Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà chọn lọc hay nhất | Ngữ văn 12

Nguyễn Tuân sinh năm 1910 - mất 28/7/987, ông sinh ra trong một gia đình nhà Nho giáo khi thời kỳ Hán học đã bắt đầu suy tàn. Quê ông thuộc làng Mộc nay là phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. Sinh ra trong thời kỳ mất nước, Nguyễn Tuân đã sớm ý thức được về tinh thần yêu nước, Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Chủ đề:
Môn:

Ngữ Văn 12 1 K tài liệu

Thông tin:
4 trang 2 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà chọn lọc hay nhất | Ngữ văn 12

Nguyễn Tuân sinh năm 1910 - mất 28/7/987, ông sinh ra trong một gia đình nhà Nho giáo khi thời kỳ Hán học đã bắt đầu suy tàn. Quê ông thuộc làng Mộc nay là phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. Sinh ra trong thời kỳ mất nước, Nguyễn Tuân đã sớm ý thức được về tinh thần yêu nước, Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

45 23 lượt tải Tải xuống
Phân ch vẻ đẹp trữ nh của sông Đà chọn lọc hay nhất
Kính mời quý bạn đọc theo dõi bài viết dưới đây của Luật Minh Khuê, bài viết sẽ cung cấp cho quý bạn
đọc mẫu phân ch vẻ đẹp trữ nh của sông Đà qua tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
chọn lọc hay nhất.
Mục lục bài viết
1. Tác giả, tác phẩm
1.1. Tác giả
Nguyễn Tuân sinh năm 1910 - mất 28/7/987, ông sinh ra trong một gia đình nhà Nho giáo khi thời kỳ
Hán học đã bắt đầu suy tàn. Quê ông thuộc làng Mộc nay là phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân,
thành phố Hà Nội.
Sinh ra trong thời kỳ mất nước, Nguyễn Tuân đã sớm ý thức được về nh thần yêu nước, yêu quê
hương của mình. Ông học hết bậc Thành chung ở Nam Định thì bị đuổi do tham gia một số cuộc bãi
công phản đối các giáo viên Pháp nói xấu người dân Việt Nam. Sau đó một thời gian, ông đã bị đi tù vì
qua biên giới không có giấy phép. Khi ra tù, Nguyễn Tuân bắt đầu viết báo, làm văn.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, ông nhiệt nh tham gia các hoạt động cách mạng và trở
thành nhà văn êu biểu của nền văn học mới Việt Nam thời bấy giờ. Từ năm 1948 đến năm 1957, ông
gichức Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam. Đến năm 1966, ông được nhà nước trao tặng giải
thưởng Hồ Chí MInh về văn học nghệ thuật.
Một số tác phẩm êu biểu của Nguyễn Tuân như tập tùy bút Sông Đà, Vang bóng một thời, Một
chuyến đi, Thiều quê hương, Đường vui, Tình chiến dịch,...
Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong những năm trước và sau Cách mạng tháng Tám thành
công có nhiều thay đổi, nhưng lối văn phong trong các tác phẩm vn có điểm chung. Trước Cách mạng
tháng Tám ông tập trung khám phá vẻ đẹp trong quá khứ. Sau Cách mạng tháng Tám, tâm hồn ông đã
có sự hòa hợp với cách mạng, với đất nước, ông bắt đầu đi m những cái đẹp trong chính cuộc sống
thường ngày. Giọng văn trở nên n yêu, tươi đẹp đậm chất tài hoa với phong cách độc đáo, mới lạ
của một nhà nghệ thuật.
1.2. Tác phẩm
Tùy bút Người lái đò sông Đà được Nguyễn Tuân viết vào năm 1960 in trong tập tùy bút Sông Đà. Tác
phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế vùng Tây Bắc để m kiếm vẻ đẹp của thiên nhiên và tâm hồn
của những con người lao động, chiến đấu nơi núi rừng đậm chất vàng mười của Nguyễn Tuân.
Qua tác phẩm "Người lái đò sông Đà" Nguyễn Tuân muốn khắc họa một thiên nhiên Tây Bắc đầy màu
sắc và chuyển động. Một trong những phần đẹp nhất của thiên nhiên là sông Đà. Nước sông Đà thay
đổi theo mùa, có nghĩa là có màu sắc khác nhau và có hình dạng khác nhau. Dọc theo sông Đà có rất
nhiều thác ghềnh, một số thác có những tảng đá được tạo hình thành những cánh cổng tượng trưng
cho sự sinh và tử. Đồng thời, nhà văn còn nhận thấy ở người lao động mới chất nghệ thuật, tài năng,
bản lĩnh cao cả: chất vàng thứ ời của đất nước trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó, nhà văn đã
ca ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bắc, cũng như con người Tây Bắc cần cù, dũng cảm và tài hoa.
