



















Preview text:
PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG Phò vua giúp nước
1. Phong trào Cần Vương là gì ? Hoàn cảnh ra đời chiếu Cần Vương ?
- Cần Vương là giúp vua, mang nghĩa là phò vua giúp nước. Phong trào Cần
Vương thực chất là tập hợp hệ thống các cuộc khởi nghĩa vũ trang khắp cả
nước từ năm 1885 đến năm 1896 với sự hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua
Hàm Nghi. Quy mô của phong trào này còn riêng rẽ và mang tính địa phương.
Ngoài ra phong trào còn nhằm giành lại quyền tự chủ cho triều đình, tái lập
lại 1 triều đình phong kiến độc lập, tự chủ, cũng như lấy lại niềm tin của nhân
dân về hình ảnh triều nhà Nguyễn. - Hoàn cảnh:
Sau Hiệp ước Hácmăng 1883 và Hiệp ước Patơnốt 1884, thực dân Pháp bắt
đầu thiết lập chế độ bảo hộ lên Bắc kì và Trung kì.
Mặc dù Pháp cơ bản hoàn thành việc xâm lược Việt Nam nhưng phong trào
kháng chiến của nhân dân ta vẫn tiếp tục diễn ra. Đây chính là cơ sở để phe
chủ chiến mà đại diện là Tôn Thất Thuyết tiếp tục nuôi hy vọng khôi phục lại
chủ quyền nếu có thời cơ.
Dựa vào sự ủng hộ của các quan lại chủ chiến và quần chúng nhân dân, Tôn
Thất Thuyết ra sức xây dựng lực lượng, căn cứ ở miền rừng núi Quảng Trị,
Quảng Bình, Hà Tĩnh,…, thẳng tay trừ khử những người có tư tưởng thân
Pháp, đưa vua Hàm Nghi lên ngôi.
Những hành động của phe chủ chiến nhằm chuẩn bị cho một cuộc nổi dậy
chống Pháp giành chủ quyền khiến Pháp hết sức lo ngại
Thực dân Pháp âm mưu tiêu diệt Tôn Thất Thuyết cùng phe chủ chiến, trước
sự uy hiếp của Pháp Tôn Thất Thuyết cùng phe chủ chiến quyết định phải ra tay trước.
Đêm 4 rạng 5 – 7 – 1885, Tôn Thất Thuyết hạ lệnh cho quân triều đình tấn
công Pháp ở toà Khâm sứ và đồn Mang Cá. Quân Pháp phản công kinh thành
Huế. Quân của Tôn Thất Thuyết thất bại buộc phải đưa vua Hàm Nghi cùng
đoàn tùy tùng rút khỏi kinh thành lên Sơn Phòng, Tân Sở ( Quảng Trị )
Ngày 13 – 7 – 1885, Tôn Thất Thuyết đã lấy danh nghĩa Hàm Nghi xuống
chiếu Cần vương, kêu gọi nhân dân giúp vua cứu nước.
2. Nguyên nhân bùng nổ phong trào cần vương là:
2.1. Nguyên nhân sâu xa:
- Sau khi ký hết hai hiệp ước Hắc- măng và Pa-tơ- nốt, Pháp đã hoàn thành cơ
bản về cuộc xâm lược Việt Nam, lấn chiếm sâu vào các khu trung tâm căn cứ,
kinh tế, chính trị và thiết lập chế độ ở Bắc Kì và Trung Kì, nhân dân bị bóc
lột tàn bạo, lòng căm phẫn lên tới đỉnh cao, dẫn đến mâu thuẫn giữa nhân Việt
Nam với thực dân Pháp càng thêm sâu sắc. Nhân dân ta không chịu khuất
phục trước kẻ thù nên đã tham gia vào phong trào kháng chiến chống Pháp.
2.2. Nguyên nhân trực tiếp:
- Dựa vào phong trào kháng chiến của nhân dân, phe chủ chiến trong triều đình
Huế mà đứng đầu là Tôn Thất Thuyết đã mạnh tay hành động, phế bỏ ông vua
thân pháp, đưa vua Hàm Nghi còn nhỏ tuổi lên ngôi, bí mật xây dựng sơn
phòng, tích trữ lương thảo và vũ khí để chiến đấu.
- Pháp tìm mọi cách phá hoại hành động của phái chủ chiến chính vì vậy Tôn
Thất Thuyết đã ra lệnh ra tay trước. Đêm ngày 4/7 rạng sáng ngày 5/7/1885
khi quân Pháp đang tận hưởng yến tiệc bên kia sông Hương, Tôn Thất Thuyết
đã ra lệnh cho tấn công Tòa Khâm sứ và Đồn Mang Cá. ( Đây là lần đầu tiên
và duy nhất triều đình Huế chủ động tấn công vào quân Pháp )
- Ban đầu với việc bị động nên quân Pháp hơi hoang mang nhưng sau đó chúng
lấy lại tinh thần và phản công quyết liệt.
- Cuộc phản công của phái chủ chiến thất bại khiến vua Hàm Nghi phải chạy
đến Tân Sở - Quảng Trị sơ tán. Tại đây Tôn Thất Thuyết đã nhân danh vua
Hàm Nghi ra chiếu Cần Vương lần thứ nhất.
