




Preview text:
Bối cảnh
( https://www.noron.vn/post/hoan-canh-ra-doi-cua-phong-trao-van-hoa-phuc-hung- 46mbue92y29j )
Văn hoá Tây Âu thế kỉ V – X dựa trên nền tảng nền kinh tế tự cung tự cấp, sự giao lưu trao đổi
rất hạn chế, văn hoá vì vậy cũng phát triển không đáng kể. Tới thế kỉ XIV, với sự phát triển kinh
tế công thương ở các thành thị, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dần dần hình thành và ngày
càng lớn mạnh. Các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản không còn chịu chấp nhận những giáo lí
phong kiến lỗi thời, họ vận động khôi phục lại sự huy hoàng của văn hoá Tây Âu thời cổ đại. Họ
tìm thấy trong nền văn hoá cổ đại những yếu tố phù hợp với mình, có lợi cho mình để đấu tranh
chống lại những trói buộc của nền văn hoá trung cổ . Phong trào Văn hoá Phục Hưng xuất hiện
đầu tiên ở Ý, vì ở đây thế kỉ XIV đã xuất hiện các thành thị tự do như những quốc gia nhỏ. Quan
hệ sản xuất tư bản đã chiếm địa vị chi phối đời sống văn hoá. Ý lại là trung tâm của đế quốc
Rôma cổ đại, vì vậy ở đây còn giữ lại nhiều di sản văn hoá cổ đại của Hy Lạp – Rôma. Hơn ai
hết, các nhà văn hoá Ý có điều kiện khôi phục lại nền văn hoá trước tiên khi có điều kiện. Từ Ý,
phong trào lan sang Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Đức… Tầng lớp giàu có ở các thành thị muốn thể
hiện sự giàu sang của mình qua các dinh thự và các tác phẩm nghệ thuật, điều đó cũng tạo điều
kiện cho các nhà văn hoá thể hiện tài năng.
( https://hoc.tv/giao-duc/bai-3-van-hoa-tay-au-thoi-phuc-hung-dtail12272.html )
Điều kiện chủ yếu dẫn đến sự ra đời của phong trào Văn hóa Phục hưng là do sự xuất hiện quan
hệ tư bản chủ nghĩa. Trong khi đó, những thành tựu về văn hóa từ thế kỉ XI-XIII còn xa mới đáp
ứng được nhu cầu của giai cấp tư sản mới ra đời, đồng thời cho đến lúc bấy giờ, tư tưởng tình
cảm con người vẫn bị ràng buộc bởi hệ tư tưởng khắt khe của giáo hội Thiên chúa. Do vậy giai
cấp tư sản cần phải có hệ tư tưởng và nền văn hóa riêng để phục vụ cho đời sống tinh thần của
mình và để đấu tranh với hệ tư tưởng lỗi thời của giáo hội và của giai cấp quý tộc phong kiến
đang cản trở sự phát triển của xã hội.
Còn Ý sở dĩ trở thành quê hương đầu tiên của phong trào Văn hóa phục hưng là vì:
Tuy bị phân tán về chính trị nhưng do những điều kiện thuận lợi về địa lí, quan hệ tư bản
chủ nghĩa ở đây ra đời sớm nhất. Từ thế kỉ XIV, ở miền Bắc Ý đã có nhiều thành phố rất
phồn thịnh và đã lập thành những nước cộng hòa thành thị như: Phirenxê, Vênêxia,
Giênôva v.v. ., trong đó Phirenxê chủ yếu phát triển về công nghiệp, còn Vênêxia và
Giênôva chủ yếu phát triển về thương nghiệp.
Thành phố Phirenxê có hơn 300 xí nghiệp len dạ, trong đó thuê rất nhiều thợ làm việc. Đó là
những công trường thủ công tư bản chủ nghĩa. Ngoài các nhà tư sản công thương nghiệp, ở
Phirenxê còn có hơn 100 chủ ngân hàng.
Vênêxia là một thành phố công thương nghiệp rất nổi tiếng ở châu Âu. Đặc biệt sau các cuộc
viễn chinh của quân Thập tự, Vênêxia đã giàu mạnh rất nhanh chóng. Vênêxia có 3.000 chiếc
thuyền buôn với khoảng 30.000 thủy thủ thường xuyên tung hoành trên Địa Trung Hải để
chuyên chở các mặt hàng như tơ lụa, hồ tiêu, quế, đường. . của phương Đông sang bán cho các
nước, ở phương Tây. Đồng tiền vàng đucát của Vênêxia được sử dụng khắp toàn châu Âu. Bên
cạnh thương nghiệp, các ngành công nghiệp như dệt tơ, đóng thuyền, làm đồ thủy tinh. . cũng rất nổi tiếng.