2. Phân ch vẻ đẹp trữ nh của con Sông Đà
Nguyễn Tuân là nhà văn yêu thiên nhiên, cái đẹp. Các tác phẩm ca ông chứa đầy những hình ảnh
sống động về con người và thiên nhiên, với trọng tâm là ca ngợi cái trước. Một trong những sáng tác
nổi ếng nhất của Nguyễn Tuân phải kể đến là tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Trong tác phẩm này,
con sông Đà được nhìn lên vừa dữ dội vừa hiền hòa, hệt như một dòng sông Tây Bắc xinh đẹp.
Nguyễn Tuân đã quan sát sông Đà ở nhiều thời điểm, nhiều góc độ khác nhau nên có rất nhiều cách
cảm nhận về hình dáng con sông này. Khi ngồi trêny bay nhìn xuống, nhà văn nhận thấy dòng sông
như một cái dây thừng ngoằn ngoèo trải ra trên một đại dương núi đá. Hình ảnh này giúp người đọc
hình dung được toàn cảnh về độ lớn, độ hoành tráng của dòng sông, nó uốn lượn trải dài gần như
toàn bộ vùng Tây Bắc.
Nếu vẻ đẹp của sông Đà chỉ dừng lại sự hung bạo thì không có gì xứng đáng với nh yêu của tác giả,
chính dòng sông này lại mang trong mình một vẻ đẹp khác, vô cùng thơ mộng, trữ nh làm xao xuyến
lòng người: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ nh, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân".
Câu văn dài chỉ một dấu ngắt tay duy nhất kết hợp với điệp từ "tuôn dài" khiến Sông Đà hiện lên như
một người thiếu nữ Tây Bắc với vẻ đẹp trữ nh, trẻ trung, duyên dáng, bồng bềnh giữa núi rừng.
Nếu ở trên thượng nguồn, dòng sông hung bạo bao nhiêu thì về đến hạ nguồn dòng sông lại trở nên
đằm thắm, dịu dàng bấy nhiêu. Bản thân dòng sông đã mang vẻ đẹp quyến rũ nhưng tác giả còn tô
điểm thêm màu sắc, đường nét cảnh vật xung quanh. Sắc xanh của dòng sông càng trở nên nổi bật
giữa sắc trắng nh khôi của hoa ban và sắc đỏ đến nao lòng người của hoa gạo, bức tranh đó lại được
ẩn hiện trong lớp sương khói núi Mèo càng tạo nên vẻ đẹp mơ màng, huyền áo, đầy bí ẩn. Đoạn văn
còn thể hiện tài hoa của nhà văn trong việc sử dụng ngôn ngữ giữa hai chữ "tuôn dài" thường sẽ
một dấu phẩy nhưng tác giả cố nh phá vỡ cấu trúc ngữ pháp để tô đậm ấn tượng về cái mênh mang,
tri dài, mềm mại, duyên dáng của dòng sông. Câu văn còn sử dụng nhiều thanh bằng tạo nên ấn
ợng về một dòng chảy êm đềm, nhẹ nhàng. Chính những nét phá vỡ đấy đã cho người đọc thấy
được sự say mê của người nghệ sĩ trước vẻ đẹp của đất nước. Câu văn này của Nguyễn Tuân xứng
đáng được xếp vào những câu văn đẹp nhất được coi là "tờ hoa" trong nền văn học Việt Nam.
Nếu Hoàng Phủ Ngọc Tường phát hiện nước Sông Hương thay đổi theo thời gian trong ngày "Sớm
xanh trưa vàng chiều m" thì Nguyễn Tuân lại nhìn thấy nước Sông Đà thay đổi theo mùa trong năm.
Mùa xuân "Sông Đà mang sắc xanh ngọc bích". Ẩn đằng sau hình ảnh miêu tả ởng chừng như đơn
gin y là vẻ đẹp của nước, về độ trong cũng như ánh sáng trên dòng sông. Bởi để có thể tạo nên sắc
xanh đẹp đẽ như sắc ngõ thì đòi hỏi dòng nước phải đạt đến độ trong vắt, dòng chảy êm đềm, ngoài
ra còn có ánh sáng chan hòa rực rỡ. Bằng sự từng trải của một người ham mê phong cách xê dịch, nhà
văn đã nhận thấy cùng là sắc xanh nhưng chỉ ớc sông Đà về mùa xuân mới đạt đến độ trong trẻo
đẹp như thế, còn các dòng sông khác như sông Lô, sông Gâm lại mang màu xanh cánh hến.
Về mùa thu nước sông Đà lại biến đổi hoàn toàn, không còn là màu xanh mà chuyển sang "lừ lừ chín
đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu, "lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội
mỗi độ thu về". Câu văn gợi ra một dòng sông chảy chậm, nhẹ nhàng với màu đỏ của phù sa nặng trĩu.
Sắc đỏ của dòng sông được miêu tả không chỉ ở bề mặt mà còn ở sâu trong tâm trạng, ở sự bất mãn,
bực bội mà phải cảm nhận bằng tâm hồn mới hiểu được. "Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo" vì
thế mà Nguyễn Tuân đã có một phép so sánh trường nghĩa đầy táo bạo màu sắc sông giống với màu
bệnh lý của khuôn mặt người. Bằng nh yêu của một người say mê nghệ thuật, Nguyễn Tuân đã thẳng
thắn phản bác cái tên mà thực dân Pháp đã gọi sông Đà là sông Đen. Nhà văn đã trực ếp bày tỏ nh
