Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt | Văn mẫu 12
Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt trong Vợ nhặt của Kim Lân tuyển chọn 6 bài văn mẫu siêu hay gồm bài phân tích ngắn gọn, đầy đủ, bài làm của học sinh giỏi. Qua đó giúp cho các em học sinh lớp 12 có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng luyện Văn ngày một tốt hơn.
Preview text:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
Dàn ý phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt 1. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Kim Lân, truyện ngắn Vợ nhặt.
- Giới thiệu về nhân vật người vợ nhặt với vẻ đẹp khuất lấp. 2. Thân bài
a. Giới thiệu chung nhân vật
- Là một trong ba nhân vật chính trong tác phẩm.
- Được khắc họa với những nét đối lập giữa ngoại hình tính cách,
từ đó nổi bật lên là vẻ đẹp khuất lấp.
b. Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
- Tình cảnh sống nghèo khổ, thảm hại nhưng có lòng ham sống mãnh liệt.
- Tuy vẻ ngoài ngếch nhác, nhưng thực chất lại là người hiểu biết, ý tự và đúng mực.
- Tính cách chỏng lỏn nhưng thực chất là một người phụ nữ hiền
hậu, biết vun vén cho gia đình. 3. Kết bài
- Đánh giá về vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt.
- Cảm nhận về nhân vật người vợ nhặt.
Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt cực hay - Mẫu 1
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ/ Như đám mây ngũ sắc ngủ
trong đầu" - có những tác phẩm chẳng thể hấp dẫn ta đọc đến
trang cuối cùng, nhưng có những tác phẩm đọc đến trang cuối
cùng vẫn còn đọng lại biết bao dư âm sâu lắng, ám ảnh khôn
nguôi. Dư âm ấy khi như men say, mật ngọt khiến ta cảm nhận
từng dòng chảy hân hoan, hạnh phúc trong tâm hồn, khi lại như
móng vuốt sắc nhọn của một con vật nào đó chạm nhẹ trái tim ta,
khiến ta thổn thức, nhói đau. Sức truyền cảm của một tác phẩm
thực sự, bao giờ cũng lắng sâu như thế. "Vợ nhặt" của Kim Lân là
một tác phẩm mang đến nhiều dư âm trong lòng người đọc. Đúng
như Hà Minh Đức trong Nhà văn nói về tác phẩm đã viết: "Kim
Lân là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học
Việt Nam hiện đại. Kim Lân đã tạo được cách viết độc đáo. Phải
nói rằng Kim Lân viết không nhiều, nhưng sáng tác của ông đã
gây ấn tượng với bạn đọc". Trong đó phải kể đến tài năng miêu tả
vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt trong hiện thực thảm khốc của cái đói.
Truyện ngắn “Vợ nhặt”viết về nạn đói năm 1945. Bối cảnh của
truyện là không gian năm đói ở một xóm ngụ cư. Bóng dáng của
sự chết chóc đè nặng trong cuộc sống của người dân nơi đây.
Người chết như ngả rạ, người sống thì như những bóng ma, sự
sống của con người rất mong manh, họ đang kề cận cái chết.
Không gian thì hoang dại với những đàn quạ gào lên từng hồi thê
thiết và vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác
người. Trong hoàn cảnh thê thảm như thế nhưng nhà văn Kim
Lân vẫn nhìn thấy vẻ đẹp của con người lấp lánh trong từng sự
việc của đời sống. Nhân vật người vợ nhặt xuất hiện trong tác
phẩm vừa là hiện thân cho số phận khốn khổ của người dân trong
nạn đói, vừa ánh lên nhiều vẻ đẹp đáng quý của người phụ nữ Việt Nam.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
Trước hết, người “vợ nhặt” là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống
trôi nổi, bấp bênh. Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt là
người phụ nữ vô danh, không tên không tuổi, không quê hương,
không quá khứ. Không phải là nhà văn nghèo ngôn ngữ đến độ
không thể đặt cho thị một cái tên mà bởi vì thị là cánh bèo nổi trôi
trong nạn đói, là người đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối tác
phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”,
“nàng dâu mới”, “nhà tôi”, nhưng lại là một nhân vật có vai trò
đặc biệt quan trọng trong tác phẩm. Việc không đặt tên cho nhân
vật là một dụng ý của tác giả làm tăng thêm tính khái quát cho
hình tượng. Lần đầu thị xuất hiện là hình ảnh: ngồi lẫn trong đám
con gái chờ nhặt hạt rơi hạt vãi trước cổng chợ tỉnh. Khi nghe
Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc “Muốn ăn cơm trắng mấy
giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, thị “ton ton chạy lại đẩy xe
cho Tràng…cười tít mắt”. Thị đẩy xe với hi vọng được ăn nên
cũng rất nhiệt tình và chẳng cần ý tứ. Lần thứ hai, thị xuất hiện
với ngoại hình kém hấp dẫn: “người phụ nữ gầy vêu vao”, “áo
quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với
“hai con mắt trũng hoáy”. Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan
của thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm. Cái đói khiến thị
quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Thị
cứ thế mà đòi ăn. Được cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu
ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Thị đã
đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng ăn lên trên nhân cách. Vì đói
mà thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”.
Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện. Miếng ăn
ngày đói đã khiến con người thành ra vẻ rẻ rúng bèo bọt và đáng thương đến vậy.
Nhưng phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, người “vợ nhặt” lại
có một lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo Tràng là vì để
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
được sống chứ không phải là loại người lẳng lơ. Nghe những lời
nói đùa của Tràng, thị đã tưởng thật hay cố tình tưởng thật mà
theo không Tràng về làm vợ. Thị đồng ý, đồng ý mà không hề do
dự, phân vân. Trong khi đó, Tràng là ai, tốt xấu như thế nào? Gốc
tích ra sao? Thị nào hay nào biết. Chỉ vì mấy bát bánh đúc là thị
có thể theo ngay Tràng. Phải chăng thị theo Tràng chỉ vì miếng
ăn? Thị dễ dàng, hời hợt thế ư? Thực ra tất cả hành động cử chỉ
và lời nói của thị đều xuất phát từ bản năng sinh tồn, khao khát
sống vốn có của mỗi người. Khi cái chết và cái đói đang cần kề
người ta không còn để ý gì đến danh dự của mình nữa. Thị bất
chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Thị chấp nhận theo
không Tràng. Đó là ý thức bám lấy sự sống. Cận kề bên cái chết,
người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt
lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc
quan yêu sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý. Nói
như Kim Lân: “Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái
chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn
hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.
