Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính
gì? So sánh với các ngành luật khác?
1. Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính
Phương pháp điều chỉnh cách thức nhà nước áp dụng trong việc điều
chỉnh bằng pháp luật để tác động vào các quan hệ hội.
Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính phương pháp mênh lệnh
được hình thành t quan Ịiệ “quyền lực - phục tùng” giữa một bên quyền
nhân danh nhà nước ra những mệnh lệnh bắt buộc đối vói bên kia quan,
tổ chức hoặc nhân nghĩa vụ phục tùng các mệnh lệnh đó. Chính mối
quan hệ quyền lực - phục tùng” thể hiện sự không bình đẳng giữa các bên
tham gia quan hệ quản hành chính nhà nước. Sự không bình đẳng đó sự
không bình đẳng về ý chí thể hiên nét những điểm sau:
- Trước hết, sự không bình đẳng trong quan hệ quản hành chính nhà nước
thể hiên chỗ chủ thể quản quyền nhân danh nhà nước đ áp đặt ý chí
của mình lên đối tượng quản lí. Các quan hệ này rất đa dạng nên việc áp đặt
ý chí của chủ thể quản lên đối tượng quản lí trong những trường hợp khác
nhau được thực hiện dưới những hình thức khác nhau:
+ Hoặc một bên quyền ra các mệnh lệnh cụ thể hay đặt ra c quy định
bắt buộc đối với bên kia kiểm tra việc thực các quan hành chính nhà
nước vối c tổ chức hội, đơn vị kinh tế, c t chức nhân khác
không bắt nguồn t quan hệ tổ chức từ quan hệ "quyền lực - phục tùng".
Trong c quan hệ đó, quan hành chính nhà nước nhân danh n nước
để thực hiện chức ng chấp hành - điều hành trong lĩnh vực được phân
công phụ trách. Do vậy, các đối tượng kể trên phải phục tùng ý chí của Nhà
nước người đại diện quan hành chính nhà nước.
- S không bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản hành chính nhà
nước còn thể hiện nét trong tính chất đơn phương bắt buộc của c
quyết định hành chính.
Các quan hành chính n nước các chù thể quản hành chính khác,
dựa vào thẩm quyền của mình, trên sở phân ch, đánh giá tình hình
quyền ra những mệnh lệnh hoặc đề ra các biện pháp quản thích hợp đối với
từng đôì tượng cụ thể. Những quyết định ấy tính chất đơn phương
chúng thể hiện ý chí của chủ thể quản hành chính nhà nước trên sở
quyền lực đã được pháp luật quy định.
Trong thực tiễn quản những trường hợp quan hành chính n nước
ra quyết định do yêu cầu của quan cấp dưới, đơn vị trực thuộc hay của
nhân. Cũng nhiều trường hợp trước khi ra quyết định các chủ thể quản
hành chính nhà nước tổ chức trao đổi, thảo luân về nội dung quyết định với
sự tham gia của đại diện cho quan cấp dưới, đơn vị trực thuộc hoặc
những đối tượng liên quàn. Ngay cả trong những trường hợp y quyết
định của quan thẩm quyền vẫn tính chất đơn phương bởi yêu cầu
của các đối tượng liên quan, của cấp dưới hoặc ý kiến đóng góp trong các
cuộc thảo luận không tính chất quỹết định mà chỉ những ý kiến đ chủ
thể quản hành chính nhà nước nghiên cứu, xem xét, tham khảo trước khi ra
quyết định. quy phạm luật hành chính. Do vậy, nhiều quan hệ hội đồng
thời được điều chỉnh bởi các quy phạm luật hiến pháp các quy phạm luật
hành chính. Các quy phạm luật hiến pháp quy định những vấn đ chung
bản, còn quy phạm luật hành chính cụ thể hoá quy phạm luật hiến pháp
để điều chỉnh c quan hệ hội phát sinh trong quá trình hoạt động chấp
hành - điều hành của nhà nước. Nói cách khác, các quy phạm luật hiến pháp
quy định về t chức hoạt động của bộ máy n nước trong trạng thái nh,
còn các quy phạm luật hành chính quy định về tổ chức hoạt động của bộ
máy nhà nước trong trạng thái động.
2. So sánh phương áp điều chỉnh luật hành chính với luật dân
sự
Việc phân biệt hai ngành luật này chủ yếu dựa vào phương pháp điều chỉnh.
Phương pháp điều chỉnh ch yếu của luật dân sự bình đẳng, thoả thuận;
phương pháp điều chỉnh của luật hành chính mệnh lệnh đơn phương.
Trong quan hệ pháp luật dân sự các chủ thể bình đẳng về quyền nghĩa vụ.
Trong quan hệ pháp luật hành chính các chủ th không bình đẳng về quyền
nghĩa vụ: Một bên quyền ra mệnh lệnh còn bên kia nghĩa vụ phải
phục tùng.
