







Preview text:
Phong tục tập quán là gì? 100 phong tục tập
quán Việt Nam nên biết?
1. Khi nào thì được gọi là phong tục, tập quán?
Chúng ta thường nghe nhiều đến các từ ngữ phong tục, tập quán nhưng liệu
rằng bạn đã thật sự hiểu rõ về chúng hay chưa? Phong tục và tập quán
thường đi liền với nhau và nhiều khi khiến chúng ta dễ bị nhầm lẫn hai khái
niệm này, khó có thể phân biệt được cụ thể. Theo đó thì phong tục sẽ được
tách nghĩa thành "phong" và "tục". Phong có nghĩa là nền nếp đã lan truyền
rộng rãi, "tục" thì là thói quen lâu đời. Phong tục có nghĩa là những thói quen,
nền nếp đã xuất hiện từ lâu đời trong mọi hoạt động sinh hoạt, đời sống
thường nhật của người dân, lặp đi lặp lại để rồi trở thành một thói quen tốt
được lan truyền rộng rãi, phổ biến sâu rộng từ thời xa xưa cho đến nay về
mặt thời gian và được truyền bá rộng rãi từ một địa phương lên tới phạm vi
toàn quốc rồi mở rộng sang thế giới theo chiều không gian. Phong tục thì
thường sẽ được vận dụng linh hoạt hơn tập quán, nó không phải một nguyên
tắc bắt buộc nhưng không vì vậy mà nó được phép sử dụng tùy tiện, nhất
thời và thay đổi mạnh mẽ như các hoạt động hay mối quan hệ đời thường
Còn tập quán thì lại được hiểu là những tập tục sinh ra từ những phương
thức ứng xử giữa con người với con người, được ấn định và tạo dấu ấn,
được coi như một điểm nhấn và lâu dần cũng trở thành một nề nếp, một lối
sống của cá nhân trong cộng đồng dân cư. Khác với phong tục thì tập quán
lại có sự bất biến và bền vững hơn nhiều, rất khó để thay đổi.
Phong tục một khi đã được coi là một chuẩn mực ổn định trong cách ứng xử,
sinh hoạt thì nó lại trở thành một tập quán xã hội mang tính bền vững. Vì vậy
có thể hiểu phong tục tập quán khó mà tách rời nhau, chúng đều là toàn bộ
thói quen về đời sống của con người và được hình thành từ rất lâu đời, được
sự công nhận và hưởng ứng của một cộng đồng. Tính dễ nhận dạng nhất
của phong tục tập quán là tính tuyên truyền, phổ biến hay kế thừa của nó.
Phong tục tập quán đẹp, phù hợp với sự phát triển của xã hội sẽ được lan
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và được xem là một nét đẹp truyền
thống được gìn giữ, phát huy mãi về sau.
2. Phong tục, tập quán có giá trị pháp lý không?
Phong tục tập quán thường đi đôi với nhau và như đã phân tích ở mục 1 thì
phong tục sẽ trở thành một tập quán khi có đủ điều kiện phát triển bền vững.
Tập quán lại có một thuật ngữ khác là "Tập quán pháp" được hiểu là một hệ
thống các quy tắc xử sự dựa trên cơ sở của các tập quán có những nội dung
phù hợp với đời sống xã hội, không trái đạo đức xã hội và được nhà nước
thừa nhận. Xét về tính lịch sử hình thành thì tập quán pháp là một hình thức
pháp luật được xuất hiện sớm nhất.
Ngày nay, việc áp dụng tập quán cũng là một trong những nguồn luật được
thừa nhận tại Việt Nam. Điều này được thể hiện trong pháp luật dân sự khi
giải quyết một vụ việc tranh chấp nào đó mà pháp luật chưa có quy định thì
có thể áp dụng tập quán nhưng không được trái với nguyên tắc cơ bản của
pháp luật dân sự. Tập quán dưới khía cạnh luật pháp được hiểu là những
quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân,
pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại
nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong
một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự.