- Chiếu Cần Vương lần 2 được ban ra tại Ấu Sơn – Hà Tĩnh vào ngày 20/9/1885.
Phong trào kháng chiến bùng nổ mạnh mẽ. Cuộc phản công kinh thành
Huế thất bại, Tôn Thất Thuyết lấy danh vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần
Vương là nguyên nhân trực tiếp làm bùng nổ phong trào Cần Vương.
3. Nội dung cơ bản chiếu Cần Vương
- Tố cáo âm mưu xâm lược nước ta của thực dân Pháp.
- Lên án sự phản bội của một số quan lại triều đình cũng như tính bất hợp
pháp của triều đình Đồng Khánh (do thực dân Pháp mới dựng lên).
- Khích lệ các văn thân, sĩ phu cùng toàn thể nhân dân cả nước quyết tâm
kháng chiến chống thực dân Pháp đến cùng.
- Chiếu Cần vương kêu gọi các văn thân, sĩ phu cùng toàn thể nhân dân góp
sức giúp vua chống Pháp, giành lại nền độc lập dân tộc, lập lại chế độ
phong kiến có vua tài đức vẹn toàn. 4. Diễn biến 4.1. Giai đoạn 1:
Phần 1: Từ năm 1885- đến vua Hàm nghi rút về cố thủ Ấu Sơn ( Hà Tĩnh )
- Giai đoạn từ 1885 đến vua Hàm Nghi rút về cố thủ Ấu Sơn (Hà Tĩnh).
Hưởng ứng chiếu Cần Vương, nhiều văn thân sĩ phu và nhân dân yêu nước đã
hưởng ứng qua việc tập hợp các nghĩa binh, xây dựng lên căn cứ. Họ cùng
nhau đấu tranh mạnh mẽ đầy quyết liệt trước thực dân Pháp cùng bè lũ tay sai
trên đại bàn rộng lớn thuộc Bắc và Trung Bộ.
Nhiều tướng lĩnh và văn thân tham gia như Phan Đình Phùng, Trần Xuân
Soạn, Phạm Bành, Mai Xuân Thưởng…
Triều đình Hàm Nghi với sự phò tá trợ giúp của Tôn Thất Đàm và Tôn Thất
Tiệp (vốn là hai người con của Tôn Thát Thuyết). Dưới sự đàn áp của thực
dân Pháp, vua Hàm Nghi đã rút lui và chiến đấu ở vùng núi Quảng Bình, sau về Ấu Sơn (Hà Tĩnh).
Phần 2: Từ 6/1886 -1888
Tháng 6/1886, Triều đình Đồng Khánh của thực dân Pháp theo lệnh toàn
quyền Pháp xuống dụ kêu hàng. Thế nhưng, không ai trong triều đình Hàm
Nghi chịu đầu hàng buông súng.
Trong giai đoạn này, các cuộc đấu tranh chỉ dừng lại ở phạm vi nhất định, còn
riêng lẻ . Chưa bao giờ cả nước ta lại có nhiều cuộc khởi nghĩa đến như thế
dưới ngọn cờ Cần Vương. Trong giai đoạn đầu này, phong trào Cần Vương
trải rộng từ địa bàn trung tâm ra Bắc và Nam Kỳ. Ở Trung Kỳ, trước hết là
Quảng Bình với Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân ; Quảng Nam là Trần Quang
Dự, Nguyễn Hàm, Nguyễn Duy Hiệu; Quảng Ngãi là Lê Trung Đình; Bình
Định là Mai Xuân Thưởng.
Bắc Kỳ cũng có nhiều cuộc khởi nghĩa quan trọng như Đốc Tít ở Đông Triều,
Cai Kinh ở Bắc Giang, Nguyễn Quang Bích ở Tây Bắc. Đặc biệt, xứ Bắc Kỳ
cũng đang hình thành những cuộc khởi nghĩa có sức chiến đấu mạnh mẽ, có
tiếng vang như Tạ Hiện ở Thái Bình, Nam Định; Nguyễn Thiện Thuật ở Hưng
Yên, Hải Dương; Phạm Bành, Đinh Công Tráng ở Thanh Hóa; Lê Ninh, Phan
Đình Phùng Hương Khê (Hà Tĩnh). .
Năm 1886, Phạm Bành và Đinh Công Tráng chỉ huy xây dựng cứ điểm Ba Đình.
Nghĩa quân nhiều lần ngăn chặn binh đoàn vận tải của địch và tập kích địch trên đường hành quân.
Cuộc khởi nghĩa Ba Đình bắt đầu diễn ra ác liệt từ tháng 12/1886 đến tháng
02/1887. Tháng 12/1886, Pháp cho 500 quân tấn công vào căn cứ Ba Đình
nhưng thất bại. Tháng 01/1887, quân Pháp gồm 2500 người với pháo binh
yểm trợ bao vây cứ điểm Ba Đình. Các nghĩa quân đã chiến đấu liên tục 34
ngày đêm khi Pháp mở cuộc tấn công quy mô vào căn cứ Ba Đình.
Để kết thúc cuộc vây hãm, các tướng sĩ phái cảm tử đốt bọn thực dân cùng
các lũy tre, xóa tên ba làng của căn cứ trên bản đồ hành chính.
Nghĩa quân mở đường máu để toàn quân rút lên miền Tây Thanh Hóa cầm cự.
Cuộc khởi nghĩa tiếp tục thêm được một thời gian rồi dần dần tan rã vào giữa năm 1887.
