Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà (3 Dàn ý + 14 Mẫu) | Văn mẫu lớp 12
Phân tích sông Đà hung bạo trong Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân tổng hợp 14 mẫu cực hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết. Tài liệu được biên soạn nhằm giúp cho các em học sinh có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng viết văn ngày một tiến bộ hơn.
Preview text:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
Dàn ý vẻ đẹp hung bạo con Sông Đà Dàn ý số 1 1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm - Dẫn dắt vấn đề 2. Thân bài
- Hướng chảy của sông Đà cho thấy đó là một dòng sông đầy cá tính “Chúng thủy giai đông ...”.
- Bờ sông dựng vách thành: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ
mới có mặt trời”, chỗ “vách đá ... như một cái yết hầu”
- Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn,
lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đò.
- Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở
và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”, thuyền qua đoạn hút nước “y như ô tô ...mượn cạp ngoài bờ vực”,
- Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:
● Xa: âm thanh thác đá “con xa lắm” mà đã nghe tiếng thác “réo gần mãi lại, réo
to mãi lên”, âm thanh ấy hiện lên với nhiều trạng thái khi “oán trách”, lúc “van
xin”, khi “khiêu khích”, “chế nhạo”; cách so sánh độc đáo: “rống lên như một
ngàn con trâu ... cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).
● Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “méo mó”, “”hất hàm”, “oai
phong”, “bệ vệ”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “canh”,
“đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
● Sự biến hóa linh hoạt của trùng vi thạch trận: có 3 vòng, vòng 1 có 5 cửa sinh,
một cửa tử (tả ngạn), vòng 2 có nhiều cửa tử, 1 cửa sinh (hữu ngạn), vòng 3 có
ít cửa và 1 cửa sinh (giữa), gợi hình ảnh con sông Đà có tâm địa nham hiểm,
mẹo lược, biến hóa khôn lường.
- Nhận xét: sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác
hùm beo”, thứ kẻ thù số một của con người 3. Kết bài
- Khái quát lại vấn đề Dàn ý số 2 a) Mở bài:
- Là một nhà văn tài hoa, độc đáo, Nguyễn Tuân thích miêu tả những cái gì dữ dội,
mãnh liệt hoặc đẹp một cách tuyệt đỉnh. Những trang viết hay nhất của ông thường là
những trang tả đèo cao, vực sâu, thác nước.
- Nguyễn Tuân yêu thiên nhiên tha thiết, ông có nhiều phát hiện tinh tế về vẻ đẹp của
núi sông, cỏ cây trên đất nước mình. Bút kí "Người lái đò sông Đà" đã thể hiện đậm
nét phong cách Nguyễn Tuân. Cảm hứng về dòng sông Đà "hung bạo và trữ tình"
chảy trên trang văn của Nguyễn Tuân biến vùng sông nước ấy thành một hình tượng nghệ thuật đặc sắc. b) Thân bài:
* Phân tích tính cách hung bạo của con sông Đà:
- Vách đá "đá bờ sông dựng vách thành" và những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy
lòng sông hẹp. Cái hẹp của lòng sông tác giả tả theo đủ cách:
● "Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời"
● "Con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném
hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách"
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
● "Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy
mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào
trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện"
-> So sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng. Cảm giác như Nguyễn Tuân
luôn lục lọi đến tận kiệt cùng cái kho ấn tượng ăm ắp này để tìm cho được một cách
nói có thể làm kinh động hồn trí con người.
- Gió trên sông Đà: "Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn
luồng gió gùn ghè suốt năm" -> bằng lối viết tài hoa, những câu văn diễn đạt theo kiểu
móc xích, cấu trúc câu trùng điệp, gợi hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, dữ dằn như lúc
nào cũng muốn tiêu diệt con người.
- Những hút nước ở quãng Tà Mường Vát: "nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái
bị sặc", "chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên", "những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc
hút những chiếc thuyền xuống rồi đánh chúng tan xác" -> Lối so sánh độc đáo khiến
con sông Đà không khác gì loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn
khủng bố tinh thần và uy hiếp con người.
- Âm thanh thác nước sông Đà:
● Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi
thật hùng tráng bài ca của gió thác xô sóng đá.
● Ban đầu tác giả mới để cất lên khúc như đang "oán trách", "van xin", "khiêu
khích", "giọng gằn mà chế nhạo". Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết
cỡ, các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh
điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại: "nó rống lên như tiếng một
ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa", "rừng
lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng" -> Sự liên tưởng vô cùng
phong phú, âm thanh của thác nước sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả không
khác gì âm thanh của một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử.
Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, Nguyễn Tuân quả là đã chơi ngông lắm trong nghệ thuật.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
- Bằng thủ pháp nhân hóa, người đọc nhận ra từng sắc diện người trong những hình
thù đá vô tri. Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào
từng thớ đá: "Cả một chân trời đá" mặt hòn nào trông cũng "ngỗ ngược", "nhăn
nhúm", "méo mó" -> Những hòn đá vô tri vô giác nhưng qua cái nhìn của Nguyễn
Tuân chúng mang vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại và hung dữ với ba trùng vi thạch trận.
● Trùng vi thạch trận thứ I: Bọn đá đứa thì "hất hàm" đứa thì "thách thức", "mặt
nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo", sóng nước "đá trái, thúc gối vào bụng vào hông thuyền".
● Trùng vi thạch trận thứ II: "Sông nước bài binh bố trận ở khắp nơi, tăng nhiều
cửa tử, cửa sinh nằm ở phía hữu ngạn"
● Trùng vi thạch trận thứ III: Sông Đà sắp đặt bên phải bên trái đều là luồng chết,
luồng sống ở ngay giữa.
=> Con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì "kẻ thù số một của con người".
Nhưng cũng chính từ hình ảnh con sông ấy lại là kẻ tôn vinh tài năng nghệ thuật tài
hoa, tài tử và cực kì uyên bác của một ngòi bút số một về thể loại tùy bút Việt Nam. c) Kết bài:
Cảm nhận của em về tính cách hung bạo của sông Đà. Dàn ý số 3 1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân, tác phẩm Người lái đò sông Đà và vẻ đẹp của con
sông Đà ở thượng nguồn. 2. Thân bài
a. Cảnh vách đá hai bên sông dựng đứng như vách thành và ở quãng sông hẹp
● Có vách đá chẹt dòng sông Đà như một cái yết hầu.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
● Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con
hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia.
● Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.
→ Tác giả sử dụng nhiều giác quan (thị giác, xúc giác) để cảm nhận.
b. Cảnh ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng
● Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn
ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà...
● Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.
→ Sử dụng nhiều câu văn ngắn, điệp từ, điệp cấu trúc gợi lên nhịp chuyển động gấp
gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau, tạo thêm nét hung bạo của sông Đà.
c. Cảnh ở quãng Tà Mường Vát
● Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống
dòng sông để chuẩn bị làm móng cầu.
● Nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc... những cái giếng sâu nước ặc
ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.
● Nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống.
→ Sử dụng các biện pháp so sánh, liên tưởng, nhân hóa độc đáo gợi lên cảm giác về
những mối nguy hiểm của sông Đà. 3. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của tác phẩm.
Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà - Mẫu 1
Đối với Nguyễn Tuân, dòng sông Đà chính là “chất vàng” của màu sắc núi sông, linh
hồn của mảnh đất Tây Bắc. Trong trang văn của Nguyễn Tuân, sông Đà không còn là
dòng chảy vô tri mà trở thành sinh thể có tâm hồn, có tính cách như một nhân vật
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
trong câu chuyện viết về vùng đất Tây Bắc hùng vĩ bí hiểm. Đến Tây Bắc, Nguyễn
Tuân đã không quản ngại công phu, ngắm nhìn chi tiết, tìm hiểu cặn kẽ để miêu tả
dòng sông Đà trên hai dạng vẻ: hung bạo và trữ tình. Hình ảnh sông Đà chảy xuôi từ
trang văn đầu cho đến trang văn cuối, từ nơi đá dựng vách thành cho đến quãng dưới
dòng sông, từ dữ dội đến thi vị, trữ tình.
Trước hết, dòng sông Đà hiện lên hung bạo, dữ dội, gây không ít phiền toái cho con
người. Phong cảnh Tây Bắc nói chung và Đà giang nói riêng dưới ngòi bút của
Nguyễn Tuân hùng vĩ, uy nghiêm, mang hồn thiêng sông núi.
Trong đoạn đầu của bài tùy bút, Nguyễn Tuân đã dẫn câu thơ của Nguyễn Quang Bích
(1832 – 1890) để hàm ẩn sự ngang ngược, táo bạo của dòng sông: “Chúng thủy giai
đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”. Trong khi mọi dòng sông khác đều chảy về hướng
đông, tìm đường đổ ra biển cả thì dòng Đà giang ở núi rừng Tây Bắc lại “độc bắc lưu”
– một mình chảy về hướng bắc. Sông Đà bắt nguồn từ Trung Quốc, khi vào Việt Nam,
con sông khởi đầu ở Lai Châu, chảy qua các tỉnh Tây Bắc Việt Nam (Lai Châu, Điện
Biên, Sơn La, Hòa Bình, Phú Thọ). Con sông Đà ngang ngược là một nguồn cảm
hứng mãnh liệt thôi thúc Nguyễn Tuân tìm tòi, khám phá, nó càng thích hợp hơn khi
đem phong cách cách Nguyễn Tuân đặt vào: chuyên viết về “cái đẹp tuyệt mĩ và dữ
dội đến mức khủng khiếp”.
Cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, chẹt lòng sông Đà “như một cái yết hầu” là ấn
tượng tiếp theo về sự hiểm trở của nó. Ở đoạn này thì dòng chảy trên sông chưa gọi là
siêu tốc. Nhưng cái ghê rợn mà con người cảm nhận khi đi ngang qua quãng sông này
chính là bóng tối và cái lạnh lẽo của nó. Bởi vì vách đá dựng cao “chẹt lòng Sông Đà”
nên ngoại trừ lúc mặt trời trên đỉnh đầu (“đúng ngọ”) thì các thời điểm còn lại tia sáng
đều không thể rọi vào lòng sông. Chẳng những tăm tối mà nhiệt độ quãng sông ấy còn
thấp, vì vậy mà ai “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy
lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ
nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Thật bất ngờ khi Nguyễn
Tuân đem không khí phố thị (“hè một cái ngõ”, “cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt
phụt đèn điện”) đặt vào khung cảnh núi rừng heo hút, hoang sơ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
+ Xuôi thuyền về quãng mặt ghềnh Hát Loóng , ấn tượng về sự hung bạo ở quãng
sông này là sự vận chuyển của nước, của đá và của gió: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng
xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Tác giả đã nhân hóa con sông với
một kẻ chuyên đi đòi nợ để gợi tả sự nguy hiểm của nó: “lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất
cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua quãng ấy”. Nhà văn cũng mách người đọc
nếu có dịp qua quãng sông ấy mà “khinh suất” (không cẩn thận) thì cũng bị dòng nước hạ gục như chơi.
Tử thần trên sông Đà là những cái “hút nước” ghê rợn. Dưới ngòi bút của Nguyễn
Tuân, lòng sông ẩn chứa nhiều nguy hiểm đe dọa con người, sẵn sàng nhấn chìm mọi
thuyền bè đi ngang qua. Nhà văn đã tái hiện nhưng cái hút nước ấy từ hình dạng bên
ngoài đến âm thanh và hậu quả kinh khủng mà nó gây ra cho con người. Để gợi tả độ
sâu của những cái hút nước, Nguyễn Tuân so sánh nó với “cái giếng bê tông thả
xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”. Rõ ràng là một sự so sánh độc đáo. Cùng với
câu văn: “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, hai biện pháp tu từ so sánh
và nhân hóa được sử dụng cùng một lúc khiến hiệu quả gợi hình, gợi âm sắc, gợi cảm
xúc cả Nguyễn Tuân được nhân lên gấp bội. Dòng nước thở hồng hộc, thanh âm thống
thiết, thét gào giữa núi rừng Tây Bắc điệp trùng. Trên mặt những cái hút nước quãng
này, nước xoáy tròn sẵn sàng đưa mọi thứ gần đó xuống đáy sâu mà phía trên trông
như “những cánh quạ đàn” đang quạt thật mạnh, thật điên cuồng với khát vọng khuất
phục mọi thứ. Dòng sông Đà vì thế mà trở nên hùng dũng, uy lực hơn rất nhiều.
Những cái hút nước tựa như giếng sâu sẵn sàng “lôi tuột” chiếc thuyền nào chẳng may
đi vào đó. Nguyễn Tuân có sự liên tưởng thật lí thú: “Không thuyền nào dám men gần
những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng trèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô
tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực.
Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu
nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.”. Giữa chốn núi rừng hoang sơ này, tác giả đã
thổi vào không khí của phố thị khi so sánh chiếc thuyền với ô tô, đoạn sông có những
cái hút nước với quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Từ đó khẳng định những cái
hút nước này chính là mối đe dọa mà bất cứ ai cũng phải sợ, phải thật điêu luyện, thật
bình tĩnh nhưng nhanh chóng mới có thể “thoát chết” khi đi ngang qua đây.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
Hậu quả khi vô ý đi ngang qua cái hút nước được tác giả dự báo trước: “Nhiều bè gỗ
rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những
thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi,
bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông
dưới”. Đó không phải là lỗi của sông Đà bởi dòng sông chảy giữa bạt ngàn núi rừng,
qua bao ghềnh thác cheo leo bao giờ cũng hung hãn. Sức mạnh của thiên nhiên từ lâu
vốn là mối đe dọa đối với con người. Có trách là trách “nhiều bè gỗ rừng đi nghênh
ngang vô ý”, hoặc đi trên sông Đà mà người chèo thuyền không đủ tự tin, bản lĩnh,
không am hiểu quy luật của dòng nước thì “thuyền bị trồng ngay cây chuối ngược”
cũng là chuyện thường tình, không trách ai được. Có lẽ vì vậy mà Nguyễn Tuân đã
dụng công miêu tả sự tài hoa, tinh tế, trí thông minh, lòng dũng cảm của ông lái đò
như một tấm gương sông nước nơi núi rừng khắc nghiệt, hiểm trở này.
Nguyễn Tuân gợi tả âm thanh của thác nước – một âm dữ dội, rống riết. Mặc dù con
thuyền vẫn chưa đến thác nhưng tiếng thác đổ ầm ầm vào tai thôi thúc người nghệ sĩ
vận dụng nghệ thuật ví von: “Tiếng thác nước nghe như là oán trách gì, rồi lại như là
van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Dữ dội hơn, âm thanh của
tiếng thác nước điên tiết, gây hấn như “tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn
giữa rừng vầu rừng tre nứa đổ lửa”. Đó là âm thanh của sự hùng vĩ nhưng dữ dội vô cùng.
Dòng nước đưa chiếc thuyền “đuôi én sáu bơi chèo” của người lái đò tới cái thác mà
thanh âm tiếng thác nước dự báo những điềm không hề lành lặn. Nguyễn Tuân viết:
“Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời
đá”. Cái thác không phải là nỗi ám ảnh to lớn của những người qua song, song tiếng
thác rầm rộ lẫn “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá” không thể không khiến
người lái đò rùng mình e ngại. Bọt sóng trắng che khuất màu xám xịt của đá, khiến
quãng sông hiện lên hùng vĩ vô biên – biểu tượng cho uy lực của thiên nhiên Sông Đà.
