Quan hệ sở hữu gì? Tại sao quan hệ sở hữu
quan trọng nhất?
Toàn bộ quan hệ sở hữu trong hội hợp thành chế độ sở hữu - nền tảng
của hệi tương ứng với mỗi phương thức sản xuất. Mỗi chế độ sở hữu
thể nhiều hình thức sở hữu khác nhau, mỗi hình thức sở hữu vai trò, vị
trí khác nhau phụ thuộc vào bản chất của từng chế đ hội.
Phân tích quan hệ pháp luật dân sự về s hữu:
Quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu cũng như các quan hệ pháp luật dân sự
khác bao gồm những yếu tố cấu thành quan hệ đó là: Chủ thể, khách thể
nội dung quyền sở hữu. Việc phân tích các yếu tố cấu thành quan hệ pháp
luật dân sự về sở hữu dưới dạng cụ thể, riêng biệt ý nghĩa cho việc nghiên
cứu từng yếu tố khi phải xem xét chúng trong những trường hợp cụ thể. Trên
thực tế ba yếu tố ttên đây thường mối quan hệ khăng khít, biện chứng, bởi
thiếu một trong các yếu tố đó t không thể hình thành quan hệ pháp luật dân
sự sở hữu.
1. Chủ thể của quan hệ sở hữu ?
Chủ thể của quyền sở hữu những người tham gia quan hệ pháp luật dân
sự về sở hữu.
Đối với những tài sản hữu hình thì ch thể của quyền sở hữu những người
trong tay các tài sản theo quy định tại Chương VII, Phần thứ nhất BLDS
thuộc quyền sở hữu của mình (còn gọi chủ sở hữu) được xác lập theo
những căn cứ do BLDS quy định. Chủ sở hữu trong luật dân sự nhân,
pháp nhân, theo n quy định tại Điều 158: "có đủ ba quyền năng quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản".
Để trở thành chủ sở hữu, trong một số trường hợp pháp luật dân sự quy định
phải những điều kiện nhất định. Đối với nhân, để ttở thành chủ sở hữu
phải năng lực pháp luật trong một số trường hợp phải năng lực hành
vi.
Mặt khác, những tài sản BLDS quy định chỉ thuộc quyền sở hữu của
những chủ thể riêng biệt như: Tài sản thuộc sở hữu toàn dân bao gồm đất đai,
rừng tự nhiên, rừng trồng vốn từ ngân sách nhà nước, núi, sông hồ, nguồn
nước, tài nguyên trong lòng đất...(Điều 197 BLDS).
Đối với những tài sản hình (quyền sở hữu t tuệ) thì chủ thể quyền sở hữu
những người được pháp luật dân sự công nhận. Đó chủ sở hữu c
phẩm bao gồm: Tác giả, các đồng tác giả, quan tổ chức giao nhiệm vụ cho
tác giả, nhân hoặc tổ chức giao kết hợp đồng sáng tạo với tác giả, người
thừa kế theo di chúc hoặc người thừa kế theo pháp luật của tác giả.... Trong
quyền sở hữu công nghiệp, chủ sở hữu thể được xác nhận theo vãn bằng
bảo hộ. Người tên trong văn bằng bảo hộ do quan nhà nước thẩm
quyền cấp chủ sở hữu quyền sở hữu đối với sáng chế, giải pháp hữu
ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng h v.v. được xác lập theo văn
bằng bảo hộ.
Do tính chất đặc trưng của quan hệ pháp luật về sở hữu nên một bên chủ
thể luôn được xác định các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản của mình, còn ch thể phía n kia tất cả những thành viên trong
hội. Những thành viên này chưa được c định cụ thể nhưng họ nghĩa vụ
phải tôn trọng c quyền năng của chủ sở hữu. Nghĩa vụ này được thể hiện
việc không được xâm phạm đến các quyền của chủ sở hữu dưới dạng hành
động hoặc không hành động. dụ: Không được xâm phạm trực tiếp hoặc
gián tiếp đến các quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu. Người thuê tài sản
không được sử dụng tài sản không đúng mục đích, công dụng của tài sản.
Nếu bên thuê tài sản vi phạm thể bị bên cho thuê đơn phương chấm dứt
thực hiện hợp đồng yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 2
Điều 480 BLDS.
Ngoài ra, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, pháp luật còn
quy định các thành viên trong hội không được tiến hành những hành vi
khác làm cản trở việc thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu.
2. Khách thể của quan hệ sở hữu ?
Khách thể một trong ba yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật dân sự về sở
hữu. thể đối tượng của thế giới vật chất hoặc kết quả những hoạt
động sáng tạo tinh thần (trí tuệ).
Tài sản - với cách khách thể của quan hệ sở hữu - đã được Điều 105
BLDS xác định như sau: "Tài sản vật, tiền, giấy tờ giá quyền tài sản”.
Tài sản thể chia thành Bất động sản động sản hai tiêu chí để phân
loại tài sản trong quyền sở hữu.