cảm yêu mến với sông Đà, niềm tự hào về vẻ đẹp của con sông xứ sở và niềm tự tôn dân tộc sâu sắc.
Nguyễn Tuân với dòng sông Đà không đơn thuần chỉ là quan hệ giữa nhà văn với đối tượng được
miêu tả mà còn là giữa những người bạn tri ân, tri kỷ. Tác giả đã dùng một từ rất thiêng liêng và ý
nghĩa để gọi sông Đà, đó chính là "cố nhân". Khác hẳn với con thủy quái hung dữ luôn m cách đe
dọa, êu diệt con người nơi thượng nguồn. Về đến thượng nguồn sông Đà bỗng trở nên dịu dàng,
đằm thắm, trở thành một người bạn luôn chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với mọi người. Bởi vậy, khi xa
dòng sông nhà văn nhớ nó như một người bạn thân thiết. Tác giả dành cho dòng sông một nỗi nhớ da
diết, mãnh liệt nên khi gặp lại con sông yêu thương, niềm vui đã vỡ òa tràn ra bề mặt câu chữ.
Nắng chiếu trên dòng sông Đà đẹp đến mê hồn. Nguyễn Tuân đã tạo ra một kết hợp từ độc đáo "Nắng
tháng ba Đường thi", trong câu văn có cả màu sắc, thời gian và thi ca. Căn văn đưa người đọc trở về
với vẻ đẹp lãng mạn trong thơ Đường " Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu". Ấn tượng để lại trong
lòng người đọc là hình ảnh dòng sông phẳng lặng, yên bình, trong sáng và đầy sắc xuân. Cảm xúc được
bộc lộ trực ếp bằng hình ảnh so sánh độc đáo "vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như
nối lại chiêm bao đứt quãng". Đây là hai hình ảnh so sánh rất lạ vì những đối tượng được đem ra so
sánh có sự đối lập nhau. "Nắng giòn tan" là hình ảnh ẩn dụ gợi ra cái nắng trong trẻo, nhẹ nhàng hoàn
toàn tương phản với cái u ám trĩu nặng của bầu trời ny mưa dầm. Đặc biệt "nối lại chiêm bao đứt
quãng" là việc gần như không thể có trong đời và nó hi hữu, hiếm hoi bao nhiêu thì đem lại cảm giác
sung sướng bấy nhiêu. Cuối cùng, Nguyễn Tuân nhấn mạnh lại một lần nữa cảm giác gặp lại sông Đà
bằng hình ảnh so sánh "nó đằm đm m ấm như gặp lại cố nhân". Hai từ láy liên ếp gợi cảm giác ấm
áp, trìu mến. Sông Đà trở thành người bạn cũ với bao kỉ niệm, nh yêu thương và nhớ nhung. Hình
ảnh dòng sông mang đến cho người đọc những cảm xúc chân thành, vừa mãnh liệt, vừa hết sức nhân
văn đó là nh trữ nh toát lên từ tâm hồn, nh cách của dòng sông hạ nguồn.
T điểm nhìn của mình, nhà văn đã quan sát và khắc họa những vẻ đẹp hết sức đa dạng và nên thơ
cảnh vật ven sông. Một vẻ đẹp nh lặng, yên ả, thanh bình như còn đó dấu ch lịch sử của ông cha ta
để lại "cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ
đến như thế". Hai hình ảnh so sánh độc đáo đặt cạnh nhau "Bờ sông hoang dại như một bờ ền sử.
Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ ch xưa" gợi ra vẻ đẹp nguyên sơ, trong trẻo và nh lặng đến
tuyệt đối của dòng sông Đà. Chất trữ nh còn được thể hiện rõ nét qua cảnh vật như "nương ngô nhú
lên mấy lá non, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp, con hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh". Chỉ vài
chi ết nhỏ nhưng tạo ra ấn tượng về sự tràn đầy sức sống của những bờ đê dọc con sông Đà. Cảnh
vật nối ếp nhau tạo nên một bức tranh thơ mộng, trữ nh bình yên. Biện pháp nghệ thuật lấy động
tả nh "đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi
mất đàn hươu vụt biến" đã khẳng định không gian thanh bình vắng vẻ nơi đây. Tác giả đã chứng minh
được vẻ đẹp trữ nh lãng mạn của dòng sông đã trở thành nguồn cm hứng bất tận cho thi ca.
Nguyễn Tuân đã tạo nên một bức tranh sông Đà tuyệt đẹp bằng cách sử dụng cảm nhận nh tế, giác
quan nhạy bén, ngôn từ độc lạ và một lối viết tài hoa. Ông đã biến hình ảnh dòng sông trở thành một
biểu tượng thể hiện niềm tự hào về thiên nhiên cây cỏ, sông núi và khát khao m thấy cái đẹp. Bài tùy
bút "Người lái đò sông Đà" là một câu chuyện hiện thực về thiên nhiên và nguồn cảm hứng mãnh liệt
say mê với nó của Nguyễn Tuân. Đặc sắc nghệ thuật của nó với nhiều biện pháp tu từ và kho ngôn ngữ
phong phú đã làm cho sông Đà trong văn học mãi mãi trở thành một địa danh nghệ thuật.
| 1/4