Thế nhưng, sóng đối với người lái đò trên sông chẳng đáng sợ là gì so với đá. Dường
như đá ngầm trên sông “dàn bày thạch trận”, tạo thành những cửa sinh, cửa tử mới là
thách thức lớn đối với người lái đò: “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong
lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả
dậy để vồ lấy thuyền”. “Đường ngoặt sông” cong cong là cánh cửa dẫn dụ người lái
đò vào quãng sông nhiều đá ngầm, khúc ngoặt áng cả tầm nhìn của người lái đò mà
giả sử như không chuẩn bị trước tâm thế chiến đấu, chắc có lẽ người lái đò sẽ bị đánh
tan xác ở những chặng ban đầu. Nguyễn Tuân khéo léo nhắc lại sức mạnh và sự dữ
dội của đá trên Sông Đà: “từ ngàn năm vẫn mai phục hết lòng sông”. Phải chăng, từ
khi nào Sông Đà xuất hiện ở núi rừng Tây Bắc, thì từ lúc đó đá “mai phục” sẵn chờ
đợi người lái đò để thực hiện một “cú vố” bất ngờ. Nguyễn Tuân sử dụng ngôn ngữ
mang tính võ thuật cao, khiến hòn đá vô tri cũng trở nên sinh động, có “tâm địa độc ác
của thứ kẻ thù số một”. Cách nhân hóa: “một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy chiếc
thuyền” khi chiếc thuyền tiến vào “thạch trận Sông Đà” khiến câu chuyển động mạnh
mẽ, giúp người đọc hình dung ra sự đáng sợ của quãng sông này cùng với nỗi lo ngại
cho sinh mệnh của người lái đò trên sông. Ta tự hỏi đá hay là một thứ quỷ quái nào
trên Sông Đà mà cũng có mặt, có mũi, có tâm địa độc ác: “Mặt hòn đá nào trông cũng
ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Hàng
loạt tính từ chỉ người: “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó” được Nguyễn Tuân sử
dụng để miêu tả hình thù hòn đá khiến đá trở nên hống hách hơn, như “hất hàm” đòi
một cuộc tuyên chiến mà một bên là thiên nhiên với sức mạnh oai hùm, một bên là
con người nhỏ nhoi trên “chiếc thuyền đuôi én sáu bơi chèo” vượt qua cửa tử tiến vào
cửa sinh. Nhà văn khép lại bằng câu văn: “Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên
sông”. “Thạch trận trên sông” đã được dàn sẵn chờ đợi và thử thách ông lái đò. Tuy
nhiên, với bản lĩnh, sự thông minh am hiểu cái quy luật phục kích của lũ đá nơi này
kết hợp với tay lái “ra hoa”, ông lái đò đã chiến thắng ngoạn mục “đối thủ” hung hãn của mình.
Đó là những đoạn văn miêu tả sự hùng vĩ của sông Đà. Dữ dội là thế, hiểm trở là thế,
tuy nhiên điều mà Nguyễn Tuân nhấn mạng ở đây chính là vẻ hùng vĩ của thiên nhiên
Tây Bắc chứ không phải kích thích để con người thù hằn sông Đà, bởi sông Đà chính
là trục giao thông đường thủy chính góp phần phát triển kinh tế, xã hội vùng núi cao Tây Bắc.
Phân tích sông Đà hung bạo - Mẫu 2
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
Ôi những dòng sông bắt nước từ đây
Mà khi về đất nước mình thì bắt lên câu hát
Những dòng sông yêu thương của quê hương, đất nước Việt Nam tự bao giờ đã trở
thành nguồn cảm hứng dạt dào cho các văn nghệ sĩ. Dường như mỗi nhà văn, nhà thơ
lại có một dòng sông để thương, để nhớ của riêng mình. Nguyễn Hoàng Cầm tha thiết
với sông Đuống thân thương; Hoàng Phủ Ngọc Tường đắm đuối sông Hương thơ
mộng, kiều diễm thì Nguyễn Tuân say đắm vẻ đẹp hung bạo, trữ tình. Với niềm say
mê đắm đuối cùng vốn trí thức tài hoa, Nguyễn Tuân đã tạo nên trang văn độc đáo
“Người lái đò sông Đà”.
Là cây đại thụ của rừng đầu nguồn văn học Việt Nam, Nguyễn Tuân luôn say mê
những cái phi thường, tuyệt đỉnh, tuyệt đối, thích cảm xúc mạnh. Ưa khám phá sự vật,
hiện tượng đến tận chân tơ kẽ tóc, trang văn của Nguyễn Tuân phô diễn kiến thức hết
sức uyên bác: lịch sử, địa lí, âm nhạc, văn chương, thể thao, quân sự.
Ngay từ lời đề từ của tác phẩm, Nguyễn Tuân đã đóng đinh vào lòng người đọc ấn
tượng về sự ngang ngạnh bướng bỉnh, lạ thường:
Mọi dòng sông đều chảy về hướng Đông
Duy chỉ có sông Đà là ngược dòng chảy theo hướng Bắc
Ngay sau lời đề từ, Nguyễn Tuân đã tỉ mỉ liệt kê tên của 73 con thác độc dữ của sông
Đà. Nhưng hùng vĩ của sông Đà không chỉ có thác mà còn ở cảnh đá bờ sông. Cái
sừng sững của vách đá, cái lạnh lẽo tối om và thắt hẹp lại của quãng sông hiện lên rõ
mồn một trước mắt người đọc bởi hàng loạt hình ảnh, sự kiện, phép so sánh mới lạ
của Nguyễn Tuân. Đá hay bờ sông dựng đứng, cao ngút trời, mặt sông chỉ lúc đứng
ngọn mới có mặt trời. Quãng sông rất hẹp đến mức con hổ, con nai cũng có thể vọt
qua được. Đi giữa vách đá cao vòi vọi, đen đúa giữa mùa hè mà cũng cảm thấy lạnh
người và tối om. Như đứng ở hè một cái ngõ ngóng vọng lên một khung cửa sổ trên
cái tầng thứ mấy của tòa nhà vừa tắt phụt đèn điện.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
Đâu chỉ hung bạo hùng vĩ, sông Đà còn vô cùng hung bạo, dữ dằn. Ở quãng mặt
ghềnh Hát Loóng dài hàng ngàn cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn
cuộn gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng muốn lấy mạng những người lái đò qua đây.
Với những điệp từ, câu văn như dậy sóng, dậy gió. Diện mạo của sông Đà thật gớm
ghiếc hung dữ chằng khác nào tên lưu manh, côn đò, giang hồ chuyên nghề đâm, thuê, chém, mướn.
Những cái hút nước sông Đà còn đáng sợ hơn và thực sự trở nên hiểm ác trong trang
văn của Nguyễn Tuân. Với tham vọng đem đến cho người đọc cảm giác chân thực,
sống động nhất về sự hung dữ của cá thác nước, Nguyễn Tuân đã tung ra một đội
quân hùng hậu: văn chương, điện ảnh, thể thao,... Chỉ riêng trong đoạn văn đã có
nhiều so sánh, liên tưởng độc đáo. Người đọc dễ hình dung về cái hút nước khủng
khiếp trên sông Đà. Nước xoáy tít đáy, sâu hun hút như cái giếng bê tông thả xuống
làm móng cầu. Từ đáy cái hút nước lên đến mặt chênh nhau vài sải tay. Nước thở và
kêu như cái cống bị sặc, có lúc ặc ặc nghe như vùa rót dầu sôi vào. Thuyền bè vô ý
qua đây, không vững tay chèo liền bị lôi tuột xuống, trồng cây chuối ngược, đi ngầm
dưới lòng sông, mươi phút sau mới tan tác ở quãng sông dưới. Chưa dừng lại ở đó,
Nguyễn Tuân còn muốn người đọc nảy ra ý tưởng điện ảnh táo bạo. Nhà văn nghĩ đến
chuyện một anh quay phim ngồi vào thuyền rồi cho cả mình, cả máy quay để thu ảnh,
truyền đến cho người đọc cả khối nước sắp ụp vào mình. Thiết nghĩ không cần đến sự
phiêu lưu mạo hiểm của người quay phim ấy nữa bởi chỉ cần đọc văn Nguyễn Tuân, ta
đã cảm thấy như được xem một bộ phim 3D sống động
Nói đến hung bạo của sông Đà tât phải nói đến cái dứ dằn của con thác. Còn nhớ
trong Tây Tiến, Quang Dũng từng miêu tả:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Vẻ hung dữ của con thác trong trang thơ của Quang Dũng chưa thấm gì với trang văn
của Nguyễn Tuân. Ông đã chỉ điểm ra vài giọng điệu của con thác nghe đã thấy rợn
người. “Tiếng thác nước nghe như oán trách, rồi nghe như là van xin, rồi lại như khiêu
khích, khi giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi, nó bất thần rống lên như tiếng một ngàn
con trâu mộng giữa rừng vầu, rừng tre nứa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, những con
thác sông Đà có khác nào con quái vật hung hãn trong cơn bứt phá, tức tối và tuyệt
vọng. Cái lạ là Nguyễn Tuân đã dùng tử để tả nước, lấy rừng tả thác. Đó quả là cách
chơi ngông trong văn chương của Nguyễn Tuân.
Hết uy hiếp người lái đò bằng thác dữ, sông Đà lại dàn bày thạch trận với dã tâm tiêu
diệt mọi con thuyền. Sông Đà tung ra một lực lượng hết sức hùng hậu, thiện chiến, với
đủ tướng dữ, quân tợn, đứa nào trông cũng ngỗ ngược, dữ dằn. Bọn giặc đá còn mưu
mô, bí mật mai phục để bẫy con thuyền. Thoạt nhìn, thấy mặt sông trắng xóa cả một
chân trời đá. Những hòn, những tảng tưởng như nó đứng, nó ngồi, nằm tùy theo sở
thích. Nhưng hoàn toàn không phải vậy, chúng âm mưu bày binh bố trận hòng hại
chết con thuyền đối phương. Chúng giàn ba vòng vây cực hiểm ác. Mỗi vòng vây,
chúng mở rất nhiều cửa tử, chỉ duy nhất một cửa sinh. Cửa sinh lại bố trí lắt léo, lúc
bên phải, lúc bên trái, khi ở giữa. Vòng đầu, nó làm ra vẻ sơ hở để dụ con thuyền đối
phương vào sâu rồi sau đó tung ra cú đánh khuýp quật vu hồi. Khi con thuyền xa vào
trận đại, đá thác và sông nước nhất tề sông lên, hợp đồng tác chiến, đánh hội đồng.
Chúng đánh dồn dập, tới tấp với những miếng đòn hiểm độc. Chúng âm mưu đánh tan
tất cả thuyền trưởng và thủy thủ ngay ở chân thác. Qua ngòi bút tài hoa, trí tưởng
tượng phong phú của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện nguyên hình là con quái vật khổng
lồ nham hiểm, xảo quyệt, đủ mưu ma, chước quỷ, đầy dã tâm thâm độc.. Cứ thế, sự dữ
dằn, hung bạo, hiểm ác của sông Đà – kẻ thù số một của con người Tây Bắc cứ nhân
lên trùng trùng trong liên tưởng, tưởng tượng của người đọc. Đọc trang văn mà ta như
lạc vào trận địa đủ thiên la địa võng
Khám phá vẻ đẹp hung bạo của sông Đà, Nguyễn Tuân không dừng lại ở việc tạc khắc
vào tâm trí người đọc tính cách bạo dạn, có một không hai của con sông Tây Bắc mà
còn bộc lộ khát vọng lớn của mình - khát vọng của một công dân đầy tâm huyết với
công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Khi khám phá sự dữ dằn của sông Đà, Nguyễn
Tuân đã liên tưởng tới cái tuyếc-bin thủy điện to lớn của sông Đà. Sông Đà trở thành
dòng sông của ánh sáng, đã dâng tặng cho đất nước nguồn năng lượng dồi dào, ánh
sáng của sông Đà đã đi khắp đất nước làm giàu cho bao hồn quê.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
Cái đẹp vốn tiềm tàng trong đời sống, vũ trụ nhưng phát hiện được cái đẹp và truyền
đến người đọc tình yêu và niềm say mê với cái đẹp lại là chuyện không dễ dàng. Ghi
nhớ điều này, chúng ta thêm trân trọng Nguyễn Tuân, người nghệ sĩ bằng niềm say mê
thiên nhiên và bằng tay phù thủy ngôn ngữ, đã giúp người đọc chiêm ngưỡng đắm say
trước vẻ đẹp của sông Đà của thiên nhiên Tây Bắc hung bạo mà hùng vĩ. Chính trang
văn của Nguyễn Tuân đã bồi đắp thêm tình yêu quê hương, đất nước cho chúng ta.
Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà - Mẫu 3
Tùy bút Sông Đà, Nguyễn Tuân đã khắc họa được nhiều bức tranh thiên nhiên sinh
động, hấp dẫn của vùng núi rừng vừa hùng vĩ, hiểm trở, vừa tuyệt vời thơ mộng ở phía
Tây Bắc của Tổ quốc. Dưới ngòi bút của nhà văn, miền đất này hiện lên thật tươi đẹp
với những núi xa, núi gần miên man như trùng vi thạch trận, với những thung lũng
vàng một màu lúa chín, với bao nhiêu loài hoa tỏa hương sắc. Nhưng tiêu biểu nhất,
được nhà văn tập trung bút lực mô tả công phu nhất, phải kể đến hình ảnh con sông
Đà hùng vĩ vừa hung bạo vừa nên thơ trong tùy bút Người lái đò sông Đà.
Sông Đà được nhà văn xây dựng thành một “nhân vật” có mặt suốt từ đầu đến cuối
thiên tùy bút, tạo nên giá trị độc đáo của tác phẩm này. Dưới ngòi bút tài hoa và uyên
bác của Nguyễn Tuân, sông Đà không còn là một con sông vô tri, vô giác, mà là một
“nhân vật” có cá tính, có tâm trạng, có hoạt động thật phong phú và phức tạp. Tác giả
đã nhận xét khái quát: đây chính là con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Hai đặc
điểm hung bạo và trữ tình này được nhà văn triển khai trong suốt cả bài tùy bút.
Cái hung bạo của sông Đà không chỉ ở những con thác, mà còn ở quang cảnh hùng vĩ
với vẻ huyền bí, hoang sơ của dòng sông chảy giữa điệp trùng rừng núi Tây Bắc. Như
một nhà quay phim lão luyện, vừa cho người xem thấy bao quát khung cảnh sông Đà,
thỉnh thoảng tác giả lại dừng lại, cho khán giả những pha “cận cảnh” thật tiêu biểu về
sự hung dữ của con sông này.
Đấy là những cảnh thật hiếm thấy như cảnh đá bờ sông dựng vách thành, chỉ khi nào
đến giữa trưa, mặt trời rọi đúng đỉnh đầu, chỗ ấy mới có ánh nắng. Cách so sánh trên
tạo được ấn tượng khá dậm nét về vách đá dựng đứng với độ cao hun hút khôn cùng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
Có chỗ vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Vì thế, dòng chảy của
con sông bị thu lại rất hẹp: hẹp đến mức đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên
kia vách; hẹp đến mức có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia.
Ấn tượng về độ cao và thẳng của vách đá bờ sông và dòng chảy nhỏ hẹp càng được tô
đậm thêm qua một chi tiết tiêu biểu và lối liên tưởng bất ngờ, thiên nhiên hoang sơ
gần với đời sống hiện đại của con người: Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang
mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà... ngóng
vọng lên một khung cửa sổ nào từ cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.
Nhà văn chẳng những sử dụng thị giác, mà còn kết hợp sử dụng các giác quan khác
với những so sánh thật mới mẻ và táo bạo. Vách thành dựng đứng gợi lên sự hiểm trở,
hùng vĩ, lòng sông hẹp lại gián tiếp gợi được sức chảy ghê gớm, dữ dằn của thác lũ.
Tính chất hung bạo còn thể hiện qua cái dữ dằn của ghềnh sông với sự hợp sức của
gió, của sóng và của đá. Dường như chúng phối hợp với nhau một cách chặt chẽ để
tăng thêm sức mạnh uy hiếp, đe dọa con người: quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng
cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm
như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy. Ở
đây, một phần câu vãn như bị chặt đứt ra thành nhiều khúc ngắn, gọn, diễn đạt bỗng
điệp từ, điệp cấu trúc và tăng tiến, tạo nhịp điệu khẩn trương, dồn dập, gấp gáp như sự
chuyển động của gió to và sóng lớn.
