khuất, dùng những vũ khí thô sơ mà đối chọi lại với tàu đồng súng nổ trong Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu. Hình tượng tập thể đoàn quân ra trận
mạnh mẽ, khi thê rợp trời, dòng người như thác lũ khiến đất rung trời chuyển trong
Việt Bắc của Tố Hữu…
Có thể nói hình tượng người lính đều hiện lên trong sức mạnh, đó là sức mạnh của
ý chi phí thường, sức mạnh của niềm tin tưởng. Những người chiến sĩ đều bật lên
vẻ đẹp của lý tưởng, và sự ý thức và trách nhiệm. Họ là những con người gánh vác
đại nghiệp, là người tiên phong, là sức mạnh mũi nhọn chiến đấu chống lại kẻ thù
xâm lược, Nếu trong các sáng tác về người lính, chủ yếu nhấn mạnh đến sự mạnh
mẽ, tầm vóc, sự anh hùng, bất khuất, thì Quang Dũng tạo một nét vẽ trần trụi hơn
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
khi miêu tả về lính Tây Tiến. Đó là những người lính da dẻ xanh xao, sốt rét, trụi
cả tóc. Nhưng qua ngòi bút lãng mạn của ông đã biên họ thành những bức chân
dung lẫm liệt, oai hùng. Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn
thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của những người lính Tây Tiến là
những tâm hồn còn rất trẻ, những trái tim rạo rực, khao khát yêu đương (Đêm mơ
Hà Nội dáng kiều thơm). Một thế giới tâm hồn đầy mộng mơ là nét đặc trưng, biến
thành huy hiệu riêng của lính Tây Tiến.
Nét cuối cùng khiến lính Tây Tiến trở nên đặc biệt, đó là khi Quang Dũng cho họ
hiện lên qua sự hi sinh mất mát. Thậm chí, ta còn thấy cái tàn khốc của chiến tranh
qua những vần thơ. Đây là điều các tác giả cố tránh đi khi nói về người lính và chiến tranh.
Từ nỗi nhớ về một đoàn binh, về những con người cụ thể đã hóa thân thành nỗi
nhớ về một mảnh đất, một quê hương, Tây Tiến đã trở thành nỗi nhớ, niềm yêu tha
thiết của Quang Dũng. Chạm khắc vào trái tim độc giả những vẻ đẹp riêng lạ, Tây
Tiến hoá bất tử trong lòng bao thế hệ, bởi chính những vẻ đẹp hào hoa, hào hùng bi tráng của thời đại.
Vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến - Mẫu 2
Nổi bật trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng là vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của
người lính. Khắc họa chân dung chiến sĩ Tây Tiến với vẻ đẹp hào hoa, hào hùng,
đậm chất bi tráng, Quang Dũng khẳng định, ngợi ca tinh thần yêu nước, chủ nghĩa
anh hùng của chiến sĩ Tây Tiến, chiến sĩ Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.
Bài thơ Tây Tiến ra đời vào thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp khi mà
những chàng trai “mang chí nam nhi thời loạn,” “xếp bút nghiên ra xa trường”. Họ
coi gian nan là “nợ anh hùng phải vay” nên sẵn sàng dấn thân đương đầu với mọi
gian nan thử thách trong hàng binh trận mạc. Họ ra đi bỏ lại sau lưng mình “gian
nhà không mặc kệ gió lung lay”, bỏ lại sau lưng “luống cày đất đỏ, tiếng mõ đêm
trường”, họ ra đi “lột sắt đường tàu rèn thêm dao kiếm/ Áo vải chân không đi lùng
giặc đánh”. Họ là nam nhi thời loạn với vẻ đẹp của người thanh niên Việt Nam
“trượng phu có chí anh hùng”. Nhưng họ cũng là những con người mà khi “Súng
gươm vứt bỏ lại hiền như xưa” nên bản thân họ chứa đựng hai vẻ đẹp hào hùng và hào hoa.
Hào hùng là vẻ đẹp mang phẩm chất, cốt cách mạnh mẽ thuộc về ý chí. Hào hoa là
thuộc về tình cảm lãng mạn. Hai nét hào hùng và hào hoa dường như đối lập nhau,
hào hùng là ý chí là sức mạnh là hào khí của một lớp thanh niên mang tinh thần
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
thời đại “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Hào hoa lại là một tâm hồn mềm mại
lãng mạn “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, “Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ”.
Viết về người lính trong chiến tranh văn học nói chung, thơ ca nói riêng chủ yếu
chỉ đề cập đến vẻ đẹp dũng cảm anh hùng mà ít khi bộc lộ vẻ đẹp lãng mạn tình tứ
trong tâm hồn người lính, thực ra đây chính là một điểm thành công của Tây Tiến,
chính nhờ có điểm thành công này mà vẻ đẹp của người lính mang sắc thái vừa
riêng biệt vừa cùng với vẻ đẹp của người lính trong các bài thơ khác. Đồng chí của
Chính Hữu, Cá nước của Tố Hữu… đã hoàn chỉnh về vẻ đẹp của anh bộ đội cụ Hồ
trong kháng chiến chống Pháp.
Vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của người lính Tây Tiến hiện lên qua cuộc sống chiến
đấu vô cùng gian khổ. Một cuộc vạn lý trường chinh Tây Tiến đầy gian nan thử
thách. Núi cao, dốc đứng, thác ghềnh, vực sâu… Có lúc như chìm vào thung lũng
sương mù hay đỉnh núi cao chọc trời Tây Bắc “Sài Khao sương lấp đoàn quân
mỏi”. Có lúc đoàn quân rơi vào trận địa của núi non trùng điệp:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Thiên nhiên cứ cố tình giăng ra biết bao thử thách bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng bẻ
gãy ý chí của con người. Người lính Tây Tiến cứ thầm lặng dấn thân, cứ dần vượt
qua hiểm trở của lộ trình oai linh của rừng thiêng núi độc. Sự rình mò của thú dữ,
sự dãi dầu của thân xác. Rồi cái chết hiện ra, người lính Tây Tiến phải đối mặt với tất cả:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.
Hào hùng nhất mà cũng lãng mạn nhất có lẽ là lúc Quang Dũng khắc họa chân dung người lính:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Chân dung ấy được khắc họa bởi hai nét vẽ chủ đạo: Bi và Tráng. Bi là bi thương.
Tráng là hào hùng. “Bi tráng” vừa đối lập mà cũng vừa thống nhất hài hòa, nghĩa
là vừa đau thương vừa hào hùng hay càng đau thương càng hào hùng. Bi thương ấy
hiện lên qua ngoại hình người lính ốm đau, tiều tụy, đầu trọc “không mọc tóc”, da
dẻ xanh xao, héo úa “quân xanh màu lá”. Ma thiêng nước độc của Tây Bắc thật
khủng khiếp. Lam sơn chướng khí núi rừng và hậu quả của sốt rét rừng ác tính, của
đói rét, gian khổ đã bào mòn đi sức trẻ của những người lính. Sốt rét là một thực tế
khắc nghiệt. Thơ ca kháng chiến chống Pháp không ít những lần nhắc đến như thế:
“Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. (Chính Hữu)
Sốt rét đến “Má anh vàng nghệ” (Tố Hữu), đến “Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật/
Đâu còn tươi nữa những ngày xanh” (Thôi Hữu)… Còn lính Tây Tiến sốt rét đến
rụng hết tóc trông đến kỳ dị.