Preview text:

Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà chọn lọc hay nhất
Kính mời quý bạn đọc theo dõi bài viết dưới đây của Luật Minh Khuê, bài viết sẽ cung cấp cho quý bạn
đọc mẫu phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà qua tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân chọn lọc hay nhất.

Mục lục bài viết
1. Tác giả, tác phẩm 1.1. Tác giả
Nguyễn Tuân sinh năm 1910 - mất 28/7/987, ông sinh ra trong một gia đình nhà Nho giáo khi thời kỳ
Hán học đã bắt đầu suy tàn. Quê ông thuộc làng Mộc nay là phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.

Sinh ra trong thời kỳ mất nước, Nguyễn Tuân đã sớm ý thức được về tinh thần yêu nước, yêu quê
hương của mình. Ông học hết bậc Thành chung ở Nam Định thì bị đuổi do tham gia một số cuộc bãi
công phản đối các giáo viên Pháp nói xấu người dân Việt Nam. Sau đó một thời gian, ông đã bị đi tù vì
qua biên giới không có giấy phép. Khi ra tù, Nguyễn Tuân bắt đầu viết báo, làm văn.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, ông nhiệt tình tham gia các hoạt động cách mạng và trở
thành nhà văn tiêu biểu của nền văn học mới Việt Nam thời bấy giờ. Từ năm 1948 đến năm 1957, ông
giữ chức Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam. Đến năm 1966, ông được nhà nước trao tặng giải
thưởng Hồ Chí MInh về văn học nghệ thuật.