Khi các bên không thể tự thỏa thuận được với nhau, khi pháp luật không có
quy định thì áp dụng tập quán sẽ được lựa chọn để giải quyết một vụ tranh
chấp dân sự. Việc giải quyết nhiều khi sẽ nhanh chóng và được lòng các bên
hơn so với việc áp dụng những quy định pháp luật cứng nhắc. Tuy nhiên thì
tập quán được áp dụng không được trái với đạo đức và các nguyên tắc của
Bộ luật dân sự năm 2015.
Có thể thấy, mặc dù chưa được luật hóa cụ thể nhưng lại được pháp luật
thừa nhận có giá trị như pháp luật để đảm bảo tính hợp lý, tiến bộ, vì lợi ích
của nhân dân đặt lên hàng đầu. Nhiều khi câu nói "Luật vua thua lệ làng" rất
đúng, nó đã phản ánh được chính xác thực trạng về tập quán của mỗi dân tộc ở Việt Nam.
3. Vai trò của phong tục, tập quán Việt Nam
Phong tục tập quán Việt Nam đều xuất hiện từ lâu đời và mỗi một phong tục
tập quán lại có những lịch sử hình thành khác nhau. Mỗi một phong tục tập
quán đều mang trong mình tính lịch sử, tính dân tộc, tính vùng miền thể hiện
nét đặc trưng của chúng. Do gắn bó chặt chẽ với những thói quen và nếp
sống của cộng đồng xã hội nên phong tục tập quán được xem là các quy tắc
xử sự chung, điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nhiều phong tục, tập quán trở
thành luật tục ăn sâu và bén rễ bền chặt trong nhân dân. Nó tạo nên một nét
đẹp giá trị tinh thần cho mỗi cộng đồng Việt Nam cũng như cho toàn thể quốc
gia Việt Nam khi sánh vai với các cường quốc trên thế giới.
Phong tục tập quán làm cho sắc thái văn hóa trở nên đa dạng, giúp chúng ta
có thể phân biệt được các cộng đồng, các dân tộc tại Việt Nam. Sống đúng
với phong tục của nước mình, dân tộc mình mới là sống đúng với truyền
thống. Phong tục tập quán Việt Nam nói chung và các phong tục tập quán
của dân tộc thiểu số trên lãnh thổ Việt Nam nói riêng là một đề tài vô tận, bởi
nước ta có đến 54 dân tộc anh em với rất nhiều phong tục, tập quán, nghi lễ
văn hóa khác nhau. Và có thể nói rằng phong tục tập quán chính là nét đặc
trưng của một quốc gia, một dân tộc là vậy.
Bên cạnh đó như đã phân tích ở trên, phong tục tập quán còn có ý nghĩa
quan trọng trong việc xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật, trong việc đưa
pháp luật đến gần với đời sống xã hội. Chúng chính là thước đo chuẩn mực
hành vi của con người. Phong tục tập quán góp phần không nhỏ trong ổn
định trật tự xã hội, đóng góp một phần lớn trong việc quản lý và quán triệt đời
sống xã hội của những người đứng đầu trong nhóm cộng đồng dân cư. Việc
hình thành phong tục tập quán đã là một yếu tố tiên quyết để những người
trong cùng một cộng đồng dân cư thống nhất với nhau về tư tưởng, cùng
nhau hành động theo một hướng, tạo nên sự ổn định nhất định trong đời
sống. Từ đó những người đứng đầu là những người có trách nhiệm quản lý
một cộng đồng dân cư có thể dựa theo những phong tục đó để có những
quyết sách quản lý phù hợp, cũng có những ý tưởng dựa trên niềm tin của
cộng đồng dân cư vào những phong tục đó để ổn định trật tự xã hội một cách
tốt nhất, ngày càng đưa cộng đồng dân cư đó hướng đến những điều tốt đẹp,
văn minh, tiến bộ, đồng thời bài trừ những hủ tục lạc hậu, không còn phù hợp
với thời đại, đem lại những điều không tốt đẹp, gây ảnh hưởng xấu đến tư
tưởng, phong cách, lối sống, sức khỏe của con người.