Hung bạo hơn nữa là những cái hút nước khủng khiếp: trên sông bỗng có những cái
hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Vì
nước bị hút quá mạnh nên phát ra những âm thanh được nhân cách hóa như nước thở
và kêu như cửa cống cái bị sặc do nước bên trong và ngoài cống chênh nhau quá
nhiều, phát ra tiếng kêu ọc ọc ghê sợ. Để tô đậm thêm sự nguy hiểm của cái hút nước,
nhà văn đã phối hợp giữa “tả” và “kể”, ở đây, yếu tố tự sự góp phần quan trọng kích
thích trí tưởng tượng của người đọc. Nếu câu văn nêu trên thiên về tả thì hai câu dưới
đây thiên về kể: Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý... ở khuỷnh sông dưới.
Sông Đà còn hung bạo ở những thác nước. Nhiều thác nước như bày sẵn thế trận, sẵn
sàng chặn đánh, tiêu diệt người lái đò, lái mang, đặc biệt đối với những ai xuôi dòng,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
ở những nơi này, sông Đà được mô tả như có cả một bầy thuỷ quái vừa hung hăng,
bạo ngược, vừa nham hiểm, xảo quyệt. Lúc thì thác nước khiêu khích, chế nhạo; khi
thì hò la, gầm thét, như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre
nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn trâu da cháy
bùng bùng. Thác nước càng được nhân thêm sức mạnh, sức công phá, nhân thêm mối
nguy hiểm đối với nhà đò vì sự góp mặt của hàng ngàn tảng đá to, nhỏ. Mỗi hòn đá
được khắc họa như một quái vật từ ngàn năm vẫn kiên trì mai phục ở nơi đây để bày
thạch trận trong lòng sông.
Mỗi lần thấy một con thuyền nào nhỏ vào đường ngoặt sóng là chúng lập tức nhổm cả
dậy để vồ lấy thuyền. Tác giả đã dựng dậy và thổi sự sống vào cho những hòn đá vô
tri giác, khiến người đọc hình dung chúng cũng táo tợn, hung bạo như một lũ giặc điên
cuồng. Dưới ngòi bút của người nghệ sĩ ngôn từ, vẻ đẹp man dại, sức mạnh huyền bí
của sông Đà đã hiện ra ở nhiều góc độ khác nhau. Đấy chính là tiềm năng to lớn của
Đà giang khi nó được con người chinh phục. Đấy là “vàng trắng” quý báu của đất
nước chúng ta. Chính vì vậy, Nguyễn Tuân nghĩ tới hình ảnh của những tuốc bin thủy
điện. Điều đó cũng có nghĩa là nhà văn nghĩ tới vai trò, vị trí của sông Đà trong sự
nghiệp công nghiệp hóa đất nước.
Tóm lại, bằng một tình yêu thiên nhiên đất nước thiết tha, bằng tài năng của một nghệ
sĩ ngôn từ đích thực, đến Nguyễn Tuân, có lẽ lần đầu tiên con sông Đà của Tổ quốc đã
bước vào văn học với vẻ dữ dội, hùng vĩ, hoang sơ nhưng cũng chứa chan thơ mộng,
trữ tình của nó. Thì ra, với tác giả Người lái đò sông Đà, thiên nhiên cũng chính là
một sản phẩm nghệ thuật vô giá, thiên nhiên luôn làm cho con người bị hấp dẫn, mê say.
Phân tích hình tượng sông Đà hung bạo - Mẫu 4
Mỗi nhà văn có một quan điểm sáng tác riêng theo họ xuyên suốt sự nghiệp văn học.
Nhưng có lẽ, Nguyễn Tuân là một trường hợp đặc biệt khi quan điểm sáng tác và
phong cách văn chương của ông có sự khác biệt rõ rệt ở thời kì trước và sau năm 1945.
Nếu trước năm 1945, người ta biết đến Nguyễn Tuân với Chữ người tử tù cùng những
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
hoài niệm về cái đẹp của quá khứ thì sau năm 1945, người ta biết đến Nguyễn Tuân
với Người lái đò sông Đà cùng một năng lượng, tình yêu tha thiết dành cho cuộc sống,
cho thiên nhiên mà bạn đọc dễ dàng cảm nhận được. Nổi bật trong bài tùy bút chính là
hình tượng con sông Đà hung bạo ở thượng nguồn.
Tùy bút Người lái đò sông Đà in trong tập “Sông Đà”, là kết quả chuyến đi thực tế của
Nguyễn Tuân đến vùng núi Tây Bắc để khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên, của con
người và tìm kiếm “chất vàng mười đã qua thử lửa” trong chính cuộc sống thường
nhật. Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc
hoạ những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua
hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca
ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới qua hình ảnh người lái đò sông Đà.
Mở đầu tùy bút là hai lời đề từ vô cùng đặc sắc và độc đáo: “Đẹp vậy sao tiếng hát
trên dòng sông”: ca ngợi vẻ đẹp của sông Đà và tiếng hát của những con người cần
mẫn lao động, làm việc ở nơi đây. “Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc Bắc lưu”
mang ý nghĩa mọi con sông đều chảy về phía Đông, riêng sông Đà chảy về phương
Bắc để nói lên sự khác biệt độc nhất vô nhị của sông Đà, gợi ra những cá tính riêng
của con sông. Chỉ với hai lời đề từ ngắn gọn, Nguyễn Tuân đã mang đến cho bạn đọc
những vẻ đẹp vô cùng khác biệt của sông Đà với những con sông khác giúp bạn đọc
phần nào thêm thích thú và muốn tìm hiểu về con sông này.
Sau lời đề từ, tác giả đi vào cụ thể vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của con sông: “Cảnh vách
đá hai bên sông dựng đứng như vách thành; có vách đá chẹt dòng sông Đà như một
cái yết hầu; đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách; có quãng con nai
con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia; mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ
mới có mặt trời.” bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Tuân mang đến cho bạn
đọc nhiều liên tưởng thú vị về con sông Đà: nghệ thuật ẩn dụ những khối đá bờ sông
được ví như những thành trì kiên cố, vũng chãi và đầy rẫy sự nguy hiểm, bí ẩn, đe dọa
chực chờ. Tác giả đã sử dụng nhiêu giác quan để cảm nhận được hết vẻ đẹp hung tợn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
ở quãng này của con sông: nó vừa hẹp lại nhiều đá dựng cao ngang ngược nhưng tiềm
ẩn những sự nguy hiểm khiến con người không thể lường trước được.
Không chỉ quãng này của con sông nguy hiểm mà quãng mặt ghềnh Hát Loóng cũng
nhiều hiểm nguy không kém: “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió,
cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái
đò sông Đà…; quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.
Đến đây, Nguyễn Tuân sử dụng nhiều câu văn ngắn móc xích với nhau, điệp từ, điệp
cấu trúc gợi lên nhịp chuyển động gấp gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau để
“hoành hành” tạo thêm nét hung bạo của sông Đà; không chỉ có đá dựng thành vách
hăm dọa con người nữa mà ngay cả mặt nước cũng tạo sóng hung tợn để đe dọa bất cứ
con thuyền hay người nào qua đấy cho ta thấy một con sông Đà ngang ngược, bá đạo
và vô cùng bướng bỉnh.
Quãng Tà Mường Vát con sông cũng hung tợn không kém: “Trên sông bỗng có những
cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống dòng sông để chuẩn bị làm móng
cầu; nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc... những cái giếng sâu nước ặc ặc
lên như vừa rót dầu sôi vào; nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những cái
giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống” Nghệ thuật nhân hoá kết hợp so sánh của Nguyễn
Tuân làm tạo cho câu văn trở nên sinh động, hấp dẫn hơn bao giờ hết. Khúc sông này
nguy hiểm đến mức không một con thuyền nào dám tiến lại gần, nếu không sẽ bị hút
vào trong, bị dìm xuống lòng sông và biến mất một cách đáng sợ.
Không chỉ riêng những quãng trên con sông Đà mới hung tợn mà dòng chảy của nó
cũng vô cùng hung tợn: “Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng
ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi
phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Sự hung dữ này được Nguyễn Tuân
liên tưởng đến một anh quay phim bạo dạn dám ngồi vào trong cái thuyền thúng tròn
vành rồi cả người cả thúng cùng theo dòng xoáy xuống dưới cùng của xoáy nước và
lia máy ảnh lên, thu vào tầm mắt tất cả xoáy nước như “một cái giếng mà thành giếng
xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh
như sắp vỡ tan ụp cả vào máy vào người quay phim cả người đang xem.” Sự liên
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
tưởng đặc sắc, thú vị này không chỉ giúp bạn đọc hình dung ra sự hung tàn của con
sông mà còn làm cho vẻ hung tàn đó trở nên đa sắc màu hơn.
Nhiều năm tháng qua đi nhưng bạn đọc chưa bao giờ quên phong cách sáng tác
“ngông” độc đáo của Nguyễn Tuân cùng tùy bút và hình ảnh con sông Đà. Tác phẩm
đã đóng góp không nhỏ vào nền văn học Việt Nam và được nhiều thế hệ con người đón nhận.
Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà - Mẫu 5
Nguyễn Tuân nổi tiếng là nhà văn tài hoa với nét văn độc đáo. Ông thích miêu tả
những gì dữ dội, mãnh liệt của thiên nhiên, con người. Thế nên trong các tác phẩm
của ông ta thấy được sự hùng vĩ hiếm có của thiên nhiên. “Người lái đò sông Đà” là
một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân. Đây là một đoạn trích hay nằm
trong Tùy bút sông Đà viết năm 1960. Người lái đò sông Đà chính là thành quả của
chuyến đi thực tế đến Tây Bắc của tác giả. Trong đoạn trích, tác giả tìm kiếm “chất
vàng mười” của thiên nhiên và của những con người lao động trên miền sông núi Tây Bắc hùng vĩ.
Nguyễn Tuân gặp sông Đà trong chuyến công tác Tây Bắc. Con sông hiện lên trước
mắt ông là một sự kỳ vĩ của thiên nhiên. Vậy nên, mới gặp sông Đà thôi nhưng cứ như
người bạn tri kỷ lâu năm. Sông Đà trong mắt Nguyễn Tuân là một con sông nguyên sơ
và đầy cá tính. Thế nên, mở đầu đoạn trích, tác giả nhắc tới sông Đà bằng hai câu thơ
“Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”.
Ở “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã dành hết bút mực để miêu tả sông Đà
đoạn thượng nguồn. Với riêng tác giả, đó là nơi con sông Đà có vẻ đẹp hung bạo nhất,
nghiệt ngã nhưng cũng đầy thử thách. Sự dữ dội của sông Đà được tác giả sử dụng
những từ ngữ có tiết tấu nhanh, mạnh để miêu tả. Dòng sông ấy không chỉ có thác đá,
mà còn dữ dội trên chính những vách đá dựng thẳng đứng, hiểm trở “đá bờ sông dựng vách thành”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
Để làm nổi bật thêm sự hùng vĩ của dòng sông, tác giả còn miêu tả tỉ mỉ lòng sông
khúc ấy. Lòng sông như bị bóp nghẹt “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt
trời. Có vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”. Không chỉ dừng lại ở
đó, “đứng bên này bờ nhẹ tay nắm hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ
đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”.
Diễn tả bằng những hình ảnh thực tế của sông Đà chưa đủ, tác giả còn miêu tả chi tiết
cảm nhận của những người ngồi trên khoang đò quãng sông ấy “đang mùa hè mà cũng
thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung
cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Dường như những
vách đá dựng đứng làm lòng sông nhỏ bé đến mức chỉ thấy được một khoảng trời nhỏ
xíu. Sự so sánh của Nguyễn Tuân chính xác đến từng chi tiết. Dường như ông lục lọi
đến tận cùng kiệt của dòng sông để “show” ra cho người ta phải kinh động hồn trí.
Sự hoang sơ, hung bạo của dòng sông Đà còn được tác giả đặc tả thông qua tiếng gió
thổi. Tiếng gió trên sông Đà như tiếng gầm rú của thiên nhiên, nó mang đến cho con
người cảm giác rùng mình, man rợ. Nguyễn Tuân đã khéo léo khi đặc tả “dài hàng cây
số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió. Cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Có
lẽ chỉ có Nguyễn Tuân mới có thể miêu tả dòng sông một các đặc sắc như vậy. Câu
văn diễn đạt theo móc xích với cấu trúc trùng điệp càng làm gợi lên hình ảnh con sông
Đà đang lúc cuồng nộ, dữ dằn, chỉ chực “lật ngửa bụng thuyền ra”.
Ngay cả những hút nước trên sông Đà cũng thật đặc biệt. “những cái hút nước giống
như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”. Những cái hút nước
được Nguyễn Tuân hình tượng hóa trở nên man rợ hơn. Đến mức “nước ở đây thở và
kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn”.
Dường như ở đây không phải là hình ảnh sông Đà mà là hình ảnh của một loài thủy
quái nào đó đang muốn uy hiếp con người. Thế nên “không thuyền nào dám men gần
những cái hút nước ấy”. Dường như hút nước ở sông Đà trở thành nỗi ám ảnh với
những người lái thuyền, họ chỉ muốn tránh mặt chứ không muốn chạm trán với nó.
Bởi nếu không “chèo nhanh để lướt qua quãng sông” sẽ “bị cái hút nó hút xuống,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông
đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”.
Sự hung bạo của sông Đà càng được làm rõ hơn thông qua âm thanh của thác nước.
Nó giống như tiếng gầm vang của con sông nơi thượng nguồn, nó ám ảnh cả vào tâm
trí những người đi thuyền qua đây. Thế nên còn xa lắm mới đến thác nhưng “đã thấy
tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên”. Có ai miêu tả tiếng thác nước như Nguyễn
Tuân, chân thực đến ghê sợ với những thủ pháp so sánh độc đáo.
Nghe tiếng gầm vang của dòng sông ta như liên tưởng tới tiếng trách than, ai oán của
con người. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như
là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Dường như Nguyễn Tuân đã nhân cách hóa
dòng sông, giờ đây con sông Đà có cảm xúc như chính con người vậy.
Chỉ phút trước còn nỉ non, ai oán, phút sau tiếng thác đã được phóng to hết cỡ, như
một sự phấn khích đến man dại, “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang
lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng
gầm thét với đàn tâu da cháy bùng bùng”. Chỉ vài câu văn thôi nhưng mọi sự hung
bạo đến ghê người được lột tả hết. Nhưng cũng qua đó ta mới thấy được sự tinh tế của
Nguyễn Tuân. Sự liên tưởng của ông có lẽ chẳng ai bì kịp, có ai lại đi lấy lửa để tả
nước, lấy rừng để tả sông. Thế mới thấy phải có tâm hồn nghệ thuật ngông lắm mới dám làm vậy.
Nói đến sự dữ dội, nghiệt ngã của sông Đà không thể không nhắc tới những bãi đá.
Dường như khi miêu tả những bãi đá vô tri trên đoạn thác sông Đà, Nguyễn Tuân đã
sử dụng thủ pháp nhân hóa khiến người đọc như nhận ra ông đang miêu tả con người
chứ không phải một vật vô tri. Từng thớ đá được Nguyễn Tuân thổi hồn vào trở nên
có hình hài, cá tính. “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình
như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần
có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy
thuyền.” Đá ở dòng sông Đà như một lớp mai phục chỉ chực chờ thuyền đến để
“nhổm” lên “vồ” lấy thuyền.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
Cá tính của những thớ đá cũng được khắc họa rõ nét “mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ
ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Nguyễn
Tuân đã sử dụng những tính từ miêu tả tính cách, ngoại hình con người để miêu tả cho
chính những hòn đá nơi đây. Mỗi hòn đá xuất hiện trên dòng sông Đà này đều có một
nhiệm vụ riêng “trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động
của đá to đá bé. Nhưng hình như sông Đà đã bàn giao việc cho mỗi hòn”.