Một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân như tập tùy bút Sông Đà, Vang bóng một thời, Một
chuyến đi, Thiều quê hương, Đường vui, Tình chiến dịch,...

Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong những năm trước và sau Cách mạng tháng Tám thành
công có nhiều thay đổi, nhưng lối văn phong trong các tác phẩm vẫn có điểm chung. Trước Cách mạng
tháng Tám ông tập trung khám phá vẻ đẹp trong quá khứ. Sau Cách mạng tháng Tám, tâm hồn ông đã
có sự hòa hợp với cách mạng, với đất nước, ông bắt đầu đi tìm những cái đẹp trong chính cuộc sống
thường ngày. Giọng văn trở nên tin yêu, tươi đẹp đậm chất tài hoa với phong cách độc đáo, mới lạ
của một nhà nghệ thuật.
1.2. Tác phẩm
Tùy bút Người lái đò sông Đà được Nguyễn Tuân viết vào năm 1960 in trong tập tùy bút Sông Đà. Tác
phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế vùng Tây Bắc để tìm kiếm vẻ đẹp của thiên nhiên và tâm hồn
của những con người lao động, chiến đấu nơi núi rừng đậm chất vàng mười của Nguyễn Tuân.

Qua tác phẩm "Người lái đò sông Đà" Nguyễn Tuân muốn khắc họa một thiên nhiên Tây Bắc đầy màu
sắc và chuyển động. Một trong những phần đẹp nhất của thiên nhiên là sông Đà. Nước sông Đà thay
đổi theo mùa, có nghĩa là có màu sắc khác nhau và có hình dạng khác nhau. Dọc theo sông Đà có rất
nhiều thác ghềnh, một số thác có những tảng đá được tạo hình thành những cánh cổng tượng trưng
cho sự sinh và tử. Đồng thời, nhà văn còn nhận thấy ở người lao động mới chất nghệ thuật, tài năng,

bản lĩnh cao cả: chất vàng thứ mười của đất nước trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó, nhà văn đã
ca ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bắc, cũng như con người Tây Bắc cần cù, dũng cảm và tài hoa.

2. Phân tích vẻ đẹp trữ tình của con Sông Đà
Nguyễn Tuân là nhà văn yêu thiên nhiên, cái đẹp. Các tác phẩm của ông chứa đầy những hình ảnh
sống động về con người và thiên nhiên, với trọng tâm là ca ngợi cái trước. Một trong những sáng tác
nổi tiếng nhất của Nguyễn Tuân phải kể đến là tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Trong tác phẩm này,
con sông Đà được nhìn lên vừa dữ dội vừa hiền hòa, hệt như một dòng sông Tây Bắc xinh đẹp.

Nguyễn Tuân đã quan sát sông Đà ở nhiều thời điểm, nhiều góc độ khác nhau nên có rất nhiều cách
cảm nhận về hình dáng con sông này. Khi ngồi trên máy bay nhìn xuống, nhà văn nhận thấy dòng sông
như một cái dây thừng ngoằn ngoèo trải ra trên một đại dương núi đá. Hình ảnh này giúp người đọc
hình dung được toàn cảnh về độ lớn, độ hoành tráng của dòng sông, nó uốn lượn trải dài gần như
toàn bộ vùng Tây Bắc.

Nếu vẻ đẹp của sông Đà chỉ dừng lại ở sự hung bạo thì không có gì xứng đáng với tình yêu của tác giả,
chính dòng sông này lại mang trong mình một vẻ đẹp khác, vô cùng thơ mộng, trữ tình làm xao xuyến
lòng người: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân".
Câu văn dài chỉ một dấu ngắt tay duy nhất kết hợp với điệp từ "tuôn dài" khiến Sông Đà hiện lên như
một người thiếu nữ Tây Bắc với vẻ đẹp trữ tình, trẻ trung, duyên dáng, bồng bềnh giữa núi rừng.