Ngoài ra, để phân biệt hai ngành luật này còn thể căn cứ vào đối tượng
điều chỉnh của chúng. Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự những quan
hệ i sản mang tính chất hàng hoá - tiền tệ các quan hệ nhân thân. Đối
tượng điều chỉnh của luật hành chính các quan hội phát sinh trong
lĩnh vực chấp hành - điều hành. Trong một số trường hợp, hai ngành luật này
cùng điều chỉnh những quan hệ về tài sản nhưng các góc độ khác nhau.
Luật dân sự quy định nội dung quyền sở hữu, những hình thức chuyển
nhượng, sử dụng, định đoạt tài sản... Luật hành chính quy định những vấn đề
như thẩm quyền giải quyết ngân ch, quản phân phối nguồn vốn của
nhà nước, ng tác tín dụng, quản lưu thông tiền tệ V.V..
Các quy phạm của luật hành chính chủ yếu quy định thẩm quyền cùa bộ máy
quản tài chính, cấu tổ chức cũng như trình tự, thủ tục hoạt động của bộ
máy đó thủ tục tiến hành các quan tài chính. Còn các quy phạm của
luật tài chính ch yếu điều chỉnh bản thân các quan hệ tài chính, xác định nội
dung các quyết định của các quan tài chính.
3. So sánh phương áp điều chỉnh Luật nh chính với luật lao
động
Hai ngành luật này cùng điều chỉnh các vấn đề về tuyển dụng, sử dụng, cho
thôi việc đối với cán bộ, công chức, viên chức nhưng từ những góc độ khác
nhau.
Luật lao động điều chỉnh các vấn đề liên quan trực tiếp tới quyền lợi ích
của người lao động như quyền được nghỉ ngơi, quyền được trả lương, được
hưởng các chế độ bảo hiểm hội bảo hộ lao động V.V..
Luật hành chính xác định thẩm quyền của các quan hành chính nhà nước
trong lĩnh vực lao động đồng thời điều chỉnh những quan hệ liên quan đến
việc tổ chức quá trình lao động quy chế công vụ, quy định thủ tục tuyển
dụng, cho thôi việc, khen thưởng, kỉ luật v.v. đối với cán bộ, công chức, viên
chức.
4. So sánh phương áp điều chỉnh Luật hành chính với luật tố
tụng hành chính
Luật hành chính quy định thẩm quyền thủ tục giải quyết các khiếu nại hành
chính. Thủ tục giải quyết các khiếu nại hành chính do luật hành chính quy
định th tục hành chính.
Luật tố tụng hành chính quy định thẩm quyền thủ tục giải quyết khiếu kiện
hành chính. Thủ tục giải quyết khiếu kiện hành chính do luật tố tụng hành
chính quy định thủ tục tố tụng. Những nhiệm vụ đặt ra trước bộ máy nhà
nước nói chung trước từng quan nhà nước nói riêng.
Nguồn của luật hành chính không phải tất cả các văn bản quy phạm pháp
luật ch bao gồm những văn bản quy phạm pháp luật các quy phạm
pháp luật hành chính, tức những quy phạm pháp luật được ban hành để
điều chỉnh các quan hệ hội phát sinh trong hoạt động quản hành chính
nhà nước.
Phần lớn phần quan trọng trong nguồn của luật hành chính những
văn bản quy phạm pháp luật do c quan quyền lực nhà nước các
quan hành chính nhà nước ban hành trong phạm vi thẩm quyền của từng
quan.
Thông thường, các văn bản quy phạm pháp luật hành chính được ban hành
bởi một quan nhà nước thẩm quyền. Tuy nhiên, cũng những văn
bản do nhiều quan nhà nước thẩm quyền hoặc một quan nhà nước
thẩm quyền quan trung ương của tổ chức chính trị-xã hội phối hợp
ban hành.
Từ những điều đã phân ch trên cho thấy luật hành chính hệ thống
nguồn khá phức tạp. Nếu xem xét hơn thì điều đó nghĩa không
quan chuyên ban hành ch riêng các n bản quy phạm pháp luật hành chính.
Chúng được ban hành bởi nhiều quan khác nhau, chức năng nhiệm
vụ khác nhau, những cấp khác nhau. Tuy nhiên, những văn bản quy phạm
pháp luật hành chính đều xuất phát từ một nguồn - đó luật hiến pháp.
Căn cứ vào quan ban hành, nguồn của luật hành chính gổm sáu loại:
- Văn bản quy phạm pháp luật của các quan quyền lực nhà nước.
- Văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước.
Các luật quy định các vấn đề bản thuộc lĩnh vực kinh tế, hội, quốc
phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, ván hoá,
giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoạt, tổ chức hoạt
động của bộ máy nhà nước, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, quyền
nghĩa vụ của ng dân.
