Quan niệm của con người trong lịch sử Triết học Trung Quốc cổ đại giai đoạn Xuân Thu - Chiến Quốc và ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người mới Việt Nam hiện nay

Chương 1: Khái quát Quan niệm của con người trong lịch sử Triết học Trung Quốc cổ đại giai đoạn Xuân Thu - Chiến Quốc. Chương 2: Quan niệm về mối quan hệ giữa người với người. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 46560390
0
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP
………..***……….
lOMoARcPSD| 46560390
1
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
Tên đề tài
QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI TRONG LỊCH SỬ TRIẾT
HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI GIAI ĐOẠN XUÂN THU -
CHIẾN QUỐC VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG VIỆC XÂY
DỰNG CON NGƯỜI MỚI
VIỆT NAM HIỆN NAY
THÁI NGUYÊN - 2010
lOMoARcPSD| 46560390
2
MỤC LỤC
Stt Nội dung Trang
1 PHẦN MỞ ĐẦU 1
2 NỘI DUNG 7
Chương 1: KHÁI QUÁT QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI TRONG
TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI GIAI ĐOẠN XUÂN THU -
CHIẾN QUỐC
1.1 Quan niệm của Nho gia về con người 7
1.2 Quan niệm của Mặc gia về con người 11
1.3 Quan niệm của Pháp gia về con người 13
Chương 2: QUAN NIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NGƯỜI VỚI 15
NGƯỜI TRONG XÃ HỘI GIAI ĐOẠN XUÂN THU - CHIẾN
QUỐC VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG VIỆC XÂY DỰNG CON
NGƯỜI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Quan niệm của Nho gia về mối quan hệ giữa người với người 15
2.2 Quan niệm của Mặc gia về mối quan hệ giữa người với người 20
2.4 Quan niệm của Pháp gia về mối quan hệ giữa người với 22
người
2.4 Ý nghĩa của các quan niệm nêu trên trong việc xây dựng con 24
người mới ở Việt Nam hiện nay
3 KẾT LUẬN 39
4 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 41
lOMoARcPSD| 46560390
3
MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài
Con người giá trị sản sinh ra mọi giá trị. Con người thước đo của mọi bậc
thang giá trị. Nhận thức được vai trò to lớn của thước đo con người, đặc biệt trong thời
kỳ đổi mới đang quá độ lên chủ nghĩa hội Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có con người chủ nghĩa
hội.Con người chủ nghĩa hội chính con người mới, phát triển toàn diện: tinh
thần làm chủ xã hội, có trí thức văn hoá và khoa học, có trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, phẩm chất đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công tư, phải nghiêm
khắc chống chủ nghĩa cá nhân.
Hiện nay, thực hiện chiến lược phát triển con người toàn diện, Đại hội lần thứ IX,
X của Đảng cộng sản Việt Nam đã đra chủ trương phát triển nguồn lực con người
với yêu cầu ngày càng cao, không thể không kế thừa các giá trị truyền thống của dân
tộc nói riêng kế thừa tinh hoa của tưởng nhân loại về con người nói chung. Chúng
ta xây dựng nền văn hóa mới, đạo đức mới, con người mới trên nền tảng những giá tr
ấy, trong đó cả những quan niệm về đạo đức, con người của trường phái Nho gia,
Mặc gia Pháp gia. Vấn đđặt ra là, chúng ta thể cần phải kế thừa những gì,
loại bỏ những gì ttrong di sản đạo đức, con người của các trường phái triết học nói
trên. Do đó, khai thác và phát huy những điểm tích cực cũng như khắc phục, xóa bỏ
những hạn chế của quan niệm vđạo đức, con người Nho gia, Mặc gia, Pháp gia trong
việc xây dựng hoàn thiện con người mới hội chủ nghĩa Việt Nam giờ đây là
một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách.
Xuất phát từ vấn đề nêu trên, tôi chọn đề tài: “Quan niệm về con người trong lịch
sử triết học Trung Quốc cổ đại giai đoạn Xuân Thu Chiến Quốc và ý nghĩa của
trong việc xây dựng con người mới Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu khoa
học của mình.
lOMoARcPSD| 46560390
4
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến đề tài nghiên cứu khoa học của tôi, ở Việt Nam các tác giả
sau:
Vũ Minh Tâm (chủ biên): “Tư tưởng triết học về con người”, Nxb Giáo dục,
1996.
An Mạnh Toàn (dịch): “con người- những ý kiến mới về một đề tài cũ”, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
Nguyễn Văn Hiền: “Thuyết kiêm ái: nội dung, gtrị ý nghĩa đối với việc
xây dựng đạo đức ở nước ta”, Tạp chí Triết học, số 232, 9-2010.
Triệu Quang Minh, Trần Thị Lan Hương: “Vấn đề con người trong quan niệm
pháp trị của Hàn Phi”, tạp chí Triết học, số 219, 8-2010.
