



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61457685
1. Trình bày phương pháp luận nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng
Cộngsản Việt Nam. Tại sao trong nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam phải chú trọng nhận thức theo quan điểm khách quan, toàn diện
và lịch sử cụ thể? Trả lời:
1.1 Phương pháp luận nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
- Phương pháp luận nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cần
dựa trên phương pháp luận khoa học marxist, đặc biệt là nắm vững chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để xem xét và nhận thức lịch sử một
cách khách quan, trung thực và đúng quy luật.
– Cùng với chủ nghĩa Marx – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh dẫn dắt sự nghiệp
cách mạng của Đảng và dân tộc. Nghiên cứu, nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh có ý
nghĩa quan trọng để hiểu rõ lịch sử Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh và tư duy, phong
cách khoa học của Người là cơ sở và định hướng về phương pháp nghiên cứu, học
tập Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, không ngừng sáng tạo, chống chủ nghĩa giáo
điều và chủ quan duy ý chí.
1.2. Trong nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam phải chú
trọng nhận thức theo quan điểm khách quan, toàn diện và lịch sử cụ thể, vì:
- Quan điểm khách quan trọng nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam thể hiện: lOMoAR cPSD| 61457685
+ Lịch sử (quá trình phát triển của xã hội loài người) là một hiện thực đã diễn ra
trong quá khứ, tồn tại độc lập khách quan, là đối tượng nghiên cứu của sử học.
+ Khoa học Lịch sử có khả năng nhận thức được lịch sử nhưng không phải là nhận
thức trực quan, tuyệt đối mà là quá trình tiệm cận với lịch sử, chân lí trong sử học
mang tính chất tương đối.
+ Nhà sử học, chủ thể của nhận thức lịch sử, luôn để lại dấu ấn chủ quan trong tất cả
các khẩu của hoạt động nhận thức. Cũng giống như mọi thành viên xã hội khác, nhà
sử học luôn thuộc về một giai cấp nhất định và do đó luôn mang quan điểm giai cấp
để khôi phục sự kiện và giải thích lịch sử. Trong thời hiện đại, nhà sử học dựa trên
lập trường của giai cấp vô sản để lí giải lịch sử thì có khả năng thiết lập được sự phù
hợp giữa cái chủ quan của người nghiên cứu với cái khách quan của hiện thực lịch
sử. Lập trường giai cấp chính là tính đảng trong sử học marxist và ở đây tính đảng
và tính khoa học có sự thống nhất.
+ Trong quá trình nghiên cứu, học tập Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, để đảm bảo
tính khách quan, chúng ta cần dựa vào vào nguồn sử liệu về Đảng Cộng sản Việt
Nam. Nguồn sử liệu ấy cần được xử lí, xác minh một cách khoa học.
Như vậy, quan điểm khách quan sẽ giúp nhà nghiên cứu, người học tập nhìn nhận
các vấn đề thuộc về môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam một cách chân thực, chính xác.
- Quan điểm toàn diện:
Khoa học Lịch sử Đảng là “một hệ thống tri thức về quá trình hoạt động đa dạng và
phong phú của Đảng trong mối quan hệ mật thiết với tiến trình lịch sử của dân tộc lOMoAR cPSD| 61457685
và thời đại”, nghiên cứu “tổ chức và hoạt động của Đảng và các phong trào cách
mạng của quần chúng diễn ra dưới sự lãnh đạo của Đảng”.
Các tri thức của khoa học Lịch sử Đảng có mối quan hệ mật thiết, biện chứng với
nhau, vì vậy, nhận thức toàn diện giúp nhà nghiên cứu, người học nhìn nhận đối
tượng một cách đầy đủ, khoa học và hiểu được bản chất của vấn đề.
- Quan điểm lịch sử cụ thể xem xét các sự kiện, hiện tượng lịch sử ở những
thờiđiểm nhất định, cụ thể trong quá khứ. Các sự kiện, hiện tượng lịch sử
đều xảy ra ở một thời gian và không gian cụ thể nào đó. Chúng ta có thể
không hiểu được bản chất, thậm chí hiểu sai các sự kiện lịch sử nếu chúng ta
không biết được thời điểm xuất hiện của chúng. Quan điểm này giúp nhà
nghiên cứu, người học không hiện đại hoá lịch sử và hiểu chính xác hơn về lịch sử.