Như vậy khách th của quan hệ sở hữu thường tài sản, vật giá...
dụ: 1 Kg vàng; 1 triệu đồng; 1 n nhà chung cư....
3. Điều kiện để trở thành chủ thể của quan hệ sở hữu
Để trở thành chủ sở hữu, trong một số trường hợp pháp luật dân sự quy đinh
phải những điều kiện nhất định. Đối với nhân, để trở thành chủ sở hữu
phải năng lực pháp luật dân sự trong một số trường hợp phải năng
lực hành vi dân sự.
Tuy nhiên,có những tài sản BLDS quy định chỉ thuộc quyền sở hữu của
những chủ thể riêng biệt như: Điều 197 BLDS quy định: Tài sản thuộc sở hữu
toàn dân bao gồm Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn
lợi vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác dụ: Không được
xâm phạm trực tiếp hoặc gián tiếp đến c quyền, lợi ích hợp pháp của chủ
sở hữu. Người thuê nhà không được tự ý sửa chữa hoặc làm thay đổi kiến
tróc nhà khi ch sở hữu chưa đồng ý. Nếu bên th nhà vi phạm thể bị
bên cho thuê nhà đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng yêu cầu bồi
thường thiệt hại theo quy đinh tại khoản 2 Điều 480 BLDS.
Do tính chất đặc trưng của quan hệ sở hữu nên một bên chủ thể luôn
được xác định các quyền năng chiếm hữu ,sử dụng, đinh đoạt tài sản
của mình còn chủ th phía bên kia là tất cả những thành viên trong
hội .Những thành viên này chưa được c định cụ thể nhưng họ nghĩa vụ
phải tôn trọng c quyền năng của chủ sở hữu. Nghĩa vụ này được thể hiện
việc không được xâm phạm đến các quyền của chủ sở hữu dưới dạng hành
động hoặc không hành động.
Để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, pháp luật còn quy đinh
các thành viên trong hội không được tiến hành những hành vi khác làm
cản trở việc thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu.
4.Quyền sở hữu gì?
Quyền sở hữu một phạm trù pháp phản ánh các quan hệ sở hữu trong
một chế độ sở hữu nhất định, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật
nhằm điều chỉnh những quan hệ về sở hữu trong hội. Các quy phạm pháp
luật về sở hữu xác nhận, quy định bảo vệ các quyền lợi của các chủ sở
hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng định đoạt tài sản.
Quyền sở hữu vấn đề ý nghĩa cùng quan trọng trong đời sống kinh tế
hội cũng như trong pháp luật dân sự. một trong những tiền đề vật
chất cho sự phát triển kinh tế, quyền sở hữu chính mức độ xử sự
pháp luật cho phép một chủ thể được thực hiện trong quá trình, chiếm hữu,
sử dụng định đoạt tài sản. Mức độ xử sự ấy qui định giới hạn khả năng
thực hiện của họ trong quá trình học tập, nghiên cứu khoa học, tham gia lao
động sản xuất, kinh doanh… Điều đó tác động trực tiếp đến nền kinh tế, thúc
đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.
5. Các quyền của năng của quyền sở hữu
5.1 Quyền chiếm hữu
Luật dân sự Việt Nam xác định chiếm hữu một quyền năng của quyền sở
hữu cụ thể, Điều 182 BLDS qui định quyền chiếm hữu quyền nắm giữ,
quản tài sản. Nắm giữ tài sản việc người chiếm hữu giữ vật trong phạm
vi kiểm soát làm chủ chi phối tài sản đó theo ý chí của mình, dụ, cất tiền
vào túi, quần áo, trang sức để vào trong tủ
Trong chiếm hữu theo luật Việt Nam, xét dưới góc độ chủ thể chiếm hữu,
thể tồn tại hai khả năng sau đây:
Người chiếm hữu tài sản đồng thời chủ sở hữu tài sản người chiếm hữu
không phải chủ sở hữu của tài sản;
Xét theo việc chiếm hữu căn cứ hay không căn cứ, thể chia chiếm
hữu thành chiếm hữu căn cứ pháp luật chiếm hữu không căn cứ
pháp luật.
Các loại chiếm hữu
· Chiếm hữu căn cứ pháp luật
Chiếm hữu căn cứ pháp luật được hiểu các trường hợp người chiếm
hữu thực sự quyền chiếm hữu đối với tài sản của mình dựa trên những
căn cứ do pháp luật qui định. Đó hình thức chiếm hữu hợp pháp, theo Điều
183 , sự chiếm hữu hợp pháp trứơc hết đó sự chiếm hữu tài sản của một
chủ sở hữu được pháp luật công nhận.
Người không phải chủ sở hữu mà chiếm hữu tài sản thì chỉ được coi
chiếm hữu hợp pháp khi rơi vào các trường hợp sau: người được chủ sở hữu
uỷ quyền quản tài sản, người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông
qua giao dịch dân sự; người phát hiện giữ tài sản chủ, tài sản không
xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu,
bị chìm đắm; người phát hiện giữ gia c, gia cầm, vật nuôi ới nước bị
thất lạc, chiếm hữu của quan, tổ chức theo chức năng thẩm quyền
quyền thu giữ chiếm hữu tài sản…
Đối với các trường hợp người được chủ sở hữu uỷ quyền quản tài sản
hoặc được giao tài sản thông qua giao dịch dân sự, người chiếm hữu không
thể xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu iều 185,186).