Đối lập với “bi” là “Tráng”. Nghệ thuật tương phản giữa cái bên trong trong (tinh
thần) và cái bên ngoài (ngoại hình) đã tạo nên vẻ đẹp của Tây Tiến. Đoàn quân ốm
mà không yếu, bi mà vẫn hùng vì: Hình ảnh “không mọc tóc” gợi cái ngang tàng,
ngạo nghễ, coi thường gian khổ của chất lính trẻ luôn hóm hỉnh đùa vui. Từ “đoàn
binh” mang nghĩa rộng hơn “đoàn quân” để chỉ sự đông đảo, hùng mạnh. Ba từ
“dữ oai hùm” là phi thường hóa người lính. Đó là những con người đang làm chủ
tình thế, áp đảo kẻ thù. Vì thế cái hùng lấn át cái bi, sức mạnh chiến đấu lấn át
hoàn cảnh tạo nên một tập thể có sức mạnh “thôn Ngưu đẩu”.
Hai câu thơ tiếp, người lính hiện lên bởi vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa trong mộng trong mơ:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Vẻ đẹp Lãng mạn là vẻ đẹp tâm hồn vượt qua hiện thực gian khổ hướng tới niềm
lạc quan. Ở đây, trong gian khổ thiếu thốn nhưng người lính vẫn mộng mơ.
“Mắt trừng” là đôi mắt vừa có chí vừa có tình: “Chí” trong ý chí đánh giặc. Đôi
mắt ấy đang gửi về bên kia biên giới giấc mộng đánh giặc, mộng lập công, mộng
hòa bình, mộng trở về. “Tình” trong tình yêu quê hương, con người. Đôi mắt ấy
gửi vào giấc mơ về Hà Nội: “Đêm mơ Hà Nội”. Hà Nội là quê hương của người
lính cũng là thủ đô yêu dấu. Hà Nội của cả nước, của biết bao vần thơ trong nỗi
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
nhớ. Một Nguyễn Đình Thi xao xuyến với mùi hương cốm mới, một làn hơi may
rất mỏng, lá vàng rơi…
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
Huỳnh Văn Nghệ “Nhớ Bắc” với “Từ thuở mang gươm đi mở cõi/Trời Nam
thương nhớ đất Thăng Long”. Người lính Tây Tiến ra đi thì mãi nhớ về một Hà
Nội với “dáng kiều thơm”. Kiều thơm là chỉ bóng dáng những người bạn gái đẹp,
thanh lịch, dịu dàng. Còn là hình bóng trong mộng của Quang Dũng (Theo lời kể
của nhà thơ Vân Long thì người người yêu Quang Dũng dạo ấy có tên chữ lót là Kiều).
Từng một thời bài thơ Tây Tiến bị xem là “có vấn đề” cũng vì chất mộng mơ trong
hai câu thơ này. Nhưng thời gian đã chứng minh cho sự bất tử của nó, chất lãng
mạn chính là liều thuốc tinh thần cho người lính vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt
thời bấy giờ. Đó là lãng mạn cách mạng chứ không phải là cái lãng mạn kiểu
“mộng hão”, “mộng rớt” của giai cấp tiểu tư sản như Hoài Thanh và một số nhà phê bình từng nhận xét.
Giữa những ngày gian khổ các chiến sĩ Tây Tiến vẫn vui vẫn sống vẫn giữ nguyên
cốt cách hào hùng, hào hoa của mình, họ tổ chức những đêm lửa trại tưng bừng náo nhiệt:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ”.
Cái dữ dội khốc liệt của chiến tranh biến mất chỉ còn lại không gian tràn ngập ánh
sáng chập chờn hội đuốc hoa và tâm hồn người lính như bốc men say trong hội vui
thắm thiết của tình quân dân. Câu thơ “Kìa em xiêm áo tự bao giờ” bộc lộ tất cả cái
ngỡ ngàng vui sướng cái đắm say của tâm hồn lại có cái hóm hỉnh, tinh nghịch của
lính. Có thể hình dung những tâm hồn hào hoa ấy đang đắm chìm trong vẻ đẹp của
những bóng hồng Tây Bắc. Người lính như được chắp cánh bởi vẻ đẹp con người
và cảnh vật vùng Tây Bắc, như đang bay lên trong tiếng nhạc điệu khèn.
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Phải có một cái gì đó thật lãng mạn đắm say trong tâm hồn Quang Dũng nên ông
mới viết được những câu thơ hay đến thế. Những chữ “xiêm áo”, “man điệu”,
“khèn lên,” “nhạc về” gợi lên vẻ đẹp hư ảo, một vẻ đẹp vừa gần vừa xa của một
khung cảnh nơi xứ lạ phương xa, làm lòng người như đắm say, xốn xang hơn.
Đi suốt bài thơ ta gặp cái chất bốc tếu, cái ngang tàng kiêu bạc của người lính Tây
Tiến rất rõ. Vừa treo mình cùng hơi thở nặng nhọc trên các dốc núi cheo leo ta gặp
ngay cụm từ “súng ngửi trời” rất dí dỏm, rất lính. Thiên nhiên miền Tây dữ dội với
núi cao, vực thẳm, thác gầm lùi lại phía sau người lính. Vẻ đẹp tâm hồn lạc quan
của người lính được nhân lên sánh ngang thiên nhiên hùng vĩ. Đi suốt toàn bài thơ
cái chất hào hùng của người lính hiện lên qua hiện thực gian khổ thiếu thốn tột
cùng “sương lấp,” “đoàn quân mỏi,” “dãi dầu”, “không bước nữa,” “bỏ quên đời”
với ý chí dấn thân thái độ kiên định sắt đá “chẳng tiếc đời xanh,” “không hẹn ước,” “chẳng về xuôi.”
Đến cái chết cũng thật hào hoa, hào hùng. Nói đến người lính, nói đến chiến tranh
không thể tránh khỏi cái chết. Cái chết vẫn là một mối đe dọa, một sự thật đáng
ngại và rất bi thảm, nhưng qua ngòi bút Quang Dũng ta lại thấy được ý chí dấn
thân của người lính Tây Tiến, có thể nói ngay cái chết cũng rất đỗi hào hùng người
lính Tây Tiến dù có chết cũng “không rời vũ khí, không xa đội ngũ”.
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Rồi những cái chết nơi rừng hoang biên giới “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”.
Nhưng câu thơ thứ hai lại vang lên như một lời thề “Chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh”, đúng là giọng điệu của bậc trượng phu “Coi cái chết nhẹ như lông hồng”
sáng ngời chí trai cường: “Chí làm trai dặm nghìn da ngựa/Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao”.
