


Preview text:
Phương pháp điều chỉnh của ngành Luật Hình Sự là phương pháp mệnh lệnh-
phục tùng. Theo đó, Nhà nước, trong quan hệ pháp luật hình sự, có quyền buộc
người phạm tội phải chịu TNHS, chịu hình phạt- biện pháp cưỡng chế Nhà nước
nghiêm khắc nhất, người phạm tội không có cách nào khác ngoài nghĩa vụ tuân thủ.
Luật Hình sự có phương pháp điều chỉnh riêng biệt vì quan hệ xã hội được Luật
Hình sự điều chỉnh là quan hệ hình thành giữa Nhà nước và người phạm tội. Nhà
nước dùng uy quyền để quy định tội phạm ấy, ấn định hình phạt buộc người phạm
tội chịu hình phạt ấy. Tính uy quyền trong phương pháp điều chỉnh của Luật Hình sự là:
– Nhà nước tự mình quy định hành vi nào là hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm;
– Nhà nước giao nhiệm vụ xử lý tội phạm cho các cơ quan tư pháp. Những cơ quan
này có quyền nhân danh Nhà nước điều tra, truy tố, xét xử, xác định hình phạt,
buộc người phạm tội phải chấp hành hình phạt;
Nhược điểm của ngành Luật Hình Sự đối với Nhà Nước
Thứ nhất, còn ở trong tình trạng thiếu quy phạm chưa đáp ứng được các yêu
cầu của sự phát triển kinh tế
Hạn chế thứ nhất, nguồn luật hình sự Việt Nam đến nay vẫn còn ở trong tình trạng
thiếu quy phạm, “thiếu luật” cần thiết và phần nào đó, chưa đáp ứng được các yêu
cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Tình trạng “thiếu luật” trong lĩnh
vực luật hình sự thể hiện ở hai khía cạnh:
- Thiếu các quy phạm pháp luật hình sự quy định về tội phạm và hình phạt tương
thích với các đạo luật chuyên ngành. Hiện nay, các đạo luật chuyên ngành được
ban hành ngày càng nhiều và tương ứng với các đạo luật này là các Nghị định quy
định xử phạt hành chính các hành vi vi phạm pháp luật chuyên ngành với số lượng
rất lốn. So với sự phát triển này, sự vận động của hệ thông quy phạm pháp luật
hình sự, do bị cố định trong khuôn khổ cứng nhắc của Bộ luật hình sự, đã trở nên
chậm chạp và chưa đáp ứng kịp thời được nhu cầu thực tế, nhất là yêu cầu trong
các lĩnh vực mà sự vận động của các lĩnh vực đó được đẩy mạnh bởi quá trình hội
nhập kinh tế nhanh chóng của Việt Nam vối thế giới như lĩnh vực công nghệ thông
tin, sở hữu trí tuệ và thị trường chứng khoán;
- Thiếu các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự. Từ khi Bộ luật hình sự
năm 1985 được ban hành cho đến thòi điểm chính thức hết hiệu lực là ngày 01-7-
2000, rất nhiều các quy định của Bộ luật này đã không được hướng dẫn mặc dù đã
có nhiều ý kiến phản hồi từ thực tiễn rằng việc áp dụng các quy định đó gặp khó
khăn, vưống mắc. Tình trạng này cũng đã lặp lại tương tự như vậy đối với Bộ luật
hình sự năm 1999 và Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành.
Đây rõ ràng là một bất cập không nhỏ của nguồn luật hình sự Việt Nam đã có từ 25
năm qua và vẫn tồn tại cho đến thời điểm hiện nay.
Thứ hai, còn tồn tại nhiều quy phạm trừu tượng, chung chung chưa được hướng dẫn
Hạn chế thứ hai của nguồn luật hình sự Việt Nam liên quan đến tính rành mạch, cụ
thể của pháp luật hình sự. Mặc dù đã có những cải thiện đáng kể so với các giai
đoạn trước song hiện nay, trong hệ thông nguồn luật hình sự Việt Nam còn quá
nhiều các quy phạm trừu tượng, chung chung chưa được giải thích, hướng dẫn cụ
thể. Có những quy phạm, thậm chí được coi là “cái túi” để vận dụng, xử lý khi
không vận dụng các quy phạm khác được. Thêm vào đó, tình trạng “luật công văn”
vẫn còn phổ biến và chưa có cơ chế kiểm soát hữu hiệu. Điều này xảy ra một phần
là do Việt Nam chưa chính thức thừa nhận "án lệ là nguồn luật hình sự" nhưng
cũng không có quy định nào chính thức phủ định loại hình nguồn luật này. Chính
sự “nhùng nhằng”, thiếu rõ ràng như vậy đã làm cản trở sự phát triển có thể có của
nguồn luật hình sự Việt Nam trong những năm qua.
Thứ ba, kết quả khoa học pháp lý hình sự còn quá khiêm tốn
Hạn chế thứ ba của nguồn luật hình sự Việt Nam liên quan đến phát triển của khoa
học pháp lý Việt Nam. Sự phát triển của khoa học pháp lý hình sự Việt Nam trong
những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể và đây là mặt mạnh, là cái
chúng ta đã làm được trong việc phát triển nguồn luật hình sự Việt Nam. Tuy
nhiên, ở khía cạnh thứ hai, khi đối chiếu sự phát triển này với những yêu cầu, đòi
hỏi của thực tiễn xây dựng và áp dụng pháp luật đặt ra thì cần phải thẳng thắn thừa
nhận rằng, những kết quả mà nền khoa học pháp lý hình sự Việt Nam có được cho
đến nay còn quá khiêm tốn. Khoa học pháp lý nước ta chưa thực sự có các công
trình nghiên cứu lớn cũng như chưa có các học thuyết pháp lý định hướng cho sự
phát triển của luật hình sự cho một tương lai lâu dài. Ở một góc độ nào đó, có thể
xem đây là mặt yếu, là nhược điểm của thực tiễn nguồn luật hình sự Việt Nam giai
đoạn từ năm 1985 đến nay cần thiết phải có sự thay đổi trong thời gian tới.
Document Outline
- Nhược điểm của ngành Luật Hình Sự đối với Nhà Nước
- Thứ hai, còn tồn tại nhiều quy phạm trừu tượng, ch
- Thứ ba, kết quả khoa học pháp lý hình sự còn quá k