Giênôva cüng là một thành phố thương nghiệp quan trọng và là đối thủ của Vênêxia trong lĩnh
vực buôn bán. Đến thế kỉ XV, ngân hàng thánh Gioóc ở đây đã phát hành giấy bạc đầu tiên và
được thông dụng trên khắp thị trường châu Âu.
Ý vốn là quê hương của nền văn minh La Mã cổ đại, do đó cho đến thời bấy giờ, ở đây
còn giữ lại được nhiều di sản văn hóa về các mặt kiến trúc, điêu khắc, văn học. . Vì vậy,
hơn ai hết, các nhà văn nghệ sĩ Ý đã kế thừa được truyền thống văn hóa rực rỡ của đất
nước mình. Đến thế kỉ XIV, XV khi về mặt kinh tế xã hội có những biến đổi quan trọng,
họ đã có điều kiện để làm sống lại và phát triển những thành tựu văn hóa ấy.
Do kinh tế phát triển, trong các nước cộng hòa, thành thị ở Ý đã xuất hiện một tầng lớp
rất giàu có. Để phô trương cho sự giàu sang của mình, họ đã xây dựng nhiều lâu đài tráng
lệ được trang sức bằng những tác phẩm nghệ thuật có giá trị. Tình hình đó đã có tác dụng
khuyến khích rất lớn đối với sự sáng tạo nghệ thuật của các nghệ sĩ mà trước hết là đối
với các họa sĩ và các nhà điêu khắc.
Hơn nữa, các nhà văn nghệ sĩ lúc bấy giờ còn nhận được sự bảo trợ của những người đứng đầu
các nhà nước như họ Mêđixi ở Phirenxê, họ Gôndagơ (Gonzague) ở Mantu, họ Môntêphentơrô
(Montefeltro) ở Uốcbinô, họ Extê ở Fera (Ferrare), họ Aragôn ở Naplơ, thậm chí cả các giáo
hoàng Xixtơ IV, Giulơ II, Lêô X, và Phaolô III ở La Mã nữa. Nhờ vậy họ càng có điều kiện tập
trung trí tuệ và tài năng của mình vào công việc lao động sáng tạo.
Đến thế kỉ XV và nhất là thế kỉ XVI chủ nghĩa tư bản cũng ra đời ỏ Anh và tiếp đó là ở các nước
Tây Âu khác như Pháp, Tây Ban Nha, Nêđéclan, Đức. . Vì vậy, phong trào Văn hóa phục hưng
có điều kiện phát triển sang các nước Tây Âu khác. (wikimedia)
Nhiều học giả cho rằng tư tưởng đặc trưng cho Phục hưng bắt nguồn từ thành phố Firenze (tức
Florence) vào cuối thế kỷ XIII, với văn chương của Dante Alighieri (1265-1321) và Francesco
Petrarca (1304-1374), cũng như các họa phẩm của Giotto di Bondone (1267-1337).
Một số nhà văn xác định cụ thể điểm bắt đầu là năm 1401, khi hai tài năng đối địch nhau
là Lorenzo Ghiberti và Filippo Brunelleschi tranh đua để giành hợp đồng xây dựng Nhà thờ
Firenze.[17] Những nhà sử gia nhận định sự cạnh tranh rộng rãi giữa các nghệ sĩ, bác học như
Brunelleschi, Ghiberti, Donatello, và Masaccio về phận sự của nghệ thuật như một sự khuấy
động sức sáng tạo của Phục Hưng. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều tranh luận về lý do tại sao thời
kỳ Phục hưng lại bắt đầu tại Ý, và tại sao nó lại bắt đầu vào một thời điểm như thế[18]. Bởi vậy,
một số giả thuyết đã được đưa ra để giải thích nguồn gốc của Thời kỳ Phục Hưng. Wiki Khoa học
Việc tái khám phá các tài liệu cổ đại cũng như phát minh in ấn ở châu Âu đã bình dân hóa việc
học hành và phát triển trao đổi ý tưởng. Tuy nhiên trong thời kỳ đầu Phục Hưng, các nhà tư
tưởng chính chủ yếu quan tâm tới các khoa học nhân văn hơn là triết học tự nhiên hay là toán
học ứng dụng. Và sự hâm mộ các tư liệu cổ điển lại củng cố hơn nữa quan điểm
của Aristotle và Ptolemaeus về vũ trụ[72].
Bất chấp điều đó, khoảng năm 1450, các bài viết của Nicholas Cusanus báo trước thế giới
quan nhật tâm của Copernicus theo cách diễn giải triết học. Nhà bác học lớn nhất của thế kỷ XV
là Leonardo da Vinci, mặc dù thường được biết đến như một nhà phát minh, ông đã tiến hành các
nghiên cứu khoa học một cách nghiêm túc, có hệ thống. Da Vinci đã tiến hành giải phẫu, quan
sát và vẽ lại cơ thể người và động vật, thực hiện các thí nghiệm có kiểm soát về động học, khí
động học và thủy động học, nhất là đã trình bày các nguyên tắc cơ bản của phương pháp khoa
học. Fritjof Capra, người đã chỉ ra tầm quan trọng từng ít được chú ý của những nghiên cứu này,
đã gọi ông là "cha đẻ của khoa học hiện đại" (thay vì Galilei hay Bacon)[73].
Phát kiến Tân Thế giới của Christopher Columbus đã mở ra một thế giới quan mới rộng rãi hơn
nhiều, đồng thời các quan sát thực tiễn bắt đầu thách thức các quan niệm tưởng chừng vững chắc
cổ xưa. Khi cuộc Cải cách Kháng nghị và sự phản ứng của Giáo hội đụng độ, Phục Hưng
phương Bắc chứng kiến một sự chuyển dịch trọng tâm có tính quyết định từ triết học tự nhiên
Aristotle sang hóa học và các khoa sinh vật học (thực vật học, giải phẫu học và y học)[74]. Những
tiến bộ quan trọng cũng đạt được trong thiên văn học, vật lý, toán học, sinh học[75].
Một vài người xem đây là một cuộc "cách mạng khoa học, báo hiệu sự bắt đầu của kỷ nguyên
hiện đại[76], những người khác thì chỉ coi nó là một sự tăng tốc của một tiến trình liên tục bắt đầu
từ thời cổ đại tới ngày nay[77]. Tuy nhiên, nhìn chúng có sự nhất trí rằng thời Phục Hưng đã xảy
ra những thay đổi đáng kể trong vũ trụ quan và phương pháp giải thích các hiện tượng tự nhiên
của con người[78]. Dấu mốc đáng nhớ nhất là năm 1543, năm mà cả hai cuốn De humani corporis
fabrica ("Về sự hoạt động của cơ thể người") của Andreas Vesalius cung cấp một sự tự tin mới
về vai trò của phân tích, quan sát và cái nhìn cơ giới luận về giải phẫu học[78] cũng như De
Revolutionibus Orbium Coelestium ("Về Chuyển động quay của các Thiên thể")
của Copernicus cùng được xuất bản. Thuyết nhật tâm của Copernicus, một biểu tượng chói ngời
về lý tính chống lại định kiến truyền thống, sau đó được Galileo Galilei, Tycho
Brahe và Johannes Kepler củng cố và phát triển[79]. Quan trọng không kém là các tác giả như
Copernicus, Galileo và Francis Bacon đã trình bày những đặc điểm quan trọng mà một nền khoa
học mới nên có để đạt được tiến bộ, tức phương pháp khoa học. Chúng bao gồm tầm quan trọng
của bằng chứng thực nghiệm, vai trò của toán học, và từ bỏ đường lối thuần túy dựa vào luận lý của Aristotle[80]. Nội dung
(lịch sử 10 nâng cao bài 18)
-Chống lại giáo hội và giai cấp quý tộc phong kiến với những tư tưởng của nó
-Đề cao con người, cho con người là “vàng ngọc của vũ trụ”, là kiểu mẫu của muôn loài
-Ca ngợi tình yêu đối với tổ quốc, tinh thần dân tộc
-Chống lại những quan điểm phản khoa học và chủ nghĩa duy tâm
(https://luatminhkhue.vn/phuc-hung-la-gi.aspx)
Nội dung của phong trào văn hóa phục hưng là phê phán xã hội phong kiến và Giáo hội, đề cao
con người và khoa học tự nhiên. Phong trào văn hóa Phục hưng là phong trào văn hóa mới của
giai cấp tư sản Tây Âu thời trung đại trên cơ sở phục hồi những giá trị, thành tựu của nền văn
minh Hy Lạp, Rô-ma thời cổ đại.
Phong trào văn hóa Phục hưng ra đời khi:
– Giai cấp tư sản mới ra đời, có thế lực về kinh tế nhưng chưa có địa vị xã hội tương ứng.
– Những tiến bộ của khoa học, kĩ thuật giúp con người thoát khỏi tình trạng lạc hậu, nhận thức
được bản chất của thế giới.
– Giáo lí Ki-tô mang nặng những quan điểm lỗi thời của xã hội phong kiến kìm hãm sự phát triển của giai cấp tư sản.