3.Phân tích vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam?
Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện
ở các hoạt động quan trọng sau:
* Sự lựa chọn con đường cứu nước, của dân của Nguyễn Ái Quốc
Sinh ra và lớn lên tại Nam Đàn Nghi An, vùng đất có truyền thống bắt. khuất, kiên
cường chống áp bức bất công, trước cảnh nước mắt, đồng bảo bị đoạ đầy đau khổ
bởi chính sách thuộc địa của thực dân Pháp và chế độ phong kiến tay sai. Nguyễn
Ái Quốc mang trong minh tinh thần yêu nước, thương dân sâu sắc
Ngày 05/6/1911. Nguyễn Ái Quốc (lúc đó lấy tên là Văn Ba) đã vượt qua hạn chế
của những sĩ phu yêu nước đương thời, quyết chỉ đi sang phương Tây tìm con đường
cứu nước, cứu dân theo tư duy mới. lOMoAR cPSD| 61457685
Khi Cách mạng tháng Mười Nga 1917 thành công, Người từ nước Anh trở lại nước
Pháp và tham gia các hoạt động chính trị
Đầu năm 1919, Người tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến bộ nhất lúc
đó ở Pháp. Tháng 6/1919, tại Hội nghị của các nước thắng trận trong Chiến tranh thế
giới thứ nhất hợp ở Versailles. Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson tuyên bố bảo đảm
về quyền dân tộc tự quyết cho các nước nhược tiểu. Ngày 18/6/1919, Nguyễn Tất
Thành lấy tên là Nguyễn Ái Quốc. thay mặt Hội những người An Nam yêu nước ở
Pháp gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam (gồm 8 điểm đòi quyền
tự do cho nhân dân Việt Nam) Những yêu sách đó không được Hội nghi đáp ứng,
nhưng sự kiện này đã tạo nên tiếng vang lớn trong dư luận quốc tế và Nguyễn Ái
Quốc càng hiểu rõ hơn bản chất của đế quốc, thực dân.
Tháng 7/1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lenin đăng trên báo L'Humanit (Nhân đạo), số ra
ngày 16 và 17/7/1920. Sợ tháo chỉ rõ, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
phương Đông có kẻ thù là chủ nghĩa từ bản phương Tây, do đó, về khách quan, nó
là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Đã thuộc phạm trù cách mạng vô sản
thì đương nhiên, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Những luận điểm của
VJ Leni về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn
hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc, phù hợp với tư tưởng
yêu nước, thường dẫn của Nguyễn Ái Quốc. Lí luận của V I Lenin và lập trường
đúng đắn của Quốc tế Cộng sản về cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa là
cơ sở để Nguyễn Ái Quốc xác định thái độ ủng hộ việc gia nhập Quốc tế Cộng sản
tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp. (12/1920) hợp tại thành phố Tours.
Tại Đại hội này. Nguyễn Ái Quốc đã bạn phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng
sản do V.I. Lenin thành lập). lOMoAR cPSD| 61457685
Ngay sau đó, Nguyễn Ái Quốc cùng với những người vừa bỏ phiếu tán thành Quốc
tế Cộng sản đã tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản – tức là Đảng
Cộng sản Pháp. Với sự kiện này. Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những sáng
lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh
dấu buộc chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn
Ái Quốc "muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác ngoài
con đường cách mạng vô sản
* Quá trình tích cực chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức
-Về tư tưởng, chính trị
Sau khi xác định được con đường cách mạng đúng đắn, trở thành người Động sản,
Nguyễn Ái Quốc tiếp tục khảo sát, tìm hiểu để hoàn thiện nhận thức về đường lối
cách mạng vô sản, đồng thời tích cực truyền bá chủ nghĩa Marx – Lenin về Việt Nam
nhằm chuẩn bị các tiền đề về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của chính
đảng cộng sản ở Việt Nam.