Người chiếm hữu tài sản của người khác căn cứ pháp luật chỉ thực hiện
quyền chiếm hữu trong phạm vi, theo ch thức thời hạn do chủ sở hữu
xác định. Hay nói khác đi, người không phải chủ sở hữu thực hiện các
quyền năng chủ yếu không mang tính độc lập.( Khoản 1 Điêù 185) .
Trong trường hợp quyền chiếm hữu bị m phạm, người chiếm hữu tài sản
của người khác nhưng căn cứ pháp luật được pháp luật bảo vệ theo các
quy định về bảo vệ quyền sở hữu (từ Điều 255 đến Điều 260 BLDS). Lẽ
nhiên, người này phải chứng minh được tính hợp pháp của việc chiếm hữu,
chẳng hạn bằng việc xuất trình hợp đồng thuê i sản.
· Chiếm hữu không căn cứ pháp luật
Người chiếm hữu trong tình trạng chiếm hữu không dựa vào các trường hợp
được liệt tại Điều 190 BLDS đều bị xem chiếm hữu không căn cứ
pháp luật. Thực chất, chiếm hữu không căn cứ pháp luật trường hợp
một người thực hiện quyền chiếm hữu của chủ sở hữu đối với một tài sản tức
xử sự như chính nh chủ sở hữu trong khi thực chất ch sở hữu đích
thực của i sản lại người khác. hai trường hợp xảy ra: chiếm hữu
không căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, chiếm hữu không căn cứ
pháp luật không ngay tình.
Người chiếm hữu không căn cứ pháp luật không ngay tình không được
pháp luật bảo vệ không được hưởng quy chế xác lập quyền sở hữu theo
thời hiệu.
Trái lại, người chiếm hữu tài sản không căn cứ pháp luật nhưng ngay tình
được pháp luật bảo vệ trong nhiều trường hợp được xác lập quyền sở
hữu tài sản theo thời hiệu.
5.2 Quyền sử dụng
Điều 192 BLDS định rõ: quyền sử dụng quyền khai thác công dụng, ởng
hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Khai thác công dụng của tài sản được hiểu việc
dùng tài sản để phục vụ nhu cầu, sở thích của bản thân hoặc để khai thác lợi
ích kinh tế của tài sản. Chẳng hạn, sử dụng môtô làm phương tiện để đi lại,
đeo nữ trang hay đồng hồ để làm đẹp…Hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản
việc chủ sở hữu thu nhận các sản vật tự nhiên tài sản mang lại như trái
cây, gia súc sinh con, gia cầm đẻ trứng… hoặc thu các khoản lợi từ việc khai
thác tài sản n tiền cho thuê nhà, lợi tức cổ phiếu, lợi tức cho vay… Việc sử
dụng các tài sản vật tiêu hao, đặc biệt các vật tiêu hao hết sau một lần
sử dụng như việc sử dụng thức ăn, đồ uống, tiêu tiền cũng đồng nghĩa với
việc chủ sở hữu sử dụng quyền định đoạt đối với tài sản.
Như vậy, sử dụng tài sản một trong những quyền ng quan trọng ý
nghĩa thực tế của chủ sở hữu. Chủ sở hữu hoàn toàn toàn quyền hác
công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức của tài sản theo cách thức mục đích sử
dụng tài sản theo ý chí của mình: sử dụng hoặc không sử dụng tài sản, trực
tiếp khai thác công dụng tự nhiên của tài sản hoặc đ cho người khác sử
dụng thông qua các giao dịch dân sự như hợp đồng cho thuê, cho mượn. Tuy
nhiên, trong mọi trường hợp, việc sử dụng tài sản phải trên nguyên tắc không
được m ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền
lợi ích hợp pháp của người khác. Thông thường, chủ sở hữu người
quyền sử dụng tài sản nhưng pháp luật cũng ghi nhận ba trường hợp người
không phải chủ sở hữu cũng quyền sử dụng tài sản.
Trường hợp thứ nhất, người được ch sở hữu chuyển giao quyền sử dụng
tài sản thông qua hợp đồng. Trong trường hợp này, người sử dụng được
quyền khai thác i sản theo cách thức thời hạn đã được thoả thuận với
chủ sở hữu.
Trường hợp thứ hai, người chiếm hữu tài sản không căn cứ pháp luật
nhưng ngay tình cũng quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức
từ tài sản. vậy, người này chỉ phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ thời
điểm họ biết hoặc buộc phải biết việc chiếm hữu tài sản không căn cứ
pháp luật (Khoản 2 Điều 194 BLDS )
Trường hợp thứ ba, quan hay tổ chức nào đó ng quyền sử dụng tài
sản của người khác trên sở một văn bản của quan nhà nước thẩm
quyền hoặc sử dụng i sản trong tình thế cấp thiết phù hợp với qui định của
pháp luật.