Nếu ở trên thượng nguồn, dòng sông hung bạo bao nhiêu thì về đến hạ nguồn dòng sông lại trở nên
đằm thắm, dịu dàng bấy nhiêu. Bản thân dòng sông đã mang vẻ đẹp quyến rũ nhưng tác giả còn tô
điểm thêm màu sắc, đường nét cảnh vật xung quanh. Sắc xanh của dòng sông càng trở nên nổi bật
giữa sắc trắng tinh khôi của hoa ban và sắc đỏ đến nao lòng người của hoa gạo, bức tranh đó lại được
ẩn hiện trong lớp sương khói núi Mèo càng tạo nên vẻ đẹp mơ màng, huyền áo, đầy bí ẩn. Đoạn văn
còn thể hiện tài hoa của nhà văn trong việc sử dụng ngôn ngữ giữa hai chữ "tuôn dài" thường sẽ có
một dấu phẩy nhưng tác giả cố tình phá vỡ cấu trúc ngữ pháp để tô đậm ấn tượng về cái mênh mang,
trải dài, mềm mại, duyên dáng của dòng sông. Câu văn còn sử dụng nhiều thanh bằng tạo nên ấn
tượng về một dòng chảy êm đềm, nhẹ nhàng. Chính những nét phá vỡ đấy đã cho người đọc thấy
được sự say mê của người nghệ sĩ trước vẻ đẹp của đất nước. Câu văn này của Nguyễn Tuân xứng
đáng được xếp vào những câu văn đẹp nhất được coi là "tờ hoa" trong nền văn học Việt Nam.

Nếu Hoàng Phủ Ngọc Tường phát hiện nước Sông Hương thay đổi theo thời gian trong ngày "Sớm
xanh trưa vàng chiều tím" thì Nguyễn Tuân lại nhìn thấy nước Sông Đà thay đổi theo mùa trong năm.
Mùa xuân "Sông Đà mang sắc xanh ngọc bích". Ẩn đằng sau hình ảnh miêu tả tưởng chừng như đơn
giản ấy là vẻ đẹp của nước, về độ trong cũng như ánh sáng trên dòng sông. Bởi để có thể tạo nên sắc
xanh đẹp đẽ như sắc ngõ thì đòi hỏi dòng nước phải đạt đến độ trong vắt, dòng chảy êm đềm, ngoài
ra còn có ánh sáng chan hòa rực rỡ. Bằng sự từng trải của một người ham mê phong cách xê dịch, nhà
văn đã nhận thấy cùng là sắc xanh nhưng chỉ nước sông Đà về mùa xuân mới đạt đến độ trong trẻo và
đẹp như thế, còn các dòng sông khác như sông Lô, sông Gâm lại mang màu xanh cánh hến.

Về mùa thu nước sông Đà lại biến đổi hoàn toàn, không còn là màu xanh mà chuyển sang "lừ lừ chín
đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu, "lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì

mỗi độ thu về". Câu văn gợi ra một dòng sông chảy chậm, nhẹ nhàng với màu đỏ của phù sa nặng trĩu.
Sắc đỏ của dòng sông được miêu tả không chỉ ở bề mặt mà còn ở sâu trong tâm trạng, ở sự bất mãn,
bực bội mà phải cảm nhận bằng tâm hồn mới hiểu được. "Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo" vì
thế mà Nguyễn Tuân đã có một phép so sánh trường nghĩa đầy táo bạo màu sắc sông giống với màu
bệnh lý của khuôn mặt người. Bằng tình yêu của một người say mê nghệ thuật, Nguyễn Tuân đã thẳng
thắn phản bác cái tên mà thực dân Pháp đã gọi sông Đà là sông Đen. Nhà văn đã trực tiếp bày tỏ tình
cảm yêu mến với sông Đà, niềm tự hào về vẻ đẹp của con sông xứ sở và niềm tự tôn dân tộc sâu sắc.

Nguyễn Tuân với dòng sông Đà không đơn thuần chỉ là quan hệ giữa nhà văn với đối tượng được
miêu tả mà còn là giữa những người bạn tri ân, tri kỷ. Tác giả đã dùng một từ rất thiêng liêng và ý
nghĩa để gọi sông Đà, đó chính là "cố nhân". Khác hẳn với con thủy quái hung dữ luôn tìm cách đe
dọa, tiêu diệt con người ở nơi thượng nguồn. Về đến thượng nguồn sông Đà bỗng trở nên dịu dàng,
đằm thắm, trở thành một người bạn luôn chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với mọi người. Bởi vậy, khi xa
dòng sông nhà văn nhớ nó như một người bạn thân thiết. Tác giả dành cho dòng sông một nỗi nhớ da
diết, mãnh liệt nên khi gặp lại con sông yêu thương, niềm vui đã vỡ òa tràn ra bề mặt câu chữ.