Vừa nghiên cứu lí luận, vừa tham gia hoạt động thực tiễn trong phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế, dưới nhiều phương thức phong phú, Nguyễn Ái Quốc đã tích
cực tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các thuộc địa, đồng thời
tiến hành tuyên truyền tư tưởng Marx - Lenin, xây dựng mối quan hệ gắn bỏ giữa
những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Người đã viết nhiều bài đăng trên báo Le Paria (Người cùng khổ). L'Humanite (Nhân
dạn), La Vie Cuviers (Đôi song công nhanh La Revue Communiste (Tạp chí
Cộng sản), Pravda của Liên Xô. Năm 1922, Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng
Cộng sản Pháp được thành lập. Nguyễn Ái Quốc được cử làm Trường Tiểu ban lOMoAR cPSD| 61457685
Nghiên cứu về Đông Dương
Khi sang hoạt động ở Liên Xô tham dự và trình bay các tham luận tại đại hội của các
tổ chức mang tính quốc tế. Đại hội Quốc tế nông dân, Quốc tế thanh niên, Quốc tế
phụ nữ, Quốc tế cứu tế đó.... Người đã chỉ rõ sự cần thiết phải thủ tiêu hệ thống thuộc
địa của chủ nghĩa đế quốc, đồng thời tuyên truyền tư tưởng của Vl Lenin soi sáng
con đường cách mang, con đường phát triển của cách mạng thuộc địa
Đặc biệt, tại Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản (họp từ ngày 17/6 đến
18/7/1924), Người đã trình bày bản báo cáo quan trọng về vấn đề dân tộc và thuộc
địa. Băng nhiều số liệu và tư liệu cụ thể, bản báo cáo đã làm sáng rõ và phát triển
một số luận điểm của VI. Lenin về bản chất của chủ nghĩa thực dân, về nhiệm vụ
của các đảng cộng sản trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột và
giải phóng đấu tranh ở các thuộc địa Năm 1925, cuốn sách Bản án chế độ thực dàn
Pháp được xuất bản lần đầu tiên ở Paris, đã tố cáo, kết tội chế độ bốc lột, cai trị của
thực dân Pháp. đối với các nước thuộc địa, thức tính nhân dân các dân tộc bị áp bức
nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng
Đây là sự chuẩn bị quan trọng về tư tưởng, lí luận cho quá trình thành lập Đảng, như
Nguyễn Ái Quốc đã xác định: “Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong
Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa
cũng như người không có trí khôn, tàu không có bản chỉ nam. Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh
nhất là chủ nghĩa Lênin".
Đường lối cách mạng được phác thảo rõ nét nhất ở nội dung các bài giảng của
Nguyễn Ái Quốc cho Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tử năm 1925 đến năm lOMoAR cPSD| 61457685
1927, được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông tập hợp, in trong cuốn
Đường cách mệnh. Đó là các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu.)Tác
phẩm xác định rõ con đường, mục tiêu, lực lượng và phương pháp đấu tranh của
cách mạng Việt Nam, thể hiện tư tưởng nổi bật của vị lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dựa
trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin vào điều kiện Việt Nam. Những
điều kiện về tư tưởng, lí luận, chính trị và tổ chức để thành lập Đảng đã được nêu rõ trong tác phẩm.
Trong đó, trước hết, Người khẳng định rằng, con đường cách mạng của các dân tộc
bị áp bức là giải phóng giai cấp giải phóng dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ
có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa công sản Người xác định cách mạng giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, gia cách
mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở “chính quốc.
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau những cách mạng giải phóng dân
tộc ở nước thuộc địa không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc" mà có
thể thành công trước cách mạng vô sản ở chính quốc", góp phần tích cực thúc đẩy
cách mạng vô sản ở “chính quốc"
Đối với các dân tộc thuộc địa. Người chỉ rõ: ở nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân
là lực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề, vì vậy
phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, phải xây dựng khối liên minh công nông
làm động lực cách mạng công nông là gốc cách mệnh, còn học trò, nhà buôn nhỏ,
điền chủ nhỏ... li bầu ban cách mệnh của công nóng" Do vậy. Người xác định rằng,
cách mạng “là việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai
người" Về đảng cộng sản, Người khẳng định: “Trước hết phải có đảng cách mệnh,
để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức lOMoAR cPSD| 61457685
và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như
người cầm lái có vững thuyền mới chạy.”
Phong trào “Vô sản hoá" do Kỳ bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
phát động từ ngày 29/9/1928 đã góp phần truyền bá tư tưởng vô sản, nhiệm vụ chính
trị, rèn luyện cán bộ và phát triển tổ chức của công nhân. - Về tổ chức.