5.3 Quyền định đoạt
Điều 195 BLDS định rõ: Quyền định đoạt quyền chuyển giao quyền sở hữu
tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu tài sản. Việc định đoạt tài sản thể định
đoạt số phận thực tế của các vật, làm chấm dứt sự tồn tại vật chất của i sản,
như huỷ bỏ, tiêu dùng hết hoặc từ bỏ quyền sở hữu đối với vật, hoặc bằng
hành vi pháp (bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, góp vốn vào
công ty…). người không phải chủ sở hữu ch quyền định đoạt tài sản
của người khác trong trường hợp được ch sở hữu uỷ quyền hoặc trong
những trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định (việc trưng mua, trưng thu
tài sản theo quyết định của Nhà nước). Việc thực hiện quyền định đoạt đối
với tài sản sẽ làm chấm dứt hoặc thay đổi các quan hệ pháp luật liên quan
đến tài sản đó.
Về nguyên tắc, chủ sở hữu toàn quyền định đoạt số phận thực tế hay số
phận pháp tài sản của mình. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhăm bảo
đảm hài hoà giữa lợi ích của chủ sở hữu lợi ích của Nhà nước, lợi ích
công cộng hoặc lợi ích của người khác, quyền định đoạt thể bị hạn chế
theo những điều kiện cụ thể do pháp luật quy định. Được thể hiện trong một
số trương hợp sau:
Khi tài sản đem bán cổ vật, di tích lịch sử, văn hoá thì Nhà nước
quyền ưu tiên mua;
Trong trường hợp tổ chức, nhân quyền ưu tiên mua một tài sản theo
quy định của pháp luật thì khi bán tài sản, chủ sở hữu phải dành quyền ưu
tiên mua cho các t chức, nhân đó. Ví dụ, thành viên của công ty trách
nhiệm hữu hạn chỉ thể chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho người
ngoài nếu c thành viên khác của công ty không mua hoặc mua không
hết((Điều 43 Luật Doanh nghiệp);
Bán nhà đang cho th thì bên thuê được quyền ưu tiên mua trước( Điều
94 Luật nhà năm 2005) .
Trong trường hợp pháp luật quy định trình tự, thủ tục định đoạt i sản thì
phải tuân theo trình tự, thủ tục đó. Điều 450 BLDS quy định hợp đồng mua
bán nhà phải được lập thành văn bản, công chứng hoặc chứng thực trừ
trường hợp pháp luật quy định khác. Như vậy, nếu A n nhà cho B
nhưng hợp đồng không được ng chứng thì hợp đồng này nguy bị
xem hiệu (Điều 122, 124 127 BLDS.
những trường hợp tuy không phải là chủ sở hữu, cũng không được chủ
sở hữu uỷ quyền, nhưng theo qui định của pháp luật những người thẩm
quyền vẫn quyền định đoạt tài sản.( Trung tâm bán đấu giá tài sản theo qui
định của pháp luật; hiệu cầm đồ được quyền bán tài sản, nếu hết thời hạn đã
thoả thuận người vay không trả được tiền vay…).
Trong bài viết này tác giả muốn bàn thêm, để tranh thủ ý kiến của các đòng
nghiệp các quí vị một số điểm liên quan đến bài viết này. cụ thể là:
- Người được lợi về tài sản không căn cứ pháp luật được xác định
người chiếm hữư hợp pháp hay bất hợp pháp? Hay chỉ xác định người
chiếm hữu không căn pháp luật? để từ đó xác định ch chủ thể
trong việc áp dụng biện pháp bảo vệ quyền sở hữu.
- nên bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự
hiệu?
- Trường hợp người chiếm hữu tài sản ban đầu căn cứ pháp luật nhưng
sau đó lại rơi vào tình trạng chiếm hữu không căn cứ pháp luật nhưng
ngay tình. Chẳng hạn thuê nhà của người không phải chủ sở hữu, sau đó
bị chủ sở hữu kiện đòi nhà, thuê nhà của người được chia thừa của người
bị Toà án tuyên bố chết, sau đó người này quay trở vê… Trong các trường
hợp này được xem xét quyền của người thuê nhà khi nhà cho thuê thay
đổi chủ sở hữu theo qui định tại Điều 104 Luật nhà năm 2005 không?
- Khoản 2 Điều 194 Điều 190 mâu thuẫn khi qui định về tính liên tục
quyền chiếm hữu của chủ sở hữu?
- câu trả lời cho trường hợp “Ngưòi chiếm hữu hợp pháp quyền đòi lại
tài sản theo Điều 257, 258 không?
- Điều 257 sử dụng cụm t “hợp đồng đền bù” là chưa bao quát hết mọi
trường hợp tài sản được chuyển giao thông qua giao dịch dân sự. Bởi lẽ, việc
dịch chuyển này không chỉ thông qua hợp đồng dân sự.

Preview text:

Quan hệ sở hữu là gì? Tại sao quan hệ sở hữu là quan trọng nhất?