– Giai cấp tư sản một mặt muốn khôi phục lại văn hóa cổ đại Hi Lạp, Rô-ma, mặt khác cũng
muốn góp phần xây dựng một nền văn hóa mới, đề cao giá trị con người, đòi quyền tự do cá
nhân, coi trọng khoa học – kĩ thuật.
( https://hoc.tv/giao-duc/bai-3-van-hoa-tay-au-thoi-phuc-hung-dtail12272.html )
Phong trào Văn hóa phục hưng tuy có tiếp thu và kế thừa một số yếu tố trong nền văn hóa Hi
Lạp và La Mã cổ đại nhưng thực chất đây không phải là một phong trào làm sống lại những di
sản văn hóa cổ xưa mà là một phong trào văn hóa hoàn toàn mới dựa trên nền tảng kinh tế xã hội
mới và được chỉ đạo bởi một hệ tư tưởng mới. Nói một cách khác, phong trào Văn hóa phục
hưng là cuộc cách mạng văn hóa tư tưởng của giai cấp tư sản mới ra đời nhằm chống lại những
quan niệm lỗi thời ràng buộc tư tưởng tình cảm của con người và kìm hãm sự phát triển xã hội
của phong kiến và giáo hội Thiên chúa.
Tư tưởng chủ đạo của phong trào Văn hóa phục hưng là chủ nghĩa nhân văn (humanisme). Đó là
hệ tư tưởng chú trọng đến con người, chú ý đến cuộc sống hiện tại, chủ trương cho con người
được quyền hương mọi lạc thú ở đời, do đó nó hoàn toàn đối lập với quan niệm của giáo hội
Thiên Chúa chỉ sùng bái Chúa, chỉ chú ý đến cuộc sống của linh hồn sau khi chết ở Thiên đàng
và đề xướng chủ nghĩa cấm dục.
Dưới sự chỉ đạo của hệ tư tưởng mới ấy, tính chất cách mạng của phong trào Văn hóa phục hưng
thể hiện ở các mặt sau đây:
Lên án, đả kích, châm biếm sự tàn bạo dốt nát, giả nhân giả nghĩa của các giáo sĩ từ giáo
hoàng đến các tu sĩ và của giai cấp quý tộc phong kiến.
Chống lại quan niệm của giáo hội về con người và cuộc sống trần gian.
Chống những quan điểm phản khoa học và chủ nghĩa duy tâm.
Đề cao tinh thần dân tộc, tình yêu đối với Tổ quốc và tiếng nói của nước mình.
(https://staff.hnue.edu.vn/directories/TeachingSubjects.aspx?
username=thanhvn&tsubject=2098 )
Phong trào Văn hoá Phục hưng tuy có tiếp thu và kế thừa một số yếu tố của văn hoá Hy Lạp- La
Mã cổ đại nhưng thực chất đây không phải là một phong trào phục cổ mà là một phong trào văn
hoá hoàn toàn mới dựa trên nền tảng kinh tế xã hội mới và được chỉ đạo bởi một hệ tư tưởng
mới. Tư tưởng chỉ đạo của phong trào Văn hoá Phục hưng là chủ nghĩa nhân văn.
Vậy chủ nghĩa nhân văn có nghĩa là gì?
Nhân là người, văn là vẻ đẹp, chủ nghĩa nhân văn được hiểu là chủ nghĩa đề cao cái đẹp con người.
Nhà triết học Vonghin đã định nghĩa : “chủ nghĩa nhân văn là toàn bộ những quan điểm tu tưởng
về đạo đức bắt nguồn không phải từ cài gì siêu nhiên kỳ ảo ngoài đời sống nhân loại mà là từ
những vấn đề thực tế, tồn tại trên mặt đất với tất cả những nhu cầu, những khả năng trần thế đó
đòi hỏi phải được phát triển đầy đủ, phải được thoả mãn”.
Sêcxpia ca ngợi: “ Kỳ diệu thay là con người. Con người cao quý làm sao về trí tuệ, vô tận làm
sao về năng khiếu, về hình dung và dáng vóc, nó đẹp tự nhiên tựa thiên nhiên. Về trí tuệ nó có
thể sánh tài thượng đế, thật là vẻ đẹp của thế gian, kiểu mẫu của loài người”.
Chủ nghĩa nhân văn là tư tưởng chú trọng đến con người, chú trọng cuộc sống hiện tại, chủ
trương con người được hưởng quyền hưởng mọi lạc thú ở đời. Nó hoàn toàn đối lập với quan
niệm của Giáo hội Thiên Chúa chỉ sùng bái chúa, chỉ chú ý đến cuộc sống của linh hồn sau khi
chết ở Thiên đàng và đề xướng chủ nghĩa cấm dục.
Document Outline
- Bối cảnh
- Khoa học
- Nội dung