Tháng 11/1924, Người rời Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc) – nơi có rất đông
người Việt Nam yêu nước hoạt động – để xúc tiến các công việc tổ chức thành lập chính đảng marxist
Tháng 02/1975. Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã, lập ra
nhóm Cộng sản đoàn (có Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn Hồ Tùng Mậu. Lưu Quốc
Long, Trương Văn Linh, Lê Quảng Đại, Lâm Đức Thụ)
Tháng 6/1925. Nguyễn Ái Quốc thành lập Hà Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại
Quảng Châu (Trung Quốc), nòng cốt là Cộng sản đoàn Hội đã công bố chương trình,
điều lệ của Hội, mục đích để làm cách mạng dần tộc (đập tan bọn Pháp và giành độc
lập cho xứ sở) rồi sau đó làm cách mạng thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực
hiện chủ nghĩa cộng sản) Hệ thống tổ chức của Hội gồm 5 cấp. Trung ương bộ, Kỳ
bộ. Tỉnh bộ hay Thành bộ, Huyện bộ và Chi bộ. Tổng bộ là cơ quan lãnh đạo cao
nhất giữa hai kì đại hội. Trụ sở đặt tại Quảng Châu.
Hội xuất bản tờ báo Thanh niên (do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp chỉ đạo),
tuyên truyền tôn chỉ mục đích của Hội, truyền truyền chủ nghĩa Marx Lenin và
phương hướng phát triển của cuộc vận động giải phỏng dân tộc Việt Nam. Bảo in
bằng tiếng Việt và ra hằng tuần, mỗi số in khoảng 100 bản. Ngày 21/6/1925 ra số
đầu tiên, đánh dấu sự ra đời của bảo chỉ cách mạng Việt Nam. lOMoAR cPSD| 61457685
Sau khi thành lập. Hội tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc trực
tiếp phụ trách, phải người về nước vận động, lựa chọn và đưa một số thanh niên tích
cực sang Quảng Châu để đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị. Sau khi được đào
tạo, các hội viên được cử về nước xây dựng và phát triển phong trào cách mạng theo khuynh hưởng vô sản.
Trong số học viên được đào tạo ở Quảng Châu, cỏ nhiều đồng chỉ được cứ đi học
Trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) như: Trần Phú, Lê Hồng Phong. Phùng Chí
Kiên, Hà Huy Tập... và Trường Quân sự Hoàng Phổ (Trung Quốc) như: Nguyễn
Sơn, Lê Thiết Hùng, Trung Văn Lĩnh,...
Từ đầu năm 1926, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã bắt đầu phát triển cơ sở
ở trong nước, đầu năm 1927, các Kỷ bộ được thành lập, ngoài ra còn chú trọng xây
dựng cơ sở ở Thái Lan để mở rộng hoạt động tuyển truyền trong Việt kiều.
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chưa phải là chính đảng cộng sản, nhưng
chương trình hành động đã thể hiện quan điểm lập trường của giải cấp công nhân là
tổ chức tiền thánh dẫn tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản Việt Nam. Hội là tổ
chức trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Marx – Lenin vào trong nước và cũng là sự chuẩn
bị quan trọng xe tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp vô sản ở Việt
Nam. Đó là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Ái Quốc nhận được tin tình hình Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên “bị
tan rã, những người cộng sản chia thành nhiều phát,... khi đang hoạt động ở Xiêm
(Thái Lan). Trước tình hình đỏ, Người đã rời Xiêm về Hồng Kông (Trung Quốc),
chủ động “triệu tập các đại biểu của hai nhóm (Đông Dương và An Nam)" để tiến
hành hợp nhất các tổ chức cộng sản. lOMoAR cPSD| 61457685
Hội nghị thành lập Đảng được tiến hành từ ngày 06/01/1930 đến ngày 07/02/1930 ở
nhiều địa điểm khác nhau tại Hồng Kông (Trung Quốc) Thành phần dự Hội nghị
gồm hai đại biểu của Đông Dương Cộng sản đảng (Trịnh Đình Cứu và Nguyễn Đức
Cảnh), hai đại biểu của An Nam Cộng sản đúng (Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu),
dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đại biểu của Quốc tế Cộng sản.
Hội nghị thảo luận, tấn thành ý kiến chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, thông qua các văn
kiện quan trọng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo: Chánh cương vấn tốt của
Đảng, Sách lược vẫn tốt của Đảng, Chương trình tâm tắt, Điều lệ vẫn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị xác định rõ tôn chỉ mục đích của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức
ca để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đầu để tiêu trò tư bán đế quốc
chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc có giá trị như một Đại hội Đảng. Sau Hội nghị, Nguyễn Ải Quốc ra Lời kêu
gọi nhân dịp thành lập Đảng. Sau khi vạch rõ bản chất, tội ác của thực dân Pháp đối
với nhân dân Việt Nam, Người chỉ rõ sứ mệnh của Đảng Cộng sản Việt Nam là “để
lãnh đạo toàn thể anh chị em bị áp bức. chúng ta làm cách mạng”
Như vậy, trước yêu cầu của lịch sử cách mạng Việt Nam cần phải thống nhất các tổ
chức cộng sản trong nước, chấm dứt sự chia rẽ bất lợi cho cách mạng, với uy tín
chính trị và phương thức hợp nhất phù hợp, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời
triệu tập và chủ trì hợp nhất các tổ chức cộng sản. Những văn kiện được thông qua
trong Hội nghị hợp nhất dù “vắn tắt” nhưng đã phản ánh những vấn đề cơ bản trước
mắt và lâu dài cho cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam sang một trang sử mới. lOMoAR cPSD| 61457685
4.Chứng minh: sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu khách quan? Bài làm:
*Về mặt thực tiễn
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đáp ứng yêu cầu của lịch sử dân tộc và thế giới,
phản ánh xu thế của phong trào cách mạng trong và ngoài nước.
- Hoàn cảnh quốc tế
+ Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga 1917 có ý nghĩa to lớn đổi với cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản đối với các nước tư bản. Nó còn có tác động sâu sắc
đến phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa có vũ mạnh mẽ các dân tộc bị áp
bức đứng lên đấu tranh tự giải phóng khỏi ách thực dân Cách mạng tháng Mười Nga
thành công còn chứng minh rằng: muốn giành thắng lợi, cách mạng phải có một tổ
chức đứng đầu để tập hợp lực lượng (Đảng Bolshevik), phải có đường lối cách mạng
đúng đàn (Luận Cương tháng Tư)
+ Quốc tế Cộng sản, do VI Lenin đứng đầu, được thành lập tháng 3/1919, trở thành
bộ tham mưu chiến đấu, tổ chức lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản thế giới.
Cùng với việc nghiên cứu và hoàn thiện chiến lược và sách lược về vấn đề dân tộc
và thuộc địa, Quốc tế Cộng sản đã tiến hành hoạt động truyền bá tư tưởng cách mạng
vô sản và thúc đẩy phong trào đấu tranh ở khu vực này đi theo khuynh hướng vô
sản. Nó cũng thúc đẩy phong trào công nhân và nhân dân thế giới, là động lực thúc
đẩy sự ra đời nhiều đảng cộng sản ở các nước. Đảng Cộng sản Đức, Đảng Cộng sản
Hungary (1918). Đảng Cộng sản Mỹ (1919). Đảng Cộng sản Anh,
Đảng Cộng sản Pháp (1920); Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Mông lOMoAR cPSD| 61457685
Cổ (1921), Đảng Cộng sản Nhật Bản (1922),…
– Tình hình cách mạng Việt Nam cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX
Cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, tiếp tục truyền thống yêu nước, bất khuất kiên
cường chống ngoại xâm, các phong trào chống thực dân Pháp theo ngọn có phong
kiến, ngon có dân chủ tư sản của nhân dân Việt Nam đã diễn ra quyết liệt, liên tục
và rộng khắp. Dù với nhiều cách thức tiến hành khác nhau, song đều hướng tới mục
tiêu đánh đổ chế độ thuộc địa, giành độc lập cho dân tộc. Tuy nhiên, các phong trào
cứu nước từ lập trưởng Cần Vương đến lập trưởng tư sản, tiểu tư sản, qua khảo
nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại. Phong trào yêu nước Việt Nam lâm vào khủng
hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước, thiếu một tổ chức đủ mạnh để tập hợp lực
lượng. giáo dục quần chúng
- Thực tiễn cách mạng Việt Nam năm 1979
Cuối năm 1928, những hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ảnh
hưởng và thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào công nhân, phong trào
yêu nước Việt Nam những năm 1928, 1929 theo khuynh hướng cách mạng vô sản.
Năm 1929, các tổ chức cộng sản lần lượt ra đời. Đông Dương Cộng sản đảng
(17/6/1929), Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (9/1929), An Nam Cộng sản đảng
(11/1929). Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản đã khẳng định bước tiến về chất của
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng cách
mạng vô sản, phù hợp với xu thế và nhu cầu bức thiết của lịch sử Việt Nam.
Tuy nhiên, sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở ba miền đều tuyên bố ủng hộ đường
lối của Quốc tế Cộng sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhân tổ chức của mình và
đều tự nhận là đảng cách mạng chân chỉnh, không tránh khỏi dẫn đến phần tán về lOMoAR cPSD| 61457685
lực lượng và thiếu thống nhất về tổ chức trên cả nước. Trước tình hình đó, theo Quốc
tế Cộng sản: Nhiệm vụ quan trọng nhất và cấp bách nhất của tất cả những người
cộng sản Đông Dương là thành lập một đảng cách mạng có tính chất giai cấp của
giai cấp vô sản, nghĩa là một Đảng Cộng sản có tính chất quần chúng ở Đông Dương,
Đảng đỏ phải chỉ có một và là tổ chức duy nhất ở Đông Dương.
*Về mặt lí luận
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời theo đúng quy luật khách quan, là sự kết hợp giữa
chủ nghĩa Marx – Lenin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam.
6.Tại sao Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930) là bước ngoặt vĩ đại của lịch
sử cách mạng Việt Nam? Bài làm:
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại của lịch sử cách mạng Việt Nam, vì: (4 ý)
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước ở Việt Nam. –
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp
công nhân, khẳng định sự lãnh đạo của giai cấp công nhân với đội tiên phong của
mình là Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng. –
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã làm cho cách mạng Việt Nam trở thành
một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới. lOMoAR cPSD| 61457685
- Sự ra đời và lãnh đạo của Đảng đã trở thành nhân tố hàng đầu quyết định đưa cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
7.Phân tích nội dung, ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam? Bài làm:
7.1. Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam
Hai văn kiện Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách lược vắn tắt của Đảng do lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng đã phản
ánh những nội dung cơ bản về đường lối chiến lược và sách lược cách mạng Việt
Nam – đó là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Cương lĩnh chính trị là văn kiện cơ bản, xác định rõ mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ
chiến lược, phương pháp hoạt động... của một chính đảng, hoặc một tổ chức chính
trị trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
- Cương lĩnh xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam: “chủ trương
làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
- Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam
+ Về phương diện chính trị Cương lĩnh xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của
cách mạng Việt Nam. Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bạn phong kiến, làm cho
nước Nam được hoàn toàn độc lập"
+Về phương diện xã hội. Cương lĩnh xác định rõ “a) Dân chúng được tự do tổ chức,
b) Nam nữ binh quyền; c) Phổ thông giáo dục theo công nông hoa" lOMoAR cPSD| 61457685
+ Về phương diện kinh tế. Cương lĩnh xác định: Thủ tiêu hết các thư quốc trái, thâu
hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tài, ngân hàng. của tư bản đế quốc chủ
nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lí, thâu hết ruộng đất của đế
quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cay nghèo, bỏ sưu thuế cho dân cày
nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm tám giờ.
- Về lực lượng cách mạng. Cương lĩnh xác định lực lượng cơ bản của cách mạng là
công nhân, nông dân, trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời Cương lĩnh
chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung
chống đế quốc và tay sai. Đảng “phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp minh",
nhưng đồng thời "Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông,..
để kéo họ đi vào phe võ sản giai cấp. Còn đối với bọn phủ nông, trung, tiểu địa chủ
và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới
làm cho họ đứng trung lập"
- Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc: Cương lĩnh khẳng
định phải bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng để giải phỏng dân
tộc, chứ không thể là con đường cải lương thoả hiệp, không khi nào nhượng một
chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thoả hiệp”. Có sách lược đấu tranh
cách mạng thích hợp để lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung mông về phía giai cấp vô
sản, còn “bộ phận nào đã ra mặt phân cách mạng (Đảng Lập hiến...) thì phải đánh đến
- Về xác định lực lượng đồng minh quốc tế: Cương lĩnh phát triển quan điểm về
mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính
quốc, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. lOMoAR cPSD| 61457685
- Về vai trò lãnh đạo của Đảng, Cương lĩnh xác định “Đảng là đội tiến phong của
vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho
giai cấp minh lãnh đạo được dân chúng”
7.2. Ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Những nội dung cơ bản trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt
Nam được hoạch định trên cơ sở lí luận khoa học vững chắc và trên cơ sở tổng kết,
khảo nghiệm thực tiễn phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam đầu thế kỉ XX.
– Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng mặc dù còn "vắn tắt" nhưng đã phản ánh
một cách súc tích các luận điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam chỉ rõ những mâu
thuẫn cơ bản và chủ yếu của dân tộc Việt Nam lúc đó, đặc biệt là đánh giá đúng đắn,
sát thực thái độ các giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Từ đó, các
văn kiện đã xác định đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam,
đồng thời xác định phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng và lực lượng của
cách mạng để thực hiện đường lối chiến lược và sách lược đã đề ra.
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã khẳng định lần đầu tiên cách mạng
Việt Nam có một bản cương lĩnh chính trị phản ánh được quy luật khách quan
của xã hội Việt Nam, đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt
Nam, phù hợp với xu thế của thời đại, định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến
trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
- Cương lĩnh đầu tiên của Đảng là sản phẩm của sự vận dụng và phát triển sáng
tạochủ nghĩa Marx – Lenin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, đã giải quyết đúng
đắn vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc trên lập trường khoa học của chủ nghĩa Marx Lenin. lOMoAR cPSD| 61457685
8.Anh (chị) hãy trình bày chủ trương chiến lược mới của Đảng giai đoạn
1939-1945? Vì sao trong giai đoạn ấy, Đảng ta phải thay đổi chiến lược? Bài làm
8.1Chủ trương chiến lược mới của Đảng giai đoạn 1939 – 1945 - Hoàn cảnh lịch sử + Tình hình thế giới:
Ngày 01/9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, trong đó Pháp là nước tham
chiến. Chính phủ Pháp thi hành một loạt biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong
nước và phong trào cách mạng thuộc địa.
Tháng 6/1940, Đức tấn công Pháp và Chính phủ Pháp đã đầu hàng Ngày 22/6/1941,
quân phát xít Đức tấn công Liên Xô. Từ khi phát xít Đức tấn công Liên Xô, tinh chất
chiến tranh đế quốc chuyển thành cuộc chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do
Liên Xô làm trụ cột với các lực lượng phát xít do Đức cầm đầu. + Tình hình trong nước
Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất phản động thẳng
tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta, tập trung lực tượng đánh vào Đảng
Cộng sản Đông Dương. Thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy” tăng cưởng vợ vết
sức người, sức của phục vụ chiến tranh, bắt linh ang Pháp làm bia đỡ đạn..
Lợi dụng sự thất thế của Pháp ở Đông Dương, tháng 9/1940, Nhật Bản mo quân xâm
lược Đông Dương, Pháp nhanh chóng đầu hàng và dâng ông Dương cho Nhật. Chịu
cảnh “một cổ hai tròng”, đời sống của nhân n Việt Nam lâm vào cảnh ngột ngạt về
chính trị, bần cùng về kinh tế. Mẫu lẫn giữa dân tộc Việt Nam với Pháp, Nhật và tay
sai phản động ngày càng = nên gay gắt hơn bao giờ hết. lOMoAR cPSD| 61457685
Ngay khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng kịp thời rút vào hoạt động bí
mật, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, đồng thời vẫn ú trọng các đô thị. Ngày
29/9/1939, Trung ương Đảng gửi toàn Đảng một công báo quan trọng chỉ rõ: “Hoàn
cảnh Đông Dương sẽ tiến bước đến vấn : dân tộc giải phóng”.
- Nội dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược được thể hiện qua các Hội nghị Trung ương:
+Hội nghị Trung trong lần thứ sáu (11/1939)
+ Hội nghị Trung ương lần thứ bảy (11/1940)
+ Hội nghị Trung ương lần thứ tám (5/1941) là Hội nghị quan trọng nhất mang tính
chất quyết định cho sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
Trên cơ sở nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới thứ hai và căn cứ
vào tinh hình cụ thể ở trong nước, Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược như sau
Một là, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ
địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiệu “tịch thu ruộng đất của đế
quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm tô, giảm tức.
Hai là, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương. Trung
ương Đảng quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh)
thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt thành phần, lứa tuổi, đoàn kết bên
nhau đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nổi.
Ba là, quyết định phải xúc tiến ngay công tác khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm
vụ trọng tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại. Để khởi nghĩa vũ trang đi đến thắng lOMoAR cPSD| 61457685
lợi cần phải phát triển lực lượng cách mạng, tiến hành xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Hội nghị cũng chú trọng công tác đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực tổ chúc và lãnh
đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.
8.2. Trong giai đoạn 1939 – 1945, Đảng ta “phải thay đổi chiến lược”, vì:
Đảng chủ trương “phải thay đổi chiến lược" để hoàn toàn phù hợp với tình hình thực
tiễn của cách mạng trong và ngoài nước lúc bấy giờ. Thực tế đã chứng minh, với
tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã giải quyết
mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương đúng
đắn để thực hiện mục tiêu ấy. Đường lối đúng đắn giương cao ngọn cờ giải phóng
dân tộc đã dẫn đường cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh
Pháp đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân. Chủ trương đúng
đắn của Hội nghị thực sự là kim chỉ nam đối với hoạt động của Đảng cho tới thắng lợi cuối cùng năm 1945.
9.Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 5/1941) đã
hoàn chỉnh chủ trương chiến lược được đề ra từ Hội nghị tháng 11/1939 như
thế nào? Ý nghĩa của sự chuyển hướng đối với cách mạng Việt Nam?
1. Hoàn cảnh lịch sử
- Thế giới: Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn ác liệt.
- Trong nước: Phong trào kháng Pháp đuổi Nhật đang trên đà phát triển mạnhmẽ
Ngày 28/01/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước, Người đã tổ chức và chủ trì
Hội nghị Trung ương lần thứ tám họp từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941 tại Pác Bộ,
Cao Bằng. Tham dự Hội nghị có các đồng chi Trưởng Chinh, Hoàng Quốc Việt,
Hoàng Văn Thụ, Phùng Chí Kiên,... và các đại biểu của Xứ uỷ Trung Kỳ, Bắc Kỳ,
các đại biểu hoạt động ở nước ngoài. Hội nghị đã bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư. lOMoAR cPSD| 61457685
2. Nội dung của Hội nghị
- Hội nghị đã phân tích tình hình thế giới, Đông Dương và trong nước, nêu rõ
những nội dung quan trọng
Thứ nhất, hết sức nhấn mạnh mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp
bách là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp và phát xít Nhật, bởi vì
dưới hai tầng áp bức Nhật – Pháp, “quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận
mạng dân tộc ngay vong không lúc nhỏ bằng
Thứ hai, khẳng định dứt khoát chủ trương “phải thay đổi chiến lược" và giải thích:
“Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là một cuộc cách mạng tư sản
dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề phản đế và điền địa nữa, mà
là một cuộc cách mạng chi phải giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng.
Trung ương Đảng khẳng định: “Chưa chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền
mà chủ trương làm cách mang giải phóng dân tộc”. Để thực hiện nhiệm vụ đó, Hội
nghị quyết định tiếp tục tạm gác khẩu hiệu "đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho
dân cày”, thay bằng các khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia
cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công cho công bằng, giám tổ, giảm tức Hội
nghị chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự
sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết
được vấn đề dân tộc giải phóng, nếu không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể
dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, má
quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được. Đó là nhiệm
vụ của Đảng ta trong vấn đề dân tộc”.
Thứ ba, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương, thi
hành chính sách "dân tộc tự quyết”. Sau khi đánh đuổi Pháp - Nhật, các dân tộc
trên cõi Đông Dương sẽ tổ chức thành liên bang công hoà dân chủ hay đứng riêng
thành lập một quốc gia tuy ý”. "Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận
và coi trọng. Từ quan điểm đó, Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi nước Đông
Dương một mặt trận riêng. thực hiện đoàn kết từng dân tộc, đồng thời đoàn kết ba
dân tộc chống kẻ thủ chung
Thủ tư, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, không phân biệt thợ thuyền, dẫn
cây, phủ nông, địa chủ, tư bản bản xứ, ai có lòng yêu nước thương nói sẽ cùng
nhau thống nhất mặt trận, thu góp toàn lực đem tất cả ra giành quyền độc lập, tự do