Cuối năm 1888, do sự phản bội của Trương Quang Ngọc nên vua Hàm Nghi
bị bắt và đày đi Angieri. Phong trào Cần Vương giai đoạn thứ nhất kết thúc.
Khởi nghĩa Hương Khê -
Khởi nghĩa Hương Khê ( 1885 - 1896 ) là đỉnh cao của phong trào Cần Vương
và thất bại của công cuộc này cũng đã đánh dấu sự kết thúc sứ mạng lãnh đạo
10 năm chông thực dân Pháp của tầng lớp sĩ phu phong kiến Việt Nam. -
Lãnh đạo: Phan Đình Phùng và Cao Thắng -
Căn cứ: Ngàn Trươi ( xã Vụ Quang, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh). -
Hoạt động trên địa bàn rộng gồm 4 tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình -
Cuộc khởi nghĩa Hương Khê có thể chia thành hai giai đoạn chính trong thời
hoạt động, cụ thể như sau:
- Giai đoạn I: ( 1885 - 1888 ): Nghĩa quân tập trung chuẩn bị và xây dựng lực lượng
- Giai đoạn II: ( 1889 - 1896 ): Thời kì chiến đấu quyết liệt và hết mình của nghĩa quân - Giai đoạn I: ( 1885 -1888 )
Đầu năm 1887, Phó tướng Cao Thắng nhận trách nhiệm chỉ huy, Phan
Đình Phùng ra Bắc tập kết lực lượng khi nhận thấy lực lượng nghĩa quân suy yếu.
Giai đoạn này cuộc khởi nghĩa Hương Khê chủ yếu tập trung chiêu tập
binh sĩ, huấn luyện nghĩa quân, trang bị vũ khí cùng với việc củng cố
căn cứ ở vùng rừng núi.
Nghĩa quân chế tạo súng trường theo mẫu Pháp. -
Giai đoạn II: ( 1889 - 1896 )
Lãnh đạo Phan Đình Phùng từ Bắc Kì trở về trong tháng 9 năm 1889
Cuộc khởi nghĩa Hương Khê lúc này đã có khoảng ngàn lính. Nhờ Cao
Thánh chỉ huy mà lúc này đã có 500 khẩu súng tốt. Nhận thấy công
cuộc khởi nghĩa đã được chuẩn bị chu đáo, Phan Đình Phùng quyết định
mở rộng đại bàn khắp bốn tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, Quảng Bình và Hà Tĩnh.
Làm cản trở quá trình thôn tính và đàn áp nhân dân ta của thực dân Pháp.
Đối phó hành động này, quân Pháp bố trí nhiều đồn lẻ phong tỏa khu
vực nhằm cản trở hoạt động của nghĩa quân Hương Khê. Chỉ tính riêng
ở Hương Khê đã có 20 đồn với 30 lính canh tại mỗi đồn.
Quân Pháp bị đánh trả, tập kích suốt một vùng rộng lớn từ Nghi Lộc,
Thanh Chương đến Diễn Châu, Yên Thành. Cuộc khởi nghĩa Hương
Khê trong giai đoạn này đã tổ chức được 28 trận lớn nhỏ.
Từ năm 1889 , nghĩa quân Hương Khê liên tục mở các cuộc tập kích
đẩy lùi nhiều trận càn quét,đồng thời cũng chủ động tấn công với nhiều
trận thắng như trận công đồn Trường Lưu vào tháng 5/1890, trận tập
kích tại thị xã Hà Tĩnh vào tháng 8/1892
Sau nhiều thất bại, đầu năm 1892 thực dân Pháp mở nhiều cuộc càn
quét, đặc biệt là trận càn quét vào khu Hói Tùng và Ngàn Sâu vốn là
căn cứ của tướng Cao Thắng.
Nghĩa quân tiến đánh đồn Trung Lễ vào ngày 7/3/1982. Nguyễn Hữu
Thuận tiến đánh huyện Thanh Hà và bắt sống tri huyện, còn Cao Thắng
cho quân giả lính khổ xanh bắt sống Đinh Nho Quang.
Nguyễn Hữu Thành đã chỉ huy nghĩa quân Hương Khê đánh phá nhà
lao và giải cứu được hơn 70 nghĩa sĩ bị cầm tù vào 23/8/1892
Tháng 11/1893, Cao Thắng cùng 1.000 quân tấn công vào Nghệ An,
tuy nhiên Cao Thắng bị thương rồi hi sinh gây tổn thất lớn cho nghĩa
quân. Lợi dụng cơ hội này, quân Pháp siết chặt vọng vây, nghĩa quân
đã cố gắng đánh trả nhưng thế lực suy yếu dần.
Ngày 17/10/1894, nghĩa quân giành thắng lợi ở trận chiến ở núi Vụ Quang.
Ngày 28/12/1895, Phan Đình Phùng bị thương nặng rồi hy sinh.
Những thủ lĩnh cuối cùng một phần bị tử trận, phần không chịu được
quá lâu nơi rừng sâu nước độc hoặc bị bắt rồi giết.
Đến đây, khởi nghĩa Hương Khê tan rã
Kết quả: cuộc khởi nghĩa thất bại.
- Lãnh đạo: Phan Đình Phùng và Cao Thắng
- Căn cứ: Ngàn Trươi ( xã Vụ Quang, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh ).