Các luật đều nội dung những quy định cụ thể, chi tiết những vấn đề
bản được ghi nhận trong hiến pháp. Thực tiễn lập pháp cho thấy luật quy định
những vấn đề quan trọng trong quản n nước hội khi những vấn đề
đó đã chín muồi đủ điều kiện để Quốc hội quy định ổn định trong thời
gian dài.
Trong các luật do Quốc hội ban hành, những luật chứa đựng quy phạm
pháp luật hành chính là nguồn quan trọng của luật hành chính (như Luật tổ
chức Chính phủ, Luật Cán bộ, Công chức V.V.).
- Nghị quyết của Quốc hội:
Nghị quyết của Quốc hội được ban hành để quyết định nhiệm vụ phát triển
kinh tế-xã hội; dự toán ngân sách nhà nước phân bổ ngân sách trung
ương; điều chỉnh ngân sách n nước; phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà
nước; quy định chế đ làm việc của Quốc hội, uỷ ban thường vụ Quốc hội,
Hội đồng dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu
Quốc hội; phê chuẩn điều ước quốc tế quyết định các vấn đề khác thuộc
thẩm quyền của Quốc hội.
Những nghị quyết hoặc phần của nghị quyết chứa đựng các quy phạm
pháp luật hành chính được coi nguồn của luật hành chính.
dụ: Nghị quyết của Quốc hội số 64/2013/QH13 ngày 28/11/2013 quy định
một số điểm thi hành Hiến pháp nước Cộng hoà hội chủ nghĩa Việt Nam.
hội đồng nhân dân các cấp ban hành được ban hành trong các trường
hợp sau đây:
+ Quyết định những chủ trương, chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi
hành hiến pháp, luật, văn bản của quan nhà nước cấp trên;
+ Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, ngân sách, quốc phòng, an
ninh địa phương;
+ Quyết định biện pháp ổn định nâng cao đời sống của nhân dân, hoàn
thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho;
+ Quyết định trong phạm vi thẩm quyền được giao những chủ trương, biện
pháp tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của
địa phương nhằm phát huy tiềm năng của địa phương nhưng không được trái
VỚỊ các n bản quy phạm pháp luật của quan nhà nước cấp trên;
+ Văn bản của quan nhà nước cấp trên giao cho hội đồng nhân dân quy
định một vấn đ cụ thể.
Khi trong nghị quyết các quy phạm pháp luật hành chính t nghị quyết
(hoặc một phần của ngh quyết) được coi là nguồn của luật hành chính.
dụ: Nghị quyết của Hội đồng nhân dân thành phố Nội số 08/2013/NQ-
HDND ngày 17/7/2013 về số lượng, chức danh, mức phụ cấp đối với người
hoạt động không chuyên trách , phường, thị trấn thôn, tổ dân phố
trên địa bàn thành phố Nội.
5. Văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước
Chù tịch nước quyền ban hành lệnh quyết định để thực hiên những
nhiệm vụ của Chủ tịch nước do hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định. Phần lớn các
văn bản do nghị quyết củá Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; quy định nhiệm vụ,
quyền hựn, tổ chức bộ máy của các bộ, quan ngang bộ, quan thuộc
Chính phủ c quan khác thuộc thẩm quyền của Chính phủ; các biện
pháp cụ thể để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ. Loại thứ hai là
nghị định quy định những vấn đề hết sức cần thiết nhưng chưa đủ điều kiện
xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản nhà nước,
quản kinh tế, quản hội. Đối với loại thứ hai thì việc ban hành những
nghị định y phải được sự đồng ý của uỷ ban thường vụ Quốc hội.
dụ: Nghị định của Chính ph số 15/2014/NĐ-CP ngày 27/02/2014 quy định
chi tiết một số điều biện pháp thi hành Luật hòa giải sở.
6. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ:
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ được ban hành để quy định các vấn đề
sau đây:
+ Biện pháp lãnh đạo, điều hành hoạt động của Chính phủ hệ thống hành
chính nhà nước từ trung ương đến sở; chế độ làm việc vói các thành viên
Chính phủ, chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
c vấh đề khác thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ;
+ Biện pháp chỉ đ'ạo, phối hợp hoạt động của các thành viên Chính phủ; kiểm
tra hoạt động của các bộ, quan ngang bộ, quan thuộc Chính phủ, uỷ
ban nhân dân các cấp trong việc thực hiện chủ trương, chính ch, pháp luật
của Nhà nước.
dụ: Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 06/2014/QĐ-TTg ngày
20/31/2014 về việc ban hành Quy chế phôi hợp tìm kiêm, cứu nạn trên biển
trong vùng nước cảng biển.
- Thông của Bộ trưởng, thủ trưởng quan ngang bộ nước trong phạm vi
địa phương được coi nguồn của luật hành chính.
dụ: Quyết định của U ban nhân dân tỉnh Mau số 18/2013/QD-UBND
ngày 18/11/2013 ban hành quy định về phân cấp quản tổ chức bộ máy,
công chức thuộc thẩm quyền quản của Uỷ ban nhân dân tỉnh Mau.