Phía sau vẻ nhếch nhác, chao chát, người “vợ nhặt” lại là một
người phụ nữ rất ý tứ, tế nhị, biết điều. Kim Lân đã cố ý đưa vào
lời nói của thị một từ mang hàm ý độc đáo “Đã thật thì đẩy chứ sợ
gì”, “Ừ ăn thì ăn sợ gì”. Qua những lời nói đó người đọc cảm
nhận được sự ngượng ngùng xấu hổ của cô gái, chị như đang cố
gắng che giấu đi sự ngượng ngùng ấy trong cách nói tưởng như
bạo dạn và chỏng lỏn. Hai tiếng “sợ gì” góp phần cho người đọc
thấy rõ hơn tình thế khốn khổ của cô gái đồng thời cho ta cảm
nhận được chút lòng tự trọng đáng thương của cô. Trên đường về
nhà chồng, tâm trạng của thị có sự thay đổi rõ nét. Nếu như anh
cu Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình
thì người đàn bà lại cảm thấy xấu hổ. Trước cái nhìn “săm soi”,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
chọc ghẹo của người dân ngụ cư thị ngượng nghịu “chân nọ bước
díu cả vào chân kia”, “đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng
nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Về đến nhà chồng, nhìn
thấy “ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn
nhổn những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng
thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ
cái phao mà thị vừa bám vào lại là một chiếc phao rách. Trong
tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có
cả những lo toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh nhà chồng.
Đó phải chăng là thị đã ý thức được trách của mình đối với việc
cùng chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm lòng của thị thật
đáng quý biết bao. Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm”
vào mép giường “Ngồi mớm” là thế ngồi bấp bênh, không ổn
định nhưng cũng rất ý tứ. Chi tiết cho ta thấy sự ngượng ngùng
pha lẫn tâm trạng lo lắng, thấp thỏm của cô gái. Khi bà cụ Tứ về
thị cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Đây là
hình ảnh đẹp của người con dâu rất mực thước trong quan hệ với
mẹ chồng. Khi Tràng thưa chuyện với mẹ, thị chỉ biết “đứng vân
vê tà áo đã rách bợt”.
Bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, người vợ nhặt lại là một người
phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan. Sáng hôm sau đêm tân
hôn, người phụ nữ ấy có sự thay đổi hoàn toàn về tâm trạng và
tính cách. Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà
cửa. Sự thay đổi ấy người đọc cũng dễ nhận ra: nếu hôm qua thị
chua ngoa, đanh đá bao nhiêu thì hôm nay thị lại hiền lành bấy
nhiêu. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đầy đủ sự thay đổi tuyệt vời
ấy: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà
hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như
những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Câu văn này đã ghi lại cảm
xúc chân thật của Tràng trước sự đổi thay tích cực của vợ. Phải
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
chăng tình yêu đích thực với sức nhiệm màu diệu kì đã có sức
cảm hóa với thị. Trong bữa cơm đầu tiên tại gia đình chồng, dù
bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát
đã hết nhẵn”. Khi đón bát cháo cám của bà cụ Tứ, hai con mắt thì
tối lại nhưng chị vẫn “điềm nhiên và vào miệng”. Hành động của
thị không làm cho mọi người phải khó xử, nó là kết quả của một
nhận thức chín chắn, sâu sắc và một nhân cách đáng trân trọng.
Thị xác định phải đồng cam cộng khổ với mọi người trong gia
đình cùng nương tựa vào nhau để vượt qua cơn đói khổ. Không
chỉ vậy, thị còn đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho
mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng:
“Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng
thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho
người đói nữa đấy”. Sự hiểu biết này của thị như đã giúp Tràng
giác ngộ về con đường cách mạng phía trước mà anh sẽ lựa chọn
“trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…”.
Xây dựng nhân vật người vợ nhặt, nhà văn đã đặt nhân vật vào
tình huống truyện độc đáo. Bút pháp tả thực khắc họa chân dung
nhân vật một cách chân thực sinh động. Xây dựng nhân vật thông
qua những chi tiết ngoại hình, ngôn ngữ, cử chỉ, hành động đặc
biệt là tâm lý nội tâm nhân vật. Ngôn ngữ trần thật sinh động, hấp
dẫn gần với lời ăn tiếng nói của người dân lao động. Vẻ đẹp của
người vợ nhặt được khắc họa qua những phẩm chất của một nàng
dâu mới, hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh trong nạn
đói thê thảm. Thị như một luồng gió mới "lạ lùng và tươi mát thổi
vào cuộc sống đói khát, tăm tối" của những người dân xóm ngụ
cư cũng như gia đình Tràng. Trong khi đó, vẻ đẹp của người đàn
bà hàng chài dưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu lại là phẩm
chất của người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các chi tiết
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
đầy kịch tính trong tình trạng bạo lực gia đình. Nhân vật này
không khỏi khiến ta băn khoăn, trăn trở về cách nhìn nhận con
người cũng như mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc
sống. Sở dĩ có sự khác biệt ấy là do phong cách nghệ thuật và thời
điểm sáng tác của hai nhà văn. Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ
nhặt được đặt trong quá trình phát triển biến đổi từ thấp đến cao,
mang cảm hứng lãng mạn, tiêu biểu cho văn học thời kì kháng
chiến. Trong khi đó nhân vật người đàn bà hàng chài lại tĩnh tại,
bất biến như một hiện thực nhức nhối đang tồn tại. Nhân vật này
thể hiện rõ cảm hứng thế sự-đời tư trong ngòi bút truyện của Nguyễn Minh Châu sau 1975.
Qua truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã khắc họa nhân vật người
phụ nữ vợ nhặt rất thành công. Tác giả chú trọng khắc họa hành
động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc hiểu được tâm lí
của người phụ nữ. Nhà văn lựa chọn được những chi tiết rất phù
hợp để bộc lộ số phận cũng như vẻ đẹp của nhân vật. Nhân vật vợ
nhặt nắm giữ vai trò khá quan trọng trong việc làm nổi bật chủ đề
tư tưởng của tác phẩm đồng thời có vai trò quyết định trong việc
hình thành nên tình huống truyện .Người đàn bà ấy đã sống với
bản chất tốt đẹp vốn có của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.
Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt - Mẫu 2
“Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn
Kim Lân. Truyện đã miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông
dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đồng thời tác
giả còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kỳ diệu của họ.
Điều đó được thể hiện qua vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
Người vợ nhặt hiện lên với vẻ ngoài xấu xí, thê thảm. Thị là nạn
nhân của xã hội đói nghèo, cơ cực bị cuộc sống mưu sinh vắt kiệt
sự sống. Tuy không được miêu tả nhiều nhưng vẫn hiện lên với
những vẻ đẹp đáng trân trọng. Với tài năng miêu tả bậc thầy, Kim
Lân đã xây dựng nhân vật đầy sống động, gây bất ngờ với những
thay đổi ban đầu và về sau, trong cái đối lập giữa vẻ bề ngoài với
những giá trị bên trong.
Thị là nạn nhân của nạn đói, đứng trên ranh giới của sự sống và
cái chết, chị ta sống lang bạt, vất vưởng. Đây cũng là cơ duyên để
chị ta gặp gỡ và nên vợ nên chồng với anh Tràng. Tuy nhiên đối
lập với cảnh trôi dạt, vất vưởng ấy lại là lòng ham sống mãnh liệt.
Chỉ vì bốn bát bánh đúc, chị ta chấp nhận theo không anh Tràng -
một người đàn ông xấu xí, nghèo khổ về làm vợ vừa là con đường
chạy trốn với cái đói, cái chết vừa thể hiện khát khao hạnh phúc
mãnh liệt ở người đàn bà ấy. Nếu đặt trong hoàn cảnh bình
thường, có lẽ thị sẽ không theo Tràng về làm vợ. Giống như lời bà
cụ Tứ thầm nghĩ: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này,
người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”.
Thế mới thấy được khao khát sống mãnh liệt của người vợ nhặt.
Tiếp đến, Kim Lân đã khắc họa hình ảnh người vợ nhặt hiện lên
thật thê thảm, rách rưới. Lần thứ hai gặp lại Tràng, thị trở nên
khác hẳn: “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị
gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy
hai con mắt”. Chỉ với vài nét miêu tả thôi, nhưng ta đã thấy được
tình cảnh thảm hại của thị. Nhưng không chỉ xấu xí, rách rưới mà
ấn tượng đầu tiên chị ta mang đến cho độc giả là sự chao chát,
chỏng lỏn. Một người phụ nữ lại có thể lớn tiếng mắng mỏ và đòi
trả công bằng bữa ăn với người đàn ông mà mình chỉ mới gặp
trước đây vài ngày: “Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà
mất mặt”. Rồi thị còn cong cớn với Tràng khi anh ta mời ăn trầu:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
“Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”. Để rồi khi anh cu Tràng nói “Muốn
ăn gì thì ăn”, thì đã chẳng ngại ngần gì mà “mắt còn sáng lên”,
đon đả nói “ăn thì ăn thật chứ sợ gì”, “sà xuống cắm đầu ăn một
chặp bốn chiếc bánh đúc”, khi ăn xong còn cầm lấy đũa quẹt
ngang miệng. Tuy nhiên, ẩn chứa bên trong vẻ ngoài nhếch nhác,
chỏng lỏn ấy lại là người đàn bà biết điều, một người phụ nữ hiền
hậu, một người vợ đúng mực. Khi theo anh Tràng về nhà, trước
sự bàn tán của người dân xóm ngụ cư chị ta dù không thoải mái
nhưng cũng chỉ dám lầm bầm trong miệng. Về đến nhà, thị cũng
chỉ dám“ngồi mớm ở mép giường”, rồi cất tiếng chào bà cụ Tứ
thật nhẹ nhàng: “U đã về đấy ạ”. Nhìn thấy hình ảnh ngôi nhà lụp
xụp của mẹ con anh Tràng, mặc dù cảm thấy thất vọng nhưng chị
ta cũng không bỏ đi hay mắng chửi anh Tràng như trước đó mà
chỉ cố nén tiếng thở dài, ánh mắt tối lại. Khi bà cụ Tứ về, người
đàn bà ấy đã chủ động làm quen. Đến buổi sáng đầu tiên về nhà,
chị ta cũng chủ động dậy sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, chuẩn bị
mâm cơm gia đình. Thị bỗng hóa thân thành một nàng dâu hiền
thảo, một cô Tấm giữa đời thực. Khi mẹ chồng bưng ra mời cô
con dâu mới nồi cháo cám, thị cũng không hề có những phản ứng
thô thiển như lúc trước mà chỉ lặng lẽ và miếng cháo chát nghẹn
vào miệng. Rồi thị kể cho Tràng và mẹ nghe những câu chuyện
về những người đi phá kho thóc, gieo vào lòng họ những niềm tin
về một tương lai tươi sáng. Như vậy, ấn tượng về người vợ nhặt
hoàn toàn thay đổi khi chị ta theo anh Tràng về làm vợ, đó chính
là vẻ đẹp tâm hồn, bản chất đáng quý bên trong cái xù xì, xấu xí bên ngoài.
Người vợ nhặt hiện lên dưới ngòi bút của nhà văn Kim Lân với
những vẻ đẹp khuất lấp của một nàng dâu mới. Thị chính là đại
diện cho những người phụ nữ trong nạn đói năm 1945 với những
vẻ đẹp đáng trân trọng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt - Mẫu 3
Kim Lân là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Một trong
những tác phẩm nổi bật của ông là Vợ nhặt. Truyện đã khắc họa
hình ảnh nhân vật người vợ nhặt với những vẻ đẹp khuất lấp đáng trân trọng.
Truyện kể về Tràng - một người dân nghèo khổ sống cùng với mẹ
già ở xóm ngụ cư. Một ngày nọ, trên đường kéo xe bò vào dốc
tỉnh, Tràng tình cờ gặp gỡ với Thị. Chỉ với câu đùa và bốn bát
bánh đúc, Thị đã đồng ý theo làm vợ và theo Tràng về nhà. Khi
về đến nhà, bà mẹ của Tràng ban đầu rất ngạc nhiên, sau đó là
đón nhận người đàn bà khốn khổ ấy làm con dâu với một sự
thương cảm sâu sắc. Sáng hôm sau, Tràng bỗng cảm thấy mình
đổi khác. Anh cảm thấy mình có trách nhiệm hơn. Bữa cơm đầu
tiên của nàng dâu mới chỉ có vài món ăn đơn giản và một nồi
cháo cám mà bà mẹ nói đùa đó là chè khoán. Miếng cám chát,
nghẹn cổ nhưng Tràng vẫn cùng vợ hướng về một cuộc sống đổi
khác. Cuộc trò chuyện về tiếng trống thúc thuế kết thúc và trong
óc Tràng hiện ra đám người đói phá kho thóc và lá cờ đỏ bay phấp phới.