- Hoạt động trên địa bàn gồm 4 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình.
- Diễn biến: Hai giai đoạn
Từ năm 1885 - 1888: nghĩa quân lo tổ chức, huẩn luyện, xây dựng công
sự, rèn đúc vũ khí và tích trữ lương thảo.
Từ năm 1888 đến 1895: là thời kì chiến đấu của nghĩa quân. Dựa vào
vùng rừng núi hiểm trở, có sự chỉ huy thống nhát, nghĩa quân đã đẩy
lui nhiều cuộc hành quân và càn quét của giặc.
Để đối phó Pháp tập trung binh lực và xây dựng 1 hệ thống đồn, bốt
nhằm bao vây, cô lập nghĩa quân. Đồng thời chúng mở nhiều cuộc tấn
công quy mô vào Ngàn Trươi
Nghĩa quân phải chiến đấu trong điều kiện ngày càng gian khổ hơn,
lực lượng suy yếu dần.
Sau khi chủ tướng Phan Đình Phùng hi sinh, cuộc khởi nghĩa được duy
trì thêm một thời gian rồi tan rã.
Kết quả: Cuộc khởi nghĩa thất bại
Khởi nghĩa Hùng Lĩnh
- Nguyên nhân: Sau khi đưa vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị),
13/7/1885 Tôn Thất Thuyết đã nhân danh vua Hàm Nghi ra " chiếu Cần
Vương ". Theo lời kêu gọi, một phong trào yêu nước chống Pháp dưới danh
nghĩa "Cần Vương" đã diễn ra rất sôi nổi ở Trung kỳ và Bắc kỳ. Một trong
các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu là khởi nghĩa Hùng Lĩnh.
- Người lãnh đạo: chủ yếu do Tống Duy Tân và Cao Bá Điển lãnh đạo.
- Nơi bùng nổ: làng Bồng Trung, ở gần núi Hùng Lĩnh (tỉnh Thanh Hoá). - Diễn biến:
Tháng 1 năm 1887, khởi nghĩa Ba Đình thất thủ, tức tốc Tống Duy Tân ra Bắc
vận động phong trào Văn Thân phối hợp ủng hộ phong trào chống Pháp ở
Thanh Hóa. Trong những năm sau, ông đã chỉ đạo cả hoạt động của nghĩa
quân sông Đà (thời kỳ này nghĩa quân Hùng Lĩnh tạm phân tán), ông đã liên
hệ với Đề Kiều, Đốc Ngữ, hoạt động ở vùng Hưng Hóa, Sơn Tây để ủng hộ
phong trào Thanh Hóa và nghĩa quân Hùng Lĩnh. Đối với địa bàn miền Trung,
ông đã liên hệ với nghĩa quân Phan Đình Phùng ở Hương Khê, Hà Tĩnh, vươn
xa hơn ông còn liên hệ với phong trào nông dân khởi nghĩa ở Yên Thế, Bắc
Giang do Đề Thám lãnh đạo.
Năm 1889-1890, dù Ba Đình, Mã Cao thất thủ, nghĩa quân Hùng Lĩnh vẫn tồn
tại ở Bồng Trung, Đa Bút và ngày càng được củng cố trở thành lực lượng
chiến đấu mạnh nhất ở Thanh Hóa, nối liền giữa phong trào miền xuôi với
miền núi. Dưới sự lãnh đạo của Tống Duy Tân và Cao Bá Điển, nghĩa quân
Hùng Lĩnh cơ động linh hoạt như đánh mai phục sâu hoặc chống trả khi bị bao vây.
Từ năm 1889- 1892, nghĩa quân Hùng Lĩnh đã chiến đấu trên địa bàn rộng lớn
từ Thọ Xuân sang Nông Cống, Thiệu Hóa đến Yên Định, Bồng Trung, Đa
Bút, Vĩnh Lộc và vùng núi Thường Xuân, Ngọc Lặc, Lang Chánh. Từ tháng
2 đến tháng 4/1891, nghĩa quân bị bao vây và liên tiếp bị thất bại trong nhiều trận.
Trong tình thế giặc đông, vũ khí đầy đủ luôn được tăng lực lượng, nghĩa quân
ngày càng khó khăn vì lương thực, vũ khí đạn dược thiếu. Tống Duy Tân bàn
với Cao Bá Điển cùng các tướng sĩ đã phân tán lực lượng về các địa phương,
chỉ để một lực lượng nhỏ bền vững sang trấn Quan Hóa, Mường Kỷ, tức là
Nhâm Kỷ ngày nay thuộc hai xã Kỳ Tân và Văn Nho, huyện Bá Thước. Tháng
5-1892, nghĩa quân phối hợp vối lực lượng nghĩa quân sông Đà do Đốc Ngữ
lãnh đạo tiến sang tấn công quân Pháp làm nên chiến thắng vẻ vang Mường Kỷ.
Giặc Pháp tuy có bị tổn thất qua các cuộc giao chiến với nghĩa quân Hùng
Lĩnh nhưng luôn được tăng quân, chúng quyết tâm cô lập tiêu diệt nghĩa quân.
Sau khi nghĩa quân sông Đà rút đi, lực lượng nghĩa quân suy yếu. Để tránh sự
lùng sục của quân thù, Tống Duy Tân đã về ẩn ở Hang Dong thuộc tổng Thiết
Ống (Quan Hóa, nay là huyện Bá Thước) và cuối cùng sáng ngày 5-10-1892
đã bị thực dân Pháp bắt giữ.