Còn với người lính Tây Tiến:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Lời thơ đã đầy vẻ kiêu dũng lên cực điểm, hai chữ “áo bào” lấy từ văn học cổ để
tái tạo ở đây vẻ đẹp tráng sĩ làm mờ đi thực trạng thiếu thốn , gợi được hào khí của
chí trai thời loạn. Chữ “về” nói thái độ ngạo nghễ của người tráng sĩ đi vào cái
chết. Phong Lan trong “Bài thơ Tây Tiến – tượng đài bất tử về người lính vô danh”
đã nói về vẻ đẹp của người lính Tây Tiến qua cái chết như sau: “Lý tưởng cách
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
mạng đã truyền cho các chàng trai Tây Tiến chất anh hùng ngang tàng và chất men
say lãng mạn ngay cả khi họ chết cũng như phảng phất nét nghệ sĩ tài tử”.
Ngày nay đọc lại “Tây Tiến” của Quang Dũng, bỗng thấy nhớ đến nao lòng một
thời kỳ lịch sử bi tráng của dân tộc, một thời đại “Một đi không trở lại”. Các anh đã
ngã xuống cho “lá cờ cách mạng thêm đỏ thắm”, cho tượng đài tự do được tôn cao.
Lịch sử sẽ mãi nhớ tên các anh những người anh hùng bất tử.
Khắc họa vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của người lính, bài thơ “Tây Tiến” của Quang
Dũng ngợi ca một thế hệ thanh niên với lý tưởng “Chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh” – họ là những con người đã nguyện dâng hiến máu xương mình cho tổ quốc.
Thời gian đã đi qua, gió bụi thời gian có thể phù mờ bao huyền thoại nhưng tượng
đài về người chiến binh Tây Tiến năm xưa thì mãi mãi bất tử cùng thời gian. Càng
trân trọng và yêu quý thế hệ cha anh ngày ấy đã ngã xuống vì hòa bình, thế hệ
thanh niên chúng ta ngày nay phải quyết tâm sống sao cho thật xứng đáng. Xem thêm: P
hân tích bài thơ Tây Tiến
Vẻ đẹp hào hùng của người lính Tây Tiến - Mẫu 3
Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba
của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng
hoàn thiện bức tượng đài về chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa.
Chân dung người lính hiện lên ở khổ thơ thứ 3 có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ
đẹp tâm hồn, lý tưởng chiến đấu và phẩm chất hy sinh anh dũng. Có thể nói cả bài
thơ là một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác thường.
Chân dung đoàn binh Tây Tiến được chạm khắc bằng nét bút vừa hiện thực vừa
lãng mạn. Các chi tiết như lấy từ đời sống hiện thực và khúc xạ qua tâm hồn thơ
Quang Dũng để rồi sau đó hiện lên trên trang thơ đầy sức hấp dẫn. Dọc theo hành
trình, vẻ đẹp hào hùng kiêu dũng cứ lấp lánh dần lên, đến khi người lính Tây Tiến
đối mặt với dịch bệnh, đối mặt với cái chết thì nó thật chói người, nét nào cũng sắc
sảo lạ lùng và đầy lãng mạn:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Chữ dùng của Quang Dũng ở đây thật lạ. Nếu mở đầu đoạn thơ tác giả dùng từ
“Đoàn quân” thì ở đây tác giả dùng “Đoàn binh”. Cũng đoàn quân ấy thôi nhưng
khi dùng “Đoàn binh” thì gợi hình ảnh đoàn chiến binh có vũ khí, có khí thế xung
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
trận át đi vẻ ốm yếu của bệnh tật. Ba chữ “không mọc tóc” là đảo thế bị động thành
chủ động. Không còn đoàn quân bị sốt rét rừng lâm tiều tuỵ đi rụng hết cả tóc.
Giọng điệu của câu thơ cứ y như là họ cố tình không mọc tóc vậy. Nghe ngang
tàng kiêu bạc và thấy rõ sự bốc tếu rất lính tráng.
Các chi tiết “không mọc tóc, quân xanh màu lá” diễn tả cái gian khổ khác thường
của cuộc đời người lính trên một địa bàn hoạt động đặc biệt. Di chứng của những
trận sốt rét rừng triền miên là “tóc không mọc” da xanh tái. Nhưng đối lập với
ngoại hình tiều tụy ấy là sức mạnh phi thường từ bên trong phát ra từ tư thế “dữ oai
hùm”. Với nghệ thuật tương phản chỉ 2 dòng thơ Quang Dũng làm nổi bật vẻ khác
thường của đoàn quân Tây Tiến. Họ hiện lên như hình ảnh tráng sĩ trượng phu một thuở qua hai câu tiếp:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
“Mắt trừng” biểu thị sự dồn nén căm uất đến cao độ như có khả năng thiêu đốt
quân thù qua ánh sáng của đôi mắt. Hình ảnh thơ làm nổi bật ý chí của đoàn binh
Tây Tiến. ở đây người lính Tây Tiến được đề cập đến với tất cả thực trạng mệt
mỏi, vất vả qua các từ “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”. Chính từ thực trạng
này mà chân dung người lính sinh động chân thực. Thế nhưng vượt lên trên khó
khăn thiếu thốn, tâm hồn người lính vẫn cất cánh “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều
thơm”. Câu thơ ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Ban ngày “Mắt
trừng gửi mộng” giấc mộng chinh phục hướng về phía trận mạc như¬ng khi bom
đạn yên rồi giấc mộng ấy lại hướng về phía sau cũng là hướng về phía trước, phía
tương lai hẹn ước. Một ngày về trong chiến thắng để nối lại giấc mơ xưa. ý chí thì
mãnh liệt, tình cảm thì say đắm. Hai nét đẹp hài hòa trong tính cách của những chàng trai Tây Tiến.
Quang Dũng đã dùng hình ảnh đối lập: một bên là nấm mồ, một bên là ý chí của những người chiến binh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
“Mồ viễn xứ” là những nấm mồ ở những nơi xa vắng hoang lạnh. Những nấm mồ
rải rác trên đường hành quân, nhưng không thể cản được ý chí quyết ra đi của
người lính. Câu thơ sau chính là câu trả lời dứt khoát của những con người đứng cao hơn cái chết:
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Chính tình yêu quê hương đất nước sâu nặng đã giúp người lính coi cái chết nhẹ
tựa lông hồng. Khi cần họ sẵn sàng hy sinh cho nghĩa lớn một cách thanh thản bình
yên như giấc ngủ quên. Câu thơ vang lên như một lời thề đúng là cái chết của bậc trượng phu:
“Áo bào thay chiếu anh về đất”
Nếu như người tráng sĩ phong kiến thuở trước coi da ngựa bọc thây là lí tưởng thì
anh bộ đội cụ Hồ ngày nay chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc một cách tự nhiên thầm
lặng. Hình ảnh “áo bào” làm tăng không khí cổ kính trang trọng cho cái chết của
người lính. Hai chữ “áo bào” lấy từ văn học cổ tái tạo vẻ đẹp của một tráng sĩ và
nó làm mờ đi thực tại thiếu thốn gian khổ ở chiến trường. Nó cũng gợi được hào
khí của chí trai “thời loạn sẵn sàng chết giữa sa trường lấy da ngựa bọc thây. Chữ
“về” nói được thái độ nhẹ nhõm, ngạo nghễ của người tráng sĩ đi vào cái chết “Anh
về đất” là hình ảnh đầy sức mạnh ngợi ca. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thiêng
liêng, người lính Tây Tiến trở về trong niềm chở che của đất mẹ quê hương, của
đồng đội. Trở về với nơi đã sinh dưỡng ra mình. Trước những cái chết cao cả ở địa
bàn xa xôi hẻo lánh sông Mã là nhân vật chứng kiến và tiễn đưa.
Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh sông Mã, con sông ấy gắn liền với lịch sử
đoàn quân Tây Tiến. Sông Mã chứng kiến mọi gian khổ, mọi chiến công và giờ
đây lại chứng kiến sự hy sinh của người lính. Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi tráng của sông Mã.
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Dòng sông Mã là chứng nhân của một thời kỳ hào hùng, chứng kiến cái chết của
người tráng sĩ, nó gầm lên khúc độc hành bi phẫn, làm rung động cả một chốn
hoang sơ. Câu thơ có cái không khí chiến trận của bản anh hùng ca thời cổ. Câu
thơ đề cập đến mất mát đau thương mà vẫn hùng tráng. Bốn câu kết:
Bốn câu thơ kết thúc được viết như những dòng chữ ghi vào mộ chí. Những dòng
sông ấy cũng chính là lời thề của các chiến sĩ vệ quốc quân.
“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy”
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
“Mùa xuân” có thể được dùng nhiều nghĩa: thời điểm thành lập đoàn quân Tây
Tiến (mùa xuân 1947), mùa xuân của đất nước, mùa xuân (tuổi thanh xuân) của đời các chiến sĩ.
Hình ảnh “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”, “chẳng về xuôi” bỏ mình trên đường
hành quân “Hồn về Sầm Nứa”: chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp
đồng tác chiến với quân tình nguyện Lào chống thực dân Pháp, thực hiện lý tưởng
đến cùng. Bởi vậy dù đã ngã xuống trên đường hành quân hồn (tinh thần của các
anh) vẫn đi cùng với đồng đội, vẫn sống trong lòng đồng đội: Vang vọng âm
hưởng văn tế của Nguyễn Đình Chiểu: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”.
Vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến - Mẫu 4
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của
những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc
tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng
của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử.
Ở trong thơ Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về
người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm
lược nước ta. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng
ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian:
“Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
“Tây Tiến” của Quang Dũng là dòng hồi ức vô cùng thương nhớ về những đồng
đội của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng có người
đã hy sinh, những người đã trở về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng
là những người mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay miền viễn xứ. Chính vì thế
Quang Dũng không chỉ dựng lại cả một hình ảnh của đoàn binh Tây Tiến trên
những chặng đường hành quân gian khổ hy sinh mà “đời vẫn cứ tươi” như ở 14
dòng thơ đầu tiên. Và Quang Dũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
người lính với một đời sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao là
tình quân dân. Quang Dũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người
lính Tây Tiến trong tác phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ
giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý
nghĩa để tạo ấn tượng mạnh để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc
hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dân tộc. Đó là bức tượng đài
sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ
“Tây Tiến đoàn quân ….. khúc độc hành”
Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc hoạ lên từ những đường
nét nhằm tô đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như ở những đoạn thơ trước đó
người lính mới chỉ hiện ra trong đoàn quân mỏi trong câu:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”
hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình
cá nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng. Cảm
hứng chân thực của Quang Dũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sống gian khổ
mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc
được (chứ không phải họ cố tình cạo trọc để đánh giáp lá cà cho dễ như nhiều
người từng nói). Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ
xanh màu lá nguỵ trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tụy. Nhưng thế giới tinh thần
của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn
chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo, hùm beo.
Cái giỏi của Quang Dũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tụy
nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ “Tây Tiến
đoàn binh không mọc tóc” với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ
như “tiến”, “mọc tóc”. Nhờ những thanh trắc ấy mà âm hưởng của câu thơ vút lên.
Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. 2 chữ “đoàn binh” âm Hán Việt đã
gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Và đặc biệt hai chữ “Tây
Tiến” mở đầu câu thơ không chỉ còn là tên gọi của đoàn binh nữa, nó gợi ra hình
ảnh một đoàn binh dù đầu không mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về phía Tây.
Thủ pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng ở câu thơ “Quân xanh màu lá dữ
oai hùm” không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn
thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. ở đây, nhà thơ không chỉ muốn nói rằng
những người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm, không phải muốn “động vật hoá”
người lính Tây Tiến mà muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng một
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi người anh
hùng vệ quốc trong câu thơ
“Hoành sóc giang san cáp kỷ thu
Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu”
Và ngay cả Hồ Chí Minh trong “Đăng sơn” cũng viết:
“Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu
Thể diện sài long xâm lược quân”
Có thể nói Quang Dũng đã sử dụng một mô típ mang đậm màu sắc phương Đông
để câu thơ mang âm vang của lịch sử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền
với sức mạnh truyền thống của dân tộc. Đọc câu thơ: “Quân xanh màu lá dữ oai
hùm” ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông á.
Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi Quang Dũng bổ
sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tổ quốc, hướng về Thủ đô.
Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng
về Hà Nội. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:
“Từ thuở mang gươm đi mở nước
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”
Người lính Tây Tiến dẫu “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” mà niềm thương nỗi
nhớ vẫn hướng về một “dáng kiều thơm”. Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta
phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức
mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của
con người Việt Nam. Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc –
những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người
có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng
cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian
khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều
thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội – Thăng Long xưa.
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng
tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật
và tạo được những ấn tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ Quang Dũng.
Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn
binh với những bước chân Tây Tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm
hồn hết sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc
bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ
phân tích từng hình ảnh riêng rẽ độc lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi luỵ về
cái chết của người lính mà thơ ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca
kháng chiến phần lớn chỉ quan tâm đến cái hùng mà không quan tâm đến cái bi.
Nhưng nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu
Quang Dũng đã mô tả một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm
hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.
Có thể thấy câu thơ: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” nếu tách riêng ra rất dễ gây
cảm giác nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây
Tiến ở nơi “viễn xứ”. Từng chữ từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt
nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm mồ, lại
là những nấm mồ “rải rác” dễ gợi sự hoang lạnh, lại là “rải rác” nơi “viễn xứ”,
những nấm mồ ấy càng gợi sự cô đơn côi cút. Quang Dũng muốn nói tới nơi yên
nghỉ của những người đồng đội. Trong Chinh phụ ngâm:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
“Hồn tử sĩ gió về ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn”
Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên
cương đã trở về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi
đó chính là nấm mồ của những người con anh dũng
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Đồng thời cũng chính câu thơ thứ 2 đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được
nâng lên những tầng cao của đài tưởng niệm, của Tổ quốc đối với người lính đã vì
tiếng gọi của chiến trường mà hiến dâng tuổi xanh của mình. Trong thơ Quang
Dũng luôn là một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như vậy.
Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ
“áo bào thay chiếu anh về đất”
Bao nhiêu thương yêu của Quang Dũng trong một câu thơ như vậy về một đồng
đội của mình. Ai bảo Quang Dũng không xót thương những người đồng đội của
mình ra đi trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái
thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận. Lại
trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn nên tiễn đưa người chết không có cả một
chiếc quan tài. Hoàng Lộc trong “Viếng bạn” cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế.