7. Chỉ thị của uỷ ban nhân dân:
Chỉ thị của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cấp huyện được ban hành để quy
định các biên pháp ch đạo, phối hợp hoạt động, đôn đốc kiểm tra hoạt
động của các quan, đơn vị trực thuộc của hội đồng nhân dân, uỷ ban
nhân dân cấp dưới trong việc thực hiện văn bản của quan n nước cấp
trên, của hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định của mình. Chỉ thị của uỷ
ban nhân dân cấp được ban hành đê’ quy định các biện pháp để chỉ đạo,
kiểm tra hoạt động của các quan, tổ chức, nhân thuộc phạm vi quản
trong việc thực hiện văn bản của quan n nước cấp trên, của hội đồng
nhân dân cùng cấp quyết định của mình.
Nếu trong chỉ thị chứa đựng quy phạm pháp lúật hành chính thì được coi
nguồn của luật hành chính.
dụ: Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh số 17/2008/CT-
UBND ngày 08/9/2Ớ08 về quản n nước về vật liệu xây dựng trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh.
8. Văn bản quy phạm pháp luật của Toà án nhân dân tối cao
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
- Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán T án nhân n tôì cao:
Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao được ban hành
để hướng dẫn các toà án áp dụng thống nhất pháp luật.
9. Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch
-Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các bộ trưởng, thủ trưởng
quan ngang bộ.
Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa c bộ trưởng, thủ trưởng quan
ngang bộ được ban hành dưới hình thức thông liên tịch.
Thông tư hên tịch giữa các bộ, quan ngang bộ được ban hành đ hướng
dẫn thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lênh, nghị quyết của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; nghị định của Chính
phủ; quyết định của Thủ tướng chính phủ liên quan đến chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của các quan đó.
Phần lớn thông tư liên tịch loại này nguồn của luật hành chính.
dụ: Thông liên tịch của Bộ công an, Bộ quốc phòng, Bộ ngoại giao, Bộ
lao động-thương binh hội số 03/2008/TTLT-BCA-BQP-BNG-BLDTBXH
ngày 08/5/2008 hướng dẫn trình tự, thủ tục xác minh, tiếp nhận ph nữ, trẻ
em bị buôn n t nước ngoài trở về.
- Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa Chánh án Toà án nhân dân tối
cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa bộ trưởng, thủ
trưởng quan ngang bộ với Chánh án T án nhân n tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Văn bản chung của những quan kể trên được ban hành dưới hình thức
thông liên tịch. Chúng được ban hành để hướng dẫn việc áp dụng thống
nhất pháp luật trong hoạt động tố tụng những vấn đề khác liên quan đến
nhiêm vụ, quyền hạn của các quan đó.
Phần của thông liên tịch chứa đựng quy phạm pháp bản liên tịch giữa
bộ trưởng, th trưởng quan ngang bộ với quan trung ương của tổ chức
chính trị-xã hội. Theo quy định tại khoản 2 Điều 95 Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật năm 2008 thì những văn bản đó vẫn tiếp tục hiệu lực
cho đến khi bị bãi bỏ, huỷ bỏ hoặc được thay thế bằng văn bản quy phạm
pháp luật khác.
Nhiệm vụ quan trọng đặt ra trước các quan nhà nước thường xuyên
soát, định hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật; nếu phát hiên
quy định trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp thì
tự mình hoặc kiến nghị vói quan nhà ớc thẩm quyền kịp thời sửa đổi,
bổ sung, thay thế, i bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành.
Riêng đối với luật hành chính thì nhiệm vụ hệ thống h đặc biệt phức tạp
những lí do sau đây:
- Khối lượng quan hệ hội do luật hành chính điềụ chỉnh rất lớn.
- Đối tượng điều chỉnh của luật hành chính rất đa dạng.
- Bản thân pháp luật hành chính luôn biến động để đáp ứng kịp với thay đổi
của tình hình trong từng ngành, từng lĩnh vực của quản hành chính n
nước.
So với các ngành luật khác, số lượng văn bản quy phạm pháp luật hành
chính nhiều hơn cả. Những quy phạm pháp luật hành chính được ban
hành bed rất nhiều quan những cấp, nhũng ngành khác nhau nên khả
năng ban hành ra những quy định trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn không
thể tránh khỏi. Trong tình hình đó, việc nắm vững để thực hiện đúng các quy
định pháp luật nhiệm vụ rất khó khăn. Đồng thời việc kế hoạch hóa công
tác y dựng pháp luật nhằm cải tiến hoạt động quản lí hành chính nhà ớc
cũng gặp nhiều trở ngại.