Qua cái nhìn tinh tế của Nguyễn Tuân, mỗi hòn đá đều mang vẻ gì đó rất du côn của
thiên nhiên hoang dại. Trùng vi thạch trận của những phiến đá bày ra như được ai đó
điều khiển từ xa khiến con người càng thêm khiếp sợ. Miêu tả đá mà Nguyễn Tuân
dùng những từ ngữ như “hai đứa” làm người ta liên tưởng đến sự bày binh bố trận
trong một cuộc chiến. Thế rồi, hòn đá khác còn “hất hàm hỏi cái thuyền”, rồi “thách
thức” như muốn tuyên chiến với thuyền.
Hưởng ứng trùng vi thạch trận đá, “mặt nước hò la vang dậy quanh mình” chỉ cần tay
lái yếu là sẽ bị trận địa đá ấy nuốt chửng. Sự hung tợn của trận địa đá ở sông Đà đến
ông lái đò vốn đã dạn dĩ cũng phải gồng mình mới vượt qua được. Ấy thế nhưng dòng
sông ấy không chỉ có một vòng vây, “nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa
sinh. Cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông”. Nguyễn Tuân đã miêu tả việc vượt qua
thác sông Đà như cưỡi hổ. Vì thế muốn vượt qua được trận địa ấy “phải cưỡi đến cùng
như là cưỡi hổ”. Chỉ cần “nắm chặt lấy cái bờm sóng đúng luồng rồi, bám chắc lấy
luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh”. Đó là ông lái đò phải kinh nghiệm
lắm mới nắm được những quy luật trận địa mà sông Đà đã tạo ra.
Dường như sông Đà đoạn thượng nguồn ấy muốn “nuốt chửng” bất cứ con đò nào đi
ngang qua đây. Ngay cả khi gần đi đến cửa sinh “bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước
bên bờ trái liên xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”. Nguyễn Tuân đặc tả
một cách rõ nét khuôn mặt của những bãi đá ở sông Đà “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất
vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy”.
Vẻ đẹp hung bạo của con sông Đà có lẽ chẳng thể nào quên. Dù đôi lúc nó cuồng nộ,
giận dữ như những con quái vật sông, nó mang cho người ta cảm giác ghê rợn. Nhưng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
đó là một vẻ đẹp cực kỳ hào hùng, kiêu hãnh. Và cũng chỉ có ngòi bút của Nguyễn
Tuân mới lột tả hết được cái vẻ đẹp kiêu sa, hùng vĩ đó.
Bằng cái nhìn chân thực, ngôn từ tinh tế, chắt lọc, Nguyễn Tuân đã phần nào cho
người đọc thấy sự cuốn hút mà con sông Đà mang đến. Đọc những dòng tùy bút của
tác giả về sông Đà giống như ta được trực tiếp ở đó, cảm nhận sự hung bạo đến đáng
sợ của nó. Chính sự hung bạo, gầm gừ của dòng sông là điều đã để lại ấn tượng sâu
sắc cho người đọc. Có lẽ Nguyễn Tuân thực sự đã tìm được thứ “vàng mười” mà ông ngày đêm theo đuổi.
Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà - Mẫu 6
Kho tàng văn học Việt Nam đã ghi dấu và vang danh bao nhà văn, nhà thơ tài năng.
Một trong số đó phải kể đến Nguyễn Tuân - một cây bút tài hoa với những sáng tác
nổi bật. Ông được coi là một trong những nhà văn thành công nhất ở mảng tùy bút.
Tiêu biểu trong những sáng tác của ông phải kể đến là tùy bút Người lái đò Sông Đà.
Con sông Đà hiện lên với vẻ đẹp hung bạo, dữ dội gây ấn tượng sâu sắc với bạn đọc.
Dữ dội của sông Đà không phải chỉ có thác đá mà nó còn là cảnh đá bờ sông dựng
vách thành hiềm trở, có vách đá chẹt dòng sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên
này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt
từ bên bờ này sang bên kia. Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Tác
giả sử dụng nhiều giác quan (thị giác, xúc giác) để cảm nhận quãng sông này. Không
chỉ mặt nước mà cảnh vật cũng vô cùng hiểm trở, sẵn sàng lấy đi tính mạng của người khác.
“Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè
suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà… Quãng này mà
khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”. Sự nguy hiểm của sông Đà dài
hàng cây số tít tắt cuồn cuộn, có thể đánh gục cả con thuyền và người lái đò. Nguyễn
Tuân đã sử dụng nhiều câu văn ngắn, điệp từ, điệp cấu trúc gợi lên nhịp chuyển động
gấp gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau, tạo thêm nét hung bạo của sông Đà.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
Đoạn tà Mường Vát trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê
tông thả xuống dòng sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cái
cửa cống bị sặc... những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều
thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống.
Nhiều biện pháp so sánh, liên tưởng, nhân hóa độc đáo được tác giả sử dụng để gợi
lên cảm giác về những mối nguy hiểm của sông Đà.
Có thể thấy, vẻ hung bạo, dữ tợn này khiến cho người khác phải e sợ nhưng nó lại là
một nét nổi bật làm cho người ta nhớ đến sông Đà hơn bất kì thứ gì hết. Nhiều năm
tháng qua đi nhưng vẻ đẹp hung bạo, dữ tợn của dòng sông Đà dưới ngòi bút của
Nguyễn Tuân cũng như vẻ đẹp của sông Đà nói chung vẫn còn nguyên vẹn và sống
mãi trong lòng bạn đọc với một dấu ấn riêng biệt không gì sánh bằng.
Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà - Mẫu 7
Trong tập tùy bút Sông Đà, Nguyễn Tuân đã khắc họa được nhiều bức tranh thiên
nhiên sinh động, hấp dẫn của vùng núi rừng vừa hùng vĩ, hiểm trở, vừa tuyệt vời thơ
mộng ở phía Tây Bắc của Tổ quốc. Dưới ngòi bút của nhà văn, miền đất này hiện lên
thật tươi đẹp với những núi xa, núi gần miên man như trùng vi thạch trận, với những
thung lũng vàng một màu lúa chín, với bao nhiêu loài hoa tỏa hương sắc...Nhưng tiêu
biểu nhất, được nhà văn tập trung bút lực mô tả công phu nhất, phải kể đến hình ảnh
con sông Đà hùng vĩ vừa hung bạo vừa nên thơ trong tùy bút Người lái đò sông Đà.
Sông Đà được nhà văn xây dựng thành một “nhân vật” có mặt suốt từ đầu đến cuối
thiên tùy bút, tạo nên giá trị độc đáo của tác phẩm này. Dưới ngòi bút tài hoa và uyên
bác của Nguyễn Tuân, sông Đà không còn là một con sông vô tri, vô giác, mà là một
“nhân vật” có cá tính, có tâm trạng, có hoạt động thật phong phú và phức tạp. Tác giả
đã nhận xét khái quát: đây chính là con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Hai đặc
điểm hung bạo và trữ tình này được nhà văn triển khai trong suốt cả bài tùy bút.
Cái hung bạo của sông Đà không chỉ ở những con thác, mà còn ở quang cảnh hùng vĩ
với vẻ huyền bí, hoang sơ của dòng sông chảy giữa điệp trùng rừng núi Tây Bắc. Như
một nhà quay phim lão luyện, vừa cho người xem thấy bao quát khung cảnh sông Đà,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
thỉnh thoảng tác giả lại dừng lại, cho khán giả những pha “cận cảnh” thật tiêu biểu về
sự hung dữ của con sông này.
Đấy là những cảnh thật hiếm thấy như cảnh đá bờ sông dựng vách thành, chỉ khi nào
đến giữa trưa, mặt trời rọi đúng đỉnh đầu, chỗ ấy mới có ánh nắng. Cách so sánh trên
tạo được ấn tượng khá đậm nét về vách đá dựng đứng với độ cao hun hút khôn cùng.
Có chỗ vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Vì thế, dòng chảy của
con sông bị thu lại rất hẹp: hẹp đến mức đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên
kia vách; hẹp đến mức có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia.
Ấn tượng về độ cao và thẳng của vách đá bờ sông và dòng chảy nhỏ hẹp càng được tô
đậm thêm qua một chi tiết tiêu biểu và lối liên tưởng bất ngờ, thiên nhiên hoang sơ
gần với đời sống hiện đại của con người: Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang
mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà... ngóng
vọng lên một khung cửa sổ nào từ cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.
Nhà văn chẳng những sử dụng thị giác, mà còn kết hợp sử dụng các giác quan khác
với những so sánh thật mới mẻ và táo bạo. Vách thành dựng đứng gợi lên sự hiểm trở,
hùng vĩ, lòng sông hẹp lại gián tiếp gợi được sức chảy ghê gớm, dữ dằn của thác lũ.
Tính chất hung bạo còn thể hiện qua cái dữ dằn của ghềnh sông với sự hợp sức của
gió, của sóng và của đá. Dường như chúng phối hợp với nhau một cách chặt chẽ để
tăng thêm sức mạnh uy hiếp, đe dọa con người: quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng
cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm
như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy. Ở
đây, một phần câu vãn như bị chặt đứt ra thành nhiều khúc ngắn, gọn, diễn đạt bỗng
điệp từ, điệp cấu trúc và tăng tiến, tạo nhịp điệu khẩn trương, dồn dập, gấp gáp như sự
chuyển động của gió to và sóng lớn.
Hung bạo hơn nữa là những cái hút nước khủng khiếp: trên sông bỗng có những cái
hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Vì
nước bị hút quá mạnh nên phát ra những âm thanh được nhân cách hóa như nước thở
và kêu như cửa cống cái bị sặc do nước bên trong và ngoài cống chênh nhau quá
nhiều, phát ra tiếng kêu ọc ọc ghê sợ. Để tô đậm thêm sự nguy hiểm của cái hút nước,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
nhà văn đã phối hợp giữa “tả” và “kể”, ở đây, yếu tố tự sự góp phần quan trọng kích
thích trí tưởng tượng của người đọc. Nếu câu văn nêu trên thiên về tả thì hai câu dưới
đây thiên về kể: Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý... ở khuỷnh sông dưới.
Sông Đà còn hung bạo ở những thác nước. Nhiều thác nước như bày sẵn thế trận, sẵn
sàng chặn đánh, tiêu diệt người lái đò, lái mang, đặc biệt đối với những ai xuôi dòng,
ở những nơi này, sông Đà được mô tả như có cả một bầy thuỷ quái vừa hung hăng,
bạo ngược, vừa nham hiểm, xảo quyệt. Lúc thì thác nước khiêu khích, chế nhạo; khi
thì hò la, gầm thét, như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre
nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn trâu da cháy
bùng bùng. Thác nước càng được nhân thêm sức mạnh, sức công phá, nhân thêm mối
nguy hiểm đối với nhà đò vì sự góp mặt của hàng ngàn tảng đá to, nhỏ. Mỗi hòn đá
được khắc họa như một quái vật từ ngàn năm vẫn kiên trì mai phục ở nơi đây để bày
thạch trận trong lòng sông.
Mỗi lần thấy một con thuyền nào nhỏ vào đường ngoặt sóng là chúng lập tức nhổm cả
dậy để vồ lấy thuyền. Tác giả đã dựng dậy và thổi sự sống vào cho những hòn đá vô
tri giác, khiến người đọc hình dung chúng cũng táo tợn, hung bạo như một lũ giặc điên
cuồng. Dưới ngòi bút của người nghệ sĩ ngôn từ, vẻ đẹp man dại, sức mạnh huyền bí
của sông Đà đã hiện ra ở nhiều góc độ khác nhau. Đấy chính là tiềm năng to lớn của
Đà giang khi nó được con người chinh phục. Đấy là “vàng trắng” quý báu của đất
nước chúng ta. Chính vì vậy, Nguyễn Tuân nghĩ tới hình ảnh của những tuốc bin thủy
điện. Điều đó cũng có nghĩa là nhà văn nghĩ tới vai trò, vị trí của sông Đà trong sự
nghiệp công nghiệp hóa đất nước.
Tóm lại, bằng một tình yêu thiên nhiên đất nước thiết tha, bằng tài năng của một nghệ
sĩ ngôn từ đích thực, đến Nguyễn Tuân, có lẽ lần đầu tiên con sông Đà của Tổ quốc đã
bước vào văn học với vẻ dữ dội, hùng vĩ, hoang sơ nhưng cũng chứa chan thơ mộng,
trữ tình của nó. Thì ra, với tác giả Người lái đò sông Đà, thiên nhiên cũng chính là
một sản phẩm nghệ thuật vô giá, thiên nhiên luôn làm cho con người bị hấp dẫn, mê say.
Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà - Mẫu 8
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
Nguyễn Tuân là một nhà văn với lối viết truyện rất độc đáo và uyên bác, là một nhà
văn rất tài hoa của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm "Người lái đò sông Đà" là tác
phẩm tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác của ông, được lấy cảm hứng từ chuyến đi thực
tế của Nguyễn Tuân tới miền Tây Bắc của Tổ quốc, khi mà sông Đà chuẩn bị trở
thành "dòng sông ánh sáng". Hình tượng con sông Đà qua con mắt nhìn của nhà văn
không chỉ mang một vẻ đẹp trữ tình mà còn mang tính cách đầy hung bạo, dữ dội vô cùng.
Sông Đà là dòng sông nằm ở phía Tây bắc, nơi mà mọi con sông đổ về phía Đông còn
riêng sông Đà lại đổ ngược lên hướng Bắc:
"Chúng thuỷ giai đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu"
Nó chảy xuyên suốt những cánh rừng lớn, giữa những dãy núi cao vút, vậy nên, sông
Đà mang trong mình sự hung bạo, dữ dội với những thác ghềnh, xoáy hút kinh người.
Nó giống như một thực thể sống với những tính cách và tâm trạng riêng của mình.
Tính cách hung bạo của dòng Đà giang đầu tiên phải kể tới là nơi vách đá bờ sông
dựng vách thành. Đây là nơi mà dòng chảy của Đà giang tách đôi dãy núi mở đường
tiêng. Vậy nên, hai bên dòng sông là hai vách núi đã dựng đứng, đẹp hùng vĩ nhưng
cũng hiểm trở vô cùng. Nhà văn đã so sánh vách đá chẹt dòng sông như cái một "yết
hầu" làm cho chúng ta liên tưởng mà thấy được độ hẹp cũng như sự dữ dội hiểm trở
của khúc sông Đà nơi ấy. Mặt sông hẹp đã khiến "đúng giờ ngọ mới có mặt trời", tức
là đúng giữa trưa, khi mặt trời đứng bóng mới có thể thấy được mặt trời ở nơi đây.
Thêm vào đó, Nguyễn Tuân còn dùng hình ảnh "Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá
qua bên kia vách" để miêu tả độ hẹp đầy nguy hiểm của dòng Đà Giang. Tuy thế
nhưng điều đó lại khiến cho Đà giang có một vẻ đẹp kì vĩ vô cùng. Nguyễn Tuân đã
sử dụng một sự liên tưởng rất độc đáo để miêu tả về độ nguy hiểm của dòng sông Đà,
đó là "ngồi trong khoang đò mà qua chỗ ấy" giống như "đứng trong một cái ngõ hẻm"
mà ngóng vọng "lên một khung cửa sổ nào đó vừa tắt phụt đèn điện". Sông Đà khi ấy
vừa mang cái bóng tối thăm thẳm lại vừa thấy sâu hun hút, cao vời vợi, khiến con
người không khỏi cảm thấy rợn ngợp "mùa hè mà cũng thấy lạnh".