Toàn bộ quan hệ sở hữu trong xã hội hợp thành chế độ sở hữu - nền tảng
của xã hệi tương ứng với mỗi phương thức sản xuất. Mỗi chế độ sở hữu có
thể có nhiều hình thức sở hữu khác nhau, mỗi hình thức sở hữu có vai trò, vị
trí khác nhau phụ thuộc vào bản chất của từng chế độ xã hội.
Phân tích quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu:
Quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu cũng như các quan hệ pháp luật dân sự
khác bao gồm những yếu tố cấu thành quan hệ đó là: Chủ thể, khách thể và
nội dung quyền sở hữu. Việc phân tích các yếu tố cấu thành quan hệ pháp
luật dân sự về sở hữu dưới dạng cụ thể, riêng biệt có ý nghĩa cho việc nghiên
cứu từng yếu tố khi phải xem xét chúng trong những trường hợp cụ thể. Trên
thực tế ba yếu tố ttên đây thường có mối quan hệ khăng khít, biện chứng, bởi
thiếu một trong các yếu tố đó thì không thể hình thành quan hệ pháp luật dân sự vê sở hữu.
1. Chủ thể của quan hệ sở hữu là gì ?
Chủ thể của quyền sở hữu là những người tham gia quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu.
Đối với những tài sản hữu hình thì chủ thể của quyền sở hữu là những người
có trong tay các tài sản theo quy định tại Chương VII, Phần thứ nhất BLDS
thuộc quyền sở hữu của mình (còn gọi là chủ sở hữu) được xác lập theo
những căn cứ do BLDS quy định. Chủ sở hữu trong luật dân sự là cá nhân,
pháp nhân, theo như quy định tại Điều 158: "có đủ ba quyền năng là quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản".
Để trở thành chủ sở hữu, trong một số trường hợp pháp luật dân sự quy định
phải có những điều kiện nhất định. Đối với cá nhân, để ttở thành chủ sở hữu
phải có năng lực pháp luật và trong một số trường hợp phải có năng lực hành vi.
Mặt khác, có những tài sản BLDS quy định chỉ thuộc quyền sở hữu của
những chủ thể riêng biệt như: Tài sản thuộc sở hữu toàn dân bao gồm đất đai,
rừng tự nhiên, rừng trồng có vốn từ ngân sách nhà nước, núi, sông hồ, nguồn
nước, tài nguyên trong lòng đất...(Điều 197 BLDS).
Đối với những tài sản vô hình (quyền sở hữu trí tuệ) thì chủ thể quyền sở hữu
là những người được pháp luật dân sự công nhận. Đó là chủ sở hữu tác
phẩm bao gồm: Tác giả, các đồng tác giả, cơ quan tổ chức giao nhiệm vụ cho
tác giả, cá nhân hoặc tổ chức giao kết hợp đồng sáng tạo với tác giả, người
thừa kế theo di chúc hoặc người thừa kế theo pháp luật của tác giả.... Trong
quyền sở hữu công nghiệp, chủ sở hữu có thể được xác nhận theo vãn bằng
bảo hộ. Người có tên trong văn bằng bảo hộ do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp là chủ sở hữu và có quyền sở hữu đối với sáng chế, giải pháp hữu
ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá v.v. được xác lập theo văn bằng bảo hộ.
Do tính chất và đặc trưng của quan hệ pháp luật về sở hữu nên một bên chủ
thể luôn được xác định và có các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản của mình, còn chủ thể phía bên kia là tất cả những thành viên trong xã
hội. Những thành viên này chưa được xác định cụ thể nhưng họ có nghĩa vụ
phải tôn trọng các quyền năng của chủ sở hữu. Nghĩa vụ này được thể hiện ở
việc không được xâm phạm đến các quyền của chủ sở hữu dưới dạng hành
động hoặc không hành động. Ví dụ: Không được xâm phạm trực tiếp hoặc
gián tiếp đến các quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu. Người thuê tài sản
không được sử dụng tài sản không đúng mục đích, công dụng của tài sản.
Nếu bên thuê tài sản vi phạm có thể bị bên cho thuê đơn phương chấm dứt
thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 2 Điều 480 BLDS.
Ngoài ra, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, pháp luật còn
quy định các thành viên trong xã hội không được tiến hành những hành vi
khác làm cản trở việc thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu.
2. Khách thể của quan hệ sở hữu là gì ?
Khách thể là một trong ba yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật dân sự về sở
hữu. Nó có thể là đối tượng của thế giới vật chất hoặc là kết quả những hoạt
động sáng tạo tinh thần (trí tuệ).
Tài sản - với tư cách là khách thể của quan hệ sở hữu - đã được Điều 105
BLDS xác định như sau: "Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”.
Tài sản có thể chia thành
Bất động sản và động sản là hai tiêu chí để phân
loại tài sản trong quyền sở hữu.
Như vậy khách thể của quan hệ sở hữu thường là tài sản, vật có giá...
Ví dụ: 1 Kg vàng; 1 triệu đồng; 1 Căn nhà chung cư....