Hệ thống hóa nguồn của luật hành chính biện pháp hội trong lĩnh vực
được pháp điển phải tính chất tương đối Ổn định ranh giới tương đối
ràng.
Việt Nam hiện nay, công tác hệ thống hoá nguồn của luật hành chính chủ
yếu được tiến hành dưới dạng tập hợp hoá.

Preview text:

Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính là
gì? So sánh với các ngành luật khác?
1. Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính
Phương pháp điều chỉnh là cách thức mà nhà nước áp dụng trong việc điều
chỉnh bằng pháp luật để tác động vào các quan hệ xã hội.
Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính là phương pháp mênh lệnh
được hình thành từ quan Ịiệ “quyền lực - phục tùng” giữa một bên có quyền
nhân danh nhà nước ra những mệnh lệnh bắt buộc đối vói bên kia là cơ quan,
tổ chức hoặc cá nhân có nghĩa vụ phục tùng các mệnh lệnh đó. Chính mối
quan hệ “quyền lực - phục tùng” thể hiện sự không bình đẳng giữa các bên
tham gia quan hệ quản lí hành chính nhà nước. Sự không bình đẳng đó là sự
không bình đẳng về ý chí và thể hiên rõ nét ở những điểm sau:
- Trước hết, sự không bình đẳng trong quan hệ quản lí hành chính nhà nước
thể hiên ở chỗ chủ thể quản lí có quyền nhân danh nhà nước để áp đặt ý chí
của mình lên đối tượng quản lí. Các quan hệ này rất đa dạng nên việc áp đặt
ý chí của chủ thể quản lí lên đối tượng quản lí trong những trường hợp khác
nhau được thực hiện dưới những hình thức khác nhau:
+ Hoặc một bên có quyền ra các mệnh lệnh cụ thể hay đặt ra các quy định
bắt buộc đối với bên kia và kiểm tra việc thực các cơ quan hành chính nhà
nước vối các tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế, các tổ chức và cá nhân khác
không bắt nguồn từ quan hệ tổ chức mà từ quan hệ "quyền lực - phục tùng".
Trong các quan hệ đó, cơ quan hành chính nhà nước nhân danh nhà nước
để thực hiện chức năng chấp hành - điều hành trong lĩnh vực được phân
công phụ trách. Do vậy, các đối tượng kể trên phải phục tùng ý chí của Nhà
nước mà người đại diện là cơ quan hành chính nhà nước.
- Sự không bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lí hành chính nhà
nước còn thể hiện rõ nét trong tính chất đơn phương và bắt buộc của các quyết định hành chính.
Các cơ quan hành chính nhà nước và các chù thể quản lí hành chính khác,
dựa vào thẩm quyền của mình, trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình có
quyền ra những mệnh lệnh hoặc đề ra các biện pháp quản lí thích hợp đối với
từng đôì tượng cụ thể. Những quyết định ấy có tính chất đơn phương vì
chúng thể hiện ý chí của chủ thể quản lí hành chính nhà nước trên cơ sở
quyền lực đã được pháp luật quy định.
Trong thực tiễn quản lí có những trường hợp cơ quan hành chính nhà nước
ra quyết định do yêu cầu của cơ quan cấp dưới, đơn vị trực thuộc hay của cá
nhân. Cũng có nhiều trường hợp trước khi ra quyết định các chủ thể quản lí
hành chính nhà nước tổ chức trao đổi, thảo luân về nội dung quyết định với
sự tham gia của đại diện cho cơ quan cấp dưới, đơn vị trực thuộc hoặc
những đối tượng có liên quàn. Ngay cả trong những trường hợp này quyết
định của cơ quan có thẩm quyền vẫn có tính chất đơn phương bởi vì yêu cầu
của các đối tượng có liên quan, của cấp dưới hoặc ý kiến đóng góp trong các
cuộc thảo luận không có tính chất quỹết định mà chỉ là những ý kiến để chủ
thể quản lí hành chính nhà nước nghiên cứu, xem xét, tham khảo trước khi ra
quyết định. quy phạm luật hành chính. Do vậy, có nhiều quan hệ xã hội đồng
thời được điều chỉnh bởi các quy phạm luật hiến pháp và các quy phạm luật
hành chính. Các quy phạm luật hiến pháp quy định những vấn đề chung và
cơ bản, còn quy phạm luật hành chính cụ thể hoá quy phạm luật hiến pháp
để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hoạt động chấp
hành - điều hành của nhà nước. Nói cách khác, các quy phạm luật hiến pháp
quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trong trạng thái tĩnh,
còn các quy phạm luật hành chính quy định về tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước trong trạng thái động.
2. So sánh phương áp điều chỉnh luật hành chính với luật dân sự
Việc phân biệt hai ngành luật này chủ yếu dựa vào phương pháp điều chỉnh.