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
Thế nhưng, sông Đà đâu chỉ có một khúc hẹp nguy hiểm nhường ấy, sự hung bạo còn
đến ở nơi mặt ghềnh Hát Loóng. Ghềnh là nơi mặt sông đột ngột nâng cao lên mặt
nước khiến cho mục nước tại nơi đó cạn hơn so với những chỗ khác. Và con sông Đà
thì có vô số ghềnh đá như vậy. Thế nên "Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng,
sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt".
Một câu văn chứa đầy giá trị tạo hình và nghệ thuật miêu tả! Nguyễn Tuân đã dựng
lên hình ảnh một sông Đà đẹp hùng vĩ mà cũng hoang vu, dữ dội, hung bạo vô cùng.
Một khúc sông mà chỉ có ba thế lực "đá, sóng, gió" ngự trị, gầm ghè, so kè với nhau.
Điệp từ "xô" trong câu văn cũng khắc hoạ một sự hung bạo, ầm ào của những sóng,
những đá, những gió nơi mặt ghềnh này. Gió ở nơi đây cũng không còn là thế lực vô
hình, bơi nó "cuồn cuộn từng luồng", và còn "gùn ghè" đầy đe doạ nữa.
Trôi tiếp trên dòng sông Đà, người ta vẫn thấy được sự hung bạo trong tính cách của
nó khi bắt gặp cái hút xoáy ở quãng Tà Mường. Đây là nơi mà người ta có thể chứng
kiến được sự hung bạo đến khủng khiếp của một cái hút xoáy giống như "cái giếng bê
tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu". Cái hút xoáy vừa to vừa sâu, thậm
chí còn "thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước". Sự nhân hoá tài hoa của Nguyễn
Tuân khiến cho cái hút xoáy ở Tà Mường như một con thuỷ quái khổng lồ từ thời xa
xưa. Và thêm vào đó, Nguyễn Tuân còn tô đậm tính cách hung bạo của Đà giang của
nghệ thuật cường điệu. Những bè gỗ rừng trôi trên mặt sông "nghênh ngang" "đi qua"
cái hút xoáy đó liền bị "lôi tuột xuống" với một sức mạnh to lớn và khủng khiếp vô
cùng. Con thuyền thì nhỏ bé, chỉ biết men qua, thế nhưng cũng ngay lập tức bị "trồng
cây chuối ngược", biến mất dưới lòng sông, bị đánh cho tả tơi, khi nổi lên thì chỉ thấy
tan tác. Cái hút xoáy hung bạo là thế nhưng lúc xuân về lại mang một vẻ đẹp vô ngần.
Nó khiến cho người nghệ sĩ quay phim không thể chối từ, bất chấp cả sự nguy hiểm đến tính mạng.
Thế nhưng nơi phô bày tất cả sự hung bạo của sông Đà phải nói tới thác đá của sông
Đà. Đó là nơi phô diễn một vẻ đẹp kì vĩ mà cũng không kém phần dữ dội.Sông Đà với
73 con thác lớn nhỏ nhưng Nguyễn Tuân chỉ chọn một dòng thác để miêu tả. Bằng
kiến thức uyên bác, Nguyễn Tuân đã dựng lên hình ảnh của thác đá sông Đà đầy ấn tượng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
Nguyễn Tuân đã miêu tả hình ảnh của thác đá từ xa tới gần, từ âm thanh tới hình ảnh
"còn xa lắm mới đến cái thác dưới" nhưng âm thành tiếng nước va vào đã đã khiến
người ta phải rợn người. Nó "réo gần mãi lại réo to mãi lên" như tiếng người trong
cơn giận dữ"giọng gằn và chế nhạo". Tới gần thì âm thanh đó biến thành tiếng "rống",
tiếng gầm thét của hàng ngàn con trâu mộng đang trong cơn tuyệt vọng giữa rừng lửa
và đàn trâu "da cháy bùng bùng". Tiếng trâu đau đớn rống lên trong tuyệt vọng, tiếng
lửa cháy ào ào với sức mạnh man dại nhất chính là thứ âm thanh mà thác đá của sông
Đà đang vang lên. Có thể thấy, sự dữ dội và hung bạo của dòng sông Đà quả thực vô cùng khủng khiếp.
Thác đá sông Đà hiện lên trước mắt du khách là một vẻ đẹp hùng vĩ, hoang sơ với
"sóng bọt đã trắng xóa cả chân trời đá". Cả một khúc sông mênh mông , rộng lớn mà
chỉ có hai thế lực ngự trị là sóng thác và đá thác. Tất cả đang gầm thét, tung bọt trắng
xóa đất trời. Với con mắt của một nhà quân sự, Nguyễn Tuân như thấy sông Đà đang
"dàn bày thạch trận trên sông". Mỗi viên đá trên sông trở thành một lính đá, tướng đá
"mặt máy ngỗ ngược", "bệ vệ oai phong lẫm liệt". Không chỉ vậy, đá trên sông Đà
dường như nắm được cả binh pháp, chúng dựng lên trận địa đá "làm ke chìm, pháo đài
nổi" vô cùng nguy hiểm với la liệt những cửa tử cửa sinh. Đá trên sông Đà với tâm thế
của "thứ kẻ thù số một của con người" nên chúng đã nham hiểm mà bố trí những cửa
sinh cửa tử lắt léo. Vòng vây thứ nhất với "bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm ở
tả ngạn sông", vòng hai thì cửa sinh lại lệch sang bờ "hữu ngạn". Vòng thứ ba thì hiểm
nguy hơn, cửa sinh năm ở "giữa những luồng nước chết". Chúng còn đánh lừa con
thuyền bằng cách tạo ra một của đá "trông như là sơ hở" để con thuyền đi vào rồi mới đánh úp nó.
Bằng con mắt của mình, Nguyễn Tuân đã dựng lên một thác đá sông Đà sống động
như những sinh vật có tâm địa nham hiểm, luôn rình rập con người. Tính cách của
chúng hung bạo và dữ dội nhất cả dòng sông. Dòng thác sông Đà thì như một con quái
vật khổng lồ mà người lái đò buộc phải vật lộn với sự hung bạo của nó. Những con
sóng như " quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông
thuyền" hay "bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò" để đánh "hồi hùng, đòn tỉa, đòn âm".
Nguyễn Tuân đã sử dụng nghệ thuật nhân hoá và dày đặc những thuật ngữ võ thuật
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
kết hợp với nghệ thuật miêu tả, kể chuyện đặc sắc đã đem đến cho người đọc cảm
nhận về thế giới thiên nhiên đầy hung bạo của con sông Đà.
Con sông Đà là "khởi nguồn của ánh sáng", mang những vẻ đẹp dịu dàng, êm ả, thế
nhưng, cũng có lúc nó trở mình với tính cách hung bạo và dữ dội khủng khiếp vô
cùng. Qua từng dòng chữ của mình, Nguyễn Tuân đã tái hiện một sông Đà với tính
cách hung bạo thế nhưng lại vô cùng kì vĩ, một vẻ đẹp mà hiếm dòng sông nào ở Việt Nam có thể sánh bằng.
Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà - Mẫu 9
Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nhà văn ưa cảm giác mạnh. Với Nguyễn, đã là
đẹp phải đẹp tuyệt mĩ, đã là dữ dội phải dữ dội đến khác thường, đến tột đỉnh. Ông
không thích những gì tầm thường. Con sông Đà đáp ứng được hai xúc cảm của
Nguyễn Tuân vì con sông Đà mang trong mình hai tính cách trái ngược nhưng thống
nhất với nhau. Ở phần thượng lưu, con sông vô cùng hung bạo, dữ dội.
Sự hung bạo của Đà giang đã được Nguyễn Tuân thể hiện một cách rất tài tình trong
thiên tùy bút này. Sông Đà hung bạo, lắm thác nhiều ghềnh:
“Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh” (Ca dao)
Sự hung bạo ấy còn được thể hiện qua dòng chảy ngỗ ngược của nó: “Chúng thủy giai
đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”, một dòng chảy riêng, không khuôn mình vào lẽ
thường. Như đã nói ở trên, sông Đà bắt nguồn từ Trung Quốc, xin nhập quốc tịch Việt
Nam. Nó phải trải qua rất nhiều triền núi đá. Vì vậy, ở phần thượng lưu của sông Đà
có rất nhiều thác dữ, nhiều luồng chết, nhiều vực xoáy… Từ đó, Nguyễn đã tìm thấy
những tính cách hung bạo khác thường của dòng sông. Nhưng khi xuôi về phần hạ
lưu, lòng sông như được mở rộng ra, con thác không còn nữa, dòng nước trôi êm đềm,
hiền hòa qua đôi bờ cỏ cây tươi tốt và sông Đà lại hiện lên vô cùng lãng mạn, thơ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
mộng, trữ tình. Ngoài ra, Nguyễn nhìn thấy sự hung bạo của con sông Đà không chỉ
tập trung ở thác dữ, ở luồng chết, ở vực xoáy. Ông còn nhìn thấy sự hung bạo ấy ở
những quãng sông huyền bí, hoang vu đặt giữa điệp trùng của núi rừng Tây Bắc.
Cái hùng vĩ, sừng sững của sông Đà được thể hiện ngay ở cảnh đá bờ sông: “đá bờ
sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá
thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá
qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi
trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như
đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên các tầng nhà
thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
Cảnh đá bờ sông được miêu tả dựng vách thành, sự so sánh và liên tưởng khá độc đáo
khiến con sông Đà hiện ngay ra trước mắt người đọc như thành quách sừng sững,
đứng án ngữ ngay trước mặt những du khách khi đặt chân đến đây. Bằng nghệ thuật
so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm của dòng sông, một nơi hẹp
như thế mà lưu tốc dòng nước vốn nhanh bây giờ lại xiết hơn nữa. Cứ thử tưởng tượng
con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến không được, lùi cũng không xong chỉ
chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi.
Nguyễn Tuân cho người đọc cảm nhận bằng trực cảm như chính mình được lái đò qua
quãng sông hẹp với những vách đá dựng đứng hai bên. Cái lạnh rợn người được so
sánh như ta đang đứng giữa mùa hè mà ngột ngạt bởi cái chật hẹp, tối đến bất ngờ và
sâu thăm thẳm như đứng ở dưới một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào
trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện. Một câu văn tràn dòng với
những liên tưởng của liên tưởng cho thấy sự tài hoa và uyên thâm trong việc sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn.
Cũng như đá bờ sông, thì“quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá,
đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi
nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua quãng ấy”. Bằng kết cấu trùng
điệp: nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” tác giả đã làm rõ sự nguy hiểm của con
sông hung dữ, sẵn sàng lấy đi tính mạng bất cứ tay lái nào khinh suất. Không có từ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
nào trực tiếp tả ghềnh đá nhưng người đọc hình dung rõ diện mạo con sông. Quãng
dài ghềnh đá nổi trên mặt sông, nước mạnh xô ghềnh tạo sóng dữ, sóng cuộn trào sinh
ra gió thổi rít lên gùn ghè, gùn ghè quanh năm suốt tháng. Con sông đến đây đã trở
thành một kẻ thù nguy hiểm của con người. Với nghệ thuật nhân hóa, con sông như
một kẻ thù tính khí thất thường, đòi nợ vô duyên cớ không bỏ sót một ai. Ấy mới thấy
hết cái hung bạo của sông Đà. Sự kết hợp ngẫu nhiên hay có lựa chọn giữa tên địa
danh với đặc điểm của sông Đà ở quãng sông này? Chỉ biết khi Nguyễn tả luồng gió
gùn ghè nơi mặt ghềnh lại nằm đúng vị trí Hát Loóng. Đọc tên địa danh mà phải nén
hơi, uốn lưỡi như chính như
chính mình vừa phải đi qua chỗ nước giữ, với sóng, với đá, với ghềnh thác của sông Đà.
Những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La lại ghê rợn hơn nữa.
“Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng
đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút
nước ấy, thuyền nào qua cũng trèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số
ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh
và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên
như vừa rót dầu sôi vào. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng
ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi
phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Những cái bẫy ghê sợ, chết người!
Vẫn là nghệ thuật so sánh liên tưởng độc đáo kèm theo biện pháp nhân hóa nước biết
thở và kêu nghe đã đủ cho người đọc rùng mình nhưng Nguyễn Tuân không dừng lại
ở đó mà tiếp tục thử độ lì trong giác quan của người đọc khi so sánh và liên tưởng với
cái cửa cống cái bị sặc nước. Khi dòng chảy siết, nó thở và kêu, nhưng kêu như thế
nào thì nhà văn lại tiếp tục tả những cái hút nước ở độ sâu: cái hút xoáy tít đáy, như
cái giếng sâu cho thấy độ mạnh của dòng nước; với bề rộng: quay lừ lừ như những
cánh quạ đàn; rồi âm thanh: những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi
vào, cuối cùng là độ nguy hiểm: Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền
trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến
mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới. Hình ảnh sông Đà qua ngòi bút
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
của Nguyễn, có lẽ không chỉ làm những người lái đò qua đây cảm thấy rùng rợn mà
chính người đọc cũng như vừa tự mình chèo thuyền qua quãng sông này mà thử cảm
giác. Thế nên khi chèo thuyền men qua những vực nước sông Đà cần phải chèo nhanh
để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng
đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Cảm giác lạnh người và rợn tóc gáy vì câu văn tác
động mạnh mẽ vào trực cảm của người đọc.
Cho cảm giác thật đến từng mi-li-mét nhà văn sử dụng trường liên tưởng trùng điệp.
Khi nhập vào vai một anh thợ quay phim táo tợn muốn truyền cho người đọc cảm giác
lạ đã dũng cảm ngồi vào một chiếc thuyền thúng rồi thả mình và thuyền văng xuống
cái hút nước sông Đà. Nhìn từ đáy cái hút nước ấy nhìn lên vách thành hút chênh nhau
đến vài sải tay. Người xoay theo thuyền cả thuyền, người, máy ảnh quay tít. Nhìn lên
nước sông Đà trong cái hút ấy làm bằng một màu xanh ngọc bích của một khối pha lê
đúc dày như sắp vỡ tan ụp vào cả người quay lẫn người xem, khiến ai cũng như đang
khiếp hãi để ngồi ghì lấy cái mép lá rừng vừa bị cho vào cái cốc pha lê mà quay tít
như vừa rút ra cái gậy đánh phèn. Liên tưởng của liên tưởng để người đọc có thể cảm
nhận rõ nhất. Phải có sự am hiểu về kiến thức trong lĩnh vực điện ảnh thì Nguyễn mới
có thể viết được những câu văn như thế. Câu chữ như đang nở hoa trên dòng sông Đà
và trên trang văn của Nguyễn.
Tiếng thác réo nghe càng ghê sợ hơn! “Như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi
lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Tiếng thác rống như tiếng một ngàn
con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng
lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Nghệ thuật so sánh,
nhân hóa tài ba cùng những liên tưởng “rất đắt”, Nguyễn Tuân đã cho thấy một cảnh
tượng thác nước hùng vĩ, nguy hiểm tận độ. Lần đầu tiên trong thơ văn có người lại
dùng lửa để miêu tả nước, hai nguyên tố có sức hủy diệt rất lớn lại luôn tương khắc
với nhau, có nước thì không có lửa, ngược lại, có lửa thì không có nước. Vậy mà
Nguyễn Tuân đã làm được điều đó như một nghệ sĩ bậc thầy! Trước mắt người đọc là
cả một rừng vầu, tre nứa hàng ngàn cây đang bị đốt cháy và phát ra tiếng nổ nhưng
chưa hết, trong khu rừng vầu, rừng tre đang cháy ấy lại được thả vào đó hàng ngàn
con trâu mộng to khỏe, nên khi da của chúng bị đốt cháy và nóng thì chúng sẽ lồng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
lộn mà phá tan rồi tìm đường thoát thân. Khi chạy, nó va đập mạnh vào những cây tre,
cây nứa tạo nên những tiếng nổ lớn, liên hoàn như âm thanh vang la não bạt, kinh
thiên động địa. Hình ảnh của Nguyễn tác động mạnh mẽ lên hệ thần kinh người đọc
để mang đến cảm giác chân thực và sống động nhất. Con sông ấy như một kẻ lắm
mưu, nhiều kế để khiêu khích người lái đò. Nó biết: oán trách, van xin, khiêu khích,
giọng gằn mà chế nhạo. Bộ mặt và tâm địa của một người xấu xa, lắm mưu, nhiều kế
– kẻ thù số một của con người.