3. Điều kiện để trở thành chủ thể của quan hệ sở hữu
Để trở thành chủ sở hữu, trong một số trường hợp pháp luật dân sự quy đinh
phải có những điều kiện nhất định. Đối với cá nhân, để trở thành chủ sở hữu
phải có năng lực pháp luật dân sự và trong một số trường hợp phải có năng lực hành vi dân sự.
Tuy nhiên,có những tài sản BLDS quy định chỉ thuộc quyền sở hữu của
những chủ thể riêng biệt như: Điều 197 BLDS quy định: Tài sản thuộc sở hữu
toàn dân bao gồm Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn
lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác Ví dụ: Không được
xâm phạm trực tiếp hoặc gián tiếp đến các quyền, lợi ích hợp pháp của chủ
sở hữu. Người thuê nhà không được tự ý sửa chữa hoặc làm thay đổi kiến
tróc nhà khi chủ sở hữu chưa đồng ý. Nếu bên thuê nhà vi phạm có thể bị
bên cho thuê nhà đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi
thường thiệt hại theo quy đinh tại khoản 2 Điều 480 BLDS.
Do tính chất và đặc trưng của quan hệ sở hữu nên một bên chủ thể luôn
được xác định và có các quyền năng chiếm hữu ,sử dụng, đinh đoạt tài sản
của mình còn chủ thể phía bên kia là tất cả những thành viên trong xã
hội .Những thành viên này chưa được xác định cụ thể nhưng họ có nghĩa vụ
phải tôn trọng các quyền năng của chủ sở hữu. Nghĩa vụ này được thể hiện ở
việc không được xâm phạm đến các quyền của chủ sở hữu dưới dạng hành
động hoặc không hành động.
Để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, pháp luật còn quy đinh
các thành viên trong xã hội không được tiến hành những hành vi khác làm
cản trở việc thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu.
4.Quyền sở hữu là gì?
Quyền sở hữu là một phạm trù pháp lí phản ánh các quan hệ sở hữu trong
một chế độ sở hữu nhất định, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật
nhằm điều chỉnh những quan hệ về sở hữu trong xã hội. Các quy phạm pháp
luật về sở hữu xác nhận, quy định và bảo vệ các quyền lợi của các chủ sở
hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản.
Quyền sở hữu là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống kinh tế
xã hội cũng như trong pháp luật dân sự. Nó là một trong những tiền đề vật
chất cho sự phát triển kinh tế, vì quyền sở hữu chính là mức độ xử sự mà
pháp luật cho phép một chủ thể được thực hiện trong quá trình, chiếm hữu,
sử dụng và định đoạt tài sản. Mức độ xử sự ấy qui định giới hạn và khả năng
thực hiện của họ trong quá trình học tập, nghiên cứu khoa học, tham gia lao
động sản xuất, kinh doanh… Điều đó tác động trực tiếp đến nền kinh tế, thúc
đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.
5. Các quyền của năng của quyền sở hữu 5.1 Quyền chiếm hữu
Luật dân sự Việt Nam xác định chiếm hữu là một quyền năng của quyền sở
hữu cụ thể, Điều 182 BLDS qui định quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ,
quản lý tài sản. Nắm giữ tài sản là việc người chiếm hữu giữ vật trong phạm
vi kiểm soát làm chủ và chi phối tài sản đó theo ý chí của mình, ví dụ, cất tiền
vào túi, quần áo, trang sức để vào trong tủ
Trong chiếm hữu theo luật Việt Nam, xét dưới góc độ chủ thể chiếm hữu, có
thể tồn tại hai khả năng sau đây:
Người chiếm hữu tài sản đồng thời là chủ sở hữu tài sản và người chiếm hữu
không phải là chủ sở hữu của tài sản;
Xét theo việc chiếm hữu có căn cứ hay không có căn cứ, có thể chia chiếm
hữu thành chiếm hữu có căn cứ pháp luật và chiếm hữu không có căn cứ pháp luật. Các loại chiếm hữu
· Chiếm hữu có căn cứ pháp luật
Chiếm hữu có căn cứ pháp luật được hiểu là các trường hợp người chiếm
hữu thực sự có quyền chiếm hữu đối với tài sản của mình dựa trên những
căn cứ do pháp luật qui định. Đó là hình thức chiếm hữu hợp pháp, theo Điều
183 , sự chiếm hữu hợp pháp trứơc hết đó là sự chiếm hữu tài sản của một
chủ sở hữu được pháp luật công nhận.
Người không phải là chủ sở hữu mà chiếm hữu tài sản thì chỉ được coi là
chiếm hữu hợp pháp khi rơi vào các trường hợp sau: người được chủ sở hữu
uỷ quyền quản lý tài sản, người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông
qua giao dịch dân sự; người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không
xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu,
bị chìm đắm; người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị
thất lạc, chiếm hữu của cơ quan, tổ chức theo chức năng và thẩm quyền có
quyền thu giữ và chiếm hữu tài sản…
Đối với các trường hợp người được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản
hoặc được giao tài sản thông qua giao dịch dân sự, người chiếm hữu không
thể xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu (Điều 185,186).