Phương pháp điều chỉnh chủ yếu của luật dân sự là bình đẳng, thoả thuận;
phương pháp điều chỉnh của luật hành chính là mệnh lệnh đơn phương.
Trong quan hệ pháp luật dân sự các chủ thể bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.
Trong quan hệ pháp luật hành chính các chủ thể không bình đẳng về quyền
và nghĩa vụ: Một bên có quyền ra mệnh lệnh còn bên kia có nghĩa vụ phải phục tùng.
Ngoài ra, để phân biệt hai ngành luật này còn có thể căn cứ vào đối tượng
điều chỉnh của chúng. Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự là những quan
hệ tài sản mang tính chất hàng hoá - tiền tệ và các quan hệ nhân thân. Đối
tượng điều chỉnh của luật hành chính là các quan hê xã hội phát sinh trong
lĩnh vực chấp hành - điều hành. Trong một số trường hợp, hai ngành luật này
cùng điều chỉnh những quan hệ về tài sản nhưng ở các góc độ khác nhau.
Luật dân sự quy định nội dung quyền sở hữu, những hình thức chuyển
nhượng, sử dụng, định đoạt tài sản... Luật hành chính quy định những vấn đề
như thẩm quyền giải quyết ngân sách, quản lí và phân phối nguồn vốn của
nhà nước, công tác tín dụng, quản lí lưu thông tiền tệ V.V..
Các quy phạm của luật hành chính chủ yếu quy định thẩm quyền cùa bộ máy
quản lí tài chính, cơ cấu tổ chức cũng như trình tự, thủ tục hoạt động của bộ
máy đó và thủ tục tiến hành các quan hê tài chính. Còn các quy phạm của
luật tài chính chủ yếu điều chỉnh bản thân các quan hệ tài chính, xác định nội
dung các quyết định của các cơ quan tài chính.
3. So sánh phương áp điều chỉnh Luật hành chính với luật lao động
Hai ngành luật này cùng điều chỉnh các vấn đề về tuyển dụng, sử dụng, cho
thôi việc đối với cán bộ, công chức, viên chức nhưng từ những góc độ khác nhau.
Luật lao động điều chỉnh các vấn đề có liên quan trực tiếp tới quyền và lợi ích
của người lao động như quyền được nghỉ ngơi, quyền được trả lương, được
hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội và bảo hộ lao động V.V.
Luật hành chính xác định thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước
trong lĩnh vực lao động đồng thời điều chỉnh những quan hệ liên quan đến
việc tổ chức quá trình lao động và quy chế công vụ, quy định thủ tục tuyển
dụng, cho thôi việc, khen thưởng, kỉ luật v.v. đối với cán bộ, công chức, viên chức.
4. So sánh phương áp điều chỉnh Luật hành chính với luật tố tụng hành chính
Luật hành chính quy định thẩm quyền và thủ tục giải quyết các khiếu nại hành
chính. Thủ tục giải quyết các khiếu nại hành chính do luật hành chính quy
định là thủ tục hành chính.
Luật tố tụng hành chính quy định thẩm quyền và thủ tục giải quyết khiếu kiện
hành chính. Thủ tục giải quyết khiếu kiện hành chính do luật tố tụng hành
chính quy định là thủ tục tố tụng. Những nhiệm vụ đặt ra trước bộ máy nhà
nước nói chung và trước từng cơ quan nhà nước nói riêng.
Nguồn của luật hành chính không phải là tất cả các văn bản quy phạm pháp
luật mà chỉ bao gồm những văn bản quy phạm pháp luật có các quy phạm
pháp luật hành chính, tức là những quy phạm pháp luật được ban hành để
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động quản lí hành chính nhà nước.
Phần lớn và là phần quan trọng trong nguồn của luật hành chính là những
văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan quyền lực nhà nước và các cơ
quan hành chính nhà nước ban hành trong phạm vi thẩm quyền của từng cơ quan.
Thông thường, các văn bản quy phạm pháp luật hành chính được ban hành
bởi một cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, cũng có những văn
bản do nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc một cơ quan nhà nước
có thẩm quyền và cơ quan trung ương của tổ chức chính trị-xã hội phối hợp ban hành.
Từ những điều đã phân tích ở trên cho thấy luật hành chính có hệ thống
nguồn khá phức tạp. Nếu xem xét kĩ hơn thì điều đó có nghĩa là không có cơ
quan chuyên ban hành chỉ riêng các văn bản quy phạm pháp luật hành chính.
Chúng được ban hành bởi nhiều cơ quan khác nhau, có chức năng và nhiệm
vụ khác nhau, ở những cấp khác nhau. Tuy nhiên, những văn bản quy phạm
pháp luật hành chính đều xuất phát từ một nguồn - đó là luật hiến pháp.
Căn cứ vào cơ quan ban hành, nguồn của luật hành chính gổm sáu loại:
- Văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan quyền lực nhà nước.
- Văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước.