Phối hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm là “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân
trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông. Mặt hòn đá nào
trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ
này”. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi
nguy hiểm. Khi miêu tả thạch trận đá tác giả đã vận dụng rất nhiều kiến thức trong
lĩnh vực quân sự, thể thao để làm rõ đối tượng miêu tả.
Trùng vi thứ nhất: Sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh
nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là
sơ hở, thực chất chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Ở trùng vi thứ
nhất này sóng nước đóng vai trò chính để tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa vào trận địa,
chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp: “Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào
mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào
sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền
lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa
trận nước vang trời thanh la não bạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc
nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Trận chiến
đầu, sóng nước là tuệ binh mà con sông tung ra để thử thách người lái đò. Nhưng
bằng sự mưu trí, dũng cảm, ông lái đã vượt qua dễ dàng.
Vượt qua trùng vây thứ nhất, ông lái đò phải đương đầu với trùng vi thứ hai: “Tăng
thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ
hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi
chiếc thuyền”. Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu
khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè
thất vọng”. Bọn đá, sóng nước dở những món đòn hiểm độc và tinh vi nhất!
Đến trùng vi thứ ba: Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng
sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những
boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền. Làm ta
liên tưởng đến một trận đấu bóng quyết liệt. Chiếc thuyền như một cầu thủ phải phóng
thẳng, chọc thủng cửa giữa, vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, và như
một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên được vừa tự động lái được lượn
được, tiến về phía khung thành và cuối cùng đã hết thác. Trận bóng đã thắng lợi về
phe người lái đò tài ba với “tay lái ra hoa”.
Con Sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược biết bày thạch trận, thủy
trận hòng tiêu diệt thuyền bè trên dòng nước, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện
mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một”. Con sông mà “hằng năm và đời đời kiếp kiếp
làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái
đò Sông Đà”. Chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh
Thủy Tinh “Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen.
Viết về Đà giang, ngòi bút của Nguyễn Tuân vô cùng phóng túng, thoải mái bởi
“Người Lái Đò Sông Đà” được viết bằng thể loại tùy bút. Ông chẳng khác nào một
nhà quay phim lão luyện. Có khi ống kính của nhà văn tiếp cận con sông Đà từ phía
viễn cảnh. Có đôi lúc, ống kính của nhà văn lia vào để quay cận cảnh từng quãng sông
hẹp, cắt từng đoạn sông để mô tả cái sự hung bạo của những đoạn sông với hình ảnh
“đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.”
Thậm chí có những đoạn “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu.
Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã
có lần vọt từ bờ này sang bờ kia.”
Viết về con sông Đà hung bạo, tác giả sử dụng những câu văn rất ngắn, huy động chủ
yếu kiến thức võ thuật và quân sự để miêu tả sự vận động của dòng nước. Ông cũng
cảm nhận con sông bằng nhiều giác quan để kích thích trí tưởng tượng của độc giả.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
Ở đây, ta thấy xuất hiện những câu văn rất ngắn gồm toàn thanh trắc với hơn 300
động từ mạnh cùng kết cấu điệp trùng miêu tả sự khẩn trương, gấp gáp của nước, của
đá, của sóng và của gió. Thể hiện rõ nhất đó là đoạn mặt ghềnh Hát Loóng: “dài hàng
cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm
như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy.” Ta
còn thấy Nguyễn Tuân tập trung vào miêu tả sự hung bạo của Đà giang ở những hút
nước với cách liên tưởng vô cùng táo bạo. Đó là đoạn Tà Mường Vát ở phía dưới sông
La: “Có những con thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối
ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy
tan xác ở khuỷnh sông dưới.” Thêm vào đó, Nguyễn Tuân còn nhìn thấy sự hung bạo
ở mùa lụt của con sông Đà. Mùa lụt của sông Đà vẫn còn cái ngấn nước ở cổng châu
Quỳnh Nhai. Ngày lụt sông Đà, xác hươu, xác nai bằng gỗ Chò Vảy, Chò Hoa trôi
lềnh bềnh trên mặt sông. Nguyễn Tuân ví lúc này dòng sông Đà chẳng khác nào “kẻ
thù số một” của người dân Tây Bắc. Khi hung bạo thì cực kì nguy hiểm, tâm địa độc ác đến tột cùng.
Con sông Đà hung bạo đâu bởi thiên nhiên gây ra với: thác dữ, những luồng chết, vực
xoáy mà Nguyễn Tuân còn thấy đó là do con người. Đó chính là bọn thổ ti lang tạo đã
đắp bến chia ngăn dòng sông Đà, khiến con sông trở nên trái tính, trở thành kẻ thù của
người dân Tây Bắc. Đó còn là bọn thực dân Pháp đóng đồn bốt ở hai bên bờ sông
khiến Đà giang trở nên càng hung bạo. Rõ ràng, con sông Đà mang cốt cách của
người dân Tây Bắc. Nhìn rộng ra, ta thấy những con sông hầu như đều mang nét đẹp
văn hóa vùng miền nơi nó đi qua.
Nếu “sông Hương” của Hoàng Phủ Ngọc Tường mang vẻ đẹp trầm mặc của cố đô và
người dân Huế thì con sông Đà lại là biểu tượng, lại mang cái văn hóa của người dân
Tây Bắc. Như vậy, có thể khẳng định Đà giang qua ngòi bút của Nguyễn Tuân hiện
lên dữ dội đến khác thường, tột đỉnh, thể hiện rất rõ phong cách rất riêng của Nguyễn
Tuân –một phong cách rất “ngông”.
Phân tích sông Đà hung bạo - Mẫu 10
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
Trong lịch sử nhân loại, mỗi dòng sông lớn đều bồi đắp nên một nền văn minh. Trong
địa hạt văn học Việt Nam, mỗi dòng sông đều gắn với một phong cách nghệ thuật. Ta
đã được chiêm ngưỡng một dòng sông mênh mông, hoang vắng, buồn man mác, thấm
đẫm nỗi nhớ nhà trong “Tràng giang” của Huy Cận; hay một khung cảnh đìu hiu, cách
biệt của thiên nhiên sông nước Kinh Bắc trong “Bên kia sông Đuống” của Hoàng
Cầm. Nếu những bài thơ trên chỉ là điều kiện, là khách thể để các nhà thơ bày tỏ lòng
mình thì đến với Người lái đò sông Đà, người đọc mới cảm nhận được rõ nét về một
tác phẩm viết về một dòng sông thực sự. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, hình
ảnh dòng sông “độc bắc lưu” hiện lên với những vẻ đẹp độc đáo. Trên cái nền thiên
nhiên kì vĩ ấy, Nguyễn Tuân cũng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ trong
những người lao động bình thường mà ông luôn gọi là “chất vàng mười đã qua thử
lửa” bấy lâu mình vẫn khao khát, kiếm tìm.
“Người lái đò sông Đà” được sáng tác vào năm 1958 và được in vào tập “Sông Đà”
năm 1960. Trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng lớn
không chỉ thỏa mãn khát khao xê dịch mà chủ yếu là tìm kiếm chất vàng của thiên
nhiên Tây Bắc và thứ vàng mười đã qua thử lửa nơi tâm hồn con người
Mở đầu bài là lời đề từ “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”. Khẳng
định nét độc đáo của dòng sông Đà: Mọi con sông đều chảy về hướng Đông, chỉ có
sông Đà chảy theo hướng Bắc khẳng định cá tính độc đáo của Nguyễn Tuân trong
dòng sông văn chương: Một nhà văn có ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân, về bản ngã,
về cá tính riêng trong sáng tạo nghệ thuật.
Nguyễn Tuân không khỏi làm ta ngỡ ngàng trước sự hùng vĩ, dữ dội của con Sông Đà.
Cảnh đá bờ sông dựng vách thành. Những vách đá cao vút, dựng đứng “Mặt sông chỗ
ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. Lòng sông nhỏ hẹp, lưu tốc dòng chảy lớn “Có
vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném
hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ
kia”. “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy
mình như đang đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên
cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm, bí ẩn của dòng sông. Một nơi lòng sông nhỏ
hẹp, lưu tốc dòng chảy lớn với những vách đá cao vút, vững chãi giờ đây đang trở nên
nguy hiểm vô cùng. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến
không được, lùi cũng không xong, chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi.
Quần thể thiên nhiên: nước, sóng, gió và đá sông Đà “Lại như quãng mặt ghềnh Hát
Loóng dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn
ghè suốt năm…”. Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô
gió” như mô phỏng hình ảnh những con sóng dữ cuồn cuộn chồm lên nhau theo chiều
ngang, vút lên cao theo chiều dọc rồi đổ ập xuống, cuồn cuộn ghê rợn trên mặt ghềnh.
Từ trên nhìn xuống mặt sông: những cái hút nước “như những cái giếng bê tông thả
xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”, “những cái hút xoáy tít đáy”. Từ dưới lòng
sông nhìn ngược lên: “thành giếng xây bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh
khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào”.
Những âm thanh ghê rợn “Nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “những cái
giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào” khủng bố tinh thần con người: “thở
và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”, sẵn sàng
nhấn chìm bất kì con thuyền nào không kịp chèo nhanh hay tay lái không vững, hoặc
bất kì bè gỗ nào vô ý khi đi qua chúng. “Không thuyền nào dám men gần những cái
hút nước ấy, thuyền nào cũng trèo nhanh để lướt quãng sông”, “chèo nhanh và tay lái
cho vững mà phóng qua cái giếng sâu”, “nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là
những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống”, “có những thuyền đã bị cái hút nó hút
xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới
lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Ám ảnh, đe dọa
con người, những âm thanh man rợ của sông Đà gợi liên tưởng đến một loài động vật
hung dữ, đang cuồng loạn tìm lối thoát thân. Hùng vĩ, choáng ngợp bởi một chân trời
đá với những bọt nước trắng xóa mờ đi trên mặt sóng“. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc
sông lượn, sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”.
Tác giả đã dùng kiến thức về quân sự, võ thuật, thể thao, thủ pháp nghệ thuật nhân
hóa, thậm xưng để làm nổi bật cái nham hiểm, xảo quyệt của sông Đà. Dưới ngòi bút
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
của Nguyễn Tuân, con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì “kẻ thù số một” của
con người. Chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh
Thủy Tinh: “Núi cao sông hãy còn dài/ Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”.
Phân tích con sông Đà hung bạo - Mẫu 11
Nguyễn Tuân đi nhiều, thăm thú cảnh vật khắp nơi, nhưng lần ấy đến thăm Tây Bắc,
ông ưng con sông Đà lắm! Hình như ông tìm được ở sông Đà một cái gì đó giống ông:
vừa bàng bạc, cao cường bí ẩn nhưng cũng vừa rất nhuần nhụy trữ tình. Thế là hành
trình khám phá sông Đà chẳng khác gì hành trình khám phá những bí ẩn của bản thân.
Ông nói thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ lắm nhưng cũng thơ mộng lắm! Tất cả dồn tụ lại
hợp nên hình ảnh sông Đà. Nguyễn Tuân ham khám phá. Thế nên vào thời điểm năm
1960, còn gì thú vị hơn khi được đến với sông Đà. Con sông vừa nguyên sơ lại đầy
tính cách (Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu).
Nguyễn Tuân đi nhiều, thăm thú cảnh vật khắp nơi, nhưng lần ấy đến thăm Tây Bắc,
ông ưng con sông Đà lắm! Hình như ông tìm được ở sông Đà một cái gì đó giống ông:
vừa bàng bạc, cao cường bí ẩn nhưng cũng vừa rất nhuần nhụy trữ tình. Thế là hành
trình khám phá sông Đà chẳng khác gì hành trình khám phá những bí ẩn của bản thân.
Ông nói thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ lắm nhưng cũng thơ mộng lắm! Tất cả dồn tụ lại
hợp nên hình ảnh sông Đà. Nguyễn Tuân ham khám phá. Thế nên vào thời điểm năm
1960, còn gì thú vị hơn khi được đến với sông Đà. Con sông vẫn nguyên sơ lại đầy
tính cách (Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu).
Nguyễn Tuân gặp sông Đà như hai người tri kỉ gặp nhau. Và như trên đã nói, viết về
sông Đà có một cái gì đó khiến ta liên tưởng Nguyễn Tuân đang viết về chính mình.
Phải chăng vì thế mà con sông hiện lên trong những trang tùy bút của nhà văn Nguyễn
cá tính vô cùng? Hung bạo là hung bạo nhất, còn thơ mộng thì cũng thơ mộng đến ngọn bến bờ.
Sông Đà là cái tên thượng nguồn của con sông (đoạn chảy đến Việt Nam). Đó là con
sông tiền sử nhất, nguyên sơ nhất ở miền Bắc nước ta. Đoạn thượng nguồn con sông
dữ dội và hung bạo lắm! Không chạy dọc cả con sông, Nguyễn Tuân chỉ dành hết bút
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
lực mà miêu tả sông Đà ở thượng nguồn. Nơi ấy sông Đà hiện lên sục sôi, nghiệt ngã và đầy thử thách.
Dữ dội của sông Đà không phải chỉ có thác đá mà nó còn là cảnh đá bờ sông dựng
vách thành hiềm trở. Ở khía cạnh này, con sông như một bờ hoang thời tiền sử. Chỗ
ấy hai bên bờ sông hẹp lại ngồi trong khoang đò qua quãng ấy... chỉ lúc đúng Ngọ mới
có mặt trời. Có chỗ, con nai con hổ đã từng có lần vọt qua bờ bên kia. Hay đại loại ta
cứ tưởng tượng như đang đi giữa một con phố hẹp ngóng vọng lên khung cửa sổ trên
các tầng nhà thứ mấy vừa tắt phụt đèn điện. Con sông trở nên hoang vắng cổ xưa và
có cái gì đó bí hiểm vô cùng.
Hùng vĩ của sông Đà còn ở tiếng gầm của thác: hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng,
sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gầm ghè suốt năm. Âm thanh của tiếng nước đổ
nghe như tiếng người. Cũng oán trách, cũng kêu van rồi lại khiêu khích giọng gằn mà
chế nhạo. Nguyễn Tuân tả sóng mà nghe như tác giả đang tả người vậy. Hay dòng
sông kia chính là nỗi niềm của dân tộc, là lời của cha ông vọng về từ phía quá khứ,
vọng về từ không biết bao nhiêu trận kịch chiến đã có trên sông?
Cả đoạn văn hầu như chỉ thấy Nguyễn Tuân sử dụng thủ pháp đối lập của văn học
lãng mạn để khơi gợi cho người đọc hết những hình dung về sự dữ dội của dòng sông.
Lúc ấy dòng sông không khác gì dòng lửa, bức bối, khó chịu, bứt rứt vô cùng. Tiếng
gầm thét của thác nước ngoài kia đang rống lên ầm ĩ như những ngàn con trâu mộng
đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa. Rồi những xoáy nước giống như
những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Có khi lại như hàng ngàn
con đom đóm đang châm lửa vào đầu ngọn sóng. Dòng sông dữ dội phi thường thật
nhưng nghe sao nó như đang gợi lên cái bất an của con người. Dòng sông cuộn mình
dữ dội như cuộc sống, như lịch sử nước Việt ta chẳng mấy lúc bình yên. Sau cách
mạng, cái nhìn thiên nhiên của Nguyễn Tuân thường gắn liền với cài nhìn con người,
cái nhìn lịch sử và dân tộc. Tùy bút này là một cái nhìn như thế.