Người chiếm hữu tài sản của người khác có căn cứ pháp luật chỉ thực hiện
quyền chiếm hữu trong phạm vi, theo cách thức và thời hạn do chủ sở hữu
xác định. Hay nói khác đi, người không phải là chủ sở hữu thực hiện các
quyền năng chủ yếu không mang tính độc lập.( Khoản 1 Điêù 185) .
Trong trường hợp quyền chiếm hữu bị xâm phạm, người chiếm hữu tài sản
của người khác nhưng có căn cứ pháp luật được pháp luật bảo vệ theo các
quy định về bảo vệ quyền sở hữu (từ Điều 255 đến Điều 260 BLDS). Lẽ dĩ
nhiên, người này phải chứng minh được tính hợp pháp của việc chiếm hữu,
chẳng hạn bằng việc xuất trình hợp đồng thuê tài sản.
· Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật
Người chiếm hữu trong tình trạng chiếm hữu không dựa vào các trường hợp
được liệt kê tại Điều 190 BLDS đều bị xem là chiếm hữu không có căn cứ
pháp luật. Thực chất, chiếm hữu không có căn cứ pháp luật là trường hợp
một người thực hiện quyền chiếm hữu của chủ sở hữu đối với một tài sản tức
là xử sự như chính mình là chủ sở hữu trong khi thực chất chủ sở hữu đích
thực của tài sản lại là người khác. Có hai trường hợp xảy ra: chiếm hữu
không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, chiếm hữu không có căn cứ
pháp luật và không ngay tình.
Người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật và không ngay tình không được
pháp luật bảo vệ và không được hưởng quy chế xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu.
Trái lại, người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình
được pháp luật bảo vệ trong nhiều trường hợp và được xác lập quyền sở
hữu tài sản theo thời hiệu. 5.2 Quyền sử dụng
Điều 192 BLDS định rõ: quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng
hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Khai thác công dụng của tài sản được hiểu là việc
dùng tài sản để phục vụ nhu cầu, sở thích của bản thân hoặc để khai thác lợi
ích kinh tế của tài sản. Chẳng hạn, sử dụng môtô làm phương tiện để đi lại,
đeo nữ trang hay đồng hồ để làm đẹp…Hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản là
việc chủ sở hữu thu nhận các sản vật tự nhiên mà tài sản mang lại như trái
cây, gia súc sinh con, gia cầm đẻ trứng… hoặc thu các khoản lợi từ việc khai
thác tài sản như tiền cho thuê nhà, lợi tức cổ phiếu, lợi tức cho vay… Việc sử
dụng các tài sản là vật tiêu hao, đặc biệt là các vật tiêu hao hết sau một lần
sử dụng như việc sử dụng thức ăn, đồ uống, tiêu tiền … cũng đồng nghĩa với
việc chủ sở hữu sử dụng quyền định đoạt đối với tài sản.
Như vậy, sử dụng tài sản là một trong những quyền năng quan trọng và có ý
nghĩa thực tế của chủ sở hữu. Chủ sở hữu hoàn toàn có toàn quyền hác
công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức của tài sản theo cách thức và mục đích sử
dụng tài sản theo ý chí của mình: sử dụng hoặc không sử dụng tài sản, trực
tiếp khai thác công dụng tự nhiên của tài sản hoặc để cho người khác sử
dụng thông qua các giao dịch dân sự như hợp đồng cho thuê, cho mượn. Tuy
nhiên, trong mọi trường hợp, việc sử dụng tài sản phải trên nguyên tắc không
được làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và
lợi ích hợp pháp của người khác. Thông thường, chủ sở hữu là người có
quyền sử dụng tài sản nhưng pháp luật cũng ghi nhận ba trường hợp người
không phải chủ sở hữu cũng có quyền sử dụng tài sản.
Trường hợp thứ nhất, người được chủ sở hữu chuyển giao quyền sử dụng
tài sản thông qua hợp đồng. Trong trường hợp này, người sử dụng được
quyền khai thác tài sản theo cách thức và thời hạn đã được thoả thuận với chủ sở hữu.
Trường hợp thứ hai, người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật
nhưng ngay tình cũng có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức
từ tài sản. Vì vậy, người này chỉ phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ thời
điểm họ biết hoặc buộc phải biết việc chiếm hữu tài sản là không có căn cứ
pháp luật (Khoản 2 Điều 194 BLDS )
Trường hợp thứ ba, cơ quan hay tổ chức nào đó cũng có quyền sử dụng tài
sản của người khác trên cơ sở một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền hoặc sử dụng tài sản trong tình thế cấp thiết phù hợp với qui định của pháp luật. 5.3 Quyền định đoạt
Điều 195 BLDS định rõ: Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu
tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu tài sản. Việc định đoạt tài sản có thể định
đoạt số phận thực tế của các vật, làm chấm dứt sự tồn tại vật chất của tài sản,
như huỷ bỏ, tiêu dùng hết hoặc từ bỏ quyền sở hữu đối với vật, hoặc bằng
hành vi pháp lý (bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, góp vốn vào
công ty…). người không phải là chủ sở hữu chỉ có quyền định đoạt tài sản
của người khác trong trường hợp được chủ sở hữu uỷ quyền hoặc trong
những trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định (việc trưng mua, trưng thu
tài sản theo quyết định của Nhà nước). Việc thực hiện quyền định đoạt đối
với tài sản sẽ làm chấm dứt hoặc thay đổi các quan hệ pháp luật liên quan đến tài sản đó.