"Ở đây không manh ván
Chôn anh bằng tấm chăn
Của đồng bào Cứa Ngàn
Tặng tôi ngày sơ tán”
Chỉ có điều câu thơ của Quang Dũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên
thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm,
cổ kính. Cũng có người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ có chính tấm áo
của người lính. Dù hiểu theo cách nào thì cũng phải thấy Quang Dũng đã tráng lệ
hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo bào và sự hy sinh của người
lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông. Cụm từ “anh về đất” nói
về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng
hình ảnh tráng lệ. Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca “Sông
Mã gầm lên khúc độc hành”.
Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn,
Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng
vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong
thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ
chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của
cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của
Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ
bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về
những người con anh hùng ấy.
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến - Mẫu 5
Tây Tiến là một bài thơ tiêu biểu của Quang Dũng, là thành tựu của thơ ca kháng
chiến chống Pháp, là một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính. Trần Lê
Văn đã từng có những nhân xét như: “Trước Tây Tiến Quang Dũng đã có những
khúc dạo đàn khá hay nhưng thật sự chỉ đến Tây Tiến Quang Dũng mới thực sự
trình làng một phong cách thơ, một diện mạo thơ”. Đó là một phong cách hồn hậu,
hào hoa. Không những thế qua bài thơ Tây Tiến ta thấy được vẻ đẹp bi tráng của những anh hùng Tây Tiến.
Trước hết là khổ thơ đầu của bài, Quang Dũng thể hiện sự thể hiện nỗi nhớ của
mình về đoàn quân Tây Tiến thông qua nỗi nhớ ấy ta thấy được những hình ảnh bi
tráng thể hiện vẻ đẹp của những anh hùng Tây Tiến:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Nỗi nhớ ấy bắt đầu bằng tiếng gọi Tây Tiến ơi. Tiếng gọi đó sao mà nghe tha thiết
như thế, nó như vọng vào không gian của con sông Mã, quay ngược lại với những
kỉ niệm thời xưa. Một thời đạn bom nhưng cũng rất vui tươi hào hùng. Nỗi nhớ ấy
là nỗi nhớ chơi vơi. Hiệp vần “ơi” cho ta thấy một cảm giác vang xa nỗi nhớ ấy
như vọng vào mấy năm trước để trở về những kỉ niệm vui tươi ấy. Hai địa danh Sài
Khao và Mường Lát hiện lên khắc sâu vào nỗi nhớ của tác giả. Hai địa danh ấy gắn
với những cuộc hành quân của đoàn quân tây tiến. Thật khá khen cho cái “đêm
hơi”. Đó là sự di chuyển nhẹ nhàng của những chiến sĩ đoàn quân tây tiến hay
chính là những hơi sương trong đêm hành quân ấy thể hiện những khó khăn vất vả của đoàn quân.
Cuộc hành quân ấy còn nhiều gian nan và chính những gian nan ấy đã làm nên vẻ
đẹp bi tráng của những anh hùng tây tiến:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Những câu thơ ấy đã mang đến những hình ảnh của cuộc hành quân gian khổ của
Tây Tiến. những câu thơ với mật độ thanh trắc dày đặc đã cho thấy được sự trúc
trắc trong chính đường đi của đoàn quân. Nó như lột tả hết những độ cao sâu thăm
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
thẳm mà những đoàn quân tây tiến kia phải vượt qua. Dẫu có xuống nơi vực sâu
thăm thẳm hay đến những núi cao tưởng như ngọn súng chạm đến tầng mây kia thể
hiển một vẻ đẹp hiên ngang của người lính tây tiến. Những độ cao độ sâu ấy được
tính bằng ngàn thước. mục đích của nó nhằm nhấn mạnh vào những gian khổ mà
đoàn quân phải vượt qua. Đến câu thơ cuối thì một dòng toàn thanh bằng lại được
xuất hiện như bù lại cho những câu thơ mang nhiều thanh trắc. Sự bằng ấy mang
đến cho chúng ta một cảm giác thật sự yên bình.
Những gian nan khó khăn ấy mở nguồn cho hình ảnh đẹp vi tráng của những người lính ấy:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Hình ảnh người lính gục lên súng mũ dãi dầu không bước nữa là một hình ảnh đẹp.
Câu nói ấy thể hiện sự nói giảm đi cái chết, cái hi sinh của những người chiến sĩ
ấy. Đó là một vẻ đẹp bi tráng, cái hi sinh kia là bi nhưng trong cái bi ấy ta lại thấy
một cái tráng lệ vô cùng. Mất đi nhưng người lính ấy chết trong tư thế nhẹ nhõm
không đau đớn chỉ là bỏ quên đời thôi. Tác giả lại nhớ đến những kỉ niệm với
những buổi chiều và ban đêm với những con thú dữ gầm rú lên. Quang Dũng nhớ
những đêm mùa nếp xôi ở Mai Châu.
Đến đoạn thơ tiếp theo hình ảnh những người lính Tây tiến hiện lên với những đêm
liên hoan văn nghệ trên mảnh đất Lào với những cô gái Viêng Chăn xinh đẹp kiều
diễm với tình dân quân thân thiết đẹp sao. Và từ những đêm liên hoan ấy những
người con của tổ quốc lại ra đi trong buổi chiều với sự quyến luyến của bao người.
Và từ đó hình ảnh của những chàng trai Tây Tiến cũng hiện lên thật khổ cực mà lại thật oai hùng:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Những cô gái Viêng Chăn trong đêm liên hoan ấy e ấp trong những điệu kèn tiếng
trống. Sau đêm liên hoan ấy những chàng trai tây tiến lại lên đường ra đi để bảo vệ
biên giới. Hình ảnh những người chiến sĩ tây tiến hiện lên với những ngoại hình cụ thể:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Đây là những câu thơ tả về những người chiến sĩ tây tiến. Những người lính ấy
xuất hiện với hình ảnh một đoàn binh không mọc tóc. Những câu thơ có thể hiểu
theo hai cách. Đó là đoàn quân ấy cắt tóc đi để phù hợp với điều kiện chiến đấu
gian khổ. Hay cũng có thể hiểu rằng sinh hoạt trong chốn rừng thiêng nước độc rửa
chân rụng lông, gội đầu rụng tóc. Hay nó chính là kết quả của những trận sốt rét
rừng. Dù hiểu cách thì đoàn quân Tây Tiến vẫn hiện lên thật đẹp. Hình ảnh quân
xanh màu lá là những hình ảnh gầy gò ốm nhưng không hề yếu mà vẫn dữ oai
hùm. Mắt trừng gợi cho ta liên tưởng đến sự căm thù giặc của những anh hùng tây
tiến. Hay đó chính là sự thức trắng không ngủ được vì lo cho biên giới hoặc mở
mắt để nhớ những bóng kiều thơm kia. những câu thơ này được coi là mộng rớt buồn rơi.
Những đoạn thơ cuối bài là đoạn thơ thể hiện rõ nhất vẻ đẹp bi tráng của những anh hùng Tây Tiến:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ .........