Các luật quy định các vấn đề cơ bản thuộc lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc
phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, ván hoá,
giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoạt, tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, quyền và nghĩa vụ của công dân.
Các luật đều có nội dung là những quy định cụ thể, chi tiết những vấn đề cơ
bản được ghi nhận trong hiến pháp. Thực tiễn lập pháp cho thấy luật quy định
những vấn đề quan trọng trong quản lí nhà nước và xã hội khi những vấn đề
đó đã chín muồi và có đủ điều kiện để Quốc hội quy định ổn định trong thời gian dài.
Trong các luật do Quốc hội ban hành, những luật có chứa đựng quy phạm
pháp luật hành chính là nguồn quan trọng của luật hành chính (như Luật tổ
chức Chính phủ, Luật Cán bộ, Công chức V.V.).
- Nghị quyết của Quốc hội:
Nghị quyết của Quốc hội được ban hành để quyết định nhiệm vụ phát triển
kinh tế-xã hội; dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung
ương; điều chỉnh ngân sách nhà nước; phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà
nước; quy định chế độ làm việc của Quốc hội, uỷ ban thường vụ Quốc hội,
Hội đồng dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu
Quốc hội; phê chuẩn điều ước quốc tế và quyết định các vấn đề khác thuộc
thẩm quyền của Quốc hội.
Những nghị quyết hoặc phần của nghị quyết có chứa đựng các quy phạm
pháp luật hành chính được coi là nguồn của luật hành chính.
Ví dụ: Nghị quyết của Quốc hội số 64/2013/QH13 ngày 28/11/2013 quy định
một số điểm thi hành Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
mà hội đồng nhân dân các cấp ban hành và được ban hành trong các trường hợp sau đây:
+ Quyết định những chủ trương, chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi
hành hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên;
+ Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương;
+ Quyết định biện pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, hoàn
thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho;
+ Quyết định trong phạm vi thẩm quyền được giao những chủ trương, biện
pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của
địa phương nhằm phát huy tiềm năng của địa phương nhưng không được trái
VỚỊ các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên;
+ Văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên giao cho hội đồng nhân dân quy
định một vấn đề cụ thể.
Khi trong nghị quyết có các quy phạm pháp luật hành chính thì nghị quyết
(hoặc một phần của nghị quyết) được coi là nguồn của luật hành chính.
Ví dụ: Nghị quyết của Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội số 08/2013/NQ-
HDND ngày 17/7/2013 về số lượng, chức danh, mức phụ cấp đối với người
hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn và ở thôn, tổ dân phố
trên địa bàn thành phố Hà Nội.
5. Văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước
Chù tịch nước có quyền ban hành lệnh và quyết định để thực hiên những
nhiệm vụ của Chủ tịch nước do hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định. Phần lớn các
văn bản do nghị quyết củá Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; quy định nhiệm vụ,
quyền hựn, tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ và các cơ quan khác thuộc thẩm quyền của Chính phủ; các biện
pháp cụ thể để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ. Loại thứ hai là
nghị định quy định những vấn đề hết sức cần thiết nhưng chưa đủ điều kiện
xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lí nhà nước,
quản lí kinh tế, quản lí xã hội. Đối với loại thứ hai thì việc ban hành những
nghị định này phải được sự đồng ý của uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Ví dụ: Nghị định của Chính phủ số 15/2014/NĐ-CP ngày 27/02/2014 quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hòa giải ở cơ sở.
6. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ:
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ được ban hành để quy định các vấn đề sau đây:
+ Biện pháp lãnh đạo, điều hành hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành
chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở; chế độ làm việc vói các thành viên
Chính phủ, chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
và các vấh đề khác thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ;
+ Biện pháp chỉ đ'ạo, phối hợp hoạt động của các thành viên Chính phủ; kiểm
tra hoạt động của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, uỷ
ban nhân dân các cấp trong việc thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Ví dụ: Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 06/2014/QĐ-TTg ngày
20/31/2014 về việc ban hành Quy chế phôi hợp tìm kiêm, cứu nạn trên biển
và trong vùng nước cảng biển.
- Thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ nước trong phạm vi
địa phương được coi là nguồn của luật hành chính.
Ví dụ: Quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh Cà Mau số 18/2013/QD-UBND
ngày 18/11/2013 ban hành quy định về phân cấp quản lí tổ chức bộ máy,
công chức thuộc thẩm quyền quản lí của Uỷ ban nhân dân tỉnh Cà Mau.
7. Chỉ thị của uỷ ban nhân dân:
Chỉ thị của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện được ban hành để quy
định các biên pháp chỉ đạo, phối hợp hoạt động, đôn đốc và kiểm tra hoạt
động của các cơ quan, đơn vị trực thuộc và của hội đồng nhân dân, uỷ ban
nhân dân cấp dưới trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp
trên, của hội đồng nhân dân cùng cấp và quyết định của mình. Chỉ thị của uỷ
ban nhân dân cấp xã được ban hành đê’ quy định các biện pháp để chỉ đạo,
kiểm tra hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lí
trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, của hội đồng
nhân dân cùng cấp và quyết định của mình.