Kẻ thù tìm mọi cách mua chuộc, ông không màng danh lợi, cương quyết
không khuất phục trước kẻ thù. Chúng đã nhốt ông vào trong cũi giải về tỉnh
lỵ. Thất bại trước ý chí bất khuất, lòng yêu nước của Tống Duy Tân, ngày 15-
10-1892 giặc Pháp đã đem ông ra xử chém tại thị xã Thanh Hóa. Cuộc khởi
nghĩa Hùng Lĩnh cũng được coi như kết thúc.
5. Khởi nghĩa Bãi Sậy
- Lãnh đạo: Nguyễn Thiện Thuật
- Địa bàn hoạt động: Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Thái Bình. - Nguyên nhân
Năm 1885, khi quân đội triều đình nổi dậy tấn công quân Pháp ở kinh đô Huế nhưng
không thành công. Vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phải lánh vào Tân Sở thuộc
tỉnh Quảng Trị. Tại đây, Tôn Thất Thuyết đã mượn danh vua Hàm Nghi để ra chiếu
Cần Vương kêu gọi người Việt nổi dậy chống Pháp giúp vua.
Hưởng ứng lời kêu gọi này, nhiều cuộc nổi dậy đã nổ ra, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa
Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo. - Diễn biến
Địa bàn hoạt động của khởi nghĩa Bãi Sậy thuộc các huyện Văn Lâm, Văn Giang,
Khoái Châu (tỉnh Hưng Yên) và Kinh Môn (Hải Dương). Sau đó, cuộc khởi nghĩa
lan rộng ra các tỉnh lân cận như Bắc Ninh. Thái Bình, Nam Định… Người lãnh đạo
cuộc khởi nghĩa là Nguyễn Thiện Thuật.
Trong những năm 1885 – 1889, nhiều trận chiến ác liệt đã xảy ra giữa nghĩa quân và quân Pháp.
Sau những trận đánh quân xâm lược, nghĩa quân bị suy giảm và bị bao vây. Đến
cuối năm 1889, nghĩa quân tan rã dần. - Ý nghĩa
Bên cạnh nguyên nhân và diễn biến của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy thì ý nghĩa và bài
học kinh nghiệm của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy cũng là câu hỏi được nhiều người
quan tâm, dưới đây là những ý nghĩa mà cuộc khởi nghĩa này mang lại như:
Cuộc khởi nghĩa này đã tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của ông cha ta,
cổ vũ nhân dân ta tiếp tục đấu tranh.
Ngoài ra, cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy còn để lại nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích, nhất
là phương thức hoạt động và hình thức chiến tranh du kích trong vùng đồng bằng
chật hẹp, dân cư đông đúc. - Tính chất
Khởi nghĩa Bãi Sậy là cuộc khởi nghĩa dưới cờ của chế độ phong kiến
Khởi nghĩa Bãi Sậy áp dụng chiến thuật du kích, dựa vào sự ủng hộ của nhân dân,
ẩn nấp, lộ diện, đánh sập trại lính Pháp trên đường Hà Nội – Hưng Yên – Hải Dương,
hoặc dựa vào địa hình lầy lội. Cây lau sậy um tùm dễ rút lui khỏi căn cứ để đánh Pháp…
Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883 – 1892) được coi là một trong những cuộc nổi dậy tiêu
biểu nhất của nhân dân đồng bằng Bắc Kỳ cuối thế kỷ XIX. Tuy không giành được
thắng lợi nhưng cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm, nhất
là về phương thức hoạt động và hình thức chiến đấu cho cách mạng của nhân dân ta trong thời kỳ sau này
6. Nguyên nhân thất bại của phong trào cần vương:
6.1. Nguyên nhân khách quan:
Thực dân pháp còn mạnh, quân pháp có trình độ phát triển khoa học-kĩ thuật cao, có
đội quân lành nghề hùng hậu, vũ khí hiện đại…
Thực dân Pháp đã thiết lập được bộ máy cai trị ở Việt Nam dùng cảnh sát, nhà tù,
liên kết với các thế lực phong kiến đầu hàng để đàn áp.
6.2. Nguyên nhân chủ quan: Vũ khí
Với vũ khí tự túc, thô sơ, quân Cần Vương khó mà đối đầu với vũ khí hiện đại của quân đội Pháp.
Lực lượng chênh lệch
Lực lượng của phong trào Cần Vương quá chênh lệch so với đội quân hùng mạnh
của Pháp. Hạn chế về vũ khí, chiến thuật. Chưa được đào tạo chuyên sâu, thiếu kinh nghiệm tác chiến.
Các cuộc khởi nghĩa dựa vào địa thế hiểm yếu để xây dựng căn cứ vững chắc nhưng
vẫn còn nặng nề về thủ hiểm nên dễ bị bao vây, cô lập, chiến thuật đánh du kích
là chủ yếu nhưng về lâu dài không tạo được bước phát triển mang tính đột phá. Họ
chỉ có thể tấn công vào những chỗ yếu, sơ hở của địch; không đủ khả năng thực
hiện chiến tranh trực diện với lực lượng của địch.