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Đó là sự hi sinh của những người chiến sĩ ấy, họ phần lớn là những trí thức Hà
Thành ngày đêm nghĩ đến quê nhà với những bóng hồng trong tim mong một ngày
nào đó sẽ được gặp lại mà giờ đây có những người mồ rải rác khắp biên cương. Đó
chính là cái bi của vẻ đẹp người lính. Nhưng nó lại rất tráng vì người ta chết đi vì lí
tưởng cao cả của mình thì đó chính là cái chết đẹp. Những áo bào thì thay bằng
chiếu thể hiện sự giản dị của những người lính. Chiến trường khắc nghiệt làm cho
anh phải ra đi chỉ có mảnh chiếu che thân. Và con sông Mã một mình vang lên
khúc nhạc như đưa tiễn linh hồn các anh về nơi an nghỉ cuối cùng.
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Qua đây ta thấy được những vẻ đẹp bi tráng của những chiến binh tây tiến, cảm
nhận được như thế chúng ta càng thêm yêu hơn những con người vì quê hương mà
quyết tâm gìn giữ thà hi sinh tất cả cũng không chịu rời bước để rồi trở thành một
bức tượng đài bằng thơ vĩnh cửu với thời gian.
Vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến - Mẫu 6
Trong thời kì đấu tranh chống giặc cứu nước, người lính trở thành một hình tượng
trung tâm được nhiều nghệ sĩ đi vào khai thác, thể hiện. “Tây Tiến” của Quang
Dũng cũng là một trong số những sáng tác như thế. Tác phẩm đã thực sự thành
công khi đi vào khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến trong thời kì kháng chiến
chống Pháp trong đó có vẻ đẹp bi tráng là vẻ đẹp nổi bật để lại trong người đọc nhiều xúc cảm.
“Tây Tiến” là bài thơ viết về binh đoàn Tây Tiến nơi nhà thơ đã từng sống và chiến
đấu. Những người lính trong binh đoàn phần đông là thanh niên Hà Nội, chiến đấu
trong hoàn cảnh gian khổ, vô cùng thiếu thốn về mọi mặt nhưng vẫn phơi phới tinh
thần lãng mạn anh hùng. Ở họ có vẻ đẹp tinh nghịch hào hoa của chàng trai đất Hà
thành nhưng cũng thật kiêu hùng, can đảm trong cuộc chiến đấu. Miêu tả về họ,
Quang Dũng sử dụng bút pháp lãng mạn và cảm hứng ngợi ca khiến cho dù trải
qua đau thương, gian khổ thì người lính vẫn hiện lên mang vẻ đẹp thật đặc biệt: bi
tráng mà không hề bi lụy.
Chất bi tráng ở đây trước hết có được là do được đặt trên nền của bức tranh thiên
nhiên hùng vĩ mà diễm lệ, thơ mộng mà đầy hoang sơ, bí ẩn. Mảnh đất Tây Bắc
vừa là môi trường sống và chiến đấu của người lính nhưng cũng vừa mang trong
mình vẻ đẹp riêng. Con người đặt trong đó vừa chan hòa, giao cảm với thiên nhiên
lại vừa đối lập và bị thiên nhiên thử thách. Trước cái heo hút của cồn mây, cái gập
ghềnh của “dốc thăm thẳm”, của “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”, người
lính vẫn vượt lên trên, giành về mình thế chủ động. Chinh phục đỉnh cao để nhìn
lên và phát hiện ra một hình ảnh đầy dí dỏm: “súng ngửi trời”. Vượt qua núi đá gập
ghềnh để được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mờ ảo đầy màu sắc của “nhà ai Pha Luông
mưa xa khơi”. Vượt qua cái mệt mỏi của chặng đường hành quân, mở rộng lòng
mình ra đón nhận vẻ đẹp bất ngờ của thiên nhiên, của một cánh hoa về trong đêm
hơi… Bằng cách đặt nhân vật vào bức tranh thiên nhiên như vậy, Quang Dũng đã
khẳng định vẻ đẹp dũng cảm kiên cường nhưng cũng rất tinh nghịch, lãng mạn của người lính Tây Tiến.
Cũng trong thiên nhiên đó, người lính Tây Tiến xuất hiện với tầm vóc bi tráng, khác thường:
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Gian khổ của chiến tranh đã làm cho hình hài người lính trở nên tiều tụy thế nhưng
dưới con mắt lạc quan, đầy sức mạnh và niềm vui sống nó lại trở thành nét rất
riêng, thành cái “uy” của họ. Cụm từ miêu tả “dữ oai hùm” vừa thể hiện sức mạnh
oai phong lẫm liệt của những người đang cầm súng bảo vệ quê hương, lại vừa ẩn
chứa sau đó nét lạc quan, hài hước của họ. Bài thơ xuất hiện một hình ảnh đối lập độc đáo:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm”
Người lính được khắc họa trong sự hài hòa giữa một chàng trai Hà thành tâm hồn
lãng mạn và một người lính dũng cảm kiên cường, sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc.
Chúng không hề đối lập mà bổ sung cho nhau, tôn vẻ đẹp của nhau lên.
Những khó khăn mà người lính phải đối mặt là vô cùng, nhiều khi là cả cái chết.
Ấy vậy mà khi nói về cái chết, Quang Dũng đã nói đến họ trong những hình ảnh thật đặc biệt:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Tư thế “gục lên súng mũ bỏ quên đời” bi tráng, thanh thản, dung dị mà đầy tính
truyền cảm. Nó phảng phất chất nghệ sĩ, tài tử, kiêu hùng khi từ giã cuộc sống của
người chiến sĩ. Đã ngã xuống mà vẫn như tư thế cùng đồng đội tiếp bước hành
quân. Đến mảng hồi ức này, ta cảm thấy trong lời thơ của Quang Dũng có sự trầm
lắng, xót xa nhưng tuyệt đối không hề bi lụy. Nó làm ta nhớ đến tư thế của anh giải
phóng quân thời chống Mĩ hi sinh trên đường bay Tân Sơn Nhất.
“Anh giải phóng quân Trên đường bay Tân Sơn Nhất
Tì súng trên xác trực thăng
Và anh chết khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”
Ngợi ca người lính Tây Tiến, Quang Dũng không hề ngần ngại khi nói đến cái chết
của họ. Bởi chính trong cái chết, người chiến sĩ hiện lên càng đẹp đẽ:
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Cõi chết trong cách nhìn của Quang Dũng tức cũng là cái nhìn của tất cả những
người lính Tây Tiến cũng khác thường và tạo hình dữ dội. Nó nói lên cái tột cùng
cơ cực lẫn cái lẫm liệt kiêu hùng. Trong cuộc chiến đấu một mất một còn, “rải rác
biên cương mồ viễn xứ” là điều người lính luôn thấu hiểu. Nhưng không vì thế mà
nó làm nhụt đi ý chí chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Mỗi người lính Tây Tiến điều
tâm niệm: “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, nghĩa là họ tình nguyện cống
hiến tuổi thanh xuân của mình cho đất nước, cống hiến thanh thản và trọn vẹn mà
không đòi hỏi nhận lại một điều gì cả.