Nhân vật người vợ nhặt được khắc họa trong tác phẩm cùng tên
của nhà văn Kim Lân không được ưu ái về ngoại hình, xuất thân.
Thậm chí đến cái “tên” cũng không có, chỉ được nhà văn gọi là
“thị”. Đặc biệt là những nét tính cách được Kim Lân khắc họa.
Trước đó, Tràng chỉ hò bông đùa có một câu nhưng ai ngờ thị lại
chạy ra đẩy xe bò cho anh ta thật. Sau đó mấy hôm, thị xuất hiện
nhưng đã hoàn toàn thay đổi khiến Tràng không nhận ra: “thị rách
quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn
mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Chỉ với vài nét
miêu tả Kim Lân đã khắc họa lên hình ảnh thảm hại của người
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
phụ nữ xóm ngụ cư. Nhưng không chỉ có vật, người vợ nhặt còn
hiện lên với sự chao chát, chỏng lỏn khi đòi trả công bằng bữa ăn
với người đàn ông mà mình từng đẩy xe bò hộ. Khi được Tràng
mời ăn bánh đúc thì thị cúi đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh
đúc. Đến khi ăn xong còn cầm đôi đũa quẹt ngang miệng và chép
miệng khen ngon. Lúc này, ở thị không có sự khéo léo, tinh tế của
người phụ nữ. Ta chỉ thấy hình ảnh một người đàn bà có phần vô
duyên. Đặc biệt là khi Tràng ngỏ ý muốn người phụ nữ về làm
vợ. Không đợi Tràng phải mở lời lần thứ hai thị đã gật đầu cái rụp
rồi theo Tràng về nhà đồng ý làm vợ anh. Nhưng qua chi tiết này,
Kim Lân lại cho thấy một vẻ đẹp khuất lấp bên trong người vợ
nhặt. Đó là lòng ham sống mãnh liệt.
Đến khi theo Tràng về nhà, thị lại trở nên khéo léo, tinh tế. Thị lại
biết thẹn thùng khi theo Tràng về nhà, biết ý tứ ngồi mớm ở mép
giường. Biết gia cảnh nhà Tràng, thị cũng chỉ nén một tiếng thở
dài chứ không sừng sộ, bỏ đi. Thị còn rụt rè, lo sợ khi gặp mẹ
chồng, rồi lễ phép chào hỏi. Sáng hôm sau, thị dậy thật sớm cùng
mẹ dọn dẹp nhà cửa, phát quang ruộng vườn, chuẩn bị bữa ăn gia
đình. Người vợ nhặt lúc này đã trở thành một người phụ nữ hiền
hậu, một người vợ đúng mực. Khi mẹ chồng bưng ra mời cô con
dâu mới nồi cháo cám, thị cũng không có những lời lẽ chê trách
mà chỉ lặng lẽ và miếng cháo chát nghẹn vào miệng. Rồi thị kể
cho Tràng và mẹ nghe những câu chuyện về những người đi phá
kho thóc, gieo vào lòng họ những niềm tin về một tương lai tươi sáng.
Qua phân tích trên, nhân vật người vợ nhặt hiện lên tuy vẻ bề
ngoài xấu xí, thô kệch, nhưng ẩn sâu bên trong lại là những nét
đẹp khuất lấp đáng trân trọng. Nhân vật đã thể hiện được trọn vẹn
những dụng ý mà nhà văn muốn gửi gắm.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt - Mẫu 4
Truyện ngắn Vợ nhặt là tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Kim Lân.
Với tác phẩm này, nhà văn đã khắc họa hình ảnh người vợ nhặt
với những nét đẹp khuất lấp đằng sau vẻ bề ngoài xấu xí, thảm hại.
Vợ nhặt là câu chuyện xoay quanh nhân vật Tràng sống cùng
người mẹ già ở xóm ngụ cư. Một ngày nọ, trên đường kéo xe bò
vào dốc tỉnh, Tràng tình cờ gặp gỡ với Thị. Chỉ với câu đùa và
bốn bát bánh đúc, Thị đã đồng ý theo làm vợ và theo Tràng về
nhà. Khi về đến nhà, bà mẹ của Tràng ban đầu rất ngạc nhiên, sau
đó là đón nhận người đàn bà khốn khổ ấy làm con dâu với một sự
thương cảm sâu sắc. Sáng hôm sau, Tràng bỗng cảm thấy mình
đổi khác. Anh cảm thấy mình có trách nhiệm hơn. Bữa cơm đầu
tiên của nàng dâu mới chỉ có vài món ăn đơn giản và một nồi
cháo cám mà bà mẹ nói đùa đó là chè khoán. Miếng cám chát,
nghẹn cổ nhưng Tràng vẫn cùng vợ hướng về một cuộc sống đổi
khác. Cuộc trò chuyện về tiếng trống thúc thuế kết thúc và trong
óc Tràng hiện ra đám người đói phá kho thóc và lá cờ đỏ bay phấp phới.
Nổi bật lên trong tác phẩm là cô vợ nhặt. Thị xuất hiện trong tác
phẩm nhưng không có tên tuổi, quê quán hay người thân. Cô chỉ
được nhà văn gọi là “thị” - mang tính phiếm chỉ. Thị đại diện cho
rất nhiều người phụ nữ Việt Nam trong những năm 1945 - khi nạn
đói hoành hành. Kim Lân đã miêu tả người vợ nhặt với một ngoại
hình xấu xí: “khuôn mặt lưỡi cày gầy xám xịt", “áo quần rách như
tổ đỉa”, “cái ngực gầy lép nhô lên”. Nhưng không chỉ dừng lại ở
ngoại hình, cái ấn tượng của người đọc về thị còn ở cái hành động
“lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng” - một người đàn ông không
hề quen biết. Rồi đến lần thứ hai gặp lại, thị lại cong cớn đòi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
Tràng trả công. Khi được mời ăn cũng chẳng kiêng dè mà ăn một
chặp hết bốn bát bánh đúc, ăn xong còn cầm lấy đũa quẹt ngang miệng.
