PHÂN TÍCH VẺ ĐẸP TRỮ TÌNH CỦA CON SÔNG ĐÀ
Nguyễn Tuân một nhà văn lớn của dân tộc, một nghệ sĩ tài hoa suốt đời đi tim, n
vinh cái đẹp. Ông vị trí quan trọng đóng góp không nh đối với văn học hiện đại:
thúc đẩy th y t, t kí văn học đạt tới trình độ nghệ thuật cao, làm phong phú
thêm ngôn ngữ văn học dân tộc, đem đến cho nền văn xuôi hiện đại một phong cách nổi
bật, tài hoa và độc đáo. Ông sáng tác rất nhiều thể loại, nhưng thành công nhất thể
loại tùy bút “Người lái đò sông Đà” một tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp sáng
tác của ông. Với chất tài hoa nghệ của mình, ông đã khắc họa thành công hình tượng
con sông Tây Bắc mang vẻ đẹp vừa hung bao nhưng đậm chất trữ tinh.
Với thiên tu t nổi tiếng “Người lái đò ng Đà” rút từ tập “tùy bút sông Đà” xuất
bản năm 1960, Nguyễn Tuân muốn xưng tụng ông lái đò tài hoa trì dựng trên sông thiên
nhiên bạo liệt, ngôn ngữ Nguyễn Tuân lại hùa nhau xưng tụng tác giả của như một
ông tài bậc thầy lèo i con thuyền chữ trên dòng sông Thi không kém thác ghềnh. Chính
từ áng kỳ này, người ngh vốn nổi tiếng tài hoa uyên bác t trước cách mạng tháng 8
nay lại dịp trổ ra một phong cách nghệ thuật đầy góc cạnh thú vị trước 1 cuộc sống
đã đổi thay. Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tinh của con
sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị trên dòng sông. Ngòi t lãng mạn của
ông ng đã hướng tới vẻ đẹp tr tinh của con sông sau khi tập trung hết bút lực của
mình miêu tả sự hung bạo của con sông ấy.
Nếu n đoạn văn miêu tả sự hung bạo của sông Đà nhà n đã sử dụng rất nhiều
những kiến thức v quân sự hay thuật, nhiều động từ mạnh thì đoạn văn miêu tả
vẻ đẹp tr tinh của con sông, ông hoàn toàn sử dụng con mắt tinh tế quan sát ngòi
bút lãng mạn của mình để vẽ lại con sông y Bắc. Nguyễn Tuân đã miêu tả con sông Đà
nhiều góc độ khác nhau để một cái nhìn toàn diện. Từ trên tàu bay nhìn xuống ng
Đà như cái y thừng ngoằn ngèo” uốn quanh i rừng Tây Bắc. những quãng yên,
dòng sông lại giống như một người thiếu nữ kiều diễm: “tuôn dài tuôn dài như một áng
tóc trữ tinh, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung n hoa ban hoa gạo”.
Điệp ngữ tuôn dài, tuôn dài” như mở ra trước mắt người đọc sự tận của dòng sông.
Phép so sánh như “một áng tóc trữ tinh” tạo nên v đẹp kiêu sa của sông Đà, như
một kiệt tác của đất trời dành riêng cho vùng đất thiêng liêng y. Hai ch “ẩn hiện”
càng làm cho con sông trở nên hiểm. Đọc đoạn văn ta như đi vào chốn bồng lai vừa
thực vừa mộng. Không chỉ vậy, Nguyễn Tuân còn tha thiết gọi dòng sông là “cố nhân” xa
thì nhớ gặp lại thì mừng vui khôn xiết. S nhân hóa đó m cho con sông gần i hơn.
Tản Đà cũng đã từng viết:
Dải sông Đà bọt nước nh đênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tinh”
những lần sau nữa, khi Nguyễn Tuân “nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông
Đà” hoặc lúc xuyên qua đám mây mùa thu nhìn xuống dòng nước sông Đà”, ông thấy
dòng sông hiện lên n một mỹ nhân hiền dịu đầy xuân sắc với bao màu sắc biến đổi
diệu : “mùa xuân dòng xanh ngọc bích”, “mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da
mặt một người bầm đi rượu bữa”. Con sông tươi đẹp, sinh động biết bao chứ không
phải con sông đen n “thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào
gọi bằng một cái tên Tây láo lếu”. mỗi thời điểm khác nhau người ta lại thấy Sông Đà
trong một dáng vẻ, màu sắc khác nhau. Mùa xuân, nước sông Đà xanh ngọc bích “ch
không xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô”. Xanh ngọc bích là xanh
trong, xanh sáng, xanh biếc một sắc màu gợi cảm, trong lành. Thật tài hoa thật trữ
tinh bởi đó gợi lên sắc màu của nước, của núi, của da trời. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ
chín đỏ như da mặt một người bầm đi rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ một
người bất n bực bội độ thu về”. u n sử dụng phép so sánh “lừ lừ chín đỏ như da
mặt người bầm đi rượu bữa” chắc ch có một mình Nguyễn Tuân. Ông đã sử dụng
phép so sánh thật độc đáo, tinh tế nhưng không kém phần gần gũi. Giúp người đọc d
dàng tưởng tượng ra vẻ đẹp thơ mộng chân thực của ng sông.
