NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
Đề 1: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà
người nói, Nguyễn Tuân định nghĩa về một người nghệ sĩ. Khi nói đến
nhà văn Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi đã nhận xét: “Đây là một nhà văn suốt
đời đi tìm cái Đẹp, cái Thật. người sinh ra để thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết
hoa.” Cuộc đời cầm bút của ông cuộc hành trình không mệt mỏi khám phá
diễn tả cái đẹp của thiên nhiên núi sông quê hương, vẻ đẹp con người. Nét nổi bật
trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân ông luôn nhìn sự vật phương
diện văn hóa thuật, nhìn con người phẩm chất nghệ tài hoa. Điều đó
được thể hiện rất qua tác phẩm “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm vừa ngợi ca
vẻ đẹp của thiên con người lao động miền Tây Bắc, vừa thể hiện lòng yêu
nước thiết tha sự lao động nghệ thuật nghiêm túc của tác giả. Trong đó, vẻ đẹp
trữ tình, thơ mộng của dòng sông Đà được tác giả khắc họa cùng cụ thể, nét.
Nguyễn Tuân một n văn lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Tầm
vóc văn chương của ông được khẳng định bằng những thành tựu nghệ thuật xuất
sắc trong cả hai giai đoạn trước sau cách mạng tháng Tám. Nếu n trước cách
mạng ngòi bút của ông thường viết về cái “tôi” ngông nghênh, kiêu bạc đối với
hội đương thời, thì sau cách mạng ông đã hòa mình vào cuộc sống nhân dân, cái tôi
tài hoa ca ngợi vẻ đẹp giang sơn. một nghệ tài hoa, uyên bác, suốt đời đi săn
tìm cái đẹp, thường khám phá thiên nhiên con người trên phương diện tài hoa,
văn hóa thẩm mỹ. Ông sáng tác rất nhiều thể loại nhưng trong đó thành công nhất
tùy bút, “Người lái đò sông Đà” một trong số đó. “Người lái đò sông Đà”
được in trong tập “Tùy bút sông Đà” xuất bản 1960. Đây là kết quả nhiều lần đến
Tây Bắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đặc biệt chuyến đi thực tế vào năm
1958. Đời sống thực tế đã cho tác giả thứ chất liệu diệu kỳ để thăng hoa trong ngòi
bút, giúp nhà văn nhận ra “chất vàng mười của thiên nhiên Tây Bắc” “thứ vàng
mười đã qua thử lửa” của những người lao động. tùy bút này, Nguyễn Tuân đã
miêu tả con sông Đà không phải thiên nhiên tri giác một sinh thể
hoạt động, tính cách, tâm trạng khá phức tạp. hai nét tính cách bản
đối lập với nhau: hung bạo trữ tình. cái nét trữ tình đầy chất thơ rất đỗi dịu
dàng, thân thiết của sông Đà khiến cho con người ta ấn tượng xao xuyến
ng.
đầu tác phẩm, dòng sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả như một loài
thủy quái khổng lồ đáng sợ, thế nhưng một khi vượt qua được con thác dữ t sông
nước lại trở nên rất đỗi êm và thanh bình. Nhà văn cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của
sông Đà nhiều góc đ tầm nhìn khác nhau, lúc thì nhìn từ trên cao xuống tức
lúc đi máy bay trên sông Đà, lúc lại nhìn gần đi từ rừng ra đi thuyền trực tiếp
trên sông nước. Đầu tiên góc nhìn từ trên cao. Từ trên cao nhìn xuống, khi thi
Nguyễn Tuân thấy con sông như “cái dây thừng ngoằn ngoèo”, khi t lại thấy
dòng chảy uốn lượn của con sông giống như mái tóc của người thiếu nữ: “Con
Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc tr tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai cuồn cuộn khói núi
Mèo đốt nương xuân”. Điệp ngữ “tuôn dài” được lặp lại hai lần nhấn mạnh chiều
dài sông Đà chảy suốt chiều dài biên giới phía Tây Tổ quốc. Động từ “bung nở”
một động từ mạnh, đứng trước hai loài hoa của mùa xuân hoa gạo đỏ tươi hoa
ban trắng tinh khiết m tăng thêm cảm nhận v sự vận động của sắc màu cứ xôn
xao rạo rực rồi bừng lên lộng lẫy, trang điểm cho dòng sông đẹp tuyệt diệu cuốn
hút lòng người. Bên cạnh đó phải kể đến sự so sánh tài tình của Nguyễn Tuân. So
sánh của tác giả chứa đựng góc nhìn độc đáo, đầy tính phát hiện trước đối tượng
thẩm của mình. Một loạt những hình ảnh von đặc sắc y khiến cho người đọc
cảm nhận ràng cái dáng vẻ mềm mại bất tận trong dòng chảy, êm khi thẳng
dòng qua vùng đất trung du. Dòng sông qua ngòi bút của Nguyễn Tuân cứ thoắt ẩn
thoắt hiện. Một câu văn vừa chất thơ, vừa chất nhạc, chất họa, gợi ta liên
tưởng tới dòng sông mang cái đẹp của một áng tóc trữ tình mềm mại, tha thướt
duyên dáng. Vẻ đẹp của dòng sông hài hòa với núi rừng Tây Bắc, được núi rừng
điểm thêm cho nhan sắc mỹ miều. Những so sánh biến hóa không trùng lặp,
luôn gây men bằng những đột ngột khiến người đọc sửng sốt vì những so sánh lạ
lẫm, gây đứt quãng liên tưởng, để rồi thán phục nhận ra không thể so sánh hay hơn,
đúng hơn, cứ thế bị thôi miên vào hồn trận của những so sánh tuyệt diệu.
Vẻ đẹp ngôn ngữ của Nguyễn Tuân không đơn thuần thứ trời cho. Nhà văn đã
phải lao động cật lực, khổ công quan sát. Ta thể nhận ra s công phu trong quan
sát của Nguyễn Tuân qua sự biến đổi tinh vi về màu nước của sông Đà qua nhiều
thời điểm được tác giả ghi lại trong tùy bút: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ
nước Sông Đà không xanh màu xanh xanh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu
nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi rượu bữa, lừ l cái
màu đ giận dữ một người bất mãn bực bội đó mỗi độ thu về.” Với tình cảm
trìu mến thiết tha, nhà văn đã phát hiện được một cách thú vị màu sắc của dòng
sông biến đổi theo từng mùa. Mặc cả ba con sông cùng chảy qua vùng phía Bắc
của Tổ quốc, thế nhưng khi xuân về, dòng sông Đà xanh ngọc bích, tức màu
xanh rất đẹp, vừa trong lại vừa óng ánh, chứ không xanh màu nh hến - màu xanh
đục của sông Gâm, sông Lô. đây ta lại thấy được rằng, Nguyễn Tuân tỉ mỉ quan
sát không chỉ riêng dòng sông Đà còn mở rộng quan sát của mình ra hai con
sông còn lại, song qua đó, vẻ đẹp của dòng sông Đà lại càng được làm nổi bật hơn.
khi qua làn sương mùa thu, nước sông Đà màu đỏ giống như “da mặt một
người bầm đi rượu bữa”, gợi cho ta cảm giác nước sông Đà đậm phù sa đem
màu mỡ đến cho bao cánh đồng phì nhiêu trù phú gọi bao yêu thương tự hào. Như
vậy, mỗi mùa, dòng sông Đà lại vẻ đẹp riêng cùng với màu sắc riêng.
Tiếp đến, Nguyễn Tuân đã cho ta thấy vẻ đẹp mộng của dòng sông Đà
dưới cái nhìn cận cảnh. Bằng những câu văn đậm chất thơ, tác giả sông Đà n
một cố nhân đi xa thì nhớ, gặp lại thì mừng vui khôn xiết: “Con Sông Đà gợi cảm.
Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách. Đã lần tôi nhìn Sông Đà như một
cố nhân”. Từ những chạm khắc gân guốc, bạo khỏe, từ những màu sắc gây ấn
tượng dữ dằn, Nguyễn Tuân chuyển sang những đường nét thanh thoát, dịu dàng,
thơ mộng. Không gian lắng đọng trong vẻ đẹp của “bờ sông Đà, bãi sông Đà,
chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”. Nhà văn đã gợi lên vẻ đẹp của sông Đà bằng
hai từ “gợi cảm”. quả thực, vẻ đẹp t mộng của dòng sông khiến cho người
ngoạn cảnh gặp lại có cảm giác “đằm đằm ấm ấm”, gợi biết bao thi vị. Mượn một
câu thơ trong bài thơ Đường nổi tiếng “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi
Quảng Lăng” “Yên hoa tam nguyệt Dương Châu “của Bạch, Nguyễn Tuân
dường như đã ngầm khẳng định vẻ đẹp c thi của dòng sông Tây Bắc, ấy cái
bâng khuâng ngẩn ngơ của dòng nước lững lờ trôi xuôi như nhớ thương những hòn
đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. một cái tựa như nỗi thương
nhớ mênh mang h của thi Tản Đà gửi “một người nh nhân chưa quen biết”
- “Dải sông Đà bọt nước lênh bênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”. Nói chung,
qua cảm nhận của nhà văn, chất thơ của phong cảnh sông Đà đậm đà màu sắc cổ
điển.
Trong cái nhìn cận cảnh, sông Đà mang vẻ đẹp nên thơ khung cảnh vắng lặng,
hoang dại. “Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông đây lặng tờ. Hình như
từ đời đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế thôi.” Nguyễn
Tuân dùng câu văn nhiều thanh bằng, nhịp điệu chậm rãi, giúp cho người đọc có
cái nhìn tường tận hơn v phong cảnh tĩnh lặng ven sông, đồng thời cũng gợi niềm
xúc cảm. Con sông Đà dường n chỉ biết tồn tại trong không gian không hề
biết đến thời gian. Thời gian mải miết trôi, sông Đà vẫn mãi vẻ đẹp nguyên sơ,
“hoang dại như b tiền sử, bờ sông hồn nhiêu như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Với
cách liên tưởng đó, dường n Sông Đà còn vẻ đẹp của một con sông bền bỉ
chảy qua tháng năm lịch sử, mang dấu tích văn hóa ngàn xưa của dân tộc. Hàng
loạt những hình ảnh gợi cảm, thi vị vẽ lên một thiên đường trên mặt đất thanh
khiết, nguyên như trong cõi tiên cảnh. Thiên nhiên hữu tình của sông Đà xa l
mến thương với sắc xanh của những n non đầu mùa, những đồi giăng đầy
"nõn búp", những con hươu rừng "thơ ngộ" ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương,
với đàn dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông "bụng trắng như bạc rơi thoi"hay với
chuồn chuồn bươm bướm bờ bãi sông đem lại cho người đi rừng niềm vui "như
thấy nắng giòn tan sau mưa dầm vui như nối lại chiêm bao đứt quãng". Chao
ôi, thấy thèm được giật nh một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu
tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu”. l trong khung cảnh hiền hòa
thơ mộng tĩnh lặng ấy, Nguyễn Tuân cứ ngỡ mình đang trong mộng cảnh, thèm
nghe được một âm thanh nào đó khiến mình tỉnh lại. lẽ nơi đây chỉ có thiên
nhiên làm chủ vẻ đẹp của chính mình con người chỉ đóng vai trò một “ông
khách” thưởng ngoạn cái đẹp. Những câu văn xuôi của Nguyễn Tuân vút lên như
vần thơ mềm mại, du dương, như nét vẽ thanh nhẹ, ảo. Dưới ngòi bút dạt dào,
chất thơ, chất họa, vẻ đẹp của dòng nước sông Đà hiện lên như một bức tranh
thú, như những thước phim huyền ảo. Nguyễn Tuân như đưa người đọc vào thế
giới thần tiên cổ tích, thơ mộng, cảnh vừa hoang sơ, cổ kính, vừa thơ mộng, trữ
tình, vừa lặng tờ, êm ả, vừa ẩn chứa sức sống tươi trẻ.
Nguyễn Tuân suốt đời rong ruổi đi tìm cái đẹp. Đọc văn của ông, người ta
thấy một con người tài hoa, uyên bác. Ông tiếp cận mọi sự vật mặt văn hóa thẩm
mỹ để khám phá. Chung thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu”, không phải
tự nhiên Nguyễn Tuân lại lấy hai câu thơ này làm đề từ cho tùy bút của mình.
Đó phản ánh đúng đặc điểm của con sông Đà. Bằng bút pháp độc đáo, tài hoa
của mình, tác giả đã xây dựng nên một hình tượng Sông Đà sống động, hấp dẫn
với hai nét tính cách đối lập. Một dòng sông - một thực thể địa được Nguyễn
Tuân thổi hồn, khiến cho tâm trạng, tính khi thì giận dữ lúc thì hiền
hòa lôi cuốn độc giả. không chỉ phô diễn trọn vẹn lối viết tài hoa uyên bác của
nhà văn, đồng thời cũng thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước của tác giả.
thể nói, tùy bút này bài ca về vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc sự giàu tài
nguyên của non sông đất nước.
Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét về văn phong Nguyễn Tuân rằng: “Khi thì
trang nghiêm cổ kính, khi t đùa cợt bông phèng, khi t thánh thót trầm bổng, khi
thì bồ bừa bãi như ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy
nhưng bao giờ ng rất đỗi tài hoa”. Thật vậy, chỉ dưới ngòi bút tài hoa, uyên bác
của Nguyễn Tuân, v đẹp hoang dại thơ mộng, ẩn diễm lệ của con sông
Tây Bắc mới thực sự hiện ra, nổi hình, nổi sắc, mới trẻ nên thần, hồn lay
động người đọc. Nguyễn Tuân viết không chỉ bằng ngòi bút của một nhà văn
còn bằng ngòi bút của một họa sĩ, của một nhà điêu khắc. Chính sự đầu
nghiêm túc, công phu tâm huyết cho nghệ thuật của Nguyễn Tuân đã làm nên sự
thành công của “Người lái đò sông Đà” nói riêng những tác phẩm tùy bút của
ông nói chung, đóng góp một phần không nhỏ vào nền văn học nước nhà.
Đề 2: Phân tích hình tượng người lái đò
người nói, Nguyễn Tuân định nghĩa về một người nghệ sĩ. Khi nói đến
nhà văn Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi đã nhận xét: “Đây là một nhà văn suốt
đời đi tìm cái Đẹp, cái Thật. người sinh ra để thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết
hoa.” Cuộc đời cầm bút của ông cuộc hành trình không mệt mỏi khám phá
diễn tả cái đẹp của thiên nhiên núi sông quê hương, vẻ đẹp con người. Nét nổi bật
trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân ông luôn nhìn sự vật phương
diện văn hóa thuật, nhìn con người phẩm chất nghệ tài hoa. Điều đó
được thể hiện rất qua tác phẩm “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm vừa ngợi ca
vẻ đẹp của thiên con người lao động miền Tây Bắc, vừa thể hiện lòng yêu
nước thiết tha sự lao động nghệ thuật nghiêm túc của tác giả. Khi đọc Người
lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân, người ta nói rằng ông lái đò một nghệ tài
hoa. Thật vậy, trên cái nền của con sông vừa “hung bạo” vừa “trữ tình” ấy, người
lái đò vừa anh hùng vừa một người nghệ tài hoa trong nghề của mình.
Nguyễn Tuân một n tùy bút lớn. Sự nghiệp sáng tác của ông phong phú
đạt được sự cân bằng giữa hai thời lịch sử trước sau Cách mạng tháng
Tám. Qua cái mốc ấy, tưởng phong cách của ông những biến đổi nhất
định. Nhưng biến đổi như nào, Nguyễn Tuân vẫn một i “tôi” rất thống
nhất: tài hoa, uyên bác, thích những cảm giác mạnh, suốt đời say đi tìm diễn
tả cái đẹp, khám phá thiên nhiên con người trên phương diện tài hoa, văn hóa
thẩm mỹ. Nói Nguyễn Tuân bậc thầy về tùy bút bởi đỉnh cao trong văn nghiệp
đồ sộ Nguyễn Tuân để lại những bài tùy bút với phong cách riêng biệt không
lẫn với bất cứ cây bút nào. Đặc biệt tùy bút “Người lái đò Sông Đà” được in
trong tập “Tùy bút sông Đà” xuất bản 1960. Đây kết quả nhiều lần đến Tây Bắc
trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đặc biệt chuyến đi thực tế vào năm 1958.
Đời sống thực tế đã cho tác giả thứ chất liệu diệu kỳ để thăng hoa trong ngòi bút,
giúp nhà văn nhận ra “chất vàng mười của thiên nhiên Tây Bắc” “thứ ng
mười đã qua thử lửa” của những người lao động. Trên phông nền thiên nhiên mênh
mông của vùng núi Tây Bắc, nếu sông Đà hiện lên vừa hung bạo, hiểm trở, vừa thơ
mộng vừa trữ tình t hình tượng người lái đò hiện lên như một nét thần tình đầy
chất nghệ sĩ. Nguyễn Tuân cho rằng bất cứ người lao động nào khi đạt tới trình độ
điêu luyện giỏi giang trong công việc của mình đều thể coi là nghệ xứng
đáng được tôn vinh vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. nơi thượng nguồn ấy một
tượng đài nghệ thuật.
Người lái đò hiện lên trước hết hình ảnh một người lao động từng trải, tài
trí, dũng cảm lão luyện trong nghề. Nói đến nhân vật của Nguyễn Tuân phải
nói đến cách tiếp cận riêng của ông đối với con người: đó cách tiếp cận từ
phương diện tài hoa nghệ sĩ. Đối với ông, bất cứ ai làm được cái công việc mình
thường làm, làm đến độ cao siêu, trác việt, ấy tài hoa nghệ sĩ. Như ông lái đò
trong tác phẩm này, Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật của mình vào hoàn cảnh khốc
liệt cùng: đối đầu với con sóng dữ, với loài thủy quái. Bởi thế cái tài năng
của ông lão lái đò đã được bộc lộ nét cụ thể, hình tượng của ông lão hình
tượng của một nghệ “tay lái ra hoa”, một dũng sĩ kiên cường.
Để làm nổi bật hình tượng của người lái đò, Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một cuộc
vượt thác như một viên tướng thời xưa tiến vào một trận đồ bát quái được bố trí
sẵn với nhiều cạm bẫy giăng ra hết vòng này đến vòng khác, cụ thể đây ba
trùng vi thạch trận với những hòn đá “ngỗ ngược” đang bày binh bố trận trên sông.
“Đá đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần
chiếc thuyền nào xuất hiện quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần chiếc nào
nhô vào đường ngoặt sông một s hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền.”
Những từ ngữ “mai phục, vồ lấy thuyền” khiến cho đá nơi i nước n những
kẻ t nham hiểm hung ác. Chúng thể bất thình lình tấn công con người bất
cứ khi nào tai họa sẽ ập đến không báo trước. Nguyễn Tuân đã miêu tả đá
đây mỗi hòn mang một vẻ mặt khác nhau: hòn t ngỗ ngược, hòn méo mó, hòn
mặt xanh lè, hòn hất hàm n thách thức… mỗi hòn mỗi dáng vẻ, nhưng nhìn
những bộ mặt ấy t không chút nào thiện cảm bởi vẻ lạnh lùng, hung ác dữ
tợn. Người đọc như đang chứng kiến thạch trận đá trên sông Đà n bày ra một
trận địa chiến đấu mỗi vị trí nhiệm vụ được cân nhắc tính toán kỹ lưỡng.
“Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây bày thạch trận trên
sông.” Đám tảng hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông “đòi ăn chết cái
thuyền”, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu đ tránh một cuộc chiến
đá đã dàn trận địa sẵn. Trong trùng vi thạch trận thứ nhất, trước mặt người lái
đò dòng sông với thác nước đá ngầm. Đá tạo thành thạch trận với bốn cửa
sinh chỉ một cửa tử, với boong ke chìm pháo đài đá nổi. Nếu như đá làm
nhiệm vụ cản đường t nước làm nhiệm vụ tấn ng: “Mặt nước la vang dậy,
ùa vào bẻ gãy cán chèo khí trên cánh tay mình. Sóng nước n thể quân liều
mạng vào sát nách đá trái thúc gối vào bụng vào hông thuyền”. Nước thác
được miêu tả vừa như hạng nặng vừa như đô vật tài ba. Tất cả các thế lực
thiên nhiên phối hợp với nhau nhằm ăn tươi nuốt sống con thuyền. Ta thấy đây
một cuộc chiến không hề cân sức: một bên thiên nhiên lớn lao, dữ dội, hiểm độc
với những dàn trận bủa vây liên tiếp kết hợp với sự hợp sức của sóng, gió, nước,
đá… Một bên những con người nhỏ trên chiếc thuyền đơn độc trên tay chỉ
những cán chèo khí. Nguyễn Tuân đã sử dụng những động từ mạnh để
diễn tả cái hiểm nguy của sông Đà. Nhưng càng hung dữ bao nhiêu thì lại càng tôn
lên vẻ đẹp của người lái đò bấy nhiêu con sông như một hình ảnh làm nền cho
người lái đò hiện lên anh dũng, kiên cường, đầy hiên ngang, kiêu nh, hào hoa
tìm sự sống trên dòng sông chết. Bởi ông lái đò đã nắm chắc cái “quy luật tất yếu
của dòng nước sông Đà.” trùng vi thạch trận thứ nhất, sông Đà trong thể tấn
công, con người t phòng thủ. đã bị tấn công đến miếng đòn độc hiểm nhất “cả
cái luồng nước sở bất c ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”, ông vẫn “cố nén
vết thương, hai chân kẹp chặt lấy cuống lái…” Ông cố gắng chịu đựng nỗi đau thể
xác, vẫn dũng cảm kiên cường không hề buông tay lái. Đặc biệt trên con thuyền
đến sáu bơi chèo vẫn nghe thấy tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm
lái. “Vậy phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”. Trong trận đánh người i
đò đã hiện lên thật gan dạ, dũng cảm, đầy sức dẻo dai, vững vàng một trí tuệ của
người chỉ huy con thuyền sáng suốt.
Không một phút giây nghỉ tay, nghỉ mắt, người lái đò phải tiếp tục “p luôn vòng
vây thứ hai”. Thạch trận thứ hai này còn khắc nghiệt hơn thạch trận đầu tiên, con
sông thêm nham hiểm quyết dồn con thuyền vào chỗ chết “Vòng thứ hai này tăng
nhiều thêm cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại bố trí lệch qua phía
bờ hữu ngạn”, “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”, “Bốn
năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền ra định níu thuyền lôi vào tập
đoàn cửa tử”. Song, hoàn cảnh càng khắc nghiệt bao nhiêu, hình nh ông lái đò
hiện lên càng hiện lên mạnh mẽ hiên ngang bấy nhiêu. Với kinh nghiệm dày
dặn, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”, “thuộc quy luật phục kích của lũ
đá nơi ải nước hiểm trở này”, ông lái đò đã chuyển thế tấn công, vượt thác bằng
những hành động mạnh mẽ, táo bạo vô cùng chuẩn xác. Bằng nghệ thuật liên
tưởng độc đáo của mình, Nguyễn Tuân đã cho người đọc hình dung hình ảnh
người lái đò không chỉ đơn thuần chèo thuyền vượt thác thậm chí là “cưỡi
lên cái thác nước Sông Đà”. Những động tác linh hoạt đầy uyển chuyển của ông
lái đò được Nguyễn Tuân miêu tả kết hợp với các động từ mạnh: “nắm chặt lấy
được cái bờm sóng”, “g cương lái”, “phóng nhanh vào cửa sinh”, tránh rảo
bơi chèo lên”, “chặt đôi ra để mở đường tiến”, cùng với đó nhịp văn dồn dập đã
gợi tả tính chất quyết liệt của cuộc đọ sức giữa con người với thiên nhiên. Trong
trận chiến thứ hai này, ta thấy nổi bật hình ảnh ông lái đò mạnh mẽ, hiên ngang,
lẫm liệt, mưu trí chủ động n một viên tướng tả xung hữu đột trên trận địa.
Đến với vòng vây cuối cùng, khi sự nguy hiểm đã lên đến mức tột độ, thì người
lái đò ấy lại càng được miêu t đến mức tài hoa tột bậc, một người nghệ tài
hoa. Lúc này, ít cửa hơn, “bên phải bên trái đều luồng chết cả. Cái luồng sống
chặng thứ ba này lại ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”. Nguy hiểm, khó
khăn vậy nhưng ông lái đò lại hoàn toàn thế thượng phong, hoàn toàn làm chủ
được tình thế. Ông ch động tấn công: “Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa
trong cùng, thuyền n một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa
tự động lái được lượn được”. Tay lái của ông khéo léo, uyển chuyển đến mức đọc
câu văn tả con thuyền chuyển động ta n được chứng kiến pha biểu diễn đầy
ngoạn mục. Màn hơi nước mờ trắng ảo, con thuyền không bơi trên sóng nước
sông Đà như đang bay trên dòng sông ảo ấy. người lái đò lúc này
hiện lên như một con người tài hoa trí dũng tuyệt vời, một “tay lái nở hoa” với
trình độ bản lĩnh phi thường. “Thế hết thác”. Con người đã chiến thắng trước
thế lực thiên nhiên bởi s quả cảm, ngoan cường, ý chí quyết tâm s tài trí của
mình. Đồng thời qua đó, Nguyễn Tuân cũng mở vấn đề mang ý vị triết học sau
xa: trong cuộc chiến đấu một mất một còn, con người am hiểu làm chủ quy luật
con người tự do, dẫu đó quy luật đầy khắc nghiệt, chỉ cần một chút lơi tay, do
dự mất bình tĩnh thể trả g rất đắt.
Sau khi vượt qua con sông Đà, chiến thắng được thiên nhiên hung bạo,
những người lái đò “đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam” bàn tán về
những chuyện cuộc sống thường ngày chứ “cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào
về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi.” Họ
bình thản tận hưởng cái t vui tao nhã đời. Trong suy nghĩ của họ, cuộc
chiến với Sông Đà d dội chuyện ngày nào cũng diễn ra, “ngày nào cũng giành
lấy cái sống từ tay những cái thác, nên cũng không hồi hộp đáng
nhớ…” Điều đó lại càng làm tôn thêm i cốt cách của một nghệ đời thường,
một người nghệ sĩ thực thụ với tầm vóc lớn lao.
Với tay lái thuần thục điêu luyện, với tâm hồn phong phú, ông đò hiện lên
trên trang văn của Nguyễn Tuân chính một nghệ chốn sông nước. Sự tương
phản giữa hai lực lượng: một bên thiên nhiên lớn lao kì hung bạo một một
bên ông lái đò nhỏ đã nhấn mạnh cái bản lĩnh cũng như sự dũng cảm khả
năng chinh phục tự nhiên của con người. Chỉ chuyện một ông lái đò cái thác
nước Nguyễn Tuân đã viết được những trang văn thật hấp dẫn người đọc cứ
như được nhìn thẳng vào những thước phim quay cận cảnh với bao nhiêu tình
huống căng thẳng, hồi hộp. Để viết được n vậy, nhà văn phải một trí tưởng
tượng thật phong phú, phải một kho chữ nghĩa giàu lắm. Đặc biệt đây, ta
thấy Nguyễn Tuân còn vận dụng vốn tri thức thuộc nhiều lĩnh vực văn hóa, nghệ
thuật khác nhau, cụ thể đây những hiểu biết về khoa học quân sự
thuật: đòn dương, đòn âm, đá trái, thúc gối, phục kích, tuyến một, tuyến hai, cửa
sinh, cửa tử,... T đó, nhà văn đã biến câu chuyện bình thường thành bản trường ca
về người anh hùng, một nghệ lái đò trong nghệ thuật vượt thác, bản trường ca
về người anh hùng lao động bằng bàn tay khối óc đang hằng ngày làm giàu cho
Tổ quốc.
“Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân một áng văn đẹp được làm nên
từ tình yêu đất nước thiết tha, say đắm của một người nghệ muốn dùng văn
chương để khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên, kỳ vĩ, trữ tình thơ mộng của thiên nhiên,
nhất tài năng của những người lao động bình dị. Qua tùy bút này, đặc biệt
qua hình tượng người lái đò, Nguyễn Tuân muốn gửi gắm một quan niệm mới mẻ:
Chủ nghĩa anh hùng không chỉ nơi chiến trường còn hiện diện ngay
trong cuộc sống của nhân dân hằng ngày phải vật lộn với thiên nhiên miếng cơm
manh áo. Sự mạnh mẽ, kiên cường, trí dũng tài ba cũng nằm ngay những người
dân lao động bình thường. Bài tùy bút chính bài ca ngợi ca vẻ đẹp của người lái
đò nói riêng nhân dân lao động nói chung.

Preview text:

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
Đề 1: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà
Có người nói, Nguyễn Tuân là định nghĩa về một người nghệ sĩ. Khi nói đến
nhà văn Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi đã nhận xét: “Đây là một nhà văn suốt
đời đi tìm cái Đẹp, cái Thật. Là người sinh ra để thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết
hoa.” Cuộc đời cầm bút của ông là cuộc hành trình không mệt mỏi khám phá và
diễn tả cái đẹp của thiên nhiên núi sông quê hương, vẻ đẹp con người. Nét nổi bật
trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là ông luôn nhìn sự vật ở phương
diện văn hóa và mĩ thuật, nhìn con người ở phẩm chất nghệ sĩ và tài hoa. Điều đó
được thể hiện rất rõ qua tác phẩm “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm vừa ngợi ca
vẻ đẹp của thiên và con người lao động ở miền Tây Bắc, vừa thể hiện lòng yêu
nước thiết tha và sự lao động nghệ thuật nghiêm túc của tác giả. Trong đó, vẻ đẹp
trữ tình, thơ mộng của dòng sông Đà được tác giả khắc họa vô cùng cụ thể, rõ nét.
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Tầm
vóc văn chương của ông được khẳng định bằng những thành tựu nghệ thuật xuất
sắc trong cả hai giai đoạn trước và sau cách mạng tháng Tám. Nếu như trước cách
mạng ngòi bút của ông thường viết về cái “tôi” ngông nghênh, kiêu bạc đối với xã
hội đương thời, thì sau cách mạng ông đã hòa mình vào cuộc sống nhân dân, cái tôi
tài hoa ca ngợi vẻ đẹp giang sơn. Là một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác, suốt đời đi săn
tìm cái đẹp, thường khám phá thiên nhiên và con người trên phương diện tài hoa,
văn hóa thẩm mỹ. Ông sáng tác rất nhiều thể loại nhưng trong đó thành công nhất
là tùy bút, và “Người lái đò sông Đà” là một trong số đó. “Người lái đò sông Đà”
được in trong tập “Tùy bút sông Đà” xuất bản 1960. Đây là kết quả nhiều lần đến
Tây Bắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế vào năm
1958. Đời sống thực tế đã cho tác giả thứ chất liệu diệu kỳ để thăng hoa trong ngòi
bút, giúp nhà văn nhận ra “chất vàng mười của thiên nhiên Tây Bắc” và “thứ vàng
mười đã qua thử lửa” của những người lao động. Ở tùy bút này, Nguyễn Tuân đã
miêu tả con sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri vô giác mà là một sinh thể có
hoạt động, có tính cách, có tâm trạng khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản
đối lập với nhau: hung bạo và trữ tình. Và cái nét trữ tình đầy chất thơ rất đỗi dịu
dàng, thân thiết của sông Đà khiến cho con người ta ấn tượng và xao xuyến vô cùng.
Ở đầu tác phẩm, dòng sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả như một loài
thủy quái khổng lồ đáng sợ, thế nhưng một khi vượt qua được con thác dữ thì sông
nước lại trở nên rất đỗi êm ả và thanh bình. Nhà văn cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của
sông Đà ở nhiều góc độ tầm nhìn khác nhau, lúc thì nhìn từ trên cao xuống tức là
lúc đi máy bay trên sông Đà, lúc lại nhìn gần đi từ rừng ra và đi thuyền trực tiếp
trên sông nước. Đầu tiên là góc nhìn từ trên cao. Từ trên cao nhìn xuống, khi thi
Nguyễn Tuân thấy con sông như “cái dây thừng ngoằn ngoèo”, khi thì lại thấy
dòng chảy uốn lượn của con sông giống như mái tóc của người thiếu nữ: “Con
Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi
Mèo đốt nương xuân”. Điệp ngữ “tuôn dài” được lặp lại hai lần nhấn mạnh chiều
dài sông Đà chảy suốt chiều dài biên giới phía Tây Tổ quốc. Động từ “bung nở” là
một động từ mạnh, đứng trước hai loài hoa của mùa xuân là hoa gạo đỏ tươi và hoa
ban trắng tinh khiết làm tăng thêm cảm nhận về sự vận động của sắc màu cứ xôn
xao rạo rực rồi bừng lên lộng lẫy, trang điểm cho dòng sông đẹp tuyệt diệu cuốn
hút lòng người. Bên cạnh đó phải kể đến sự so sánh tài tình của Nguyễn Tuân. So
sánh của tác giả chứa đựng góc nhìn độc đáo, đầy tính phát hiện trước đối tượng
thẩm mĩ của mình. Một loạt những hình ảnh ví von đặc sắc ấy khiến cho người đọc
cảm nhận rõ ràng cái dáng vẻ mềm mại bất tận trong dòng chảy, êm ả khi thẳng
dòng qua vùng đất trung du. Dòng sông qua ngòi bút của Nguyễn Tuân cứ thoắt ẩn
thoắt hiện. Một câu văn vừa có chất thơ, vừa có chất nhạc, chất họa, gợi ta liên
tưởng tới dòng sông mang cái đẹp của một áng tóc trữ tình mềm mại, tha thướt và
duyên dáng. Vẻ đẹp của dòng sông hài hòa với núi rừng Tây Bắc, được núi rừng
điểm tô thêm cho nhan sắc mỹ miều. Những so sánh biến hóa không trùng lặp,
luôn gây men bằng những đột ngột khiến người đọc sửng sốt vì những so sánh lạ
lẫm, gây đứt quãng liên tưởng, để rồi thán phục nhận ra không thể so sánh hay hơn,
đúng hơn, và cứ thế bị thôi miên vào mê hồn trận của những so sánh tuyệt diệu.
Vẻ đẹp ngôn ngữ của Nguyễn Tuân không đơn thuần là thứ trời cho. Nhà văn đã
phải lao động cật lực, khổ công quan sát. Ta có thể nhận ra sự công phu trong quan
sát của Nguyễn Tuân qua sự biến đổi tinh vi về màu nước của sông Đà qua nhiều
thời điểm được tác giả ghi lại trong tùy bút: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ
nước Sông Đà không xanh màu xanh xanh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu
nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái
màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì đó mỗi độ thu về.” Với tình cảm
trìu mến thiết tha, nhà văn đã phát hiện được một cách thú vị màu sắc của dòng
sông biến đổi theo từng mùa. Mặc dù cả ba con sông cùng chảy qua vùng phía Bắc
của Tổ quốc, thế nhưng khi xuân về, dòng sông Đà xanh ngọc bích, tức là màu
xanh rất đẹp, vừa trong lại vừa óng ánh, chứ không xanh màu cánh hến - màu xanh
đục của sông Gâm, sông Lô. Ở đây ta lại thấy được rằng, Nguyễn Tuân tỉ mỉ quan
sát không chỉ riêng dòng sông Đà mà còn mở rộng quan sát của mình ra hai con
sông còn lại, song qua đó, vẻ đẹp của dòng sông Đà lại càng được làm nổi bật hơn.
Và khi qua làn sương mùa thu, nước sông Đà màu đỏ giống như “da mặt một
người bầm đi vì rượu bữa”, gợi cho ta cảm giác nước sông Đà đậm phù sa đem
màu mỡ đến cho bao cánh đồng phì nhiêu trù phú gọi bao yêu thương tự hào. Như
vậy, mỗi mùa, dòng sông Đà lại có vẻ đẹp riêng cùng với màu sắc riêng.
Tiếp đến, Nguyễn Tuân đã cho ta thấy vẻ đẹp mộng mơ của dòng sông Đà
dưới cái nhìn cận cảnh. Bằng những câu văn đậm chất thơ, tác giả ví sông Đà như
một cố nhân đi xa thì nhớ, gặp lại thì mừng vui khôn xiết: “Con Sông Đà gợi cảm.
Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách. Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một
cố nhân”. Từ những chạm khắc gân guốc, bạo khỏe, từ những màu sắc gây ấn
tượng dữ dằn, Nguyễn Tuân chuyển sang những đường nét thanh thoát, dịu dàng,
thơ mộng. Không gian lắng đọng trong vẻ đẹp của “bờ sông Đà, bãi sông Đà,
chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”. Nhà văn đã gợi lên vẻ đẹp của sông Đà bằng
hai từ “gợi cảm”. Và quả thực, vẻ đẹp thơ mộng của dòng sông khiến cho người
ngoạn cảnh gặp lại có cảm giác “đằm đằm ấm ấm”, gợi biết bao thi vị. Mượn một
câu thơ trong bài thơ Đường nổi tiếng “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi
Quảng Lăng” – “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu “của Lý Bạch, Nguyễn Tuân
dường như đã ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ thi của dòng sông Tây Bắc, ấy là cái
bâng khuâng ngẩn ngơ của dòng nước lững lờ trôi xuôi như nhớ thương những hòn
đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Có một cái gì tựa như nỗi thương
nhớ mênh mang mơ hồ của thi sĩ Tản Đà gửi “một người tình nhân chưa quen biết”
- “Dải sông Đà bọt nước lênh bênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”. Nói chung,
qua cảm nhận của nhà văn, chất thơ của phong cảnh sông Đà đậm đà màu sắc cổ điển.
Trong cái nhìn cận cảnh, sông Đà mang vẻ đẹp nên thơ vì khung cảnh vắng lặng,
hoang dại. “Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như
từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi.” Nguyễn
Tuân dùng câu văn nhiều thanh bằng, nhịp điệu chậm rãi, giúp cho người đọc có
cái nhìn tường tận hơn về phong cảnh tĩnh lặng ven sông, đồng thời cũng gợi niềm
xúc cảm. Con sông Đà dường như chỉ biết tồn tại trong không gian mà không hề
biết đến thời gian. Thời gian mải miết trôi, sông Đà vẫn mãi vẻ đẹp nguyên sơ,
“hoang dại như bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiêu như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Với
cách liên tưởng đó, dường như Sông Đà còn có vẻ đẹp của một con sông bền bỉ
chảy qua tháng năm lịch sử, mang dấu tích văn hóa ngàn xưa của dân tộc. Hàng
loạt những hình ảnh gợi cảm, thi vị vẽ lên một thiên đường trên mặt đất thanh
khiết, nguyên sơ như trong cõi tiên cảnh. Thiên nhiên hữu tình của sông Đà xa lạ
mà mến thương với sắc xanh của những ngô non đầu mùa, những đồi giăng đầy
"nõn búp", những con hươu rừng "thơ ngộ" ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương,
với đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông "bụng trắng như bạc rơi thoi"hay với
chuồn chuồn bươm bướm ở bờ bãi sông đem lại cho người đi rừng niềm vui "như
thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm vui như nối lại chiêm bao đứt quãng". “Chao
ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu
tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu”. Có lẽ trong khung cảnh hiền hòa
thơ mộng và tĩnh lặng ấy, Nguyễn Tuân cứ ngỡ mình đang trong mộng cảnh, thèm
nghe được một âm thanh nào đó khiến mình tỉnh lại. Có lẽ ở nơi đây chỉ có thiên
nhiên làm chủ vẻ đẹp của chính mình và con người chỉ đóng vai trò là một “ông
khách” thưởng ngoạn cái đẹp. Những câu văn xuôi của Nguyễn Tuân vút lên như
vần thơ mềm mại, du dương, như nét vẽ thanh nhẹ, hư ảo. Dưới ngòi bút dạt dào,
chất thơ, chất họa, vẻ đẹp của dòng nước sông Đà hiện lên như một bức tranh kì
thú, như những thước phim huyền ảo. Nguyễn Tuân như đưa người đọc vào thế
giới thần tiên cổ tích, thơ mộng, cảnh vừa hoang sơ, cổ kính, vừa thơ mộng, trữ
tình, vừa lặng tờ, êm ả, vừa ẩn chứa sức sống tươi trẻ.
Nguyễn Tuân suốt đời rong ruổi đi tìm cái đẹp. Đọc văn của ông, người ta
thấy một con người tài hoa, uyên bác. Ông tiếp cận mọi sự vật ở mặt văn hóa thẩm
mỹ để khám phá. “Chung thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu”, không phải
tự nhiên mà Nguyễn Tuân lại lấy hai câu thơ này làm đề từ cho tùy bút của mình.
Đó là phản ánh đúng đặc điểm của con sông Đà. Bằng bút pháp độc đáo, tài hoa
của mình, tác giả đã xây dựng nên một hình tượng Sông Đà sống động, hấp dẫn
với hai nét tính cách đối lập. Một dòng sông - một thực thể địa lý được Nguyễn
Tuân thổi hồn, khiến cho nó có tâm trạng, có cá tính khi thì giận dữ lúc thì hiền
hòa lôi cuốn độc giả. Nó không chỉ phô diễn trọn vẹn lối viết tài hoa uyên bác của
nhà văn, đồng thời cũng thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước của tác giả. Có
thể nói, tùy bút này là bài ca về vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc và sự giàu có tài
nguyên của non sông đất nước.
Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét về văn phong Nguyễn Tuân rằng: “Khi thì
trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi
thì xô bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy
nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa”. Thật vậy, chỉ dưới ngòi bút tài hoa, uyên bác
của Nguyễn Tuân, vẻ đẹp hoang dại mà thơ mộng, bí ẩn mà diễm lệ của con sông
Tây Bắc mới thực sự hiện ra, nổi hình, nổi sắc, mới trẻ nên có thần, có hồn và lay
động người đọc. Nguyễn Tuân viết không chỉ bằng ngòi bút của một nhà văn mà
còn là bằng ngòi bút của một họa sĩ, của một nhà điêu khắc. Chính sự đầu tư
nghiêm túc, công phu và tâm huyết cho nghệ thuật của Nguyễn Tuân đã làm nên sự
thành công của “Người lái đò sông Đà” nói riêng và những tác phẩm tùy bút của
ông nói chung, đóng góp một phần không nhỏ vào nền văn học nước nhà.
Đề 2: Phân tích hình tượng người lái đò
Có người nói, Nguyễn Tuân là định nghĩa về một người nghệ sĩ. Khi nói đến
nhà văn Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi đã nhận xét: “Đây là một nhà văn suốt
đời đi tìm cái Đẹp, cái Thật. Là người sinh ra để thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết
hoa.” Cuộc đời cầm bút của ông là cuộc hành trình không mệt mỏi khám phá và
diễn tả cái đẹp của thiên nhiên núi sông quê hương, vẻ đẹp con người. Nét nổi bật
trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là ông luôn nhìn sự vật ở phương
diện văn hóa và mĩ thuật, nhìn con người ở phẩm chất nghệ sĩ và tài hoa. Điều đó
được thể hiện rất rõ qua tác phẩm “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm vừa ngợi ca
vẻ đẹp của thiên và con người lao động ở miền Tây Bắc, vừa thể hiện lòng yêu
nước thiết tha và sự lao động nghệ thuật nghiêm túc của tác giả. Khi đọc “Người
lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân, người ta nói rằng ông lái đò là một nghệ sĩ tài
hoa. Thật vậy, trên cái nền của con sông vừa “hung bạo” vừa “trữ tình” ấy, người
lái đò vừa là anh hùng vừa là một người nghệ sĩ tài hoa trong nghề của mình.
Nguyễn Tuân là một nhà tùy bút lớn. Sự nghiệp sáng tác của ông phong phú
và đạt được sự cân bằng giữa hai thời kì lịch sử trước và sau Cách mạng tháng
Tám. Qua cái mốc ấy, tư tưởng và phong cách của ông có những biến đổi nhất
định. Nhưng dù biến đổi như nào, Nguyễn Tuân vẫn có một cái “tôi” rất thống
nhất: tài hoa, uyên bác, thích những cảm giác mạnh, suốt đời say mê đi tìm và diễn
tả cái đẹp, khám phá thiên nhiên và con người trên phương diện tài hoa, văn hóa
thẩm mỹ. Nói Nguyễn Tuân là bậc thầy về tùy bút là bởi đỉnh cao trong văn nghiệp
đồ sộ mà Nguyễn Tuân để lại là những bài tùy bút với phong cách riêng biệt không
lẫn với bất cứ cây bút nào. Đặc biệt là tùy bút “Người lái đò Sông Đà” được in
trong tập “Tùy bút sông Đà” xuất bản 1960. Đây là kết quả nhiều lần đến Tây Bắc
trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế vào năm 1958.
Đời sống thực tế đã cho tác giả thứ chất liệu diệu kỳ để thăng hoa trong ngòi bút,
giúp nhà văn nhận ra “chất vàng mười của thiên nhiên Tây Bắc” và “thứ vàng
mười đã qua thử lửa” của những người lao động. Trên phông nền thiên nhiên mênh
mông của vùng núi Tây Bắc, nếu sông Đà hiện lên vừa hung bạo, hiểm trở, vừa thơ
mộng vừa trữ tình thì hình tượng người lái đò hiện lên như một nét thần tình đầy
chất nghệ sĩ. Nguyễn Tuân cho rằng bất cứ người lao động nào khi đạt tới trình độ
điêu luyện giỏi giang trong công việc của mình đều có thể coi là nghệ sĩ và xứng
đáng được tôn vinh ở vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Và ở nơi thượng nguồn ấy là một tượng đài nghệ thuật.
Người lái đò hiện lên trước hết là hình ảnh một người lao động từng trải, tài
trí, dũng cảm và lão luyện trong nghề. Nói đến nhân vật của Nguyễn Tuân là phải
nói đến cách tiếp cận riêng của ông đối với con người: đó là cách tiếp cận từ
phương diện tài hoa nghệ sĩ. Đối với ông, bất cứ ai làm được cái công việc mình
thường làm, làm đến độ cao siêu, trác việt, ấy là tài hoa nghệ sĩ. Như ông lái đò
trong tác phẩm này, Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật của mình vào hoàn cảnh khốc
liệt vô cùng: đối đầu với con sóng dữ, với loài thủy quái. Bởi thế mà cái tài năng
của ông lão lái đò đã được bộc lộ rõ nét cụ thể, hình tượng của ông lão là hình
tượng của một nghệ sĩ “tay lái ra hoa”, một dũng sĩ kiên cường.
Để làm nổi bật hình tượng của người lái đò, Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một cuộc
vượt thác như một viên tướng thời xưa tiến vào một trận đồ bát quái được bố trí
sẵn với nhiều cạm bẫy giăng ra hết vòng này đến vòng khác, mà cụ thể ở đây là ba
trùng vi thạch trận với những hòn đá “ngỗ ngược” đang bày binh bố trận trên sông.
“Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có
chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào
nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền.”
Những từ ngữ “mai phục, vồ lấy thuyền” khiến cho lũ đá nơi ải nước như những
kẻ thù nham hiểm và hung ác. Chúng có thể bất thình lình tấn công con người bất
cứ khi nào và tai họa sẽ ập đến mà không báo trước. Nguyễn Tuân đã miêu tả lũ đá
ở đây mỗi hòn mang một vẻ mặt khác nhau: hòn thì ngỗ ngược, hòn méo mó, hòn
mặt xanh lè, hòn hất hàm như thách thức… mỗi hòn mỗi dáng vẻ, nhưng nhìn
những bộ mặt ấy thì không có chút nào thiện cảm bởi vẻ lạnh lùng, hung ác và dữ
tợn. Người đọc như đang chứng kiến thạch trận đá trên sông Đà như bày ra một
trận địa chiến đấu mà mỗi vị trí và nhiệm vụ được cân nhắc và tính toán kỹ lưỡng.
“Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên
sông.” Đám tảng hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông “đòi ăn chết cái
thuyền”, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc chiến
có đá đã dàn trận địa sẵn. Trong trùng vi thạch trận thứ nhất, trước mặt người lái
đò là dòng sông với thác nước và đá ngầm. Đá tạo thành thạch trận với bốn cửa
sinh và chỉ có một cửa tử, với boong ke chìm và pháo đài đá nổi. Nếu như đá làm
nhiệm vụ cản đường thì nước làm nhiệm vụ tấn công: “Mặt nước hò la vang dậy,
ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều
mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng vào hông thuyền”. Nước thác
được miêu tả vừa như võ sĩ hạng nặng vừa như đô vật tài ba. Tất cả các thế lực
thiên nhiên phối hợp với nhau nhằm ăn tươi nuốt sống con thuyền. Ta thấy ở đây
một cuộc chiến không hề cân sức: một bên là thiên nhiên lớn lao, dữ dội, hiểm độc
với những dàn trận bủa vây liên tiếp kết hợp với sự hợp sức của sóng, gió, nước,
đá… Một bên là những con người nhỏ bé trên chiếc thuyền đơn độc và trên tay chỉ
có những cán chèo là vũ khí. Nguyễn Tuân đã sử dụng những động từ mạnh để
diễn tả cái hiểm nguy của sông Đà. Nhưng càng hung dữ bao nhiêu thì lại càng tôn
lên vẻ đẹp của người lái đò bấy nhiêu vì con sông như một hình ảnh làm nền cho
người lái đò hiện lên anh dũng, kiên cường, đầy hiên ngang, kiêu hãnh, hào hoa
tìm sự sống trên dòng sông chết. Bởi ông lái đò đã nắm chắc cái “quy luật tất yếu
của dòng nước sông Đà.” Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, sông Đà trong thể tấn
công, con người thì phòng thủ. Dù đã bị tấn công đến miếng đòn độc hiểm nhất “cả
cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”, ông vẫn “cố nén
vết thương, hai chân kẹp chặt lấy cuống lái…” Ông cố gắng chịu đựng nỗi đau thể
xác, vẫn dũng cảm kiên cường không hề buông tay lái. Đặc biệt trên con thuyền có
đến sáu bơi chèo vẫn nghe thấy tiếng chỉ huy ngắn gọn mà tỉnh táo của người cầm
lái. “Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”. Trong trận đánh người lái
đò đã hiện lên thật gan dạ, dũng cảm, đầy sức dẻo dai, vững vàng và một trí tuệ của
người chỉ huy con thuyền sáng suốt.
Không một phút giây nghỉ tay, nghỉ mắt, người lái đò phải tiếp tục “phá luôn vòng
vây thứ hai”. Thạch trận thứ hai này còn khắc nghiệt hơn thạch trận đầu tiên, con
sông thêm nham hiểm quyết dồn con thuyền vào chỗ chết “Vòng thứ hai này tăng
nhiều thêm cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía
bờ hữu ngạn”, “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”, “Bốn
năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập
đoàn cửa tử”. Song, hoàn cảnh càng khắc nghiệt bao nhiêu, hình ảnh ông lái đò
hiện lên càng hiện lên mạnh mẽ và hiên ngang bấy nhiêu. Với kinh nghiệm dày
dặn, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”, “thuộc quy luật phục kích của lũ
đá nơi ải nước hiểm trở này”, ông lái đò đã chuyển thế tấn công, vượt thác bằng
những hành động mạnh mẽ, táo bạo và vô cùng chuẩn xác. Bằng nghệ thuật liên
tưởng độc đáo của mình, Nguyễn Tuân đã cho người đọc hình dung hình ảnh
người lái đò không chỉ đơn thuần là chèo thuyền vượt thác mà thậm chí là “cưỡi
lên cái thác nước Sông Đà”. Những động tác linh hoạt đầy uyển chuyển của ông
lái đò được Nguyễn Tuân miêu tả kết hợp với các động từ mạnh: “nắm chặt lấy
được cái bờm sóng”, “ghì cương lái”, “phóng nhanh vào cửa sinh”, “tránh mà rảo
bơi chèo lên”, “chặt đôi ra để mở đường tiến”, cùng với đó là nhịp văn dồn dập đã
gợi tả tính chất quyết liệt của cuộc đọ sức giữa con người với thiên nhiên. Trong
trận chiến thứ hai này, ta thấy nổi bật hình ảnh ông lái đò mạnh mẽ, hiên ngang,
lẫm liệt, mưu trí và chủ động như một viên tướng tả xung hữu đột trên trận địa.
Đến với vòng vây cuối cùng, khi mà sự nguy hiểm đã lên đến mức tột độ, thì người
lái đò ấy lại càng được miêu tả đến mức tài hoa tột bậc, là một người nghệ sĩ tài
hoa. Lúc này, có ít cửa hơn, “bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống
ở chặng thứ ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”. Nguy hiểm, khó
khăn là vậy nhưng ông lái đò lại hoàn toàn ở thế thượng phong, hoàn toàn làm chủ
được tình thế. Ông chủ động tấn công: “Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa
trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa
tự động lái được lượn được”. Tay lái của ông khéo léo, uyển chuyển đến mức đọc
câu văn tả con thuyền chuyển động mà ta như được chứng kiến pha biểu diễn đầy
ngoạn mục. Màn hơi nước mờ trắng hư ảo, con thuyền không bơi trên sóng nước
sông Đà mà nó như đang bay trên dòng sông hư ảo ấy. Và người lái đò lúc này
hiện lên như một con người tài hoa trí dũng tuyệt vời, là một “tay lái nở hoa” với
trình độ và bản lĩnh phi thường. “Thế là hết thác”. Con người đã chiến thắng trước
thế lực thiên nhiên bởi sự quả cảm, ngoan cường, ý chí quyết tâm và sự tài trí của
mình. Đồng thời qua đó, Nguyễn Tuân cũng hé mở vấn đề mang ý vị triết học sau
xa: trong cuộc chiến đấu một mất một còn, con người am hiểu và làm chủ quy luật
là con người tự do, dẫu đó là quy luật đầy khắc nghiệt, chỉ cần một chút lơi tay, do
dự và mất bình tĩnh là có thể trả giá rất đắt.
Sau khi vượt qua con sông Đà, chiến thắng được thiên nhiên hung bạo,
những người lái đò “đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam” và bàn tán về
những chuyện cuộc sống thường ngày chứ “cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào
về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi.” Họ
bình thản mà tận hưởng cái thú vui tao nhã ở đời. Trong suy nghĩ của họ, cuộc
chiến với Sông Đà dữ dội là chuyện ngày nào cũng diễn ra, “ngày nào cũng giành
lấy cái sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng
nhớ…” Điều đó lại càng làm tôn thêm cái cốt cách của một nghệ sĩ đời thường,
một người nghệ sĩ thực thụ với tầm vóc lớn lao.
Với tay lái thuần thục và điêu luyện, với tâm hồn phong phú, ông đò hiện lên
trên trang văn của Nguyễn Tuân chính là một nghệ sĩ chốn sông nước. Sự tương
phản giữa hai lực lượng: một bên là thiên nhiên lớn lao kì vĩ hung bạo và một một
bên là ông lái đò nhỏ bé đã nhấn mạnh cái bản lĩnh cũng như sự dũng cảm và khả
năng chinh phục tự nhiên của con người. Chỉ là chuyện một ông lái đò và cái thác
nước mà Nguyễn Tuân đã viết được những trang văn thật hấp dẫn mà người đọc cứ
như được nhìn thẳng vào những thước phim quay cận cảnh với bao nhiêu tình
huống căng thẳng, hồi hộp. Để viết được như vậy, nhà văn phải có một trí tưởng
tượng thật phong phú, phải có một kho chữ nghĩa giàu có lắm. Đặc biệt ở đây, ta
thấy Nguyễn Tuân còn vận dụng vốn tri thức thuộc nhiều lĩnh vực văn hóa, nghệ
thuật khác nhau, mà cụ thể ở đây là những hiểu biết về khoa học quân sự và võ
thuật: đòn dương, đòn âm, đá trái, thúc gối, phục kích, tuyến một, tuyến hai, cửa
sinh, cửa tử,. . Từ đó, nhà văn đã biến câu chuyện bình thường thành bản trường ca
về người anh hùng, một nghệ sĩ lái đò trong nghệ thuật vượt thác, là bản trường ca
về người anh hùng lao động bằng bàn tay và khối óc đang hằng ngày làm giàu cho Tổ quốc.
“Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân là một áng văn đẹp được làm nên
từ tình yêu đất nước thiết tha, say đắm của một người nghệ sĩ muốn dùng văn
chương để khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên, kỳ vĩ, trữ tình thơ mộng của thiên nhiên,
nhất là tài năng của những người lao động bình dị. Qua tùy bút này, và đặc biệt là
qua hình tượng người lái đò, Nguyễn Tuân muốn gửi gắm một quan niệm mới mẻ:
Chủ nghĩa anh hùng không chỉ có ở nơi chiến trường mà nó còn hiện diện ngay
trong cuộc sống của nhân dân hằng ngày phải vật lộn với thiên nhiên vì miếng cơm
manh áo. Sự mạnh mẽ, kiên cường, trí dũng tài ba cũng nằm ở ngay những người
dân lao động bình thường. Bài tùy bút chính là bài ca ngợi ca vẻ đẹp của người lái
đò nói riêng và nhân dân lao động nói chung.
Document Outline

  • NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
  • Đề 2: Phân tích hình tượng người lái đò