Nói cái dữ dội, nghiệt ngã của dòng thác sông Đà, ta không thể quên những bãi đá. Mà
nói chính xác hơn, đó phải được coi là những thạch trận. Mỗi hòn có một tâm thế
riêng, một nhiệm vụ, một tính cách như chính con người vậy. Đá cũng chia thành ba
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
hàng mà chặn ở trên sông. Có hòn làm nhiệm vụ như mồi nhử cá thuyền. Hòn khác lại
là một boong ke. Rồi hòn làm nhiệm vụ tấn công bệ vệ oai phong lẫm liệt. Tất cả tạo
thành một thế trận không chỉ để đe dọa nhà đò mà khiến cả chúng ta, mỗi khi đọc đến
đây hẳn không ít thì nhiều đều nghĩ nó như một chiến trường cổ xưa thực sự. Vậy phải
chăng những hòn đá với nhiều tâm thế kia chính là những người lính biên cương luôn
nhấp nhổm lo lắng chẳng bao giờ yên được? Dòng sông càng miêu tả, càng giống thế
giới con người. Càng giống như tiếng nói của cha ông đang vọng về từ quá khứ bốn
ngàn năm đấu tranh dựng và giữ nước. Phải chăng đó chính là cái tạo nên phần hồn
cho dòng thác sông Đà? Tạo cho con sông không chỉ là một thực thể của thiên nhiên
mà lúc này nó giống như một chứng nhân lịch sử vậy.
Sông Đà dữ dội khiến nhà đò ngay cả những ai non tay lái, yếu thần kinh chỉ cần nghe
thấy đã phát hoảng lên rồi. Ấy vậy mà đoạn sông nước hiền hòa, nó lại đẹp như một cố nhân.
Ngồi trên máy bay mà nhìn xuống con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu
tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và
cuồn cuộn mùi khói Mèo đốt nương xuân. Đúng là một khung cảnh hết sức mơ mộng,
diệu huyền. Rồi sông Đà không giống như sông Gâm, hay sông Lô lúc nào cũng chỉ
xanh xanh màu canh hến. Sông Đà đẹp bởi màu xanh ngọc bích vào mùa xuân. Sang
thu nước sông lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ
giận dữ ở một người bất mãn, bực bội gì mỗi độ thu về. Với tác giả có lúc con sông
còn giống như một cố nhân. Trong một lần lạc đường, tác giả vô tình nhìn ngắm nó
mà nhớ lại một tứ thơ Đường của Lý Bạch xưa. Đến đây dòng sông Đà khiến người ta
quên hẳn đi cái dữ dội nghiệt ngã của mình. Dòng sông gần gũi như con người và xinh
đẹp trẻ trung như thiếu nữ.
Còn nữa, nhìn cảnh bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông mà
vui như nắng giòn tan sau một kỳ mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Có
chỗ, đoạn sông lặng như tờ gợi một miền cổ tích xa xưa hay có lúc ngồi đò, ta bắt gặp
hình ảnh một con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi ánh cỏ sương, chăm chăm nhìn
tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò... Đúng là nhìn cảnh ấy chẳng ai dám nghĩ dòng sông ở
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
quãng trên lúc nào cũng sẵn sàng ăn chết bất cứ một cái thuyền nào sơ hở. Cảnh về
đoạn sông này trữ tình thơ mộng và huyền diệu xiết bao.
Hình như Tùy bút Sông Đà đọc nhiều mà vẫn còn hấp dẫn lắm! Ai mới đọc e còn cảm
thấy ngại ngùng nhưng đọc rồi lại thấy cuốn hút. Đọc để cảm nhận thế giới của dòng
sông nhưng lần nào tôi cũng thấy nó vọng ra bao điều mới mẻ của thế giới con người.
Tôi băn khoăn tự hỏi, phải chăng đó là điều tạo nên tính hấp dẫn đa chiều của hình
ảnh dòng sông? Có thể nói khẳng định rằng, Người lái đò Sông Đà là một áng văn đẹp
được làm nên từ tình yêu quê hương đất nước say đắm, thiết tha của một con người
muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên.
Phân tích con sông Đà hung bạo - Mẫu 12
Mỗi nhà văn có một quan điểm sáng tác riêng theo họ xuyên suốt sự nghiệp văn học.
Nhưng có lẽ, Nguyễn Tuân là một trường hợp đặc biệt khi quan điểm sáng tác và
phong cách văn chương của ông có sự khác biệt rõ rệt ở thời kì trước và sau năm
1945. Nếu trước năm 1945, người ta biết đến Nguyễn Tuân với Chữ người tử tù cùng
những hoài niệm về cái đẹp của quá khứ thì sau năm 1945, người ta biết đến Nguyễn
Tuân với Người lái đò sông Đà cùng một năng lượng, tình yêu tha thiết dành cho cuộc
sống, cho thiên nhiên mà bạn đọc dễ dàng cảm nhận được. Nổi bật trong bài tùy bút
chính là hình tượng con sông Đà lúc ở thượng nguồn.
Tùy bút Người lái đò sông Đà in trong tập “Sông Đà”, là kết quả chuyến đi thực tế của
Nguyễn Tuân đến vùng núi Tây Bắc để khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên, của con
người và tìm kiếm “chất vàng mười đã qua thử lửa” trong chính cuộc sống thường
nhật. Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc
họa những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua
hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca
ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới qua hình ảnh người lái đò sông Đà.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
Mở đầu tùy bút là hai lời đề từ vô cùng đặc sắc và độc đáo: “Đẹp vậy sao tiếng hát
trên dòng sông”: ca ngợi vẻ đẹp của sông Đà và tiếng hát của những con người cần
mẫn lao động, làm việc ở nơi đây. “Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc Bắc lưu”
mang ý nghĩa mọi con sông đều chảy về phía Đông, riêng sông Đà chảy về phương
Bắc để nói lên sự khác biệt độc nhất vô nhị của sông Đà, gợi ra những cá tính riêng
của con sông. Chỉ với hai lời đề từ ngắn gọn, Nguyễn Tuân đã mang đến cho bạn đọc
những vẻ đẹp vô cùng khác biệt của sông Đà với những con sông khác giúp bạn đọc
phần nào thêm thích thú và muốn tìm hiểu về con sông này.
Sau lời đề từ, tác giả đi vào cụ thể vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của con sông: “Cảnh vách
đá hai bên sông dựng đứng như vách thành; có vách đá chẹt dòng sông Đà như một
cái yết hầu; đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách; có quãng con nai
con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia; mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ
mới có mặt trời.” bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Tuân mang đến cho bạn
đọc nhiều liên tưởng thú vị về con sông Đà: nghệ thuật ẩn dụ những khối đá bờ sông
được ví như những thành trì kiên cố, vững chãi và đầy rẫy sự nguy hiểm, bí ẩn, đe doạ
chực chờ. Tác giả đã sử dụng nhiều giác quan để cảm nhận được hết vẻ đẹp hung tợn
ở quãng này của con sông: nó vừa hẹp lại nhiều đá dựng cao ngang ngược nhưng tiềm
ẩn những sự nguy hiểm khiến con người không thể lường trước được.
Không chỉ quãng này của con sông nguy hiểm mà quãng mặt ghềnh Hát Loóng cũng
nhiều hiểm nguy không kém: “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió,
cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái
đò sông Đà…; quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.
Đến đây, Nguyễn Tuân sử dụng nhiều câu văn ngắn móc xích với nhau, điệp từ, điệp
cấu trúc gợi lên nhịp chuyển động gấp gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau để
“hoành hành” tạo thêm nét hung bạo của sông Đà; không chỉ có đá dựng thành vách
hăm dọa con người nữa mà ngay cả mặt nước cũng tạo sóng hung tợn để đe dọa bất cứ
con thuyền hay người nào qua đây cho ta thấy một con sông Đà ngang ngược, bá đạo
và vô cùng bướng bỉnh.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
Quãng Tà Mường Vát con sông cũng hung tợn không kém: “Trên sông bỗng có những
cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống dòng sông để chuẩn bị làm móng
cầu; nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc... những cái giếng sâu nước ặc ặc
lên như vừa rót dầu sôi vào; nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những cái
giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống” Nghệ thuật nhân hoá kết hợp so sánh của Nguyễn
Tuân làm tạo cho câu văn trở nên sinh động, hấp dẫn hơn bao giờ hết. Khúc sông này
nguy hiểm đến mức không một con thuyền nào dám tiến lại gần, nếu không sẽ bị hút
vào trong, bị dìm xuống lòng sông và biến mất một cách đáng sợ.
Không chỉ riêng những quãng trên con sông Đà mới hung tợn mà dòng chảy của nó
cũng vô cùng hung tợn: “Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng
ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi
phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Sự hung dữ này được Nguyễn Tuân
liên tưởng đến một anh quay phim bạo dạn dám ngồi vào trong cái thuyền thúng tròn
vành rồi cả người cả thúng cùng theo dòng xoáy xuống dưới cùng của xoáy nước và
lia máy ảnh lên, thu vào tầm mắt tất cả xoáy nước như “một cái giếng mà thành giếng
xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh
như sắp vỡ tan ụp cả vào máy vào người quay phim cả người đang xem.” Sự liên
tưởng đặc sắc, thú vị này không chỉ giúp bạn đọc hình dung ra sự hung tàn của con
sông mà còn làm cho vẻ hung tàn đó trở nên đa sắc màu hơn.
Nhiều năm tháng qua đi nhưng bạn đọc chưa bao giờ quên phong cách sáng tác
“ngông” độc đáo của Nguyễn Tuân cùng tùy bút và hình ảnh con sông Đà. Tác phẩm
đã đóng góp không nhỏ vào nền văn học Việt Nam và được nhiều thế hệ con người đón nhận.
Phân tích hình tượng con sông Đà hung bạo - Mẫu 13
Ta đã được chiêm ngưỡng một dòng sông mênh mông, hoang vắng, buồn man mác,
thấm đẫm nỗi nhớ nhà trong “Tràng Giang” của Huy Cận; hay một khung cảnh đìu
hiu, cách biệt của thiên nhiên sông nước Kinh Bắc trong “Bên kia sông Đuống” của
Hoàng Cầm. Nếu những bài thơ trên chỉ là điều kiện, là khách thể để các nhà thơ bày
tỏ lòng mình thì đến với Người lái đò sông Đà, người đọc mới cảm nhận được rõ nét
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
về một tác phẩm viết về một dòng sông thực sự. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn
Tuân, hình ảnh dòng sông “độc bắc lưu” hiện lên với những vẻ đẹp độc đáo. Trên cái
nền thiên nhiên kỳ vĩ ấy, Nguyễn Tuân cũng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ
trong những người lao động bình thường mà ông luôn gọi là “chất vàng mười đã qua
thử lửa” bấy lâu mình vẫn khao khát, kiếm tìm.
Người lái đò sông Đà là một trong những tùy bút xuất sắc nhất trong tập tùy bút “Sông
Đà” của Nguyễn Tuân, tập tuỳ bút cũng đánh dấu sự chuyển biến trong tư tưởng, tình
cảm của Nguyễn Tuân so với giai đoạn trước cách mạng. Trong Người lái đò sông Đà
không chỉ nổi bật hình ảnh của người lao động kiên cường dũng cảm mà còn nổi bật
một thiên nhiên đẹp đẽ.
Sông Đà được nhà văn xây dựng thành một “nhân vật” có mặt suốt từ đầu đến cuối
thiên tùy bút, tạo nên giá trị độc đáo của tác phẩm này. Dưới ngòi bút tài hoa và uyên
bác của Nguyễn Tuân, Sông Đà không còn là một con sông vô tri, vô giác, mà là một
“nhân vật” có cá tính, có tâm trạng, có hoạt động: thật phong phú và phức tạp. Tác giả
đã nhận xét khái quát: đây chính là con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Hai đặc
điểm hung bạo và trữ tình này được nhà văn triển khai trong suốt cả bài tùy bút.
Cái hung bạo của con Sông Đà không chỉ ở những con thác, mà còn ở quang cảnh
hùng vĩ với vẻ huyền bí, hoang sơ của dòng sông chảy giữa điệp trùng rừng núi Tây
Bắc. Như một nhà quay phim là lão luyện, vừa cho người xem thấy bao quát khung
cảnh Sông Đà, thỉnh thoảng tác giả lại dừng lại, cho khán giả những pha “cận cảnh”
thật tiêu biểu về sự hung dữ của sông này.
Đấy là những cảnh thật hiếm thấy như cảnh đá bờ sông dựng vách thành chỉ khi nào
đến giữa trưa, mặt trời rọi đúng đỉnh đầu, chỗ ấy mới có nắng. Cách so sánh trên tạo
được ấn tượng khá đậm nét về vách đá dựng đứng với độ cao hun hút khôn cùng. Có
chỗ vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Vì thế, dòng chảy của con
sông bị thu lại rất hẹp: hẹp đến mức đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia
vách, hẹp đến mức quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ấn
tượng về độ và thẳng của vách đá bờ sông và dòng chảy nhỏ hẹp càng được tô đậm
thêm qua một chi tiết tiêu biểu và lôi liên tưởng bất ngờ – thiên nhiên hoang sơ : với
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
đời sống hiện đại của con người: Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè
mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một
khung cửa sổ nào từ cái tầng nhà thứ mấy nào vừa phụt đèn điện. Nhà văn chẳng
những sử dụng thị giác mà còn kết hợp sử dụng cả giác quan khác với những so sánh
thật mới mẻ, táo bạo. Vách thành dựng đứng gợi lên sự hiểm trở, hùng vĩ, lòng sông
hẹp lại gián tiếp gợi được sức chảy ghê gớm, dữ dằn của thác lũ.
Tính chất hung bạo còn thể hiện qua cái dữ dằn của ghềnh sông với hợp sức của gió,
của sóng và của đá. Dường như chúng phối hợp với nhau một cách chặt chẽ để tăng
thêm sức mạnh uy hiếp, đe dọa con người: quảng mặt ghềnh Hát Loong, dài hàng cây
số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, em cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc
nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được quả đấy. Ở đây, một
phần câu văn như bị chặt đứt ra thành nhiều khúc ngắn, gọn, diễn đạt bằng điệp từ,
điệp cấu trúc và tăng tiến, tạo nhịp điệu khẩn trương, dồn dập, gấp gáp như sự chuyển
động của gió to và sóng lớn.
Hung bạo hơn nữa là những cái hút nước khủng khiếp: trên sông bỗng có những cái
hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Vì
nước bị hút quá mạnh nên phát ra những âm thanh được nhân cách hóa như nước thở
và kêu như cửa cống cái bị sặc do nước bên trong và ngoài cống chênh nhau quá
nhiều, phát ra tiếng kêu ặc ặc ghê sợ. Để tô đậm thêm sự nguy hiểm của cái hút nước,
nhà văn đã phối hợp giữa “tả” và “kể”. Ở đây, yếu tố tự sự góp phần quan trọng kích
thích trí tưởng của người đọc. Nếu câu văn nêu trên thiên về tả thì hai câu dưới thiên
về kể: Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý… ở khuỷnh sông dưới.