Nếu trong chỉ thị có chứa đựng quy phạm pháp lúật hành chính thì được coi
là nguồn của luật hành chính.
Ví dụ: Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh số 17/2008/CT-
UBND ngày 08/9/2Ớ08 về quản lí nhà nước về vật liệu xây dựng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
8. Văn bản quy phạm pháp luật của Toà án nhân dân tối cao và
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
- Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tôì cao:
Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao được ban hành
để hướng dẫn các toà án áp dụng thống nhất pháp luật.
9. Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch
-Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan
ngang bộ được ban hành dưới hình thức thông tư liên tịch.
Thông tư hên tịch giữa các bộ, cơ quan ngang bộ được ban hành để hướng
dẫn thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lênh, nghị quyết của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; nghị định của Chính
phủ; quyết định của Thủ tướng chính phủ có liên quan đến chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của các cơ quan đó.
Phần lớn thông tư liên tịch loại này là nguồn của luật hành chính.
Ví dụ: Thông tư liên tịch của Bộ công an, Bộ quốc phòng, Bộ ngoại giao, Bộ
lao động-thương binh và xã hội số 03/2008/TTLT-BCA-BQP-BNG-BLDTBXH
ngày 08/5/2008 hướng dẫn trình tự, thủ tục xác minh, tiếp nhận phụ nữ, trẻ
em bị buôn bán từ nước ngoài trở về.
- Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa Chánh án Toà án nhân dân tối
cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa bộ trưởng, thủ
trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Văn bản chung của những cơ quan kể trên được ban hành dưới hình thức
thông tư liên tịch. Chúng được ban hành để hướng dẫn việc áp dụng thống
nhất pháp luật trong hoạt động tố tụng và những vấn đề khác liên quan đến
nhiêm vụ, quyền hạn của các cơ quan đó.
Phần của thông tư liên tịch có chứa đựng quy phạm pháp bản liên tịch giữa
bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ với cơ quan trung ương của tổ chức
chính trị-xã hội. Theo quy định tại khoản 2 Điều 95 Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật năm 2008 thì những văn bản đó vẫn tiếp tục có hiệu lực
cho đến khi bị bãi bỏ, huỷ bỏ hoặc được thay thế bằng văn bản quy phạm pháp luật khác.
Nhiệm vụ quan trọng đặt ra trước các cơ quan nhà nước là thường xuyên rà
soát, định kì hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật; nếu phát hiên có
quy định trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp thì
tự mình hoặc kiến nghị vói cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời sửa đổi,
bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành.
Riêng đối với luật hành chính thì nhiệm vụ hệ thống hoá là đặc biệt phức tạp vì những lí do sau đây:
- Khối lượng quan hệ xã hội do luật hành chính điềụ chỉnh rất lớn.
- Đối tượng điều chỉnh của luật hành chính rất đa dạng.
- Bản thân pháp luật hành chính luôn biến động để đáp ứng kịp với thay đổi
của tình hình trong từng ngành, từng lĩnh vực của quản lí hành chính nhà nước.
So với các ngành luật khác, số lượng văn bản quy phạm pháp luật hành
chính là nhiều hơn cả. Những quy phạm pháp luật hành chính được ban
hành bed rất nhiều cơ quan ở những cấp, nhũng ngành khác nhau nên khả
năng ban hành ra những quy định trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn là không
thể tránh khỏi. Trong tình hình đó, việc nắm vững để thực hiện đúng các quy
định pháp luật là nhiệm vụ rất khó khăn. Đồng thời việc kế hoạch hóa công
tác xây dựng pháp luật nhằm cải tiến hoạt động quản lí hành chính nhà nước
cũng gặp nhiều trở ngại.
Hệ thống hóa nguồn của luật hành chính là biện pháp cơ hội trong lĩnh vực
được pháp điển phải có tính chất tương đối Ổn định và có ranh giới tương đối rõ ràng.
Ở Việt Nam hiện nay, công tác hệ thống hoá nguồn của luật hành chính chủ
yếu được tiến hành dưới dạng tập hợp hoá.
Document Outline

  • Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính là gì?
    • 1. Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính
    • 2. So sánh phương áp điều chỉnh luật hành chính vớ
    • 3. So sánh phương áp điều chỉnh Luật hành chính vớ
    • 4. So sánh phương áp điều chỉnh Luật hành chính vớ
    • 5. Văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước
    • 6. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ:
    • 7. Chỉ thị của uỷ ban nhân dân:
    • 8. Văn bản quy phạm pháp luật của Toà án nhân dân
    • 9. Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch