Phong cách nghệ thuật thơ Xuân Diệu trước CMT8 1945
Từ khi còn một học sinh trung học hay một viên chức, Xuân Diệu luôn lao động
sáng tạo say mê, bền bỉ. Với hơn nửa thế kỉ cầm bút, ông đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ
sộ: khoảng 50 tác phẩm thuộc nhiều thể loại: thơ, văn, phê bình, nghiên cứu phê nh văn học
dịch thuật… nh vực nào tài năng Xuân Diệu cũng được ghi nhận, nhưng thơ vẫn bộ phận
sáng tác giá trị nhất của ông. Xuân Diệu một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt
Nam hiện đại. Cả cuộc đời sáng tạo nghệ thuật, Xuân Diệu đã nêu một tấm gương cho các thế hệ
cầm bút về sự cần cù, say mê, không mệt mỏi, đã để lại sự ngưỡng mộ, khâm phục với bao thế
hệ độc giả.
Trong “Bài thơ tuổi nhỏ” sáng tác năm 1933 khi Xuân Diệu mười bảy tuổi, thi đã
dõng dạc bày tỏ tuyên ngôn sống của mình:
Giơ tay muốn ôm cả Trái đất
Ghì trước trái tim, ghì trước ngực
Cho đầy trước mắt khoảng cô đơn
Bao la muôn trời, sâu vạn vực…
Đây chính nét nổi bật trong phong ch nghệ thuật của ông: niềm khát khao giao cảm
với đời, cuộc đời hiểu theoo nghĩa chân thật trần thế nhất. Khát khao giao cảm thể hiểu
những mong ước, mong muốn, hi vọng một cách thiết tha, cháy bỏng được hòa nhập, được tiếp
cận, được tâm sự, giãi bày, được cảm thông, chia sẻ. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã
khẳng định: “Có thể nói trên đời này bao nhiêu cách để tiếp xúc với đời, để tâm sự giao cảm
với đời, Xuân Diệu đều không bỏ qua khai thác triệt để… Đây một trái tim nóng bỏng, trái
tim của một con người sinh ra để yêu thương, để ca ngợi sự giao cảm tràn đầy nh nhân bản kia,
để bày tỏ tình yêu thiết tha của mình đối với cuộc sống kêu gọi nh yêu của cuộc sống đối với
mình” (Tư tưởng phong cách một nhà thơ lớn).
1. Xuân Diệu Một cây bút sáng tác bền bỉ:
Đây một cách để được giao hòa, gặp gỡ, tâm sự, giãi y. Suốt cuộc đời lao động bền
bỉ của người nghệ sĩ, Xuân Diệu đã để lại một sự nghiệp sáng tác lớn lao với nhiều thể loại. cả
hai chặng sáng tác, Xuân Diệu đều có những cống hiến đáng kể đối với nền văn học hiện đại
Việt Nam. Ông đã viết gần năm mươi cuốn sách, bình thơ trên bốn trăm cuộc, ngoài ra còn làm
biên tập sách báo, viết báo, làm báo,… thì không kể hết. Quả thực “một khối lượng khổng lồ”
(Mai Quốc Liên). “Bài học lớn nhất, tấm gương sáng nhất mà Xuân Diệu để lại cho các thế hệ
cầm bút về sau tấm gương lao động nghệ thuật cần cù, nhẫn nại, tỉ mỉ, say liên tục (Hà
Xuân Trường).
Trước Cách mạng tháng m, Xuân Diệu nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới.
Với hai tập “Thơ thơ” (1938) “Gửi hương cho gió” (1945), Xuân Diệu trở thành một trong
những nhà thơ xuất sắc nhất điển hình nhất của phong trào Thơ mới, nhiều đóng góp vào
việc cách tân các thể loại thi ca dân tộc phát triển ngôn ngữ dân tộc. Nhà thơ Tế Hanh khi
được hỏi nếu chọn năm nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới đã trả lời sau khi suy nghĩ:
“Kể cũng khó, nhưng theo tôi thì phải kể đến Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn
Mạc Tử”. Lại hỏi tiếp: nếu chọn một người tiêu biểu nhất thì là ai? Tế Hanh đã trả lời ngay:
Xuân Diệu. Như vậy, công lao của Xuân Diệu trong phong trào Thơ mới thật không nhỏ.
Sau ch mạng tháng Tám, Xuân Diệu thuộc số ít người hàng đầu của nền thơ ca cách
mạng, tr thành một trong những người đầu tiên xây dựng nền móng cho thơ ca cách mạng Việt
Nam.
2. Xuân Diệu Nhà thơ của tình u:
Sinh thời, Xuân Diệu đã t nhận mình “kẻ uống tình yêu dập cả môi”, thơ viết về tình
yêu mảng đặc sắc nhất của thơ Xuân Diệu. Thơ tình của ông tới vài trăm bài, những bài
về tình yêu hay nhất trong số những bài thơ tình hiện đại. Một danh hiệu cao quý Xuân Diệu
được phong tặng ngay từ thời “Thơ thơ” “Gửi hương cho gió” mãi sau này ông vẫn bền bỉ
vun đắp bằng c cuộc đời sáng tạo của mình; đó danh hiệu “ông hoàng của thơ tình” hoặc thân
thiết hơn “thi của tình yêu”… Các nhà nghiên cứu đã đánh giá cao những đóng góp của
Xuân Diệu trong địa hạt thơ tình: “nhà thơ tình bậc nhất” (Hà Minh Đức), “nhà thơ tình kiệt
xuất” (Lê Đình Kị), ai vượt được Xuân Diệu trong lĩnh vực thơ tình” (Tố Hữu). Chính Xuân
Diệu, những năm cuối đời nhìn lại suốt chặng đường dài sáng tạo của mình cũng tự hào rằng
“đặc sản của tôi thơ tình”, nhấn mạnh: “Đã làm thơ tình phải làm thơ tình nguyên chất”.
Xuân Diệu nhà thơ của niềm giao cảm hết mình với cuộc sống, nên cũng nhà thơ
thật sự của tình yêu; nói cách khác, Xuân Diệu mượn tình yêu để giao tiếp với đời tình yêu
một trong những niềm giao cảm mãnh liệt nhất, sâu sắc nhất, toàn vẹn nhất niềm giao cảm
tuyệt vời của tuổi trẻ. Đó sự hòa hợp tuyệt diệu giữa hai tâm hồn, hai trái tim, hai thể xác, vừa
rất mực trần thế, vừa hết sức cao thượng. Tình yêu tình cảm người nhất. thể nói, khát vọng
yêu đương nồng nàn da diết thường thấy Xuân Diệu cũng chính biểu hiện đầy đủ nhất của
lòng say yêu đời. Đối với ông, tình yêu biểu tượng tràn đầy rực rỡ nhất của tuổi thanh xuân
hạt nhân của sự sống. duy nghệ thuật của Xuân Diệu được hình thành phát triển trên
sở nguồn cảm xúc yêu đương ấy.
Đi sâu vào thế giới tình yêu của Xuân Diệu, ta bắt gặp đây mọi cung bậc tình cảm yêu đương
muôn thuở của con người. Từ những tâm trạng nhớ nhung bâng quơ, những hẹn xa xôi đến
những thứ tình như mây đưa gió thoảng, từ những nh cảm vu đến thứ tình cho không như
“Gửi hương cho gió”, như “Phấn thông vàng”, từ những phút say nồng cực lạc đến những
khoảng trống vắng lạnh lùng… nghĩa đủ mọi trạng thái ng khuâng, hồi hộp, đắm say,
giận dỗi, hờn ghen, hi vọng, tuyệt vọng… của tình yêu. Nhiều nhà thơ chọn tình yêu làm tiền đề
cho cảm hứng sáng tạo nhưng lẽ chỉ Xuân Diệu đạt đến độ si đắm đuối nhất của cảm
xúc yêu đương, người phát ngôn đầy đủ nhất cho tình yêu của thời đại.
Đến với tình yêu, Xuân Diệu muốn khám phá thực chất ý nghĩa của đồng thời qua đó, bộc
lộ quan niệm sống của mình. Có thể coi Xuân Diệu người đầu tiên đã đưa vào thơ Việt Nam
tình yêu thật sự tình yêu, nghĩa sự giao cảm tuyệt đối, tuyệt đỉnh, sự hòa nhịp giữa linh hồn
thể c. Tình u phải thực sự tình yêu của con người trần tục chứ không phải thứ tình
Biêlinxki từng chế giễu “chỉ làm đẹp lòng các vị bảo hộ hậu cung vua chúa phương Đông”
thôi. Tuy nhiên cái đích tình yêu nhằm đạt tới phải s hòa hợp cao độ của tâm hồn, trái
tim đỏ thắm của em, tâm hồn xanh thẳm của em, phút giây giao cảm tuyệt vời của những con
người “Trời ơi, anh muốn uống hồn em!”.
Với tình yêu, con người sinh ra để yêu ấy luôn sôi nổi cuồng nhiệt
Yêu tha thiết, thế vẫn còn chưa đủ,
Phải nói yêu, trăm bận đến nghìn lần,
Phải mặn nồng cho mãi mãi đem xuân,
Đem chim bướm thả trong vườn tình ái
(Phải nói)
Xuân Diệu ý thức được ý nghĩa cuộc đời nằm trong vòng tuổi trẻ, ý nghĩa tình yêu nằm
trong vòng khoảnh khắc, thơ Xuân Diệu ghi lại rất nhiều những khoảnh khắc ngưng đọng của
tâm hồn với một cường độ cảm xúc mạnh mẽ: khoảnh khắc gặp gỡ:
Ấy hồn giăng rộng khắp không gian
Để đánh lưới những duyên hờ mới mẻ
Ấy những cánh chuyển trong lòng nhẹ nhẹ
Nghe xôn xao rờn rợn đến hay hay
(Xuân không mùa)
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu!
nghĩa đâu một buổi chiều
chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,
Bằng mây nhẹ nhẹ, gió hiu hiu
(Vì sao)
Khoảnh khắc chợt bùng lên nỗi nhớ:
Anh nhớ tiếng! Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! em ơi
(Tương chiều)
Uống xong lại khát tình
Gặp rồi lại nhớ mình của ta
Rồi khoảnh khắc vội vàng, giục giã, được giao cảm chiếm lĩnh khao khát vươn tới cái
biên, tuyệt đích
Mau lên chứ, vội vàng lên với chứ
Em, em ơi, tình non sắp già rồi
(Giục giã)
Em vui đi, răng nở ánh trăng rằm
Anh hút nhụy của mỗi giờ tình tự
luôn khát khao biên, tuyệt đích, nên:
Biển đắng không nguôi nỗi khát thèm
Nên lúc môi ta kề miệng thắm,
Trời ơi, ta muốn uống hồn em
(Vô biên)
Với Xuân Diệu, tất cả đều tình yêu thứ nhất, mùa xuân đầu:
Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng
Xuân không chỉ mùa xuân ba tháng;
Xuân khi nắng rạng đến tình cờ,
Chim trên cành mỏ hát ra thơ
Xuân lúc gió về không định trước
(Xuân không mùa)
Sau này, khi đã chiều bóng xế, tình yêu trong thơ ông vẫn luôn nồng nàn:
Tôi đã yêu từ khi chưa tuổi
Lúc chưa sinh, vơ vẩn giữa dòng đời
Tôi sẽ yêu khi đã hết tuổi rồi
Không xương vóc, chỉ huyền hồ bóng ng
(Đa tình)
Cho đến lúc sắp giã biệt cuộc đời, nhà thơ vẫn khao khát:
Hãy để cho tôi được giã từ
Vẫy chào cõi thực để vào
Trong hơi thở chót dâng trời đất
Cũng vẫn si tình đến ngất ngư
Thơ tình Xuân Diệu thực sự thơ tình, tình yêu của những người yêu. Trong “Thơ thơ”
cái rạo rực thiết tha, nồng cháy, “Gửi hương cho gió” cái da diết, đằm thắm xen lẫn vị đắng
cay. hướng tới sự giao cảm về phương diện tinh thần tâm hồn nên tình yêu trong t Xuân
Diệu rất mãnh liệt cũng rất trong sáng, lành mạnh. Xuân Diệu yêu đời tha thiết khao khát
được đáp lại:
hãy yêu tôi một giờ cũng đủ
Một giây cũng cam, một chút cũng đành
Nhưng do không gặp gỡ những tâm hồn đồng điệu, chân thật, nên hầu hết những bài thơ
tình của Xuân Diệu nỗi đau của một trái tim đắm say, nồng nhiệt không được đến đáp
xứng đáng thường thấm đãm nỗi buồn cùng mặc cảm đơn. lúc sự thờ ơ, hờ hững của
người đời khiến trái tim thi sĩ không tránh khỏi sự tủi hổ:
Lòng ta một cơn mưa
Đã gặp lòng em khoai
Mưa biếc tha hồ rơi giọt ngọc
xanh không ướt đến da ngoài
(Nước đổ khoai)
Thậm chí, “chết trong lòng một ít” bởi:
mấy khi yêu chắc được u
Cho rất nhiều song chẳng nhận bao nhiêu
Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết
(Yêu)
Càng u, càng thấy “dại khờ”:
Người ta khổ vì thương không phải cách
Yêu sai duyên, mến chẳng nhằm người
kho vàng, nhưng chẳng tặng tùy nơi
Người ta khổ vì xin không phải chỗ
Ta hiểu sao trong thế giơi nghệ thuật của Xuân Diệu, mùa xuân bình minh đi liền
với những chiều thu những đêm trăng lạnh, sự nồng nàn đi liền với cảm giác vơ…
Trong tình yêu, Xuân Diệu đã đi đến tận cùng của sự thành thực: thành thực nói lên nỗi
khát tình dằng dặc của đời mình; thành thực can đảm nói lên những mặt trái của tình yêu. Nếu
như trong văn chương truyền thống, nguyên nhân của những mối lương duyên trắc trở do
khách quan, thì Xuân Diệu thấy nguyên nhân sự phản bội phía chủ quan, đó chính những
góc khuất trong tâm hồn những đôi tình nhân đang say sưa kia:
Linh hồn ta còn u uẩn hơn đêm,
Ta chưa thấu, nữa là ai thấu
Kiếm mãi, nghi hoài, hay ghen bóng gió
Anh muốn vào xét giấc em
Nhưng anh giấu em những mộng không ngờ
Cũng như em giấu những điều quá thực
(Xa cách)
Khoảng cách về tâm hồn mới điều đáng sợ nhất, bởi:
Em em, anh vẫn cứ anh
thể nào qua Vạn lý trường thành
Của hai trụ chứa đầy mật
Nhưng tình yêu được đền đáp hay không, trái tim yêu của Xuân Diệu vẫn nồng nàn
say đắm, vẫn khát khao gặp gỡ, tâm hồn vẫn “giăng rộng khắp không gian Để đánh lưới những
duyên hờ mới mẻ”, bởi với thi của tình yêu, Tình yêu không tuổi, xuân không ngày tháng”.
3. Quan niệm thẩm mỹ trong thơ Xuân Diệu:
Trong các nhà thơ hiện đại, Xuân Diệu đã đem lại cho thơ một quan niệm thẩm mỹ hết
sức mới mẻ, góp phần tạo nên một cuộc cách mạng trong thi ca: cuộc đời trần thế đẹp nhất,
con người đặc biệt người thiếu nữ là tuyệt diệu nhất, chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp trên
đời.
Xuân Diệu chịu nh hưởng của trường thơ tượng trưng Pháp. Trường t này quan niệm
trụ một thế giới huyền mắt thường không nhìn thấy được, cái con người nhìn thấy
chỉ dấu hiệu tượng trưng của bản thể ấy. vậy, các nhà thơ theo trường phái này không chủ
trương miêu tả thế giới rệt, hữu hình cố gắng miêu tả những biến thái tinh vi, mong manh,
huyền diệu của trụ, lòng người. Trường thơ tượng trưng đề xướng thuyết tương giao coi
trọng tính nhạc. Điều này dẫn tới đặc điểm bản của thơ Xuân Diệu: đấy là một thế giới tràn
đầy xuân sắc, xuân tình, chuẩn mực của cái đẹp con người giữa tình yêu tuổi trẻ. Quan
điểm học mới mẻ này đã khiến thi sáng tạo được nhiều hình ảnh mới mẻ, độc đáo, đẹp một
cách khỏe khoắn đầy sức sống.
Bài thơ “Vội vàng” được coi tuyên ngôn về quan niệm sống của Xuân Diệu, một triết nhân
sinh được thể hiện bằng hình tượng thơ thấm đẫm cảm xúc. Với Xuân Diệu, cuộc sống trần thế
đầy hấp dẫn, đó một thiên đường trên mặt đất, một khu vườn tràn đầy xuân sắc, một không
gian tươi thắm tràn ngập nõn, hoa thơm, trái ngọt… vạn vật độ lên hương rực rỡ nhất,
đều say đắm xuân tình: ong bướm như trong tuần tháng mật; hoa phải hoa của đồng nội xanh
rì; phải là của cành tơ, chồi biếc; yến oanh rộn khúc tình si… vậy, không việc phải
tìm kiếm thiên đường tận đâu, hãy yêu mến, gắn tận hưởng hết mình ngay trong cuộc
đời này.
Từ quan niệm coi con người là chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp, nhà t nhìn trời đất, cỏ cây,
hoa lá, núi sông… đầy vẻ tình tứ:
Hơi gió thở như mặt người yêu mến
Mây đa tình như thi đời xưa
Thời tiết bốn mùa thì: “Xuân: người ta ấm cần tình, Thu: người ta lạnh sắp đến
cũng rất cần đôi; Nắng hạ đốt người một cách cực lạc tiết đông khỏa vào da thịt làm dây
cả máu xương”. Mùa xuân được thi hình dung, liên tưởng như làn môi căng mọng của người
thiếu nữ “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” một câu thơ hay vào loại hiếm thấy trong
lịch sử văn học dân tộc. Xuân Diệu đã khái quát lên thành toàn bộ thế giới xuân tình. Nhìn phấn
thông bay, thi như thấy ái tình tản mạn, ôm ấp không gian, hoa thì không phân biệt được hoa
hay là những thiếu nữ đa tình. Biển thì như một người tình say đắm, một trái tim yêu không bao
giờ mệt mỏi thể nói, làm nên những câu thơ đầy cảm xúc, cảm giác ấy, một phần quan
trọng nhờ cách dùng từ ngữ của Xuân Diệu: độc đáo, táo bạo, giá tr gợi cảm mạnh mẽ. Tuy
nhiên, thơ Xuân Diệu, về bản chất vẫn kế thừa phát huy i nhạc điệu riêng, linh hồn riêng của
thơ ca truyền thống. Chính vậy, kinh nghiệm Đông Tây, truyền thống hiện đại, kết tinh
một tâm hồn nghệ khát khao giao cảm với đời đã giúp Xuân Diệu khám phá được những biến
thái tinh vi của thiên nhiên cũng như của nội tâm con người thể hiện được trong những vần
thơ “ít lời, nhiều ý, súc tích như đọng lại baoo nhiêu tinh hoa” (Thế Lữ).
4. Nỗi ám ảnh về thời gian trôi chảy:
“Trong các nhà thơ hiện đại, Xuân Diệu người năng lực cảm nhận tinh tế bước đi
của thời gian. l cũng do lòng yêu tuổi trẻ, muốn ngăn sự già nua tàn tạ, n nhà thơ luôn
cảnh giác với thời gian kịp thời o động với chính mình” (Vũ Quần Phương). Với Xuân
Diệu, thời gian trở thành “nỗi ám ảnh”, thành kẻ t đáng gờm”, “đại lượng tiêu cực, thù địch
với hạnh phúc tuổi xuân”. Xuân Diệu quan niệm thời gian mang trong lòng sự trôi chảy
mỗi khoảnh khắc qua đi mất đi vĩnh viễn:
Xuân đang tới, nghĩa xuân đang qua
Xuân còn non, nghĩa xuân sẽ già
(Vội vàng)
Đây một quan niệm hết sức mới mẻ, tiến bộ về thời gian thời gian tuyến tính. Thời
trung đại, với quan niệm thời gian tuần hoàn với chu bốn mùa, nên con người rất ung dung,
bình thản trước thời gian:
Sen tàn, cúc lại nở hoa
Sầu dài, ngày ngắn, đông đà sang xuân
(Truyện Kiều Nguyễn Du)
Thời gian trung đại tính theo chiều mô: ngàn đời, vạn năm, thiên thu… nên chết chưa
phải hết, còn kiếp sau. Còn thời hiện đại, người ta không yên tâm với điều đó. Đời người
hữu hạn, ngắn ngủi cùng, cho nên con người không thể thờ ơ với cuộc sống, không nên lãng
phí thời gian, phải sống năng suất hơn gấp nhiều lần trong cùng một thời gian được sống, hãy
tìm cách đốt cuộc đời mình lên để nói trôi qua thì không phải luyến tiếc. Cho nên, ta bắt gặp
những khoảnh khắc thi cảnh giác với thời gian kịp thời báo động với chính mình”:
Tình thổi gió, màu yêu lên phấp phới
Nhưng đôi ngày, tình mới đã thành xưa…
Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết
Trong gặp gỡ đã mầm li biệt
(Giục giã)
Ý thức về sự trôi chảy của thời gian cũng cách không chấp nhận cuộc sống mù tối,
danh nghĩa, tẻ nhạt, cội nguồn sâu xa của chính niềm khát khao giao cảm với đời.
cùng nhạy cảm trước s đổi thay “nổi nh, xiêu đổ, tan tác” của cuộc đời, Xuân Diệu
luôn nhìn thấy sự đối lập nghiệt ngã giữa thời gian tận của trụ thời gian quá ngắn ngủi
của kiếp người. Càng tha thiết với cuộc đời, ông càng nhìn thấy thời gian trôi với nhịp độ chóng
mặt: “rồi đi”, “c thế bay” những ngày những tháng.
Thong thả chiều vàng thong thả lại
Rồi đi…đêm xám tới dần dần
Cứ thế bay cho đến hết
Những ngày, những tháng, những mùa xuân
(Giờ tàn)
Chưa nhà thơ nào luyến tiếc thời gian đến xót xa như Xuân Diệu, bởi ông ý thức được
rằng thời gian trôi tuổi trẻ mất tuổi già đang chờ đón. Do vậy, cảm nhận về sự vận động của
thời gian trong thơ Xuân Diệu xuất phát từ ý thức về sự mất mát. Cùng với ngày tháng trôi qua,
Xuân Diệu chỉ nhìn thấy sự vật đang bị bào mòn, tàn tạ:
Hoa nở để tàn
Trăng tròn để khuyết
Bèo hợp để chia tan
Người gần để li biệt
Hoa kia không nắng cũng phai màu
Trên mặt người kia in nỗi đau
(Hoa nở để tàn)
Đằng sau một loạt những vội vàng”, “giục giã”, “mau với chứ”, “gấp đi em”… ta hình
dung ra điệu bộ cuống cuồng của thi nhân cùng nỗi ám nh lo sợ: muộn màng, không kịp, lỡ làng,
lỡ thì… Nhưng vốn người ham sống, Xuân Diệu không cam lòng chịu để cho ngày tháng trôi
qua trong mòn mỏi, vị, ông tìm cách chống đỡ, ngăn cản không cho thời gian cướp đi những
lạc thú của tuổi trẻ, tình yêu.
thể nói rằng, với Xuân Diệu, thời gian là một chất xúc tác đặc biệt tạo nên những
luồng rung động đặc biệt trong cảm hứng ng tạo, thôi thúc thi viết nên những câu thơ vừa
sức khái quát, vừa sinh động gợi cảm.
5. Xuân Diệu nhà thơ rất có ý thức khẳng định cái “tôi” nhân.
Thơ ca muôn đời vẫn là sự bộc lộ cảm xúc của chủ thể sáng tạo trước con người tạo
vật. Song nếu như trong thơ ca trung đại, quan niệm “thi ngôn chí”, văn tải đạo” đã lấn át
cái bản ngã thì Thơ mới ra đời đồng nghĩa với sự khẳng định cái “tôi” cá nhân. “Ngày thứ nhất,
ai biết đích ngày nào, chữ “tôi xuất hiện trong thi đàn Việt Nam. thực sự bỡ ngỡ như lạc
long nơi đất khách bởi mang theo một quan niệm chưa từng thấy xứ này: quan niệm
nhân” (Hoài Thanh).
Xuân Diệu một nhà Thơ mới tiêu biểu nhất, thế rất ý thức khẳng định cái tôi”
của mình. Không phải ngẫu nhiên ông được coi người phát ngôn đầy đủ nhất cho tưởng
nhân của phong trào Thơ mới. Với Xuân Diệu, cái “tôi” nhân được ý thức sâu sắc khi lần đầu
tiên trên thi đàn, cái “tôi” tiểu sản mạnh dạn bày tỏ những tâm thầm n, những xúc cảm
yêu đương tuôn trào, những khát vọng được hưởng thụ không dứt, không nguôi hoa thơm trái
ngọt của cuộc đời trần thế. thế, Xuân Diệu không chỉ hoàn toàn mới lạ so với các thế hệ trước
còn mới lạ so với các nhà thơ cùng thời. Chỉ Xuân Diệu mới đủ độ nồng nàn say đắm
nhất của chủ nghĩa lãng mạn phương Tây, với một cách cảm nghĩ nói năng rất phương Tây
một triết hưởng thụ cũng rất phương Tây:
Hái một mùa hoa thuở măng
Đốt muôn nến sánh mặt trời chói lọi
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
(Giục giã)
Thơ mới thơ của cái “tôi”, viết về cái “tôi”, nhưng chỉ với Xuân Diệu, sự tồn tại của cái
“tôi” mới được đẩy lên với ý nghĩa tuyệt đối của nó. Thơ ông tràn ngập chữ “tôi”, được khai
thác biểu hiện nhiều cấp độ khác nhau. Nó thể sự phô diễn bức chân dung tự họa của
nhà thơ, nhiều khi nhỏ bé, yếu đuối:
Tôi chỉ một cây kim nh
vạn vật muôn đá nam châm
(Cảm c)
Tôi con chim đến từ núi lạ
(Lời thơ vào tập “Gửi hương”)
Tôi con nai bị chiều đánh lưới
Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối
(Khi chiều giăng lưới)
Tôi là kẻ qua sa mạc
Nhưng cũng lúc cái tôi” y trở nên mạnh mẽ, quyết liệt:
Tôi một kẻ điên cuồngYêu những ái tình ngây dại
(Thở than)
Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời
(Hư )
Cũng thể là sự bộc lộ đến tận cùng khát vọng khi thi nhân xoáy vào bên trong chiều
sâu tâm hồn mình. Đằng sau cái “tôi” trữ nh đứng ngôi thứ nhất một hệ thống những động
từ chỉ hành động thế cảm xúc rất Xuân Diệu : Đó ý thức chiếm lĩnh hương sắc cuộc đời
(nắng, gió, không chờ nắng hạ mới hoài xuân…), hoặc lúc không còn tự chủ được nữa: “Tất cả
tôi run rẩy tựa dây đàn”, “tôi run như lá, tái như đông”. Rồi tôi nhớ; tôi buồn; tôi đã yêu; tôi sung
sướng; tôi sẽ chết Tuy nhiên, khẳng định cái “tôi” tích cực, cái “tôi” thấm đẫm màu sắc thể
trong thơ Xuân Diệu không chỉ căn cứ vào tần số xuất hiện của ch “tôi” hoặc vào sự đề cao quá
đáng của bản ngã nhân thành đỉnh Hi Lạp Sơn ngất ngưởng, sở chính của sự
thành thật của xúc cảm.
Thơ Xuân Diệu niềm khát sống, khát yêu đến cuồng nhiệt. Con người ấy muốn uống
cạn, một cách vồ vập “cái li tràn đầy sự sống”. Trong t Xuân Diệu, toát lên một nhu cầu mãnh
liệt: được cảm thông. Con người rất ý thức về bản ngã ấy không phải là cái “tôi” khép kín
cái “tôi” luôn phơi trải, luôn mở ra trước cuộc đời, một tâm hồn khao khát tìm gặp những
tâm hồn. Với Xuân Diệu, vui hay buồn, sung sướng hay đau khổ, hi vọng hay thất vọng…
nghĩa tất cả những rung động tinh vi của đời sống tâm hồn đều được Xuân Diệu thành thật bày
tỏ. Sự chân thực của tình cảm một phẩm chất tiêu biểu của thơ trữ tình nói chung, đến trào lưu
Thơ mới được chú trọng khai thác mở thêm nhiều ngóc ngách, phức tạp, tinh vi hơn để làm
phong phú thêm khả năng tự biểu hiện sức mạnh hướng nội của thơ. phương diện nào, ta
đều thấy hồn thơ Xuân Diệu những phẩm chất nổi bật tiêu biểu cho khát vọng được khẳng định
cái “tôi” như một tâm điểm nghệ thuật của thơ lãng mạn 1932-1945.
Sinh thời, Xuân Diệu vẫn tìm đến sự giao cảm với cuộc đời bằng thơ, bằng tâm hồn của
một nhà thơ thiết tha yêu sự sống. Sự nghiệp mà ông để lại một di sản thơ giá mà từng ý
thơ, từng lời thơ vẫn tiếp tục nảy sinh, đánh thức dậy niềm vui, nỗi buồn bao xôn xao trong
lòng tuổi trẻ hôm nay. giai đoạn trước Cách mạng tháng m, Xuân Diệu được coi gương
mặt tiêu biểu nhất của trào lưu thơ ca lãng mạn; nhà thơ “mới nhất” trong các nhà Thơ mới.
Ông đã mang đến cho thi đàn Việt Nam một nguồn cảm hứng yêu đời dào dạt, một luồng rung
động mới mẻ trước tình yêu, một nhịp sống hoàn toàn mới lạ một cái tôi giàu bản sắc. Ông
cũng người tìm ra nhiều kiểu cấu trúc hiện đại cho câu thơ Việt Nam làm phong phú thêm
hình thức thơ bằng những hình ảnh độc đáo những nét nhạc điệu tân kì. Có thể nói, sự cộng
hưởng giữa khát vọng sống khát vọng đổi mới thơ ca nguồn động lực thúc đẩy mọi sự tìm
tòi sáng tạo tạo ra sức mạnh cảm hóa đặc biệt của thơ Xuân Diệu trước Cách mạng Tháng
m.
Với nửa thế kỉ hành trình sáng tạo, Xuân Diệu đã để lại cho các thế hệ độc giả nhất
những người cầm bút bài học thấm thía về tài ng bản lĩnh thi sĩ. Con đường đi của Xuân
Diệu từ một nhà thơ lãng mạn thành một nhà thơ Cách mạng con đường tiêu biểu cho thế hệ
Thơ mới 1932-1945. cả hai chặng đường ấy, Xuân Diệu đều những cống hiến hết sức to lớn.
Vị t của ông trên văn đàn dân tộc một vị trí không ai thể thay thế được. Cùng với khát
vọng sống thiết tha sôi nổi, t Xuân Diệu sẽ tiếp tục hành trình trong cuộc sống hôm nay mai
sau.

Preview text:

Phong cách nghệ thuật thơ Xuân Diệu trước CMT8 1945
Từ khi còn là một học sinh trung học hay là một viên chức, Xuân Diệu luôn lao động
sáng tạo say mê, bền bỉ. Với hơn nửa thế kỉ cầm bút, ông đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ
sộ: khoảng 50 tác phẩm thuộc nhiều thể loại: thơ, văn, phê bình, nghiên cứu phê bình văn học và
dịch thuật… Ở lĩnh vực nào tài năng Xuân Diệu cũng được ghi nhận, nhưng thơ vẫn là bộ phận
sáng tác có giá trị nhất của ông. Xuân Diệu là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt
Nam hiện đại. Cả cuộc đời sáng tạo nghệ thuật, Xuân Diệu đã nêu một tấm gương cho các thế hệ
cầm bút về sự cần cù, say mê, không mệt mỏi, đã để lại sự ngưỡng mộ, khâm phục với bao thế hệ độc giả.
Trong “Bài thơ tuổi nhỏ” sáng tác năm 1933 – khi Xuân Diệu mười bảy tuổi, thi sĩ đã
dõng dạc bày tỏ tuyên ngôn sống của mình:
Giơ tay muốn ôm cả Trái đất
Ghì trước trái tim, ghì trước ngực

Cho đầy trước mắt khoảng cô đơn
Bao la muôn trời, sâu vạn vực…
Đây chính là nét nổi bật trong phong cách nghệ thuật của ông: niềm khát khao giao cảm
với đời, cuộc đời hiểu theoo nghĩa chân thật và trần thế nhất. Khát khao giao cảm – có thể hiểu là
những mong ước, mong muốn, hi vọng một cách thiết tha, cháy bỏng được hòa nhập, được tiếp
cận, được tâm sự, giãi bày, được cảm thông, chia sẻ. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã
khẳng định: “Có thể nói trên đời này có bao nhiêu cách để tiếp xúc với đời, để tâm sự giao cảm
với đời, Xuân Diệu đều không bỏ qua và khai thác triệt để… Đây là một trái tim nóng bỏng, trái
tim của một con người sinh ra để yêu thương, để ca ngợi sự giao cảm tràn đầy tính nhân bản kia,
để bày tỏ tình yêu thiết tha của mình đối với cuộc sống và kêu gọi tình yêu của cuộc sống đối với
mình” (Tư tưởng và phong cách một nhà thơ lớn).
1. Xuân Diệu – Một cây bút sáng tác bền bỉ:
Đây là một cách để được giao hòa, gặp gỡ, tâm sự, giãi bày. Suốt cuộc đời lao động bền
bỉ của người nghệ sĩ, Xuân Diệu đã để lại một sự nghiệp sáng tác lớn lao với nhiều thể loại. Ở cả
hai chặng sáng tác, Xuân Diệu đều có những cống hiến đáng kể đối với nền văn học hiện đại
Việt Nam. Ông đã viết gần năm mươi cuốn sách, bình thơ trên bốn trăm cuộc, ngoài ra còn làm
biên tập sách báo, viết báo, làm báo,… thì không kể hết. Quả thực là “một khối lượng khổng lồ”
(Mai Quốc Liên). “Bài học lớn nhất, tấm gương sáng nhất mà Xuân Diệu để lại cho các thế hệ
cầm bút về sau là tấm gương lao động nghệ thuật cần cù, nhẫn nại, tỉ mỉ, say mê và liên tục” (Hà Xuân Trường).
Trước Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới.
Với hai tập “Thơ thơ” (1938) và “Gửi hương cho gió” (1945), Xuân Diệu trở thành một trong
những nhà thơ xuất sắc nhất và điển hình nhất của phong trào Thơ mới, có nhiều đóng góp vào
việc cách tân các thể loại thi ca dân tộc và phát triển ngôn ngữ dân tộc. Nhà thơ Tế Hanh khi
được hỏi nếu chọn năm nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới đã trả lời sau khi suy nghĩ:
“Kể cũng khó, nhưng theo tôi thì phải kể đến Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn
Mạc Tử”. Lại hỏi tiếp: nếu chọn một người tiêu biểu nhất thì là ai? Tế Hanh đã trả lời ngay:
Xuân Diệu. Như vậy, công lao của Xuân Diệu trong phong trào Thơ mới thật không nhỏ.
Sau Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu thuộc số ít người ở hàng đầu của nền thơ ca cách
mạng, trở thành một trong những người đầu tiên xây dựng nền móng cho thơ ca cách mạng Việt Nam.
2. Xuân Diệu – Nhà thơ của tình yêu:
Sinh thời, Xuân Diệu đã tự nhận mình là “kẻ uống tình yêu dập cả môi”, thơ viết về tình
yêu là mảng đặc sắc nhất của thơ Xuân Diệu. Thơ tình của ông có tới vài trăm bài, có những bài
về tình yêu hay nhất trong số những bài thơ tình hiện đại. Một danh hiệu cao quý mà Xuân Diệu
được phong tặng ngay từ thời “Thơ thơ” và “Gửi hương cho gió” và mãi sau này ông vẫn bền bỉ
vun đắp bằng cả cuộc đời sáng tạo của mình; đó là danh hiệu “ông hoàng của thơ tình” hoặc thân
thiết hơn là “thi sĩ của tình yêu”… Các nhà nghiên cứu đã đánh giá cao những đóng góp của
Xuân Diệu trong địa hạt thơ tình: “nhà thơ tình bậc nhất” (Hà Minh Đức), “nhà thơ tình kiệt
xuất” (Lê Đình Kị), “có ai vượt được Xuân Diệu trong lĩnh vực thơ tình” (Tố Hữu). Chính Xuân
Diệu, những năm cuối đời nhìn lại suốt chặng đường dài sáng tạo của mình cũng tự hào rằng
“đặc sản của tôi là thơ tình”, và nhấn mạnh: “Đã làm thơ tình là phải làm thơ tình nguyên chất”.
Xuân Diệu là nhà thơ của niềm giao cảm hết mình với cuộc sống, nên cũng là nhà thơ
thật sự của tình yêu; nói cách khác, Xuân Diệu mượn tình yêu để giao tiếp với đời vì tình yêu là
một trong những niềm giao cảm mãnh liệt nhất, sâu sắc nhất, toàn vẹn nhất – niềm giao cảm
tuyệt vời của tuổi trẻ. Đó là sự hòa hợp tuyệt diệu giữa hai tâm hồn, hai trái tim, hai thể xác, vừa
rất mực trần thế, vừa hết sức cao thượng. Tình yêu là tình cảm người nhất. Có thể nói, khát vọng
yêu đương nồng nàn và da diết thường thấy ở Xuân Diệu cũng chính là biểu hiện đầy đủ nhất của
lòng say mê yêu đời. Đối với ông, tình yêu là biểu tượng tràn đầy rực rỡ nhất của tuổi thanh xuân
và là hạt nhân của sự sống. Tư duy nghệ thuật của Xuân Diệu được hình thành và phát triển trên
cơ sở nguồn cảm xúc yêu đương ấy.
Đi sâu vào thế giới tình yêu của Xuân Diệu, ta bắt gặp ở đây mọi cung bậc tình cảm yêu đương
muôn thuở của con người. Từ những tâm trạng nhớ nhung bâng quơ, những hẹn hò xa xôi đến
những thứ tình như mây đưa gió thoảng, từ những tình cảm vu vơ đến thứ tình cho không như
“Gửi hương cho gió”, như “Phấn thông vàng”, từ những phút say nồng cực lạc đến những
khoảng trống vắng lạnh lùng… nghĩa là có đủ mọi trạng thái bâng khuâng, hồi hộp, đắm say,
giận dỗi, hờn ghen, hi vọng, tuyệt vọng… của tình yêu. Nhiều nhà thơ chọn tình yêu làm tiền đề
cho cảm hứng sáng tạo nhưng có lẽ chỉ Xuân Diệu là đạt đến độ si mê đắm đuối nhất của cảm
xúc yêu đương, là người phát ngôn đầy đủ nhất cho tình yêu của thời đại.
Đến với tình yêu, Xuân Diệu muốn khám phá thực chất ý nghĩa của nó và đồng thời qua đó, bộc
lộ quan niệm sống của mình. Có thể coi Xuân Diệu là người đầu tiên đã đưa vào thơ Việt Nam
tình yêu thật sự là tình yêu, nghĩa là sự giao cảm tuyệt đối, tuyệt đỉnh, sự hòa nhịp giữa linh hồn
và thể xác. Tình yêu phải thực sự là tình yêu của con người trần tục chứ không phải thứ tình
Biêlinxki từng chế giễu “chỉ làm đẹp lòng các vị bảo hộ hậu cung vua chúa phương Đông” mà
thôi. Tuy nhiên cái đích mà tình yêu nhằm đạt tới phải là sự hòa hợp cao độ của tâm hồn, là trái
tim đỏ thắm của em, tâm hồn xanh thẳm của em, là phút giây giao cảm tuyệt vời của những con
người “Trời ơi, anh muốn uống hồn em!”.
Với tình yêu, con người sinh ra để mà yêu ấy luôn sôi nổi cuồng nhiệt
Yêu tha thiết, thế vẫn còn chưa đủ,
Phải nói yêu, trăm bận đến nghìn lần,
Phải mặn nồng cho mãi mãi đem xuân,
Đem chim bướm thả trong vườn tình ái (Phải nói)
Xuân Diệu ý thức được ý nghĩa cuộc đời nằm trong vòng tuổi trẻ, ý nghĩa tình yêu nằm
trong vòng khoảnh khắc, thơ Xuân Diệu ghi lại rất nhiều những khoảnh khắc ngưng đọng của
tâm hồn với một cường độ cảm xúc mạnh mẽ: khoảnh khắc gặp gỡ:
Ấy là hồn giăng rộng khắp không gian
Để đánh lưới những duyên hờ mới mẻ

Ấy những cánh chuyển trong lòng nhẹ nhẹ
Nghe xôn xao rờn rợn đến hay hay (Xuân không mùa)
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu!
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều

Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,
Bằng mây nhẹ nhẹ, gió hiu hiu (Vì sao)
Khoảnh khắc chợt bùng lên nỗi nhớ:
Anh nhớ tiếng! Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! em ơi (Tương tư chiều)
Uống xong lại khát là tình
Gặp rồi lại nhớ là mình của ta
Rồi khoảnh khắc vội vàng, giục giã, được giao cảm chiếm lĩnh và khao khát vươn tới cái vô biên, tuyệt đích
Mau lên chứ, vội vàng lên với chứ
Em, em ơi, tình non sắp già rồi (Giục giã)
Em vui đi, răng nở ánh trăng rằm
Anh hút nhụy của mỗi giờ tình tự

Vì luôn khát khao vô biên, tuyệt đích, nên:
Biển đắng không nguôi nỗi khát thèm
Nên lúc môi ta kề miệng thắm,
Trời ơi, ta muốn uống hồn em (Vô biên)
Với Xuân Diệu, tất cả đều là tình yêu thứ nhất, là mùa xuân đầu:
Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng
Xuân không chỉ ở mùa xuân ba tháng;

Xuân là khi nắng rạng đến tình cờ,
Chim trên cành há mỏ hát ra thơ
Xuân là lúc gió về không định trước (Xuân không mùa)
Sau này, khi đã chiều tà bóng xế, tình yêu trong thơ ông vẫn luôn nồng nàn:
Tôi đã yêu từ khi chưa có tuổi
Lúc chưa sinh, vơ vẩn giữa dòng đời
Tôi sẽ yêu khi đã hết tuổi rồi

Không xương vóc, chỉ huyền hồ bóng dáng (Đa tình)
Cho đến lúc sắp giã biệt cuộc đời, nhà thơ vẫn khao khát:
Hãy để cho tôi được giã từ
Vẫy chào cõi thực để vào hư

Trong hơi thở chót dâng trời đất
Cũng vẫn si tình đến ngất ngư
Thơ tình Xuân Diệu thực sự là thơ tình, tình yêu của những người yêu. Trong “Thơ thơ”
có cái rạo rực thiết tha, nồng cháy, “Gửi hương cho gió” có cái da diết, đằm thắm xen lẫn vị đắng
cay. Vì hướng tới sự giao cảm về phương diện tinh thần và tâm hồn nên tình yêu trong thơ Xuân
Diệu rất mãnh liệt và cũng rất trong sáng, lành mạnh. Xuân Diệu yêu đời tha thiết và khao khát
được đáp lại: Vàhãyyêutôimộtgiờcũngđủ
Một giây cũng cam, một chút cũng đành
Nhưng do không gặp gỡ những tâm hồn đồng điệu, chân thật, nên hầu hết những bài thơ
tình của Xuân Diệu là nỗi đau của một trái tim đắm say, nồng nhiệt mà không được đến đáp
xứng đáng và thường thấm đãm nỗi buồn cùng mặc cảm cô đơn. Có lúc sự thờ ơ, hờ hững của
người đời khiến trái tim thi sĩ không tránh khỏi sự tủi hổ:
Lòng ta là một cơn mưa lũ
Đã gặp lòng em là lá khoai
Mưa biếc tha hồ rơi giọt ngọc
Lá xanh không ướt đến da ngoài
(Nước đổ lá khoai)
Thậm chí, “chết ở trong lòng một ít” bởi:
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu
Cho rất nhiều song chẳng nhận bao nhiêu
Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết (Yêu)
Càng yêu, càng thấy “dại khờ”:
Người ta khổ vì thương không phải cách
Yêu sai duyên, và mến chẳng nhằm người
Có kho vàng, nhưng chẳng tặng tùy nơi
Người ta khổ vì xin không phải chỗ

Ta hiểu vì sao trong thế giơi nghệ thuật của Xuân Diệu, mùa xuân và bình minh đi liền
với những chiều thu và những đêm trăng lạnh, sự nồng nàn đi liền với cảm giác bơ vơ…
Trong tình yêu, Xuân Diệu đã đi đến tận cùng của sự thành thực: thành thực nói lên nỗi
khát tình dằng dặc của đời mình; thành thực can đảm nói lên những mặt trái của tình yêu. Nếu
như trong văn chương truyền thống, nguyên nhân của những mối lương duyên trắc trở là do
khách quan, thì Xuân Diệu thấy nguyên nhân sự phản bội là ở phía chủ quan, đó chính là những
góc khuất trong tâm hồn những đôi tình nhân đang say sưa kia:
Linh hồn ta còn u uẩn hơn đêm,
Ta chưa thấu, nữa là ai thấu rõ
Kiếm mãi, nghi hoài, hay ghen bóng gió
Anh muốn vào dò xét giấc em mơ
Nhưng anh giấu em những mộng không ngờ

Cũng như em giấu những điều quá thực (Xa cách)
Khoảng cách về tâm hồn mới là điều đáng sợ nhất, bởi:
Em là em, anh vẫn cứ là anh
Có thể nào qua Vạn lý trường thành
Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật
Nhưng dù tình yêu có được đền đáp hay không, trái tim yêu của Xuân Diệu vẫn nồng nàn
say đắm, vẫn khát khao gặp gỡ, tâm hồn vẫn “giăng rộng khắp không gian – Để đánh lưới những
duyên hờ mới mẻ”, bởi với thi sĩ của tình yêu, “Tình yêu không tuổi, và xuân không ngày tháng”.
3. Quan niệm thẩm mỹ trong thơ Xuân Diệu:
Trong các nhà thơ hiện đại, Xuân Diệu đã đem lại cho thơ một quan niệm thẩm mỹ hết
sức mới mẻ, góp phần tạo nên một cuộc cách mạng trong thi ca: cuộc đời trần thế là đẹp nhất,
con người – đặc biệt là người thiếu nữ – là tuyệt diệu nhất, là chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp trên đời.
Xuân Diệu chịu ảnh hưởng của trường thơ tượng trưng Pháp. Trường thơ này quan niệm
vũ trụ là một thế giới huyền bí mà mắt thường không nhìn thấy được, cái mà con người nhìn thấy
chỉ là dấu hiệu tượng trưng của bản thể ấy. Vì vậy, các nhà thơ theo trường phái này không chủ
trương miêu tả thế giới rõ rệt, hữu hình mà cố gắng miêu tả những biến thái tinh vi, mong manh,
huyền diệu của vũ trụ, lòng người. Trường thơ tượng trưng đề xướng thuyết tương giao và coi
trọng tính nhạc. Điều này dẫn tới đặc điểm cơ bản của thơ Xuân Diệu: đấy là một thế giới tràn
đầy xuân sắc, xuân tình, mà chuẩn mực của cái đẹp là con người giữa tình yêu tuổi trẻ. Quan
điểm mĩ học mới mẻ này đã khiến thi sĩ sáng tạo được nhiều hình ảnh mới mẻ, độc đáo, đẹp một
cách khỏe khoắn đầy sức sống.
Bài thơ “Vội vàng” được coi là tuyên ngôn về quan niệm sống của Xuân Diệu, một triết lí nhân
sinh được thể hiện bằng hình tượng thơ thấm đẫm cảm xúc. Với Xuân Diệu, cuộc sống trần thế
đầy hấp dẫn, đó là một thiên đường trên mặt đất, một khu vườn tràn đầy xuân sắc, một không
gian tươi thắm tràn ngập lá nõn, hoa thơm, trái ngọt… mà vạn vật ở độ lên hương rực rỡ nhất,
đều say đắm xuân tình: ong bướm như trong tuần tháng mật; hoa phải là hoa của đồng nội xanh
rì; lá phải là lá của cành tơ, chồi biếc; yến oanh rộn rã khúc tình si… Vì vậy, không việc gì phải
tìm kiếm thiên đường ở tận đâu, mà hãy yêu mến, gắn bó tận hưởng hết mình ngay trong cuộc
đời này.Từ quan niệm coi con người là chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp, nhà thơ nhìn trời đất, cỏ cây,
hoa lá, núi sông… đầy vẻ tình tứ:
Hơi gió thở như mặt người yêu mến
Mây đa tình như thi sĩ đời xưa
Thời tiết bốn mùa thì: “Xuân: người ta vì ấm mà cần tình, Thu: người ta vì lạnh sắp đến
mà cũng rất cần đôi; Nắng hạ đốt người một cách cực lạc và tiết đông khỏa vào da thịt làm dây
cả máu xương”. Mùa xuân được thi sĩ hình dung, liên tưởng như làn môi căng mọng của người
thiếu nữ “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” – một câu thơ hay vào loại hiếm thấy trong
lịch sử văn học dân tộc. Xuân Diệu đã khái quát lên thành toàn bộ thế giới xuân tình. Nhìn phấn
thông bay, thi sĩ như thấy ái tình tản mạn, ôm ấp không gian, hoa thì không phân biệt được là hoa
hay là những thiếu nữ đa tình. Biển thì như một người tình say đắm, một trái tim yêu không bao
giờ mệt mỏi… Có thể nói, làm nên những câu thơ đầy cảm xúc, cảm giác ấy, một phần quan
trọng là nhờ cách dùng từ ngữ của Xuân Diệu: độc đáo, táo bạo, có giá trị gợi cảm mạnh mẽ. Tuy
nhiên, thơ Xuân Diệu, về bản chất vẫn kế thừa phát huy cái nhạc điệu riêng, linh hồn riêng của
thơ ca truyền thống. Chính vì vậy, kinh nghiệm Đông và Tây, truyền thống và hiện đại, kết tinh ở
một tâm hồn nghệ sĩ khát khao giao cảm với đời đã giúp Xuân Diệu khám phá được những biến
thái tinh vi của thiên nhiên cũng như của nội tâm con người và thể hiện được trong những vần
thơ “ít lời, nhiều ý, súc tích như đọng lại baoo nhiêu tinh hoa” (Thế Lữ).
4. Nỗi ám ảnh về thời gian trôi chảy:
“Trong các nhà thơ hiện đại, Xuân Diệu là người có năng lực cảm nhận tinh tế bước đi
của thời gian. Có lẽ cũng do lòng yêu tuổi trẻ, muốn ngăn sự già nua tàn tạ, nên nhà thơ luôn
cảnh giác với thời gian và kịp thời báo động với chính mình” (Vũ Quần Phương). Với Xuân
Diệu, thời gian trở thành “nỗi ám ảnh”, thành “kẻ thù đáng gờm”, là “đại lượng tiêu cực, thù địch
với hạnh phúc và tuổi xuân”. Xuân Diệu quan niệm thời gian mang trong lòng nó sự trôi chảy mà
mỗi khoảnh khắc qua đi là mất đi vĩnh viễn:
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già (Vội vàng)
Đây là một quan niệm hết sức mới mẻ, tiến bộ về thời gian – thời gian tuyến tính. Thời
trung đại, với quan niệm thời gian tuần hoàn với chu kì bốn mùa, nên con người rất ung dung,
bình thản trước thời gian:
Sen tàn, cúc lại nở hoa
Sầu dài, ngày ngắn, đông đà sang xuân
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Thời gian trung đại tính theo chiều vĩ mô: ngàn đời, vạn năm, thiên thu… nên chết chưa
phải là hết, còn có kiếp sau. Còn ở thời hiện đại, người ta không yên tâm với điều đó. Đời người
hữu hạn, ngắn ngủi vô cùng, cho nên con người không thể thờ ơ với cuộc sống, không nên lãng
phí thời gian, phải sống năng suất hơn gấp nhiều lần trong cùng một thời gian được sống, hãy
tìm cách đốt cuộc đời mình lên để nói trôi qua thì không phải luyến tiếc. Cho nên, ta bắt gặp
những khoảnh khắc thi sĩ “cảnh giác với thời gian và kịp thời báo động với chính mình”:
Tình thổi gió, màu yêu lên phấp phới
Nhưng đôi ngày, tình mới đã thành xưa…

Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết
Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt (Giục giã)
Ý thức về sự trôi chảy của thời gian cũng là cách không chấp nhận cuộc sống mù tối, vô
danh vô nghĩa, tẻ nhạt, và cội nguồn sâu xa của nó chính là niềm khát khao giao cảm với đời.
Vô cùng nhạy cảm trước sự đổi thay “nổi nênh, xiêu đổ, tan tác” của cuộc đời, Xuân Diệu
luôn nhìn thấy sự đối lập nghiệt ngã giữa thời gian vô tận của vũ trụ và thời gian quá ngắn ngủi
của kiếp người. Càng tha thiết với cuộc đời, ông càng nhìn thấy thời gian trôi với nhịp độ chóng
mặt: “rồi đi”, “cứ thế mà bay” những ngày những tháng.
Thong thả chiều vàng thong thả lại
Rồi đi…đêm xám tới dần dần
Cứ thế mà bay cho đến hết
Những ngày, những tháng, những mùa xuân (Giờ tàn)
Chưa có nhà thơ nào luyến tiếc thời gian đến xót xa như Xuân Diệu, bởi ông ý thức được
rằng thời gian trôi là tuổi trẻ mất và tuổi già đang chờ đón. Do vậy, cảm nhận về sự vận động của
thời gian trong thơ Xuân Diệu xuất phát từ ý thức về sự mất mát. Cùng với ngày tháng trôi qua,
Xuân Diệu chỉ nhìn thấy sự vật đang bị bào mòn, tàn tạ: Hoa nở để mà tàn
Trăng tròn để mà khuyết Bèo hợp để chia tan
Người gần để li biệt

Hoa kia không nắng cũng phai màu
Trên mặt người kia in nỗi đau
(Hoa nở để mà tàn)
Đằng sau một loạt những “vội vàng”, “giục giã”, “mau với chứ”, “gấp đi em”… ta hình
dung ra điệu bộ cuống cuồng của thi nhân cùng nỗi ám ảnh lo sợ: muộn màng, không kịp, lỡ làng,
lỡ thì… Nhưng vốn là người ham sống, Xuân Diệu không cam lòng chịu để cho ngày tháng trôi
qua trong mòn mỏi, vô vị, ông tìm cách chống đỡ, ngăn cản không cho thời gian cướp đi những
lạc thú của tuổi trẻ, tình yêu.
Có thể nói rằng, với Xuân Diệu, thời gian là một chất xúc tác đặc biệt tạo nên những
luồng rung động đặc biệt trong cảm hứng sáng tạo, thôi thúc thi sĩ viết nên những câu thơ vừa có
sức khái quát, vừa sinh động gợi cảm.
5. Xuân Diệu là nhà thơ rất có ý thức khẳng định cái “tôi” cá nhân.
Thơ ca muôn đời vẫn là sự bộc lộ cảm xúc của chủ thể sáng tạo trước con người và tạo
vật. Song nếu như trong thơ ca trung đại, quan niệm “thi dĩ ngôn chí”, “văn dĩ tải đạo” đã lấn át
cái bản ngã thì Thơ mới ra đời đồng nghĩa với sự khẳng định cái “tôi” cá nhân. “Ngày thứ nhất,
ai biết đích ngày nào, chữ “tôi” xuất hiện trong thi đàn Việt Nam. Nó thực sự bỡ ngỡ như lạc
long nơi đất khách bởi nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này: quan niệm cá nhân” (Hoài Thanh).
Xuân Diệu là một nhà Thơ mới tiêu biểu nhất, vì thế rất có ý thức khẳng định cái “tôi”
của mình. Không phải ngẫu nhiên ông được coi là người phát ngôn đầy đủ nhất cho tư tưởng cá
nhân của phong trào Thơ mới. Với Xuân Diệu, cái “tôi” cá nhân được ý thức sâu sắc khi lần đầu
tiên trên thi đàn, cái “tôi” tiểu tư sản mạnh dạn bày tỏ những tâm tư thầm kín, những xúc cảm
yêu đương tuôn trào, những khát vọng được hưởng thụ không dứt, không nguôi hoa thơm trái
ngọt của cuộc đời trần thế. Vì thế, Xuân Diệu không chỉ hoàn toàn mới lạ so với các thế hệ trước
mà còn mới lạ so với các nhà thơ cùng thời. Chỉ có Xuân Diệu mới có đủ độ nồng nàn say đắm
nhất của chủ nghĩa lãng mạn phương Tây, với một cách cảm nghĩ nói năng rất phương Tây và
một triết lí hưởng thụ cũng rất phương Tây:
Hái một mùa hoa lá thuở măng tơ
Đốt muôn nến sánh mặt trời chói lọi
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm (Giục giã)
Thơ mới là thơ của cái “tôi”, viết về cái “tôi”, nhưng chỉ với Xuân Diệu, sự tồn tại của cái
“tôi” mới được đẩy lên với ý nghĩa tuyệt đối của nó. Thơ ông tràn ngập chữ “tôi”, nó được khai
thác và biểu hiện ở nhiều cấp độ khác nhau. Nó có thể là sự phô diễn bức chân dung tự họa của
nhà thơ, nhiều khi nhỏ bé, yếu đuối:
Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ
Mà vạn vật là muôn đá nam châm
(Cảm xúc)
Tôi là con chim đến từ núi lạ (Lờithơvàotập“Gửihương”)
Tôi là con nai bị chiều đánh lưới
Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối
(Khi chiều giăng lưới)
Tôi là kẻ qua sa mạc
Nhưng cũng có lúc cái “tôi” ấy trở nên mạnh mẽ, quyết liệt:
Tôi là một kẻ điên cuồngYêu những ái tình ngây dại (Thở than)
Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời (Hưvô)
Cũng có thể là sự bộc lộ đến tận cùng khát vọng khi thi nhân xoáy vào bên trong chiều
sâu tâm hồn mình. Đằng sau cái “tôi” trữ tình đứng ở ngôi thứ nhất là một hệ thống những động
từ chỉ hành động và tư thế cảm xúc rất Xuân Diệu : Đó là ý thức chiếm lĩnh hương sắc cuộc đời
(nắng, gió, không chờ nắng hạ mới hoài xuân…), hoặc lúc không còn tự chủ được nữa: “Tất cả
tôi run rẩy tựa dây đàn”, “tôi run như lá, tái như đông”. Rồi tôi nhớ; tôi buồn; tôi đã yêu; tôi sung
sướng; tôi sẽ chết… Tuy nhiên, khẳng định cái “tôi” tích cực, cái “tôi” thấm đẫm màu sắc cá thể
trong thơ Xuân Diệu không chỉ căn cứ vào tần số xuất hiện của chữ “tôi” hoặc vào sự đề cao quá
đáng của bản ngã cá nhân thành đỉnh Hi Mã Lạp Sơn ngất ngưởng, mà cơ sở chính của nó là sự
thành thật của xúc cảm.
Thơ Xuân Diệu là niềm khát sống, khát yêu đến cuồng nhiệt. Con người ấy muốn uống
cạn, một cách vồ vập “cái li tràn đầy sự sống”. Trong thơ Xuân Diệu, toát lên một nhu cầu mãnh
liệt: được cảm thông. Con người rất có ý thức về bản ngã ấy không phải là cái “tôi” khép kín mà
là cái “tôi” luôn phơi trải, luôn mở ra trước cuộc đời, là một tâm hồn khao khát tìm gặp những
tâm hồn. Với Xuân Diệu, dù vui hay buồn, sung sướng hay đau khổ, hi vọng hay thất vọng…
nghĩa là tất cả những rung động tinh vi của đời sống tâm hồn đều được Xuân Diệu thành thật bày
tỏ. Sự chân thực của tình cảm là một phẩm chất tiêu biểu của thơ trữ tình nói chung, đến trào lưu
Thơ mới được chú trọng khai thác và mở thêm nhiều ngóc ngách, phức tạp, tinh vi hơn để làm
phong phú thêm khả năng tự biểu hiện và sức mạnh hướng nội của thơ. Dù ở phương diện nào, ta
đều thấy ở hồn thơ Xuân Diệu những phẩm chất nổi bật tiêu biểu cho khát vọng được khẳng định
cái “tôi” như một tâm điểm nghệ thuật của thơ lãng mạn 1932-1945.
Sinh thời, Xuân Diệu vẫn tìm đến sự giao cảm với cuộc đời bằng thơ, bằng tâm hồn của
một nhà thơ thiết tha yêu sự sống. Sự nghiệp mà ông để lại là một di sản thơ vô giá mà từng ý
thơ, từng lời thơ vẫn tiếp tục nảy sinh, đánh thức dậy niềm vui, nỗi buồn và bao xôn xao trong
lòng tuổi trẻ hôm nay. Ở giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu được coi là gương
mặt tiêu biểu nhất của trào lưu thơ ca lãng mạn; là nhà thơ “mới nhất” trong các nhà Thơ mới.
Ông đã mang đến cho thi đàn Việt Nam một nguồn cảm hứng yêu đời dào dạt, một luồng rung
động mới mẻ trước tình yêu, một nhịp sống hoàn toàn mới lạ và một cái tôi giàu bản sắc. Ông
cũng là người tìm ra nhiều kiểu cấu trúc hiện đại cho câu thơ Việt Nam và làm phong phú thêm
hình thức thơ bằng những hình ảnh độc đáo và những nét nhạc điệu tân kì. Có thể nói, sự cộng
hưởng giữa khát vọng sống và khát vọng đổi mới thơ ca là nguồn động lực thúc đẩy mọi sự tìm
tòi sáng tạo và tạo ra sức mạnh cảm hóa đặc biệt của thơ Xuân Diệu trước Cách mạng Tháng
Tám. Với nửa thế kỉ hành trình sáng tạo, Xuân Diệu đã để lại cho các thế hệ độc giả và nhất là
những người cầm bút bài học thấm thía về tài năng và bản lĩnh thi sĩ. Con đường đi của Xuân
Diệu từ một nhà thơ lãng mạn thành một nhà thơ Cách mạng là con đường tiêu biểu cho thế hệ
Thơ mới 1932-1945. Ở cả hai chặng đường ấy, Xuân Diệu đều có những cống hiến hết sức to lớn.
Vị trí của ông trên văn đàn dân tộc là một vị trí không ai có thể thay thế được. Cùng với khát
vọng sống thiết tha sôi nổi, thơ Xuân Diệu sẽ tiếp tục hành trình trong cuộc sống hôm nay và mai sau.
Document Outline

  • Phong cách nghệ thuật thơ Xuân Diệu trước CMT8 194
  • 1.Xuân Diệu – Một cây bút sáng tác bền bỉ:
  • 2.Xuân Diệu – Nhà thơ của tình yêu:
  • (Phải nói)
  • (Xuân không mùa)
  • (Vì sao)
  • (Tương tư chiều)
  • (Vô biên)
  • (Xuân không mùa)
  • (Đa tình)
  • (Nước đổ lá khoai)
  • (Yêu)
  • (Xa cách)
  • 3.Quan niệm thẩm mỹ trong thơ Xuân Diệu:
  • 4.Nỗi ám ảnh về thời gian trôi chảy:
  • (Vội vàng)
  • (Truyện Kiều – Nguyễn Du)
  • (Giục giã)
  • (Giờ tàn)
  • (Hoa nở để mà tàn)
  • 5.Xuân Diệu là nhà thơ rất có ý thức khẳng định cái
  • (Giục giã)
  • (Cảm xúc)
  • (Lời thơ vào tập “Gửi hương”)
  • (Khi chiều giăng lưới)
  • (Thở than)
  • (Hư vô)