Vẻ đẹp ấy còn được thể hiện đôi b sông: “cảnh ven sông này cũng lặng tờ đến thế
thôi”, bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn, bươm bướm trên sông Đà”, đẹp thơ
mộng “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau mưa dầm, vui như nối
lại chiêm bao đứt quãng”. Tác giả hướng đến lịch sử những buổi đầu dựng nước giữ
nước để làm nổi bật vẻ đẹp nguyên của dòng sông. Một lần nữa khi thuyền trôi ven
bờ, tác giả đã phát hiện được thêm bao nhiêu v đẹp gợi cảm của con sông. Gây ấn
tượng đầu tiên với người nghệ sự tinh lặng nhẹ nhàng: “Hình như t đời đời Trần
đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế thôi”. Con sông bây giờ không hẳn chỉ
của hiện tại, nó trôi ngược về q khứ xa xưa với sự so sánh, liên tưởng đầy bất ngờ của
tác giả: “Bờ sông hoang dại n một b tiền sử. Thiên nhiên nơi đây n một bức họa
thủy mặc khiến ta liên tưởng đến câu thơ của Bạch Yên hoa m nguyệt há Dương
Châu” (Xuôi thuyền về Dương Châu giữa tháng ba, mùa hoa khói).
Càng đọc, ta càng cảm giác n tác giả đã nhập thân làm một với cỏ y sông nước,
như say sưa đắm với không gian nơi đây để cho hiện dần lên trước ng kính bao vẻ
đẹp sinh động: đó “nương ngô nhú lên mấy ngô non đầu mùa”, “cỏ gianh đồi i
đang ra những nõn p”, “một đàn hươu vùi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương
đêm”. Đằng sau những dáng vẻ, những thực thể, màu sắc y, người ta còn thấy một sức
sống ngồn ngộn, tươi mới, tr trung đang ẩn nấp, đang ngầm sinh i, chuyển động.
ảo n nữa khi nhà n n đã nghe được tiếng nói của c hươu: “thơ ngộ ngẩng
đầu nhung khỏi áng cỏ sương” cũng như dòng sông “đang lắng nghe những giọng nói
êm êm của người xuôi”. từ hiện tại, ông ước đến tương lai nghe một “tiếng còi
sương” hoặc “thèm được giật mình một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu
tiên” a nhập cùng dòng sông “lững lờ như nh thương”. Đoạn trích khép lại bằng hình
ảnh “tiếng quẫy… đuổi đàn hươu vụt biến” con sông Đà trong s liên tưởng đến
thơ Tản Đà “bọt nước lênh bênh…bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tinh của một người tinh
nhân chưa quen biết” càng làm cho nh ảnh dòng sông trở nên quyến rũ, linh hồn,
giàu sức hút.
Bằng việc sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, bút pháp nhân cách hóa miêu tả, liên tưởng
bất ngờ thú vị. Từ ngữ chọn lọc, độc đáo. Hình ảnh lãng mạn. S dụng kiến thức hội hoạ,
thơ ca để miêu tả. Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của mỹ
nhân sông Đà thơ mộng tr tinh. Một nhà thơ khác cũng từng viết về vẻ đẹp của con
sông đầy lãng mạn:
Trên mặt Đà giang dưới bóng chiều
Trông qua Non Nước cảnh đìu hiu
Trời giăng hắc ám luồng mây kéo
Chuông giục hoàng hôn tiếng sóng reo
Theo nước vởn vơ tăm lội
Gọi bầy inh ỏi giọng chim kêu
Thuyền ai thơ thẩn dòng sông đó?
Tìm bến cùng ta gấp i chèo!
Nhà p bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh đã từng nhận xét: “… Nguyễn Tuân đã sáng
tạo ra một con Sông Đà không phải thiên nhiên vô tri, giác, một sinh thể
hoạt động, tính cách, tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. hai nét
tính cách bản đối lập nhau như tác giả nói - “hung bạo trữ tinh…” .Qua đoạn văn
miêu tả vẻ đẹp trữ tinh của con ng Đà ta càng khâm phục tài năng nghệ thuật của
Nguyễn Tuân, ông quả một người suốt đời đi tim cái đẹp, một cây bút độc đáo, đầy
sáng tạo trong nền văn học Việt Nam.

Preview text:

PHÂN TÍCH VẺ ĐẸP TRỮ TÌNH CỦA CON SÔNG ĐÀ
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của dân tộc, một nghệ sĩ tài hoa suốt đời đi tim, và tôn
vinh cái đẹp. Ông có vị trí quan trọng và đóng góp không nhỏ đối với văn học hiện đại:
thúc đẩy thể tùy bút, bút kí văn học đạt tới trình độ nghệ thuật cao, làm phong phú
thêm ngôn ngữ văn học dân tộc, đem đến cho nền văn xuôi hiện đại một phong cách nổi
bật, tài hoa và độc đáo. Ông sáng tác rất nhiều thể loại, nhưng thành công nhất là ở thể
loại tùy bút và “Người lái đò sông Đà” là một tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp sáng
tác của ông. Với chất tài hoa nghệ sĩ của mình, ông đã khắc họa thành công hình tượng
con sông Tây Bắc mang vẻ đẹp vừa hung bao nhưng đậm chất trữ tinh.
Với thiên tuỳ bút nổi tiếng “Người lái đò Sông Đà” – rút từ tập “tùy bút sông Đà” xuất
bản năm 1960, Nguyễn Tuân muốn xưng tụng ông lái đò tài hoa trì dựng trên sông thiên
nhiên bạo liệt, và ngôn ngữ Nguyễn Tuân lại hùa nhau xưng tụng tác giả của nó như một
ông tài bậc thầy lèo lái con thuyền chữ trên dòng sông Thi không kém thác ghềnh. Chính
từ áng kỳ này, người nghệ sĩ vốn nổi tiếng tài hoa uyên bác từ trước cách mạng tháng 8
nay lại có dịp trổ ra một phong cách nghệ thuật đầy góc cạnh thú vị trước 1 cuộc sống
đã đổi thay. Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tinh của con
sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông. Ngòi bút lãng mạn của
ông cũng đã hướng tới vẻ đẹp trữ tinh của con sông sau khi tập trung hết bút lực của
mình miêu tả sự hung bạo của con sông ấy.
Nếu như ở đoạn văn miêu tả sự hung bạo của sông Đà nhà văn đã sử dụng rất nhiều
những kiến thức về quân sự hay cõ thuật, nhiều động từ mạnh thì ở đoạn văn miêu tả
vẻ đẹp trữ tinh của con sông, ông hoàn toàn sử dụng con mắt tinh tế quan sát và ngòi
bút lãng mạn của mình để vẽ lại con sông Tây Bắc. Nguyễn Tuân đã miêu tả con sông Đà
ở nhiều góc độ khác nhau để có một cái nhìn toàn diện. Từ trên tàu bay nhìn xuống sông
Đà như “cái dây thừng ngoằn ngèo” uốn quanh núi rừng Tây Bắc. Ở những quãng yên,
dòng sông lại giống như một người thiếu nữ kiều diễm: “tuôn dài tuôn dài như một áng
tóc trữ tinh, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo”.
Điệp ngữ “ tuôn dài, tuôn dài” như mở ra trước mắt người đọc sự vô tận của dòng sông.
Phép so sánh như “một áng tóc trữ tinh” tạo nên vẻ đẹp kiêu sa của sông Đà, nó như
một kiệt tác của đất trời dành riêng cho vùng đất thiêng liêng này. Hai chữ “ẩn hiện”
càng làm cho con sông trở nên bí hiểm. Đọc đoạn văn ta như đi vào chốn bồng lai vừa
thực vừa mộng. Không chỉ vậy, Nguyễn Tuân còn tha thiết gọi dòng sông là “cố nhân” xa
thì nhớ gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Sự nhân hóa đó làm cho con sông gần gũi hơn.
Tản Đà cũng đã từng viết:
“ Dải sông Đà bọt nước lênh đênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tinh”
Và những lần sau nữa, khi Nguyễn Tuân “nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông
Đà” hoặc lúc xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà”, ông thấy
dòng sông hiện lên như một mỹ nhân hiền dịu đầy xuân sắc với bao màu sắc biến đổi
diệu kì: “mùa xuân dòng xanh ngọc bích”, “mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da
mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Con sông tươi đẹp, sinh động biết bao chứ không
phải là con sông đen như “thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà
gọi bằng một cái tên Tây láo lếu”. Ở mỗi thời điểm khác nhau người ta lại thấy Sông Đà
trong một dáng vẻ, màu sắc khác nhau. Mùa xuân, nước sông Đà xanh ngọc bích “chứ
không xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô”. Xanh ngọc bích là xanh
trong, xanh sáng, xanh biếc – một sắc màu gợi cảm, trong lành. Thật tài hoa và thật trữ
tinh bởi đó gợi lên sắc màu của nước, của núi, của da trời. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ
chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một
người bất mãn bực bội độ thu về”. Câu văn sử dụng phép so sánh “lừ lừ chín đỏ như da
mặt người bầm đi vì rượu bữa” chắc chỉ có ở một mình Nguyễn Tuân. Ông đã sử dụng
phép so sánh thật độc đáo, tinh tế nhưng không kém phần gần gũi. Giúp người đọc dễ
dàng tưởng tượng ra vẻ đẹp thơ mộng chân thực của dòng sông.