Về nguyên tắc, chủ sở hữu có toàn quyền định đoạt số phận thực tế hay số
phận pháp lý tài sản của mình. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhăm bảo
đảm hài hoà giữa lợi ích của chủ sở hữu và lợi ích của Nhà nước, lợi ích
công cộng hoặc lợi ích của người khác, quyền định đoạt có thể bị hạn chế
theo những điều kiện cụ thể do pháp luật quy định. Được thể hiện trong một số trương hợp sau:
Khi tài sản đem bán là cổ vật, là di tích lịch sử, văn hoá thì Nhà nước có quyền ưu tiên mua;
Trong trường hợp tổ chức, cá nhân có quyền ưu tiên mua một tài sản theo
quy định của pháp luật thì khi bán tài sản, chủ sở hữu phải dành quyền ưu
tiên mua cho các tổ chức, cá nhân đó. Ví dụ, thành viên của công ty trách
nhiệm hữu hạn chỉ có thể chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho người
ngoài nếu các thành viên khác của công ty không mua hoặc mua không
hết((Điều 43 Luật Doanh nghiệp);
Bán nhà ở đang cho thuê thì bên thuê được quyền ưu tiên mua trước( Điều
94 Luật nhà ở năm 2005) .
Trong trường hợp pháp luật có quy định trình tự, thủ tục định đoạt tài sản thì
phải tuân theo trình tự, thủ tục đó. Điều 450 BLDS quy định hợp đồng mua
bán nhà ở phải được lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác. Như vậy, nếu A bán nhà cho B
nhưng hợp đồng không được công chứng thì hợp đồng này có nguy cơ bị
xem là vô hiệu (Điều 122, 124 và 127 BLDS.
Có những trường hợp tuy không phải là chủ sở hữu, cũng không được chủ
sở hữu uỷ quyền, nhưng theo qui định của pháp luật những người có thẩm
quyền vẫn có quyền định đoạt tài sản.( Trung tâm bán đấu giá tài sản theo qui
định của pháp luật; hiệu cầm đồ được quyền bán tài sản, nếu hết thời hạn đã
thoả thuận mà người vay không trả được tiền vay…).
Trong bài viết này tác giả muốn bàn thêm, để tranh thủ ý kiến của các đòng
nghiệp và các quí vị một số điểm liên quan đến bài viết này. cụ thể là:
- Người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật được xác định là
người chiếm hữư hợp pháp hay bất hợp pháp? Hay chỉ xác định là người
chiếm hữu không có căn cú pháp luật? để từ đó xác định tư cách chủ thể
trong việc áp dụng biện pháp bảo vệ quyền sở hữu.
- Có nên bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu?
- Trường hợp người chiếm hữu tài sản ban đầu có căn cứ pháp luật nhưng
sau đó lại rơi vào tình trạng chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng
ngay tình. Chẳng hạn thuê nhà của người không phải là chủ sở hữu, sau đó
bị chủ sở hữu kiện đòi nhà, thuê nhà của người được chia thừa kê của người
bị Toà án tuyên bố chết, sau đó người này quay trở vê… Trong các trường
hợp này có được xem xét “ quyền của người thuê nhà khi nhà cho thuê thay
đổi chủ sở hữu theo qui định tại Điều 104 Luật nhà ở năm 2005 không?
- Khoản 2 Điều 194 và Điều 190 có mâu thuẫn khi qui định về tính liên tục
quyền chiếm hữu của chủ sở hữu?
- Có câu trả lời cho trường hợp “Ngưòi chiếm hữu hợp pháp có quyền đòi lại
tài sản theo Điều 257, 258 không?
- Điều 257 sử dụng cụm từ “hợp đồng có đền bù” là chưa bao quát hết mọi
trường hợp tài sản được chuyển giao thông qua giao dịch dân sự. Bởi lẽ, việc
dịch chuyển này không chỉ thông qua hợp đồng dân sự.
Document Outline

  • Quan hệ sở hữu là gì? Tại sao quan hệ sở hữu là qu
    • 1. Chủ thể của quan hệ sở hữu là gì ?
    • 2. Khách thể của quan hệ sở hữu là gì ?
    • 3. Điều kiện để trở thành chủ thể của quan hệ sở h
    • 4.Quyền sở hữu là gì?
    • 5. Các quyền của năng của quyền sở hữu
      • 5.1 Quyền chiếm hữu
      • 5.2 Quyền sử dụng
      • 5.3 Quyền định đoạt