Sông Đà còn hung bạo ở những thác nước. Nhiều thác nước như bày sẵn thế trận, sẵn
sàng chặn đánh, tiêu diệt người lái đò, lái mảng, đặc biệt đối với những ai xuôi dòng,
ở những nơi này, Sông Đà được mô tả như có cả một bầy thủy quái vừa hung hăng,
bạo ngược, vừa nham hiểm, xảo quyệt. Lúc thì thác nước khiêu khích, chế nhạo, khi
thì hò la, gầm thét, như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre
nứa nổ lửa, đang phá luống rừng nứa, rừng lứa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy
bùng bùng. Thác nước càng được nhân thêm sức mạnh, sức công phá, tăng thêm mối
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
nguy hiểm đối với nhà đó vì sự góp mặt của hàng ngàn tảng đá to, nhỏ. Mỗi hòn đá
được khắc họa như một quái vật từ ngàn năm vẫn kiên trì mai phục nơi đây để bày
thạch trận trong lòng sông. Mỗi lần thấy một con thuyền nào nhô vào đường ngoặt
sóng là chúng lập tức nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Tác giả để đứng dậy và thổi sự
sống vào cho những hòn đá vô tri giác, khiến người đọc hình dung chúng cũng táo
tợn, hung bạo như một lũ giặc điên cuồng.
Dưới ngòi bút của người nghệ sĩ ngôn từ, vẻ đẹp man dại, sức mạnh huyền bí của
Sông Đà đã hiện ra ở nhiều góc độ khác nhau. Đây chính là tiềm năng to lớn của Đà
giang được con người chinh phục. Đây là “vàng trắng” quý báu của đất nước chúng ta.
Chính vì vậy, Nguyễn Tuân nói tới hình ảnh của những tuốc bin thủy điện. Điều đó
cũng có nghĩa là nhà văn nghĩ tới vai trò, vị trí của Sông Đà trong sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước.
Phân tích sự hung bạo của sông Đà - Mẫu 14
Nguyễn Tuân – “Định nghĩa đầy đủ nhất về một người nghệ sĩ”. Khát khao cống hiến
cho nghệ thuật, khát khao đi tìm và thể hiện những cảm giác mạnh mẽ dữ dội, cộng
với chất nghệ sĩ phóng túng, tự do đã thúc đẩy Nguyễn Tuân tìm đến tận cùng của cái
đẹp. Những dòng văn của ông luôn mang đến cho người đọc cảm giác được khám phá
những hình tượng đặc biệt. Đến với “Người lái đò sông Đà”, bằng “nghệ thuật bậc
thầy của ngôn từ”, ông đã sáng tạo nên hình tượng con sông Đà - một trong những
kiệt tác của nghệ thuật văn xuôi. Hình tượng đặc sắc này đã thể hiện rõ nét phong cách
nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
Tiếp xúc với văn chương của Nguyễn Tuân, ta bắt gặp ẩn tàng trong những trang văn
là “cảm xúc mạnh, là hơi thở nồng” (Nguyễn Đăng Mạnh) của cái tôi trữ tình nghệ sĩ
mang khát vọng cuồng nhiệt, muốn biến những trang văn thành những trang hoa lộng
lẫy, yêu kiều, vừa mê hoặc, vừa thách đố người đọc. Được biết tới trong nền văn học
Việt Nam với hình ảnh của một người nghệ sĩ ngông nghênh, kiêu bạc, dùng cả cuộc
đời của mình để theo đuổi chủ nghĩa xê dịch, đi một lối đi riêng biệt trong văn
chương, Nguyễn Tuân in dấu đậm nét bản ngã của mình trong từng tác phẩm, từng
hình tượng. Sông Đà là một hình tượng điển hình như vậy. Tuỳ bút “Người lái đò
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
Sông Đà” được in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960), gồm 15 bài tuỳ bút và một bài
thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc sau kháng
chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với
nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực
tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng
sáng tạo và cho ra đời thiên tùy bút để lại ấn tượng với đọc giả.
Việc xây dựng hình tượng trong những trang viết của mình đối với mỗi tác giả là việc
đặc biệt quan trọng. “Một mình đi một lối”, Nguyễn Tuân thể hiện cái ngông nghênh
kiêu bạc của mình khi vẽ ra rất nhiều hình tượng đặc biệt. Một Huấn Cao tung hoành
ngang dọc với giấc mơ lớn giữa một thời đại mục ruỗng, chịu cảnh tù đày nhưng vẫn
trong tư thế khoan thai, đậm tô từng nét chữ rất vuông, rất đẹp trong “Chữ người tử
tù”. Một Bát Lê được nhìn ở góc độ tuyệt kỹ trong nghề nghiệp đao phủ của mình với
“Bữa rượu máu” hay một người “ăn mày” cổ quái với tài uống trà trong “Những chiếc
ấm” cũng đạt tới độ tuyệt mỹ khi lão có riêng một bộ ấm chén uống trà vẫn cất trong
bị ăn mày. Vào nhà phú hộ ăn mày, lão không xin cơm, xin gạo, chỉ xin “được uống
nguyên một ấm trà mới”. Vừa đưa chén trà lên miệng, lão đã kịp phát hiện trà của phú
hộ có lẫn mùi trấu, nên uống vào không thấy “khoái hoạt”. Vậy mới thấy, những hình
tượng được xây dựng trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân đều bao chứa những tính
cách đặc biệt. Sông Đà cũng là một hình tượng như vậy. Trải suốt từ trang đầu đến
trang cuối tác phẩm là hình ảnh dòng sông Đà được chụp lại ở nhiều chiều, nhiều góc
độ khác nhau, cụ thể mang trong mình hai tính cách đặc biệt đó là hung bạo và trữ
tình. Qua việc tìm hiểu dòng sông, người đọc được hiểu thêm về một con người, một
nghệ sĩ “suốt đời đi tìm cái thật và cái đẹp” - nhà văn Nguyễn Tuân, bởi vì hình tượng
con sông vĩ đại của vùng đất Tây Bắc xa xôi là sự thể hiện khá đầy đủ phong cách hay
cái nhìn cuộc sông của nhà văn, ở đó, bạn đọc đã thấy một con người ưa sự độc đáo
trong sự tài hoa - uyên bác; một cá tính mạnh mẽ luôn săn tìm những gì dữ dội. mãnh
liệt; một thầy phù thủy ngôn từ, hình ảnh...
Viết về sông Đà trong những năm tháng cách mạng đã thành công, người nghệ sĩ này
cởi mở hơn với cuộc đời và đó cũng là thời điểm Nguyễn Tuân xoay ngòi bút của
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
mình hướng về những vẻ đẹp đời thực. Hay nói cách khác là cách người nghệ sĩ này
đang đi tìm chất vàng mười trong chính vẻ đẹp đất nước và tâm hồn nhân dân Việt
Nam. Dòng sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân bên cạnh vẻ dữ dội, hung bạo
như “kẻ thù số một” của con người, cũng có lúc hiện lên rất bay bổng mơ màng, có
nét trữ tình của một con người nồng nàn xúc cảm. Bằng cảm hứng ngợi ca, tự hào,
hình tượng sông Đà được nhấn mạnh bởi đặc điểm riêng có: “Chúng thủy giai đông
tẩu/ Đà giang độc bắc lưu” có nghĩa là mọi dòng sông đều đổ theo hướng Đông, duy
chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc. Sự độc đáo của hình tượng này rất giống với
bản ngã của Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ đã từng tuyên bố và thể hiện rất chính xác,
chân thực tuyên bố đó: “Lòng kiêu hãnh đã xui khiến ta chỉ chơi một lối độc tấu trong văn chương.”
Tình yêu cuộc sống, lòng ham hiểu biết về con sông, cây cầu của non sông đất nước
cũng như ý thích đi lại hoạt động…đã tạo cho mỗi trang viết của Nguyễn Tuân ngồn
ngộn kiến thức, thể hiện một sự hiểu biết tường tận từng chi tiết được nói tới trong văn
mình. Dòng sông Đà có thể được tái hiện rất trữ tình, thơ mộng nhưng cũng có lúc
khúc Đà giang vĩ đại hiện lên chính xác trong từng con số. Nguyễn Tuân thoắt trở
thành nhà địa lý khi đưa ta về với thượng nguồn sông Đà ở Cảnh Đông tỉnh Vân Nam
sau đó chan hòa vào sông Hồng, chảy trên đất Việt 500 cây số trong tổng chiều dài
883 nghìn thước mét, khi kể ra rất chính xác, cụ thể về “những cái thác, những cái ga
nước trên sông Đà từ Vạn Yên về xuôi”. Sông Đà hiện lên trong những trang văn của
Nguyễn Tuân trước hết là ở vẻ đẹp hung bạo. Cảnh đá bờ sông dựng vách thành khiến
người đọc có những liên tưởng thú vị, cũng để họ có thể hình dung ra được hành trình
thuyền trôi trên sông Đà đáng sợ đến nhường nào. Đá ở đây “dựng vách thành”, “chỉ
đúng lúc ngọ mới có mặt trời”. Lòng sông hẹp có quãng con nai, con hổ có thể nhảy
vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia. Đá còn chẹt lòng sông như một cái yết hầu. Có thể
thấy, sự nguy hiểm của đá bờ sông tạo lũy thành đã khiến người đọc liên tưởng ra cảm
giác lạnh lẽo, lo sợ. Đó cũng là lý do Nguyễn Tuân viết rằng: “Ngồi trong khoang đò
qua quãng ấy đang mùa hè mà cũng thấy lạnh” rồi bất ngờ đưa ra một liên tưởng thú
vị: “cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ
nào trên các tầng nhà thứ mây nào vừa tắt phụt đèn điện”. Còn phép so sánh nào độc
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
đáo và hiệu quả hơn thế! Cảm giác đem đến cho người đọc rất bất ngờ. Họ hồi hộp,
nín thở khi đi ngang qua những quãng sông hẹp như vậy. Nếu không khéo léo chèo
lái, con thuyền rất có thể sẽ bị kẹt lại ngay.
Sự hung bạo của dòng sông Đà còn được thể hiện qua quãng mặt ghềnh Hát Loóng
“dài hàng ngàn cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn
ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được
ngang qua đấy.” Sông Đà bấy giờ mang dáng vẻ của một loài thủy quái, hợp lực bởi
sóng, gió, đá xô nhau tạo ra một mặt ghềnh hò la mang dội, cốt là để đe dọa con
thuyền nào tới đây. Sự dữ dằn của dòng sông Đà được đặc tả với một câu văn dài, sử
dụng biện pháp tu từ so sánh giúp người đọc dễ dàng trong việc hình dung, liên tưởng
hơn. Dùng những hình ảnh cụ thể, gần gũi để nói về những hình ảnh khó tưởng tượng,
làm được điều này, không ai khác ngoài “thầy phù thủy ngôn từ” Nguyễn Tuân.
Chưa dừng lại ở đó, những cái hút nước trên sông Đà và thác nước ở đây cũng là nỗi
đe dọa thường trực với bất cứ con thuyền nào đi ngang qua. Hình ảnh này khiến người
đọc có những cảm giác rất chân thực về sự hung bạo của dòng sông này. Những cái
hút nước ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La lại ghê rợn hơn nữa. "Nước ở đây
thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ
lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy,
thuyền nào qua cũng trèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho
nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái
cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót
dầu sôi vào. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối
ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy
tan xác ở khuỷnh sông dưới". Thật là những cái bẫy ghê sợ, chết người! Từ hình ảnh
đến âm thanh, tất cả đều khiến người đọc dễ dàng hình dung ra một loài thủy quái với
tâm địa độc ác. Nguyễn Tuân sử dụng nhiều từ ngữ đặc tả, sử dụng hình ảnh so sánh
thú vị để thể hiện cảm giác mà chính bản thân mình trải nghiệm sau những lần thực tế
trôi thuyền trên sông Đà. Chưa dừng lại ở đó, để người đọc có thể trực tiếp trải
nghiệm cảm giác đáng sợ của những cái hút nước chết người, Nguyễn đưa ra một hình
ảnh so sánh liên tưởng táo bạo. Cho một anh quay phim táo tợn ngồi vào chiếc thuyền
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
thúng mang theo máy quay của mình để lao vào cái hút nước. Sau đó lia máy quay lên
để thu hình cột nước cao vài sải. Đọc những dòng văn của người nghệ sĩ này, người
đọc đang trong bất cứ tư thế nào cũng thường tìm tới một điểm để bấu víu. Họ sợ độ
rung, độ xoáy tít, âm thanh dữ tợn mà những cái hút nước tạo ra.
Sự hung bạo của dòng sông này chưa dừng lại. Tiếng thác réo được Nguyễn Tuân đặc
tả nghe càng ghê sợ hơn! “Như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là
khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Tiếng thác rống như tiếng một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng
lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Âm thanh có hồn, giống như cách
mà Nguyễn Tuân thổi hồn cho dòng sông. Biến sông Đà thành một sinh thể có linh
hồn, có sự sống, có tính cách. Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hóa tài ba cùng những
liên tưởng “rất đắt”, Nguyễn Tuân đã cho thấy một cảnh tượng thác nước hùng vĩ,
nguy hiểm vô cùng. Lần đầu tiên trong thơ văn có người lại dùng lửa để miêu tả nước,
hai nguyên tố có sức hủy diệt rất lớn lại luôn tương khắc với nhau, có nước thì không
có lửa, ngược lại, có lửa thì không có nước. Vậy mà Nguyễn Tuân đã làm được điều
đó. Ông quả là một nghệ sĩ bậc thầy!
Phối hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm là “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân
trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông. Mặt hòn đá nào
trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ
này”. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi nguy hiểm.
Ở trùng vi thứ nhất, sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa
sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như
là sơ hở, thực chất chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Ở trùng vi thứ
nhất này sóng nước đóng vai trò chính để tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa vào trận địa,
chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp: "Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào
mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào
sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền
lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
trận nước vang trời thanh la bão nạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất,
cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”.
Vượt qua trùng vi thứ nhất, ông lái đò phải đương đầu với trùng vi thứ hai: "Tăng
thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ
hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi
chiếc thuyền". Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông
lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử "vẫn không ngớt khiêu
khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè
thất vọng". Đúng là bọn đá sóng nước hiểm độc!
Đến trùng vi thứ ba, có vẻ ít cửa hơn nhưng lại nguy hiểm hơn, bên phải bên trái đều
là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con
thác. Tại đây những boongke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan
cái thuyền. Làm ta liên tưởng đến một trận đấu bóng quyết liệt. Chiếc thuyền như một
cầu thủ phải phóng thẳng, chọc thủng cửa giữa, vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa
trong cùng, và như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên được vừa tự
động lái được lượn được, tiến về phía khung thành và cuối cùng đã hết thác. Trận
bóng đã thắng lợi về phe người lái đò tài ba với "tay lái ra hoa".
Những dòng văn của Nguyễn Tuân đã giúp ta hình dung ra được sự hung bạo của con
Sông Đà. Nó giống như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược biết bày thạch trận,
thủy trận hòng tiêu diệt thuyền bè trên dòng nước của nó, một thứ thiên nhiên Tây Bắc
với "diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một". Con sông mà "hằng năm và đời đời
kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ
với người lái đò Sông Đà". Chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần
thoại Sơn Tinh Thủy Tinh “Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”.
Một Sông Đà, một Nguyễn Tuân - một thiên nhiên dữ dội, một người nghệ sĩ tài hoa.
Tùy bút của Nguyễn Tuân chân thực mà hấp dẫn là vậy. Đọc từng dòng văn, ta như
được tự mình trải nghiệm trong không gian Tây Bắc, được gặp và chiêm ngưỡng cái
tài hoa của những con người nơi đây. “Người lái đò Sông Đà” là một áng văn đẹp
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
được làm nên từ tình yêu đất nước thiết tha, say đắm của một người nghệ sĩ muốn
dùng văn chương để khắc họa vẻ đẹp kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng. Sự đầu
tư nghiêm túc, công phu và tâm huyết cho nghệ thuật của Nguyễn Tuân thật khiến ta
khâm phục. Phải chăng đó chính là cái độc đáo tài hoa của Nguyễn Tuân - cái điều mà
ông vẫn quan niệm “đã viết văn thì phải viết cho hay, cho đúng cái tạng riêng của
mình. Văn chương cần sự độc đáo hơn bất kì một lĩnh vực nào khác....”.