Nhưng ẩn sau cái ngoại hình xấu xí, cái dáng vẻ cô duyên ấy của
người vợ nhặt chính là vẻ đẹp của người phụ nữ đảm đang, hiền
hậu đúng mực và giàu lòng nhân hậu. Vẻ đẹp ấy của người vợ
nhặt được thể hiện khi trên đường thị theo Tràng về nhà. Lời nhận
xét của dân làng xóm ngụ cư “trông chị ta thèn thẹn hay đáo để”
cùng hành động “chân nọ bước díu vào chân kia” của nhân vật thị
đã cho thấy sự e thẹn, ngượng nghịu có cái gì đó xấu hổ của thị
khi quyết định theo Tràng về làm vợ. Đặc biệt khi về đến nhà, sự
ngại ngùng ấy còn bộc lộ qua hành động “ngồi mém ở mép
giường”. Đó là một cách ngồi rất ý tứ khi lần đầu tiên bước tới
nhà chồng, nó cho thấy vẻ đẹp e dè, kín đáo vốn có của người phụ
nữ. Rồi thị “lẳng lặng theo Tràng vào trong nhà”, đảo mắt nhìn
xung quanh ngôi nhà rồi “nén một tiếng thở dài, nhếch mép cười
nhạt nhẽo”. Những tưởng theo Tràng về làm vợ sẽ thoát khỏi cuộc
sống đói nghèo, nhưng đến khi về nhà thị mới nhận ra cảnh ngộ
của Tràng cũng không khá hơn. Tuy nhiên không vì thế mà thị bỏ
đi, thị chỉ là nén tiếng thở dài. Đó chính là sự ý tứ và kín đáo của
nhân vật. Đặc biệt là sự thay đổi của người vợ nhặt vào buổi sáng
hôm sau. Ta không thể ngờ được người vợ nhặt trước đó khi trở
thành nàng dâu mới lại đảm đang, hiền hậu. Thị đã dậy sớm, thu
dọn nhà cửa, vườn tược cùng mẹ chồng. Giờ đây, ở đó, không còn
một thi chao chát, chỏng lót nữa mà chỉ còn lại “một người đàn bà
hiền hậu đúng mực”, khiến cho cuộc sống của Tràng đang thay
đổi theo chiều hướng tích cực, tốt đẹp hơn. Thị đã khiến Tràng
trưởng thành hơn, biết chăm lo và mong ước về một tương lai tốt đẹp.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
Như vậy, Kim Lân đã thật thành công khi khắc họa hình ảnh
người vợ nhặt. Ẩn sâu bên trong vẻ bên ngoài xấu xí là một người
phụ nữ luôn khao khát được sống, được hạnh phúc.
Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt - Mẫu 5
Đất nước Việt Nam - đất nước của những câu hát ru ngọt ngào
một thuở, đất nước của cánh cò trắng bay, đất nước của bàn tay
mẹ tảo tần qua bao năm tháng... và từ trong nguồn mạch dạt dào
ấy, người phụ nữ kết tinh của non nước ngàn năm, là đề tài chưa
bao giờ vơi cạn trên ngọn bút của người nghệ sĩ, qua nhiều thời
đại khác nhau. Nếu chị Dậu của Ngô Tất Tố là điển hình cho
người phụ nữ Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Một
người phụ nữ mẫu mực, không gục ngã trước thử thách, là chỗ
dựa cho cả gia đình ở thế cùng quẫn. Thì thị của Kim Lân dường
như chỉ còn lại sự bé nhỏ, nổi trôi, bất hạnh và khổ sở không biết
đi đâu về đâu. Nhưng chính trong những con người ấy lại ẩn chứa
những “hạt ngọc”, và chính “hạt ngọc” ấy đã góp phần làm nên
giá trị nhân đạo của tác phẩm “Vợ nhặt”.
Có lẽ bạn đọc biết đến Kim Lân qua những trang văn viết về về
người lao động, về nông thôn Việt Nam trước Cách mạng với
cuộc sống bình dị, nghèo khó, một cuộc sống cùng cực nhưng vẫn
chan chứa biết bao tình. “Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm
như thế. Tiền thân của nó từ tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” song vì
kháng chiến mà bảo thảo đã bị thất lạc và rơi rớt nhiều. Cho đến
năm 1954, khi hòa bình lập lại Kim Lân đã viết tác phẩm này dựa
trên những hình dung, tưởng tượng về nạn đói khủng khiếp năm
1945 mà từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ có hai triệu đồng bào chết đói.
Về sau “Vợ nhặt” được in vào tập “Con chó xấu xí” năm 1962 và
trở thành tác phẩm thành công viết về nạn đói theo một góc nhìn rất khác.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
Trong “Vợ nhặt”, thị hiện lên là một người đàn bà vô danh – một
số không tròn trĩnh – không tên, không tuổi, không quê quán,
không nghề nghiệp, không tài sản. Cái đói đã cướp đi tất cả. Thị
chỉ còn biết ngồi vêu ở xó tỉnh để nhặt hạt rơi, hạt vãi. Và Kim
Lân đã cho thị và Tràng gặp nhau trong tình cảnh hết sức éo le,
trớ trêu. Tràng xuất hiện với câu hò mùi mẫn “Muốn ăn cơm
trắng với giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, thị đã ton chạy lại
giúp anh nhưng nào ngờ đó chỉ là lời bông đùa của Tràng. Đến
lần sau, thị gặp lại Tràng trong bộ dạng gây ám ảnh kinh hoàng
trong tâm trí người đọc: “tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thân hình
tiều tụy, khổ sở “thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy
sọp hẳn đi, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con
mắt”. Dưới chân thị là vực thẳm, là chết đói thị tức tối đứng trước
Tràng mà sưng sỉa, cong cớn cho rằng Tràng là kẻ thất hứa. Tất cả
chỉ vì miếng ăn mà thành ra như vậy. Sau khi được Tràng đãi một
chầu bánh đúc, thị lại bám vào lời nói đùa của Tràng để theo
không hắn. Vì đói, vì khát, người đàn bà này buộc phải bỏ qua
danh dự và nhân phẩm của mình. Từ đây chúng ta biết đến thị với
cái tên “vợ nhặt” đầy thương xót.
Nhưng Kim Lân không dừng lại ở nỗi khốn cùng của người dân
lao động, điều mà Kim Lân hướng đến không phải là cái đói, cái
chết mà dùng nó để làm đòn bẩy khẳng định sự sống trong họ,
khẳng định dù trong hoàn cảnh cơ cực, con người vẫn vươn lên để
sống và khao khát. Kim Lân viết “Vợ nhặt” không chỉ bằng con
mắt hiện thực sắc lạnh mà còn bằng cả trái tim chan chứa yêu
thương và trân trọng con người. Qua đó nhà văn phát hiện những
tia sáng về đạo đức, danh dự, đằng sau những số phận bi kịch là
vẻ đẹp tâm hồn, là những khát khao bản năng của con người. Với
tấm lòng rất mực nhân hậu, Kim Lân đã nhìn thấy ngay ở hành
động theo không Tràng - một người đàn ông xa lạ về làm vợ, nhìn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
bề ngoài là sự mất giá đến thảm hại của người phụ nữ. Nhưng sâu
thẳm bên trong người đàn bà khốn khổ ấy là một lòng ham sống
mãnh liệt. Hành động thị theo không Tràng mà không cần cưới
treo, bên ngoài là bản năng sinh tồn, bấu víu vào sự sống. Nhưng
sâu hơn, đó cũng là hành động biểu thị khao khát chính đáng, cơ
bản của con người. Kim Lân còn thấy cả sau vẻ ngoài nhếch nhác
và tiều tụy là một người biết điều, ý tứ. “Thị cắp cái thúng con,
đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất
đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén và e thẹn.” Khi nhận thấy cái nhìn
tò mò của mọi người xung quanh “thị càng ngượng nghịu, chân
nọ bước díu cả vào chân kia”. Linh cảm của một người phụ nữ đã
mách bảo cho thị, thị ý thức được thân phận nghèo hèn của mình,
thị xấu hổ vì cảnh ngộ theo không của mình. Bởi thị vẫn còn lòng
tự trọng. Nhưng bên cạnh đó, phải chăng thị đang mang vẻ
ngượng ngùng của cô gái ngày đầu về làm vợ, làm dâu. Cái vẻ
ngượng ngùng, e thẹn của người phụ nữ đi bên chồng khi bắt gặp
ánh mắt săm soi của người dân xóm ngụ cư.
Cái dáng vẻ đanh đá, chỏng lỏn, chao chát ngoài chợ tỉnh đi đâu
mất khi thị bước chân theo Tràng về đến nhà, thấy cảnh tượng xơ
xác của gia đình nhà chồng, thị chỉ nén một tiếng thở dài cam
chịu, tuy thất vọng mà không hề kêu than. Đây là một trong
những chi tiết thể hiện sự tinh tế trong tính cách của nhân vật.
Trước ngôi nhà rúm ró mọc lổm ngổm những búi cỏ dại, thị đã
phần nào nghĩ được về tương lai phía trước của mình. Dường như
giờ đây trong thị tràn đầy sự khiêm nhường, ý tứ, e dè của một
nàng dâu mới: chỉ dám “ngồi mớm ở mép giường” không hết
ngượng nghịu, “tay ôm khư khư cái thúng”. Thế ngồi của thị khi
mới về nhà chồng là thế ngồi chênh vênh, không vững chắc, thế
ngồi nửa vời. Đó cũng chính là tâm thế của thị lúc bấy giờ, một tư
thế đầy mặc cảm, cảm giác chông chênh, hụt hẫng, lo lắng,… nỗi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
buồn tủi đến giây phút này tự nhiên dâng ngập trong lòng người
vợ nhặt. Thế nhưng, thị không để nỗi đau trào ra mà nén tất cả
nước mắt vào trong, vì tủi nhưng không thể khóc được, vì thất
vọng, hụt hẫng mà không thể sẻ chia thế nên tâm trạng của người
đàn bà lúc này đang rối bời đến bội phần. Chưa gặp bà cụ Tứ, thị
rất băn khoăn lo lắng "mặt bần thần". Thị sợ rằng liệu người mẹ
ấy có chấp nhận sự xuất hiện của thị trong ngôi nhà này không.
Rồi tương lai của thị sẽ đi đâu về đâu. Đứng trước mặt mẹ chồng,
trông thị rất đáng thương: "cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã
rách bợt". Dường như thị đang mong chờ một quyết định quan
trọng, nó như là một bước ngoặt trong cuộc đời thị. Nó quyết định
thị sẽ có một mái ấm hay rồi lại “vất vơ” nhặt thóc, nhặt gạo sống
qua ngày. Nhưng khi nghe bà cụ Tứ nói: "Con ngồi xuống đây.
Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân" thị "vẫn khép nép đứng nguyên
chỗ cũ". Đó là tâm trạng của một người con gái lấy chồng không
một quả cau, một lá trầu, không cưới. Tủi cho cảnh ngộ. Tủi cho
duyên số. Thật đáng thương bao. Nhưng đó cũng chính là sự khép
nép, ngượng nghịu của người con dâu lần đầu về gặp mẹ chồng.
Cũng có thể thấy, nhân vật này đã có sự thay đổi khi chủ động
chào người mẹ nghèo hai lần vì sợ bà không nghẽ rõ, mọi cư xử
với mẹ đều rất lễ phép, đúng mực. Điều này cũng giúp người đọc
càng thêm trân trọng vẻ đẹp phẩm chất của một người đàn bà đã
vừa trải qua những giây phút bán rẻ đi lòng tự trọng của mình.
Đêm tân hôn hôm ấy đã nhen nhóm lên khao khát hạnh phúc
trong thị để rồi nhân vật này đã có những thay đổi đầy bất ngờ tiếp theo.
Sáng hôm sau thị đã trở thành một người vợ, một người con dâu
đúng mực. Thị dậy sớm cùng mẹ chồng quét tước, thu dọn nhà
cửa sạch sẽ gọn gàng, xây đắp tổ ấm hạnh phúc bé nhỏ của mình.
Tiếng chổi quét sân của thị "kêu sàn sạt trên mặt đất" tưởng như
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
niềm vui đang xôn xao trong lòng thị? Nghe lời mẹ chồng, thị
"lẳng lặng" đi vào bếp dọn bữa ăn sáng. Trong bữa cơm đón nàng
dâu mới, cả nhà được bà cụ Tứ đãi món “chè khoán”, theo bà cụ
Tứ thì nó “ngon đáo để” mà khối nhà trong xóm không có mà ăn.
Thị nén cảm xúc của mình lại dù món “chè khoán” thực chất là
món cháo cám rất đắng, chát, khó ăn. Thị nuốt thẳng miếng cháo
cám vì sợ mẹ phiền lòng. Qua đây cũng cho thấy thị là một người
chịu cam chịu khổ và đặc biệt thị rất yêu thương mẹ chồng mình.
Đó cũng là chi tiết đắt giá thể hiện sự chấp nhận của thị trước gia
cảnh gieo neo, khốn khó của nhà chồng. Thị đã sẵn sàng trở thành
một phần trong gia đình nhỏ này, cùng chồng, cùng mẹ chồng của
mình gánh vác những khó khăn phía trước. Khao khát hạnh phúc
dường như đã tiếp thêm cho con người ta một sức mạnh lớn lao
đến thế. Có thể thấy rằng, gia đình Tràng được tiếp thêm sinh khí
khi có thị. Thị hướng tới một tương lai tươi sáng khi người phụ
nữ này chính là người nói nhiều nhất về đoàn người đi phá kho
thóc của Nhật. Thị đã khai sáng cho Tràng và bà cụ Tứ để rồi
hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc và lá cờ đỏ sao vàng cứ xuất
hiện mãi trong tâm trí của Tràng, mở ra những hứa hẹn về tương
lai tươi sáng hơn cho tất cả các nhân vật.
Với những nét vẽ đơn giản, Kim Lân đã xây dựng thành công
người vợ nhặt. Một người phụ nữ với hình hài khốn khổ, tội
nghiệp thế nhưng trong tâm hồn lại ẩn chứa sự nhạy cảm, tinh tế,
sức sống tiềm tàng mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc khi đang ở
bên bờ vực thẳm. Thị đã nói lên một sự thật ờ đời. Trong đói khổ
hoạn nạn, kề bên cái chết, nhân dần ta vẫn khao khát được sống
ấm no, hạnh phúc. Bên cạnh đó, thị còn là “hóa thân” thành hình
ảnh người vợ, người con dâu với những trách nhiệm, công việc đè
nặng lên đôi vai. Những người vợ vẫn luôn quán xuyến, lo toan
một cách chu toàn cho gia đình bé nhỏ của mình. Những con
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
người nghèo khổ đã biết dựa vào nhau, san sẻ vật chất và tình
thương cho nhau để vượt qua thử thách khắc nghiệt, vươn tới ấm
no hạnh phúc và sự đổi đời với niềm tin: "Ai giàu ba họ, ai khó ba
đời"... Thị cũng chính là nhân vật thể hiện rõ những vẻ đẹp khuất
lấp của người phụ nữ Việt Nam giai đoạn trước cách mạng. Trong
tận cùng của cuộc đời, người ta vẫn muốn được sống, sống cho ra một con người.
Qua hình tượng nhân vật người vợ nhặt ta càng thấy rõ giá trị
nhân đạo tác phẩm. Chính giá trị nhân đạo ấy khiến Kim Lân và
“Vợ nhặt” sống mãi trong lòng bạn đọc mặc cho lớp bụi thời gian
có phủ kín. Với trái tim ấm nóng và tấm lòng nhân hậu Kim Lân
thể hiện sự đồng cảm, trân trọng và nâng niu với những số kiếp bé
nhỏ. Đó là thị - một số không tròn trĩnh, một người tưởng như
đánh mất cả lòng tự trọng chỉ vì miếng ăn nhưng phía sau là “hạt
ngọc” đang được ẩn giấu. Một tấm lòng ham sống, khao khát
hạnh phúc đời thường. Cái đói khiến thị trở thành nên chao chát,
chỏng lỏn và cong cớn nhưng đó không phải con người của thị.
Trong đôi mắt của Kim Lân, thị ý tứ, dịu hiền, đảm đang của một
người vợ, một người con dâu mới về nhà chồng. Ngòi bút của
Kim Lân còn tố cáo chế độ thực dân Pháp, phát xít Nhật đã khiến
đời sống nhân dân ta lâm vào cảnh khốn cùng, cả dân tộc đứng
trước thảm diệt vong, người chết như ngả rạ, người sống thì vất
vưởng như những bóng ma. Nhưng vượt lên trên tất cả Kim Lân
không để cho nhân vật của mình phải chết trong đau đớn, quằn
quại như “Chí Phèo” hay “Lão Hạc” của Nam Cao. Kim Lân đã
hé mờ cho nhân vật của mình một lối đi, một lối đi hướng về
tương lai, hướng về sự sống khi để hình ảnh lá cờ bay phấp phới trong tâm trí Tràng.
Với cách dựng truyện tự nhiên, đơn giản nhưng chặt chẽ. Kim
Lân đã khéo léo làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và nhân
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
vật. Không những thế giọng văn còn mộc mạc, giản dị gần gũi với
lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân lao động. Tất cả làm nên
tên tuổi “Vợ nhặt” một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt
Nam, tái hiện một xã hội nghèo khổ, cùng cực, nhưng vẫn sáng
lên tình người và những tia hi vọng trong tư tưởng của người
nông dân trước cách mạng.
Một nhà văn “nguyện một lòng đi về với đất, với người, với thuần
hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn” như Kim Lân đã thực
sự thành công với hình tượng người vợ nhặt. Một người phụ nữ
với biết bao vẻ đẹp bị khuất lấp sau bức chân dung được vẽ bằng
những đường nét nguệch ngoạc. Sau cùng đó là một tấm lòng hết
mực yêu thương, trân trọng vẻ đẹp, khát vọng của con người. Có
điều gì quý giá và đáng trân trọng hơn thế. Tình người, tình đời
thêm một lần nữa thấm đẫm trong những trang sách Kim Lân.
Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt - Mẫu 6
Nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử nước ta năm 1945 đã
được tái hiện qua ngòi bút của Kim Lân trong tác phẩm "Vợ
nhặt". Nạn đói ấy không chỉ "vắt kiệt" sự sống của con người, đặt
con người ta trước ranh giới mỏng manh của sự sống và cái chết
mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến tính cách, cuộc đời và số phận của
họ. Cái đói đã đẩy con người đến bước đường cùng, khiến họ phải
từ bỏ lòng tự trọng và danh dự của mình để có được miếng ăn.
Người vợ nhặt đi theo Tràng hiện lên như minh chứng cho hiện
thực khốc liệt và thê thảm ấy, tuy nhiên khuất lấp bên trong một
con người chao chát, chỏng lỏn như thị lại là những vẻ đẹp phẩm chất sáng ngời.