Cái chết thiếu thốn không vì thế mà làm giảm đi vẻ đẹp của người lính. Người
chiến sĩ ra đi như một vị anh hùng thần thoại:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Tấm áo trước nay người lính vẫn thường hay mặc trở thành “áo bào” đưa anh về
với đất mẹ. Và sự ra đi có chứng kiến, tiễn đưa của núi sông, trời đất. Khúc gầm dữ
dội của dòng sông khiến cho cái chết trở nên hào hùng. Nó là khúc bi ca tiễn đưa
những con người gần gũi nhưng cũng thật vĩ đại.
Người lính hiện lên mang vẻ đẹp bi tráng mà không hề bi lụy. Cái bi tráng thể hiện
trong những gian khổ mất mát, đau thương to lớn, nhưng tinh thần lại hiên ngang,
bất khuất, coi thường gian khổ, coi thường cái chết; thể hiện trong cái khổ mà vẫn
đẹp, chết mà vẫn hùng của người chiến sĩ.
Làm nên vẻ đẹp bi tráng này, điều đầu tiên phải kể đến là cảm hứng và bút pháp
lãng mạn của Quang Dũng khi xây dựng hình tượng nhân vật. Cảm hứng lãng mạn
hướng tới những cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hi sinh tất cả cho lí tưởng của cộng
đồng, của dân tộc. Chính nó đã tạo ra ở nhà thơ cái nhìn có tính anh hùng cổ điển
trong hình ảnh người lính, đặc biệt trước cái chết của họ. Bút pháp lãng mạn khắc
họa người lính Tây Tiến ở những nét phi thường, kết hợp với sắc thái bi tráng
trong hình tượng tạo nên tính sử thi đặc biệt của bài thơ, đúc kết lại trong lòng
người đọc những tình cảm tốt đẹp.
Góp phần tạo nên vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến còn ở giọng
điệu thơ hào sảng với hình ảnh chi tiết có ấn tượng mạnh mẽ. Thiên nhiên và con
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
người vừa đối lập lại vừa đồng điệu. Sự đối lập trong hệ thống hình ảnh, giữa thực
tế chiến đấu và đời sống tinh thần phong phú, tinh tế, nhạy cảm; giữa những khó
khăn gian khổ với niềm lạc quan tin tưởng vào cuộc sống. Tất cả làm nên hình
tượng về người lính Tây Tiến còn lại mãi với thời gian.
“Tây Tiến” là bài thơ ngợi ca hình tượng người lính trong thời kì kháng chiến
chống giặc ngoại xâm, khi “những ngày vui sao cả nước lên đường” đi chiến đấu:
“Lớp cha trước lớp con sau / Đã thành chiến sĩ chung câu quân hành”. Vẻ đẹp bi
tráng của người lính Tây Tiến đã trở thành một biểu tượng đẹp cho tinh thần yêu
nước và chiến đấu kiên cường của dân tộc Việt Nam, thêm một “dáng đứng Việt
Nam tạc vào thế kỉ…”
Vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến - Mẫu 7
Ra đời trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Tây Tiến là
một hồi tưởng rất đẹp, những kỉ niệm đầy sống động về người chiến sĩ trong đoàn
quân Tây Tiến. Hồi tưởng của một anh lính tài hoa có tinh thần xả thân vì nghĩa
lớn - Quang Dũng. Cho nên, khác với vẻ đẹp của các bài thơ cùng thời, vẻ đẹp của
Tây Tiến là vẻ đẹp hài hoà, hào hoa, bi tráng. Bài thơ mở đầu với một tiếng gọi
dồn chứa tâm trạng, thoạt đầu đọc lên có vẻ lạ lùng:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Hai câu thơ xác định rõ hai khoảng không gian khác nhau. Không gian thực tại và
không gian hồi tưởng. Tuy nhiên, chỉ có độc giả mới nhận ra rành rõ điều đó, còn
đối với nhà thơ, khi ông nói xa rồi là khi những hình ảnh của một quá khứ chưa xa,
nó đang ập tới; nhấc bổng ông khỏi mảnh đất thực tại, để hồn thơ lơ lửng, chơi vơi
trong cõi nhớ cũng xa rồi chứ đâu chỉ "Sông Mã".
Vậy là, chẳng cần đến sự dẫn dắt dềnh dàng nhằm chuyển vùng không gian cho
người đọc, một thời Tây Tiến đã hiện lên tức khắc trước mắt ta. Trong kí ức nhà
thơ, các ấn tượng hãy còn nóng hổi, tươi nguyên và cái nặng nhọc, vất vả ngày nào
dường như còn chưa tan hẳn, ta thấy các địa danh được hiện lên, tất cả hãy còn đây rành rành trong tâm trí.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Sự hiện tại hóa quá khứ dưới tác động của một kí ức sâu mạnh đã vẽ nên một bức
tranh đầy ấn tượng về thiên nhiên khắc nghiệt nhưng cũng tràn đầy thơ mộng.
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Thiên nhiên ấy thường vần thử thách các chiến sĩ, đôi khi muốn vùi lấp những sinh
mạng bé nhỏ trong những khoảnh khắc của thung lũng sương mù. Nhưng cũng
chính khung cảnh này, khiến tâm hồn của các chàng trai gốc Hà Nội được một
phen bay bổng. Nếu "sương lấp" lạnh lùng, nặng nề đe dọa bao nhiêu thì "hoa về"
lại nhẹ nhõm, tươi tắn, ấm áp bấy nhiêu. "Mường lát hoa về trong đêm hơi" - câu
thơ nhiều thanh bằng diễn tả một trạng thái lâng lâng. Dĩ nhiên là cái lâng lâng vừa
đến sau một chặng đường mỏi mệt. Khung cảnh rừng núi mà đoàn quân Tây Tiến
đã bước chân qua, vừa thơ mộng lại vừa hùng vĩ. Một bức tranh làm xao động lòng
ta như một bức tranh thủy mặc hiện đại: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Lại có
những nét vẽ thật táo báo, câu thơ như bẻ gãy làm đôi: "Ngàn thước lên cao, ngàn
thước xuống". Có lúc, hình ảnh núi rừng rộn lên bởi tiếng hô gầm thét, lại có lúc
hình ảnh nên thơ, duyên dáng về một cô gái cùng con thuyền độc mộc trên dòng
sông chảy xiết.. Cảm hứng lãng mạn của Quang Dũng không làm hạn hẹp đề tài,
trái lại, qua cảm hứng này, tâm hồn ông rộng mở với toàn cảnh của núi rừng Tây
Bắc, khiến tâm hồn ta đẹp một cách phóng khoáng.
Kết thúc đoạn thơ, đợt sóng cồn của kí ức bị đánh thức đột ngột hình như tan dần.
Đợt sóng mới chưa được hình thành nên lúc này kí ức được kéo giãn ra. nhẹ nhàng
lan tỏa để các hình ảnh tươi tắn hơn. Độc giả lại được dịp "nghỉ ngơi" để có thể
nghiêng ngả theo điệu múa trong đêm liên hoan văn nghệ với Doanh trại bừng lên
hội đuốc hoa" và được thả hồn "đong đưa" theo cánh hoa tươi trên dòng nước lũ.
Thiên nhiên trong Tây Tiến bao giờ cũng là một nhân vật quan trọng, tràn đầy sinh
lực và thấm đượm tình người. Hồn thơ tinh tế của tác giả "bắt" rất nhạy một làn
sương chiều mỏng, một dáng hoa lau núi phất phơ đơn sơ bất chợt. Rồi nhà thơ
thổi hồn mình vào đó và để lại mãi trong ta một niềm bâng khuâng, thương mến.