Như vậy, nhận thấy rằng các phong tục tập quán đẹp của người Việt Nam là
một nét đẹp văn hóa thể hiện bản sắc dân tộc cũng như góp phần phát triển
cộng đồng, xã hội, đất nước nên chúng cần phải được bảo tồn và phát huy.
4. Top 100+ phong tục, tập quán vẫn còn lưu giữ tại Việt Nam
Và tại đây, mời các quý độc giả hãy cùng Luật Minh Khuê điểm qua những
phong tục tập quán đẹp đẽ đã được truyền từ thế hệ cha ông cho đến tận
ngày nay. Có thể chia thành các hệ thống phong tục tập quán như sau:
- Hệ thống các phong tục có liên quan đến quá trình lao động, làm ăn của con
người và đặc biệt là những người làm nông nghiệp, làm hoa màu
- Hệ thống các phong tục được hình thành trên cơ sở vòng đời của mỗi con người
- Hệ thống các phong tục được hình thành dựa trên hoạt động của con người
có liên quan đến yếu tố thời tiết, yếu tối bốn mùa trong một năm
Một trong những phong tục tập quán đẹp đẽ, nổi bật nhất mà chúng ta phải
nhắc đến trước tiên chính là tục cưới xin. Hôn nhân là một kết quả cao đẹp,
thiêng liêng của tình yêu. Ở Việt Nam ta tục cưới xin từ trước đến nay đều
bao gồm rất nhiều những nghi thức truyền thống như dạm ngõ, lễ thành hôn,
lễ xin dâu, lễ lại mặt... Tất cả những nghi lễ này đều được dân ta truyền nhau
làm theo từ đời này sang đời khác. Trong đó thì lễ xin dâu là một phong tục
tập quán mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Mặc dù hai gia đình đã quy ước với
nhau từ trước về ngày giờ và thành phần đưa đón, nhưng để đề phong mọi
sự bất trắc, mọi tin thất thiệt nên mới định ra lễ này nhằm biểu hiện sự cẩn
trọng trong hôn lễ. Bên cạnh đó còn có một phong tục rất đặc biệt đã được
lưu truyền từ đời này sang đời khác trong lễ cưới hỏi, nhất là trong đám cưới
truyền thống. Rằng dân gian kiêng mẹ cô dâu đi đưa dâu. Tập tục này xuất
phát do một câu chuyện trong chế độ phong kiến cũ, hôn nhân cưỡng ép,
thường sẽ là cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Thực ra trong nhiều gia đình thì
người cha luôn là người quyết định mọi việc, còn người mẹ chỉ biết tuân theo.
Vì thế đã xảy ra một số trường hợp oái oăm là ngày con gái vu quy đáng lẽ là
ngày vui nhất trong đời nhưng người thì khóc lóc buồn tủi vì bị ép buộc,
người thì lo sợ cảnh làm dâu, làm vợ, từ tấm bé chưa rời mẹ, nay tự nhiên
mẹ con xa nhau, mẹ thương con cũng sụt sùi khóc. Vậy là trong khi hai họ
đang vui mừng yên ấm ở ngoài thì hai mẹ con lủi thủi, cắp nón ra về. Tan tiệc
thì nhà trai không tìm thấy cô dâu đâu nữa. Qua một vài đám giống như vậy
nên người ta rút kinh nghiệm không nên để mẹ cô dâu đi đưa cô dâu, dần
dần học theo nhau, trở thành tục lệ. Tuy nhiên cho đén nay, hôn nhân tự do,
trai gái tìm hiểu, yêu nhau rồi kết hôn dựa trên cơ sở của tình yêu đôi lứa nên
rất nhiều đám cưới đã bỏ đi quan niệm kiêng kỵ này.
Một phong tục thứ hai vô cùng đặc biệt và được trường tồn mãi theo thời gian
phải kể đến chính là tập quán đặt tên họ cho con. Con sinh ra trước giờ luôn
theo họ của người cha, chỉ trừ khi có sự thỏa thuận của cha mẹ rằng con
theo họ mẹ thì mới đặt theo họ mẹ. Còn nếu không thì người dân ta luôn mặc
nhiên con sinh ra là phải theo họ của bố. Điều này cũng được pháp luật công
nhận, luật hóa trong Luật Hộ tịch năm 2014 rằng con sinh ra sẽ mang họ bố
hoặc mẹ theo sự thỏa thuận của cha mẹ, nếu như không thỏa thuận được thì
sẽ xác định theo tập quán, mà tập quán người dân Việt Nam thì đa số sẽ đặt
tên họ cho con theo họ của người cha. Đây là một tập quán văn hóa đẹp đã
được lưu truyền từ lâu và là một trong những minh chứng về phong tục, tập
quán của Việt Nam đã được đi vào giới luật.
Thứ ba phải kể đến là những phong tục tập quán trong việc giao thiệp. Chắc
hẳn chúng ta ít nhiều đều đã được nghe đến câu nói "Miếng trầu là đầu câu
chuyện" phải không? Câu nói này xuất phát từ thói quen ăn trầu của các cụ
thời xưa. Miếng trầu tuy rẻ tiền nhưng lại chứa đựng nhiều tình cảm, ý nghĩa,
giàu nghèo ai cũng có thể có, vùng miền nào cũng có thể có nên nó được
xem như một vật để chúng ta xích lại gần nhau hơn. Miếng trầu sẽ đi đôi với
lời chào, "đầu trò tiếp khách" là trầu, ngày xưa ai mà chẳng có, quý nhau thì
mời trầu, ghét nhau theo phép lịch sự cũng mời trầu nhưng "cau sáu ra thành
mười". Ngày nay để răng răng trắng thì nhiều người không biết ăn trầu nữa,
nhất là những người dân ở thành phố, nhưng theo tục lệ nếu nhà ai có con
gái gả chồng, sau khi ăn hỏi xong cũng đem trầu cau đến biếu hàng xóm,
biếu ông bà nội ngoại. Vì miếng trầu vẫn luôn là tục lệ, là cảm tình chứ không
chỉ đơn thuần là một món ăn nên ăn được hay không cũng không ai chối từ.
Hoặc ta cũng thường thấy miếng trầu cau được trưng bày đơn giản mà tinh tế
trên các bàn cỗ, tiệc, trên các mâm cơm cúng, bàn thờ gia tiên những ngày lễ tết, giỗ chạp.
Một tập tục khác trong giao thiệp cũng cần phải nhắc đến đó là "Lời chào cao
hơn mâm cỗ". Đó là cách ứng xử trong giao tiếp giữa người với người. Trong
tiếng việt thì từ chào thường đi đôi với từ hỏi và từ mời, cách chào hỏi, chào
mời ở mỗi địa phương thì lại có phong tục khác, còn lệ thuộc vào nhiều yếu tố.
Và ở đây ví lời chào với mâm cỗ thì ngụ ý hiểu rằng chào mời trong trường
hợp này thể hiện đức tính thân thiện, hiếu khách, coi trọng bạn bè, bằng hữu
hay xa hơn là coi trong con người. Câu chào luôn phải được nói ra trong mọi
hoàn cảnh thể hiện mình là người biết ứng xử phải phép, biểu hiện phong
cách riêng của một con người, biểu hiện một nề nếp của gia đình, một thuần
phong mỹ tục của địa phương và xa hơn là của cả một dân tộc Việt Nam.
Thứ ba là hệ thống các phong tục tập quán trong ngày Tết Nguyên Đán. Đây
là một dịp Tết truyền thống của dân ta mang giá trị nhân văn sâu sắc và trong
dịp Tết này cũng là lúc quy tụ đông đảo các phong tục tập quán đẹp của dân
ta từ thời xa xưa. Trước hết phải kể đến đó là tục cúng giao thừa - thời khắc
mà Đất Trời được giao thoa, vạn vật có thêm sức sống mới, mọi thứ đang
xoay chuyển sang một năm mới đầy khởi sắc. Dân gian ta coi giao thừa là
giờ phút thiêng liêng nhất, cũng giao thừa cũng chính là thể hiện truyền thống
uống nước nhớ nguồn. Việc cúng giao thừa cũng được cúng ngoài trời, ngoài
ban công là bởi các cụ ngày xưa hình dung trong phút cựu vương hành khiển
bàn giao việc cho tân vương luôn có quân đi, quân về đầy không trung tấp
nập, vội vã, thậm chí có quân còn chưa kịp ăn uống gì. Bởi vậy trong những
phút giây ấy, các gia đình đã đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả, toàn đồ ăn nguội
ra ngoài trời cúng với một lòng thành kính tiễn đưa người nhà trời đã cai quản
mình năm cũ và đón người nhà trời mới hạ giới làm nhiệm vụ trong năm mới.
Ngay sau khi cúng giao thừa thì gia đình sẽ cúng Thổ Công tức là cúng vị
thần cai quản trong nhà, lễ vật dâng tạ cũng tương tự như với cúng lễ Giao
Thừa. Khoảnh khắc này luôn là khoảnh khắc đẹp và thiêng liêng nhất cho
những giây phút đầu tiên của năm mới.
Bên cạnh đó trong dịp lễ Tết Nguyên Đán, có những phong tục tập quán rất
đẹp, rất hay mà từ trẻ đến già đều biết và lưu truyền khắp bao đời này như là
tục khai bút, khai canh, hái lộc, chúc tết, du xuân, mừng thọ,... Các thành
thiếu niên, gia đình nhà nhà ai cũng phải sắm cho được cành hoa bánh pháo,
nghèo thì cũng phải có chiếc bánh chưng, chai rượu, ấy mới là ngày Tết.
Quay trở lại những ngày trước Tết, không khí tấp nập đón tết của nhà nhà
cũng không kém phần hứng khởi. Cuối năm thì gia đình thường quét dọn nhà
cửa sạch sẽm sân ngõ, vứt bỏ những thứ không cần thiết, cùng làng xóm dọn
dẹp nhà thờ, đình chùa, đường xá phong quang, tắm giặt, cắt tóc, may sắm
quần áo mới, trang hoàng bàn thờ, nhà cửa và mọi thứ khác của gia đình.
Nhiều gia đình còn nhắc nhở, dặn dò con cháu từ phút giao thừa trở đi không
được quấy khóc, nghịch ngợm, cãi cọ nhau, không nói tục chửi bậy, không
được vứt rác, viết bừa bãi hay cắt tóc, cắt quần áo, cắt móng tay móng chân.
Cha mẹ, anh chị cũng sẽ không quở mắng, tra phạt con em, đối với ai cũng
tay bắt mặt mừng, vui vẻ và thật niềm nở. Đối với bà con lối xóng thì dù trong
năm cũ có điều gì không hay, không phải, điều nặng tiếng nhẹ hay xích mích
gì đều xúy xóa hết. Dẫu có là thực lòng hay không thì cũng không để bụng,
cũng không ai nói khích bác hoặc bóng gió, ác ý gì trong những ngày đầu
năm, chỉ còn lại là những lời chúc tốt lành dành cho nhau. Và một điều đặc
biệt, linh thiêng không kém chính là tục xông nhà, mừng tuổi. Ai cũng hy vọng
một năm mới tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh vượng, sức khỏe tiến bộ, thành đạt
hơn năm cũ. Nên việc xông nhà tức là người đầu tiên bước chân vào nhà
mình trong năm mới là một điều vô cùng quan trọng với gia chủ trong ngày
đầu xuân. Gia chủ sẽ thường chọn người hợp tuổi, hợp vía với năm đó và với
chủ nhà hoặc nếu chủ nhà là người hợp tuổi năm đó thì sẽ trực tiếp là người
xông nhà mình. Người nào được vinh dự mời xông nhà hộ thì đều phải rất
niềm nở, đúng hẹn, vui vẻ, phấn khởi khi bước chân vào nhà gia chủ như thể
tài lộc đến. Sau giao thừa thì sẽ là tục mừng tuổi chúc Tết. Phong tục này thì
cả trẻ con cho đến người già hay thanh niên đều rất hứng khởi vui đón.
Trước hết con cháu sẽ mừng tuổi ông bà, cha mẹ. Ông bà cha mẹ cũng
chuẩn bị một ít tiền để mừng tuổi cho con cháu trong nhà và con cháu hàng
xóm làng giềng, bạn bè thân thích. Lời chúc cũng được đi kèm với tấm lì xì trong năm mới.
Trong những ngày Tết thì người dân ta cũng rất hay biếu Quà Tết, lễ Tết khi
đến nhà nhau chúc Tết, thể hiện mối ân tình và đặc biệt nếu tặng, biếu trước
Tết thì càng có ý nghĩa sâu nặng, trân quý. Học trò biếu Tết thầy cô, các con
cháu biếu Tết ông bà, bạn bè bằng hữu gần xa chúc Tết nhau bằng những
món quà nhỏ không quan trọng giá trị thị trường của món quà. Tất cả đều
nhằm thể hiện tấm lòng, tấm chân tình dành cho nhau giữa người với người.
Một nét đẹp trong văn hóa ứng xử, giao tiếp của dân tộc Việt Nam ta.
Và có một phong tục tập quán khác trong ngày lễ Tết tuy bị pháp luật cấm
nhưng dân ta vẫn lưu truyền coi như vận đỏ đen, khai xuân đầu năm, đó
chính là chơi cờ bạc vào những ngày đầu xuân. Ngày xưa các gia đình có nề
nếp quanh năm đều cấm đoán con cháu không được chơi cờ bạc, rượu chè
nhưng trong dịp Tết, nhất là tối 28, 29 gia đình lại quây quần bên nồi bánh
chưng thì người bố cho phép vui chơi, có cả trẻ con lẫn người lớn, hàng xóm,
gia đình thân cận cùng góp cui. Tam cúc, cơ gánh, cờ nháy, cờ tướng, kiệu,
chăn, tổ tôm.. ai thích trò nào thì chơi trò đó. Để lễ khai hạ, tiễn đưa gia tiên,
coi như hết Tết thì xé bộ tam cúc, thu bàn cờ tướng, cất bộ tổ tôm hoặc đốt luôn khi hóa vàng.
Tựu chung lại, ngày Tết Nguyên Đán là một ngày tiêu biểu cho truyền thống
văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Những nét đẹp đó góp giá trị tinh thần vào
những ngày vui, ngày lễ thiêng liêng của dân tộc lại càng được tôn vinh và
quý trọng, mang trong mình một điều gì đó rất riêng mà có lẽ những nơi khác
không thể có được, không thể cảm nhận được.
Và ở Việt Nam chúng ta vẫn còn rất nhiều những phong tục tập quán đẹp đẽ
khác được lưu truyền từ nhiều đời nay như tục ma chay, đám giỗ, đi chùa...
Tất cả đều thể hiện tinh thần dân tộc, thể hiện một nét đẹp văn hóa quốc gia
và dần già như một món ăn tinh thần của người dân Việt Nam. Do vậy biết
gìn giữ và phát huy những nét đẹp đó chính là gìn giữ cái hồn thiêng của một
đất nước, một bản sắc riêng của dân tộc.
Như vậy trên đây là toàn bộ thông tin về Phong tục tập quán là gì? 100
Phong tục tập quán Việt Nam nên biết do Công ty Luật Minh Khuê biên
soạn và muốn gửi đến quý khách mang tính chất tham khảo. Hy vọng rằng từ
những thông tin mà chúng tôi nêu lên tại bài viết sẽ giúp quý khách hiểu thêm
về những nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam
Document Outline
- Phong tục tập quán là gì? 100 phong tục tập quán V
- 1. Khi nào thì được gọi là phong tục, tập quán?
- 2. Phong tục, tập quán có giá trị pháp lý không?
- 3. Vai trò của phong tục, tập quán Việt Nam
- 4. Top 100+ phong tục, tập quán vẫn còn lưu giữ tạ