Người vợ nhặt hiện lên với ngoại hình không còn gì tiều tụy hơn
"áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi...", khuôn mặt lưỡi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Chị ta là nạn nhân đáng
thương của nạn đói, sự xuất hiện của thị trong câu chuyện cũng
thật đặc biệt: "chị ta cùng mấy chị con gái nữa đang ngồi vêu ra ở
ngoài đường" nghĩa là chị ta không có nhà để ở, ngồi đấy chờ ai
có việc gì gọi đến thì làm. Chị ta không có công việc ổn định, lại
đang trong tình cảnh thất nghiệp nên chỉ chờ xem ai có hạt rơi hạt
vải gì thì nhặt, vậy mới thấy rằng chị ta ngay cả miếng ăn cũng
không có. Ngay cả cái tên, một sự sở hữu tối thiểu của một con
người chị ta cũng không có, người đàn bà ấy xuất hiện với một
con số "0" tròn trĩnh (không tên, không nhà cửa, không việc làm,
không miếng ăn), chị ta đang ở bên bờ vực của cái chết, hay nói
cách khác, cảnh ngộ của người vợ nhặt là khốn cùng và đáng
thương. Tuy nhiên, ẩn sâu trong hình hài tiều tụy ấy là một khát
vọng sống, khát vọng hạnh phúc và ý thức vươn lên mạnh mẽ của người đàn bà.
Lời nói và cử chỉ của người đàn bà ấy thể hiện rất rõ sự bạo dạn
qua hai lần gặp Tràng ở chợ tỉnh. Lần đầu gặp mặt, chị ta đáp lại
câu hò của Tràng một cách cong cớn và gọi Tràng là "nhà tôi" sau
đó còn ton ton chạy đến đẩy xe cho Tràng, lại còn liếc mắt cười
tít và gọi Tràng là "đằng ấy". Đó là những lời lẽ và cử chỉ đầy
thân mật và vồ vập. Lần hai, chị ta xuất hiện trước mắt Tràng
trong trạng thái tức giận, chị ta chạy đến và nói một cách sưng
sỉa, trách Tràng hứa hẹn, điều đó chứng tỏ rằng chị ta đã chờ đợi
cuộc hẹn với Tràng và vô cùng thất vọng khi bị lỡ hẹn. Vì quá đói
mà thị đã gợi ý Tràng để được mời ăn, khi Tràng mời chị ta ăn
giàu chỉ để làm quen nhưng chị ta lại muốn ăn thứ khác để được
no. Và khi được đồng ý thì "hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì
sáng lên, thị ngồi sà xuống ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền
chẳng chuyện trò gì,..." Trong hành động ăn của người đàn bà ấy
có sự đấu tranh, giành giật sự sống từ tay tử thần. Vì đã quá đói
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
mà chị ta phải ăn để được no và để được ăn thì chị ta đã phải bỏ
qua lòng tự trọng. Chưa dừng lại ở bữa ăn, điều chị ta cần không
chỉ là một bữa no mà là sự sống, muốn vậy phải có chỗ dựa, vì
thế sau khi ăn một chặp bốn bát bánh đúc, trước lời bông đùa của
anh Tràng, chị đã đã chấp nhận theo không một người đàn ông về
làm vợ. Hành động này đã thể hiện sự rẻ rúng, đáng thương của
một con người, người đàn bà ấy không chỉ bỏ qua lòng tự trọng
mà còn phải bỏ qua cả phẩm giá của một người con gái. Nhưng
trong hoàn cảnh này, Thị đã bất chấp tất cả chỉ để được sống và
chị ta đã có một gia đình, đã có một cuộc đời khác. Trái ngược
với dáng vẻ đanh đá, có phần trơ trẽn, vô duyên ở chợ huyện. Khi
theo Tràng về nhà, chị ta trở nên rất ý nhị, đúng mực. Trước
những lời bàn tán, chỉ trỏ của người dân xóm Ngụ Cư, dù khó
chịu nhưng thị cũng chỉ lầm bầm trong miệng. Khi về đến nhà,
gia cảnh nghèo khó của anh Tràng bày ra trước mắt khiến thị thất
vọng. Thế nhưng người đàn bà ấy vẫn cố gắng giấu sự thất vọng
ấy đi trong tiếng thở dài cố nén và ánh mắt tối lại. Khi gặp mặt bà
cụ Tứ, người vợ nhặt đã chủ động chào hỏi, làm thân với người
mẹ chồng, một thái độ rất đúng mực của người con dâu mới.
Sự thay đổi rõ nhất chính là người vợ nhặt trong buổi sáng hôm
sau. Khi đã làm vợ người khác, có một gia đình, ở người đàn bà
ấy thức dậy thiên chức chăm sóc của người phụ nữ. Chị ta chăm
chỉ quét tước nhà cửa cho gọn gàng sạch sẽ, đó là bàn tay vun
vén, là sự lo toan chu tất của người phụ nữ trong gia đình. Lời lẽ
của chị ta cũng trở nên hiền hậu, đúng mực, như vậy gia đình
không chỉ đem đến cho người vợ nhặt một chỗ dựa mà còn dành
cho chị ta cả hơi ấm của tình người, chính những điều tốt đẹp đó
đã giúp người đàn bà được thay đổi. Chị ta đã có một câu nói rất
quan trọng trong bữa cơm buổi sáng hôm sau "Trên mạn Thái
Nguyên, Bắc Giang người ta không đóng thuế nữa đâu. Người ta
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy". Câu
nói ấy chứng tỏ chị ta đã có hiểu biết về phong trào Việt Minh và
biết sử dụng hiểu biết đó để giác ngộ người khác. Nhân vật người
đàn bà ấy không chỉ đem đến cho mẹ con Tràng một hạnh phúc
gia đình mà còn giúp Tràng được giác ngộ, giúp Tràng bước sang
một trang đời mới, bản thân chị ta cũng được thay đổi cuộc đời.
Qua ngòi bút của Kim Lân, những con người đói khát đến mức
gần kề cái chết như người vợ nhặt vẫn khao khát hạnh phúc, tổ
ấm gia đình. Rộng hơn là mọi người trong hoàn cảnh đó vẫn cưu
mang, đùm bọc và chia sẻ lẫn nhau. Ở họ chỉ đói ăn đói mặc chứ
không bao giờ cạn kiệt niềm tin vào tương lai, hi vọng vào một
ngày mai tươi sáng với những viễn cảnh hạnh phúc.