Nắng chiếu trên dòng sông Đà đẹp đến mê hồn. Nguyễn Tuân đã tạo ra một kết hợp từ độc đáo "Nắng
tháng ba Đường thi", trong câu văn có cả màu sắc, thời gian và thi ca. Căn văn đưa người đọc trở về
với vẻ đẹp lãng mạn trong thơ Đường " Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu". Ấn tượng để lại trong
lòng người đọc là hình ảnh dòng sông phẳng lặng, yên bình, trong sáng và đầy sắc xuân. Cảm xúc được
bộc lộ trực tiếp bằng hình ảnh so sánh độc đáo "vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như
nối lại chiêm bao đứt quãng". Đây là hai hình ảnh so sánh rất lạ vì những đối tượng được đem ra so
sánh có sự đối lập nhau. "Nắng giòn tan" là hình ảnh ẩn dụ gợi ra cái nắng trong trẻo, nhẹ nhàng hoàn
toàn tương phản với cái u ám trĩu nặng của bầu trời ngày mưa dầm. Đặc biệt "nối lại chiêm bao đứt
quãng" là việc gần như không thể có trong đời và nó hi hữu, hiếm hoi bao nhiêu thì đem lại cảm giác
sung sướng bấy nhiêu. Cuối cùng, Nguyễn Tuân nhấn mạnh lại một lần nữa cảm giác gặp lại sông Đà
bằng hình ảnh so sánh "nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân". Hai từ láy liên tiếp gợi cảm giác ấm
áp, trìu mến. Sông Đà trở thành người bạn cũ với bao kỉ niệm, tình yêu thương và nhớ nhung. Hình
ảnh dòng sông mang đến cho người đọc những cảm xúc chân thành, vừa mãnh liệt, vừa hết sức nhân
văn đó là tính trữ tình toát lên từ tâm hồn, tính cách của dòng sông hạ nguồn.

Từ điểm nhìn của mình, nhà văn đã quan sát và khắc họa những vẻ đẹp hết sức đa dạng và nên thơ
cảnh vật ven sông. Một vẻ đẹp tĩnh lặng, yên ả, thanh bình như còn đó dấu tích lịch sử của ông cha ta
để lại "cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ
đến như thế". Hai hình ảnh so sánh độc đáo đặt cạnh nhau "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử.
Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xưa" gợi ra vẻ đẹp nguyên sơ, trong trẻo và tĩnh lặng đến
tuyệt đối của dòng sông Đà. Chất trữ tình còn được thể hiện rõ nét qua cảnh vật như "nương ngô nhú
lên mấy lá non, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp, con hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh". Chỉ vài
chi tiết nhỏ nhưng tạo ra ấn tượng về sự tràn đầy sức sống của những bờ đê dọc con sông Đà. Cảnh
vật nối tiếp nhau tạo nên một bức tranh thơ mộng, trữ tình bình yên. Biện pháp nghệ thuật lấy động
tả tĩnh "đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi
mất đàn hươu vụt biến" đã khẳng định không gian thanh bình vắng vẻ nơi đây. Tác giả đã chứng minh
được vẻ đẹp trữ tình lãng mạn của dòng sông đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca.

Nguyễn Tuân đã tạo nên một bức tranh sông Đà tuyệt đẹp bằng cách sử dụng cảm nhận tinh tế, giác
quan nhạy bén, ngôn từ độc lạ và một lối viết tài hoa. Ông đã biến hình ảnh dòng sông trở thành một

biểu tượng thể hiện niềm tự hào về thiên nhiên cây cỏ, sông núi và khát khao tìm thấy cái đẹp. Bài tùy
bút "Người lái đò sông Đà" là một câu chuyện hiện thực về thiên nhiên và nguồn cảm hứng mãnh liệt
say mê với nó của Nguyễn Tuân. Đặc sắc nghệ thuật của nó với nhiều biện pháp tu từ và kho ngôn ngữ
phong phú đã làm cho sông Đà trong văn học mãi mãi trở thành một địa danh nghệ thuật.