Vẻ đẹp ấy còn được thể hiện ở đôi bờ sông: “cảnh ven sông này cũng lặng tờ đến thế
mà thôi”, “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn, bươm bướm trên sông Đà”, đẹp thơ
mộng “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối
lại chiêm bao đứt quãng”. Tác giả hướng đến lịch sử những buổi đầu dựng nước và giữ
nước để làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ của dòng sông. Một lần nữa khi thuyền trôi ven
bờ, tác giả đã phát hiện được thêm bao nhiêu vẻ đẹp gợi cảm của con sông. Gây ấn
tượng đầu tiên với người nghệ sĩ là sự tinh lặng nhẹ nhàng: “Hình như từ đời Lí đời Trần
đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Con sông bây giờ không hẳn chỉ là
của hiện tại, nó trôi ngược về quá khứ xa xưa với sự so sánh, liên tưởng đầy bất ngờ của
tác giả: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Thiên nhiên nơi đây như một bức họa
thủy mặc khiến ta liên tưởng đến câu thơ của Lý Bạch “ Yên hoa tâm nguyệt há Dương
Châu” (Xuôi thuyền về Dương Châu giữa tháng ba, mùa hoa khói).
Càng đọc, ta càng có cảm giác như tác giả đã nhập thân làm một với cỏ cây sông nước,
như say sưa mê đắm với không gian nơi đây để cho hiện dần lên trước ống kính bao vẻ
đẹp sinh động: đó là “nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, là “cỏ gianh đồi núi
đang ra những nõn búp”, là “một đàn hươu vùi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương
đêm”. Đằng sau những dáng vẻ, những thực thể, màu sắc ấy, người ta còn thấy một sức
sống ngồn ngộn, tươi mới, trẻ trung đang ẩn nấp, đang ngầm sinh sôi, chuyển động. Kì
ảo hơn nữa là khi nhà văn như đã nghe được tiếng nói của chú hươu: “thơ ngộ ngẩng
đầu nhung khỏi áng cỏ sương” cũng như dòng sông “đang lắng nghe những giọng nói
êm êm của người xuôi”. Và từ hiện tại, ông mơ ước đến tương lai nghe một “tiếng còi
sương” hoặc “thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu
tiên” hòa nhập cùng dòng sông “lững lờ như nhớ thương”. Đoạn trích khép lại bằng hình
ảnh “tiếng cá quẫy… đuổi đàn hươu vụt biến” và con sông Đà trong sự liên tưởng đến
thơ Tản Đà “bọt nước lênh bênh…bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tinh của một người tinh
nhân chưa quen biết” càng làm cho hình ảnh dòng sông trở nên quyến rũ, có linh hồn, giàu sức hút.
Bằng việc sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, bút pháp nhân cách hóa miêu tả, liên tưởng
bất ngờ thú vị. Từ ngữ chọn lọc, độc đáo. Hình ảnh lãng mạn. Sử dụng kiến thức hội hoạ,
thơ ca để miêu tả. Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của mỹ
nhân sông Đà thơ mộng và trữ tinh. Một nhà thơ khác cũng từng viết về vẻ đẹp của con sông đầy lãng mạn:
Trên mặt Đà giang dưới bóng chiều
Trông qua Non Nước cảnh đìu hiu
Trời giăng hắc ám luồng mây kéo
Chuông giục hoàng hôn tiếng sóng reo
Theo nước vởn vơ tăm cá lội
Gọi bầy inh ỏi giọng chim kêu
Thuyền ai thơ thẩn dòng sông đó?
Tìm bến cùng ta gấp mái chèo!
Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh đã từng nhận xét: “… Nguyễn Tuân đã sáng
tạo ra một con Sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có
hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét
tính cách cơ bản đối lập nhau như tác giả nói - “hung bạo và trữ tinh…” .Qua đoạn văn
miêu tả vẻ đẹp trữ tinh của con sông Đà ta càng khâm phục tài năng nghệ thuật của
Nguyễn Tuân, ông quả là một người suốt đời đi tim cái đẹp, một cây bút độc đáo, đầy
sáng tạo trong nền văn học Việt Nam.