Và một ánh thơ đẹp xuất hiện như mây chiều biên ải:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ.
Tây Tiến hiện lên khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, kì vĩ với đủ cả núi cao, vực
thẳm, dốc đứng, thác gầm cùng cồn mây heo hút, dòng lũ hoa trôi với khói lên,
sương lấp, mưa xa khơi... Trên cái nền thiên nhiên kì vĩ, dữ dội ấy, nổi bật lên hình
ảnh đoàn quân Tây Tiến "nhỏ bé" như bị ngập hút đi. Nhưng chính sự đối chọi,
tương phản đó càng tăng thêm khí phách anh hùng của đoàn quân Cách mạng, mà
kẻ thù, cũng như gian khổ không thế khuất phục nổi. Hình ảnh những người lính
qua nét vẽ của Quang Dũng thật khác thường. Khác thường ở sự gian khổ cùng
cực: ăn đói, mặc rét, bệnh tật, sốt rét đến xanh da, trụi tóc. Khác thường ở chỗ tác
giả cố ý không miêu tả một gương mặt chiến sĩ riêng biệt với tên tuổi cụ thế nào,
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
ông đã dồn các phẩm chất tốt đẹp của những tráng sĩ Tây Tiến thành gương mặt
chung của cả một đoàn quân.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Ta có thể hiểu, đây là hình ảnh khá chân thật về diện mạo bên ngoài người lính mũ
cài lá ngụy trang, thân thể xanh xao vì sốt rét. Nhưng cảm hứng ở đây lại tràn đầy
một nỗi niềm thân quen. Từ thân quen mà thấy cái anh hùng của họ. Câu thơ tạo
nên hình ảnh đối lập, bề ngoài thì xanh như lá, thiếu sức sống, nhưng bên trong
người chiến sĩ thế hiện một phong độ anh hùng, oai như hùm nơi "rừng thiêng
nước độc". Câu thơ "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" đã gợi được dũng khí của
người chiến binh thuở ấy. Nó mang cái dáng dấp kiêu hùng của người coi thường
gian khổ. hi sinh để giữ cái thế hiên ngang của đoàn quân Tây Tiến. Với bút pháp
lãng mạn và cảm hứng say nồng, Quang Dũng đã dựng nên cái tương phản trong
hình ảnh để rồi hòa hợp với tâm hồn làm cho ta thấu hiểu và cảm thông, tìm thấy ở
đây một hình ảnh đẹp.
Người Hà Nội trở thành người chiến binh thì cái oai phong cũng rất Hà Nội. Quang
Dũng đã viết đúng hình ảnh người lính Tây Tiến từ Hà Nội chiến tranh mà ra đi:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Thực ra hai câu thơ ấy chỉ là nỗi lòng của nhà thơ muốn bộc lộ thật đậm, thật rõ
chất lính của người thanh niên Hà Nội tài hoa lãng mạn. Lại có người nói: thời
chiến chinh ác liệt nói về giấc mơ "dáng kiều thơm" là xa rời tinh thần chiến đấu.
Thực ra cuộc đời con người vô cùng phong phú,tâm trạng của chàng trai Hà Nội lại
càng có những nét hào hoa và tình cảm riêng. Cho nên nói người lính Tây Tiến
"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm", chỉ tô đậm cái đẹp của những con người ấy mà
thôi. Hơn nữa, vẻ đẹp chân thực không bao giờ làm cho con người giảm sút lòng
chiến đấu. Phẩm chất người lính qua hồi tưởng của Quang Dũng đã hiện lên vừa
hào hùng, hào hoa và cũng vừa bi tráng. Nhà thơ đã nhìn thẳng vào những tổn thất,
hi sinh để viết những câu thơ:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Câu thơ có cái gì xót xa gợi niềm cảm thương trong lòng người đọc. Miền đất biên
ải xa xôi đã yên nghỉ bao cuộc đời người lính. Nơi đó có chút gì hoang vắng ghê
rợn trước những nấm mồ viễn xứ. Nhưng rồi sau đó cảm hứng thơ lại bừng lên
những suy nghĩ thật hào hùng "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh", thể hiện một
sự quên mình của lớp trẻ thanh niên đầy nghĩa khí. Phương châm sống của họ cao
đẹp mà giản dị. Thời ấy không ít thơ viết về người chiến sĩ nhưng chỉ có Tây Tiến
của Quang Dũng mạnh dạn nói đến cái chết. Cái chết tạo nên vinh quang của tuổi
xanh thầm lặng mà cao cả hiến mình cho dân tộc.
Nét đặc sắc của Quang Dũng trong Tây Tiến còn thể hiện ở một ngòi bút sắc sảo
tinh tế. Viết về chiến tranh, nhưng cả bài thơ không có một chữ nào về trận đánh,
về tiếng súng, về máu đổ hay về kẻ thù. Người đọc vẫn hình dung rất rõ gương mặt
và không khí của chiến tranh. Điều lạ lùng là bài thơ có ba lần nói đến cái chết của
người chiến sĩ trong các trường hợp khác nhau, nhưng không một lần nhà thơ nhắc
tới từ "chết" hoặc "hi sinh". Nhà thơ đã thay thế từ "chết" bằng các cụm từ giản dị
"về đất", "bỏ quên đời", "hồn về"... Đến đoạn thơ cuối lí tưởng cách mạng và tuổi
trẻ đã truyền cho các chàng trai Tây Tiến chất anh hùng ngang tàng và cả chất men
say lãng mạn đáng yêu. Ngay cả khi họ chết cũng phảng phất vẻ nghệ sĩ - tài tử, cái
đẹp bi tráng chứ không bi lụy.
Để tiễn người lính Tây Tiến hi sinh, Quang Dũng không cần đến một lời ngợi ca
sáo mòn nào, cũng không cần đến một giọt nước mắt... Ông chỉ để cho trời đất
chứng giám, thu nhận thể xác và linh hồn người lính vào lòng: "Sông Mã gầm lên
khúc độc hành" tiếc thương đưa người lính Tây Tiến vào cõi bất tử. Bởi vì, kể từ
đây khúc độc hành" tiếc thương đưa người lính Tây Tiến vào cõi bất tử. Bởi vì, kể
từ đây hồn các anh đã hòa quyện vào cỏ cây, sông núi để trở thành "hồn thiêng đất nước".
Nhà phê bình Phong Lan nhận định: "Tây Tiến một tượng đài bất tử về người lính
vô danh". Bất tử bởi chính vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, bi tráng này. Và do vậy,
người lính Tây Tiến qua bài thơ cùng tên của Quang Dũng sẽ sống mãi trong cõi
vĩnh hằng và trong thế giới nhân sinh.
Document Outline

  • Dàn ý vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
  • Vẻ đẹp hào hoa bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 1
  • Vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến - Mẫu 2
  • Vẻ đẹp hào hùng của người lính Tây Tiến - Mẫu 3
  • Vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến - Mẫu 4
  • Vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến - Mẫu 5
  • Vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến - Mẫu 6
  • Vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến - Mẫu 7