Vai trò lãnh đạo thuộc về văn thân sĩ phu yêu nước hoặc nông dân, chưa xuất hiện giai cấp tiến bộ
Thiếu sự tổ chức, lãnh đạo thống nhất, đoàn kết chặt chẽ. Mặc dù giai đoạn đầu có
sự lãnh đạo của triều đình kháng chiến nhưng chưa thực sự mạnh mẽ thống nhất.
Tinh thần chiến đấu thiếu kiên định:
Ngoại trừ một số thủ lĩnh có tinh thần chiến đấu đến cùng và hi sinh vì nước, không
ít thủ lĩnh quân khởi nghĩa nhanh chóng buông vũ khí đầu hàng khi tương quan lực
lượng bắt đầu bất lợi. Vì vậy mới khiến phong trào nhanh chóng suy yếu và tan rã.
Tính chất cục bộ địa phương
Hệ thống chính quyền từ trung ương đến địa phương không có. Do đó phong trào
tuy diễn ra rầm rộ trên cả nước với hàng trăm cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ nhưng các
cuộc khởi nghĩa ấy chỉ mang tính chất cục bộ địa phương nên không phát huy được
sức mạnh đoàn kết thống nhất toàn dân tộc chống pháp.
Thiếu sự quy tụ, sự tổ chức và đường lối lãnh đạo thống nhất, đoàn kết chặt chẽ
Phong trào Cần Vương vẫn chưa hội tụ và tập hợp được thành một khối thống nhất;
chưa huy động được sức mạnh toàn dân, chưa có sự kết hợp khởi nghĩa vũ trang
trên khắp cả nước, chưa có phương hướng hoạt động cũng như đường lối chiến
lược rõ ràng, đúng đắn đủ mạnh để chống Pháp. Quan hệ với nhân dân
Các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương không lấy được sự tin tưởng của
đông đảo nhân dân, một bộ phận quần chúng không ủng hộ
Điều kiện chiến đấu gian khổ: thiếu lương thực,…
Chiếu Cần Vương chưa đủ uy tín
Hạn chế về đường lối, hệ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời
Một lí do nữa đó là phong trào nổ ra trong điều kiện bất lợi, pháp đã hình thành quá
trình xâm lược ở Việt Nam, từng bước đặt ách thống trị lên nhân dân ta. Triều đình
phong kiến đã đầu hàng, 1 bộ phận quan lại chấp nhận làm tay sai cho Pháp như Hoàng Cao Khải
Như vậy phong trào cần vương thất bại do thiếu đướng lối đúng đắn, hệ tư tưởng
phong kiến đã không phù hợp với yêu cầu lịch sử, phong trào còn thiếu một giai cấp tiên tiến lãnh đạo.
7. Tính chất, ý nghĩa 7.1. Tính chất
- Theo từ Hán nghĩa, “Cần Vương” có nghĩa là giúp vua xây dựng đất nước, phò trợ
vua qua những khó khăn. Chiếu Cần Vương ra đời trong lúc thực dân Pháp đang
đàn áp nhân dân ta. Phong trào Cần Vương là cuộc khởi nghĩa của vua Hàm Nghi
với thực dân, thông qua chiếu Cần Vương được ban bố khắp cả nước và diễn ra vào
những năm 1885 đến năm 1896 với quy mô nhỏ và riêng rẽ mang tính chất địa
phương. Phương pháp đấu tranh của phong trào Cần Vương chủ yếu nặng về khởi
nghĩa vũ trang, ít chú trọng đến công tác tuyên truyền, đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị, . .
- Chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi được biên soạn nhằm:
Tố cáo lên tội ác xâm lược của thực dân Pháp.
Tố cáo sự phản bội của một số quan lại.
Lên án tính bất hợp pháp của triều đình do Pháp dựng lên.
Khẳng định quyết tâm kháng chiến của triều đình mà đứng đầu là vua Hàm Nghi.
Thôi thúc, kêu gọi và khích lệ sĩ phu, văn thân cũng như nhân dân cả nước
cùng tham gia cuộc chiến giúp vua khôi phục quốc gia phong kiến độc lập.
- Phong trào đã diễn ra trên địa bàn rộng lớn khắp Bắc Kì và Trung Kì. Cũng nhờ có
Chiếu Cần Vương mà lòng dân được vực dậy một cách mạnh mẽ. Trong đó, có thể
kể đến một số cuộc khởi nghĩa tiêu biểu như: Khởi nghĩa Ba Đình (Thanh Hóa) do
Phạm Bành - Đinh Công Tráng lãnh đạo, khởi nghĩa Bãi Sậy (Hưng Yên) do Nguyễn
Thiện Thuật lãnh đạo, khởi nghĩa Hương Khê (Hà Tĩnh) do Phan Đình Phùng lãnh
đạo, … có tác dụng kêu gọi nhân dân khắp cả nước tham gia vào cuộc chiến chống
lại thực dân Pháp lúc bây giờ.
- Chiếu Cần Vương đã ảnh hưởng đến giới văn thân và sĩ phu yêu nước: Đây là bộ
phận trí thức phong kiến, nặng tư tưởng “trung quân ái quốc”, trước khi có chiếu
Cần Vương, họ bị giằng xé trong mối mâu thuẫn giữa “trung quân” và “ ái quốc”,
… Khi chiếu Cần Vương ra đời, mâu thuẫn trong lòng họ được giải tỏa, lúc này yêu
nước đồng nghĩa với giúp vua cứu nước nên họ rất hăng hái tham gia phong trào.
- Chiếu Cần Vương đã ảnh hưởng đến quần chúng nhân dân: Nhân dân không bị ràng
buộc nhiều với tư tưởng quan điểm phong kiến nhưng lòng yêu nước rất nồng nàn,
họ sẵn sàng đứng lên đấu tranh chống Pháp ngay cả khi triều đình không tổ chức,
kêu gọi. Thậm chí, họ còn “chống cả Triều lẫn Tây” khi triều đình đầu hàng, nhưng
khi có chiếu Cần Vương, họ có điều kiện được tập hợp đông đảo hơn, nên tham gia
nhiệt tình hơn, sáng tạo hơn, sôi nổi hơn, …
Phong trào Cần Vương là phong trào yêu nước chống Pháp, tuy nhiên lại bị
chi phối bởi hệ tư tưởng phong kiến, là 1 cuộc khởi nghĩa nông dân mang tính
tự phát và là hành động tự vệ 7.2. Ý nghĩa
- Phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX là phong trào dân tộc, phong trào yêu
nước chống chủ nghĩa thực dân xâm lược kết hợp với chống triều đình phong
kiến đầu hàng đã diễn ra sôi nổi, rộng khắp. Phong trào tuy thất bại nhưng đã tô
thắm thêm truyền thống anh hùng, bất khuất của dân tộc Việt Nam.
- Đây là phong trào kháng chiến mạnh mẽ, thể hiện truyền thống yêu nước và khí
phách anh hùng của dân tộc, tiêu biểu cho cuộc kháng chiến tự vệ của nhân dân
ta cuối thế kỉ XIX đấu tranh chống lại thực dân Pháp, khôi phục nền độc lập,
khôi phục chế độ phong kiến có vua là người tài giỏi.
- Khẩu hiệu này đã nhanh chóng thổi lên ngọn lửa tình yêu quê hương và lòng
căm thù quân xâm lược của toàn thể nhân dân. Một phong trào vũ trang chống
thực dân Pháp diễn ra sôi nổi và kéo dài hơn 12 năm.
- Phong trào Cần Vương mang ý nghĩa giúp vua giành lại đất nước, thể hiện tình
yêu dân tộc, tuy nhiên phong trào lại diễn ra theo khuynh hướng lẻ tẻ với ý thức
hệ phong kiến, thể hiện tính dân tộc sâu sắc.
- Không chỉ vậy phong trào Cần Vương cũng góp phần làm chậm quá trình bình
định của Pháp ở nước ta. Phong trào đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý
báu cho sự nghiệp đấu tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc. Bất cứ phong trào
nào cũng cần có một lực lượng xã hội tiên tiến, có đủ năng lực lãnh đạo. Cần có
sự phối hợp liên kết giữa các cuộc khởi nghĩa. Luôn cần chủ động và linh hoạt trong chiến thuật…
Thể hiện tinh thần yêu nước, đấu tranh bất khuất của nhân dân ta
Làm chậm quá trình bình định của Pháp
Để lại nhiều bài học kinh nghiệm về sau
Thể hiện sự sáng tạo của nhân dân ta trong chiến đấu
Sự thất bại của phong trào chứng tỏ con đường phong kiến không còn phù hợp, cần
tìm kiếm con đường mới. Đây là mốc đánh dấu chấm dứt phong trào yêu nước theo
hệ tư tưởng phong kiến.
8. Vai trò của Tôn Thất Thuyết đối với phong trào Cần
Vương và lòng yêu nước của vua Hàm Nghi
- Vai trò của Tôn Thất Thuyết đối với phong trào Cần Vương:
Tôn Thất Thuyết (ất Mùi 1835 - Quý Sửu 1913) Tôn Thất Thuyết, danh tướng yêu
nước nổi tiếng, thuộc dòng dõi Tôn thất nhà Nguyễn, quê ở xóm Phú Mộng, làng
Vạn Xuân, nay thuộc phường Kim Long, thành phố Huế. Ông xuất thân võ tướng,
năm 1873, ông giúp Hoàng Kế Viêm và Lưu Vĩnh Phúc đánh thắng trận Cầu Giấy,
giết được tên sĩ quan Pháp Francis Garnier.
- Đối với phong trào Cần Vương:
Ông chính là "linh hồn " của phong trào. . Chính ông là người đã mượn danh vua
Hàm Nghi ra chiếu Cần Vương kêu gọi văn thân, sĩ phu trên khắp cả nước khởi dậy đánh Pháp
Ông là một vị quan yêu nước, một vị quan tiêu biểu đại diện trong phái chủ chiến
ở trong triều đình với nhiều việc ông làm như phát động cuộc biến kinh thành Huế
hay phế truất vị vua Kiến Phúc chỉ mới lên ngôi được vài ngày vì có tư tưởng thân Pháp. .
Là một bậc tôn trung, một người thân cận và cánh tay đắc lực của vua Hàm Nghi.
- Lòng yêu nước của vua Hàm Nghi
Vua Hàm Nghi là một vị vua yêu nước, một trong 3 vị vua triều Nguyễn có tư
tưởng chống Pháp giành lại độc lập ( Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân). Khi bị
người người của mình chỉ chỗ cho thực dân Pháp ông đã rất là thất vọng và sau đó ông bị đày sang Algeria.
Sau khi sang Algeria thì ban đầu ông không chịu học tiếng Pháp vì ông nghĩ chính
người Pháp đã xâm lược nước mình. Mọi hoạt động thường ngày khi giao tiếp với
người nước ngoài đều phải qua phiên dịch riêng của mình. Nhưng sau đó ông tiếp
xúc nhiều với người Pháp ở đây và thấy họ hoàn toàn khác biệt với những kẻ xâm
lược ở Đông Dương nên ông quyết định học tiếng Pháp. Tuy sống lưu đày bên
nước ngoài nhưng ông vẫn giữ cho mình những nếp sống văn hóa của một người
Việt Nam ( khăn lượt, áo dài nếp cũ tự may và búi tóc chữ hành) điều này chứng
tỏ tuy thân xác ông bị lưu đày thế nhưng ý chí và tình yêu quê hương đất nước vẫn
luôn sống mãi trong con người ông.
Về sau ông lấy một người vợ Pháp và có 3 người con. Ông mất năm 1944 và được
an táng tại nghĩa trang ở miền trung nước Pháp.
9. So sánh phong trào Cần Vương với phong trào nông dân Yên Thế: - Giống:
Đều là những phong trào yêu nước dưới hình thức khởi nghĩa vũ trang chống
Pháp cuối thế kỉ XIX và đều có kết quả thất bại
Đều có sự ttham gia của đông đảo quần chúng nhân dân, đặc biệt là nông dân
Phong trào Cần Vương là phong trào theo ý thức hệ phong kiến, phong trào nông
dân Yên Thế là phong trào nông dân tự phát nhưng ít nhiều vẫn bị chi phối bởi hệ tư tưởng phong kiến - Khác:
Phong trào Cần Vương Phong trào nông dân Yên Thế Mục tiêu
Giúp vua đánh đuổi thực Bảo vệ quê hương, đất
dân Pháp, thiết lập lại chế nước, quyền lợi của những
độ quân chủ, xây dựng nhà người nông dân, mang tính
nước phong kiến tự chủ tự vệ Lãnh đạo
Các văn thân, sĩ phu, quan Những nông dân tự canh,
lại, trí thức có học, theo hệ yêu quê hương đất nước, tư tưởng phong kiến yêu sự tự do, mang tính chất tự phát rõ rệt Lực lượng
Nhiều tầng lớp trong đó có Nông dân
văn thân, sĩ phu, nông dân Thời gian tồn tại
1885-1896, kéo dài 10 1884-1913, kéo dài gần 30
năm ở thời kì Pháp bình năm, trong cả thời kì Pháp định Việt Nam
bình định và tiến hành khai
thác thuộc địa lần thứ nhất
Hình thức đấu tranh Khởi nghĩa vũ trang Khởi nghĩa vũ trang nhưng
có giai đoạn hào hoãn,đình chiến, có giai đoạn tác chiến Tính chất
Phong trào đấu tranh Phong trào nông dân mang
chống Pháp theo khuynh tính tự phát, tự vệ hướng phong kiến Quy mô
Rộng lớn, tập trung ở Bắc Chỉ diễn ra ở địa bàn huyện kì và Trung Kì Yên Thế và những vùng núi xung quanh thuộc Bắc Giang, Bắc Ninh, Thái Nguyên. 10.
So sánh phong trào Cần Vương với phong trào yêu
nước đầu thế kỉ XX
Phong trào Cần Vương
Phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX Mục tiêu
Chống thực dân Pháp Nhằm chống thực dân
giành độc lập, thiết lập lại Pháp giành độc lập dân chế độ phong kiến
tộc, chống cả đế quốc và phong kiến
Xây dựng quốc gia độc lập
theo thể chế tư bản chủ nghĩa
Kết hợp độc lập dân tộc với tiến bộ xã hội Lãnh đạo
Các văn thân, sĩ phu có tư Là những sĩ phu thức thời
tưởng trung quân ái quốc
tiến bộ tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản Lực lượng tham gia
Quần chúng nhân dân bao Sĩ phu tiến bộ, nông dân,
gồm văn than sĩ phu yêu tư sản, tiểu tư sản
nước, nông dân, dân tộc ít người Địa bàn
Diễn ra chủ yếu ở Bắc Kì Ở cả 3 kì Bắc, Trung, Nam
và Trung Kì, trên những Kết hợp với hoạt động
địa bàn có điều kiện thuận trong và ngoài nước
lợi cho việc xây dựng căn (Trung Quốc và Nhật Bản) cứ đấu tranh vũ trang
Hình thức đấu tranh Vũ trang đơn thuần Bao gồm nhiều hình thức phong phú: bạo động vũ
trang, cải cách trên các lĩnh
vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Kết quả
Thất bại, các cuộc khởi Mặc dù chưa đánh đuổi
nghĩa bị đàn áp, gây cho được Pháp, nhưng đã khơi Pháp nhiều tổn thất
dậy tư tưởng dân chủ ở
Việt Nam đầu thế kỉ XX Ý nghĩa
Nêu cao tinh thần yêu Cổ vũ mạnh mẽ tinh thần
nước, ý chí đấu tranh của đấu tranh dân tộc của nhân
dân tộc, dọn đường cho các dân ta, mở ra con đường
cuộc vận động cách mạng cứu nước mới cho Việt
đầu thế kỉ XX, thất bại của Nam.