Nguyễn Thị Thu Thủy: “Một số nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo và vai
trò, ý nghĩa của với việc hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam hiện nay”, Báo
cáo NCKH năm 2010.
còn rất nhiều những công trình khác những bài viết trong các tạp chí khi
nói về con người nói chung, trong lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại thời Xuân Thu
- Chiến Quốc. Những công trình bài viết trên đã phân tích khái quát một cách chung
nhất và làm sáng tỏ vấn đề con người trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Tuy nhiên, do
thời gian hạn nên trong đề tài nghiên cứu khoa học này, tôi chỉ trình bày một số
quan niệm bản về con người trong lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại giai đoạn
Xuân Thu - Chiến Quốc, từ đó rút ra ý nghĩa của trong việc xây dựng con người
mới ở Việt Nam hiện nay.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích: Báo cáo khoa học trình bày một cách hệ thống Quan niệm về con người
trong lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại giai đoạn Xuân Thu – Chiến Quốc và rút ra
ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục đích có 3 nhiệm vụ:
+ Quan niệm của các học phái về con người
lOMoARcPSD| 46560390
5
- Quan niệm của Nho gia về con người.
- Quan niệm của Mặc gia về con người.
- Quan niệm của Pháp gia về con người.
+ Quan niệm của các học phái về mối quan hệ giữa con người với con người trong
hội.
- Quan niệm của Nho gia vmối quan hệ giữa con người với con người trong xã
hội.
- Quan niệm của Mặc gia về mối quan hệ giữa con người với con người trongxã
hội
- Quan niệm của Pháp gia về mối quan hệ giữa con người với con người trongxã
hội.
+ Rút ra ý nghĩa của vấn đề phân tích trên trong việc xây dựng con người mới
Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là một số quan niệm cơ bản về con người trong lịch sử triết
học Trung Quốc cổ đại giai đoạn Xuân Thu - Chiến Quốc, từ đó rút ra ý nghĩa của nó
trong việc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu các tài liệu liên quan đến đạo đức, con người của trường
phái Nho gia, Mặc gia, Pháp gia vấn đề con người trong việc xây dựng con người
mới ở Việt Nam.
5. Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu
Báo cáo dựa trên sở của những nguyên triết học Mác Lênin, đồng thời sử
dụng kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích
tổng hợp, phương pháp logic lịch sử, phương pháp khái quát hóa trừu tượng hóa…
6. Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu góp phần làm hệ thống quan niệm con người trong trường phái
triết học Nho gia, Mặc gia Pháp gia, qua đó rút ra ý nghĩa của trong việc xây
dựng con người Việt Nam hiện nay.
lOMoARcPSD| 46560390
6
Những kết quả đạt được của báo cáo nghiên cứu khoa học sự bổ sung cho quá
trình nghiên cứu về quan niệm con người trong giai đoạn Xuân Thu - Chiến Quốc
Trung Quốc và ý nghĩa của nó trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, nó có thể làm tài liệu
tham khảo, nghiên cứu và học tập về vấn đề con người trong quan niệm của triết học
Trung Quốc cổ trung đại nói riêng và vấn đề con người nói chung.
7. Kết cấu của báo cáo khoa học
Ngoài phần mở đầu, kết luận tài liệu tham khảo, nội dung của báo cáo gồm 2
chương, 7 tiết.
Chương 1: Khái quát quan niệm về con người trong triết học Trung Quốc cổ đại
giai đoạn Xuân Thu Chiến Quốc (gồm 3 tiết).
Chương 2: Quan niệm về mối quan hệ giữa con người với con người trong giai
đoạn Xuân Thu - Chiến Quốc và ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người mới
Việt Nam hiện nay (gồm 4 tiết).
NỘI DUNG CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT QUAN NIỆM VỀ CON
NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI GIAI
ĐOẠN XUÂN THU - CHIẾN QUỐC
Như chúng ta đã biết Trung Quốc một quốc gia nhiều dân tộc lịch sử lâu
đời, là một trong những nước nền văn minh sớm nhất trên thế giới. Triết học Trung
Quốc từ khi ra đời đến nay, đã trải qua các giai đoạn phát triển từ Hạ, Thương, Tây
Chu và đến thời Xuân Thu - Chiến Quốc (707 TCN-221 TCN). Có thể nói rằng đây là
thời kỳ phồn vinh, trăm hoa đua nở, Chư tử bách gia đã rầm rộ sáng lập nên các hệ
thống triết học độc đáo.
Từ thế kỷ thứ VIII trước công nguyên, xã hội Tây Chu bước vào một thời kỳ
nhiều biến động lớn lao, toàn diện kéo dài cho đến giữa thế kỷ thứ III TCN. Lịch s
gọi là thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc. Ở thời kỳ này đồ sắt xuất hiện phổ biến, công
cụ bằng sắt tham gia vào thế giới công cụ. Đây cũng là thời kỳ khởi sắc của nền kinh
tế thương nghiệp. Thế kỷ thứ VI thV TCN xuất hiện những thành thị thương
nghiệp buôn bán nhộn nhịp các nước Hàn, Tề, Tần, Sở. Thành thị đã một sở
lOMoARcPSD| 46560390
7
kinh tế tương đối độc lập, từng bước tách ra khỏi chế độ thành thị thị tộc của quý tộc
thị tộc, thành những đơn vị khu vực của tầng lớp địa chủ mới lên. Sự phát triển của
sức sản xuất, kinh tế phát triển đã tác động mạnh mẽ đến hình thức sở hữu ruộng đất
kết cấu giai tầng hội. Giai cấp quý tộc, thị tộc Chu bị mất đất đai, mất dân, địa
vị kinh tế ngày càng sa sút chính điều này đã ảnh hưởng đến địa vị chính trị, ngôi
Thiên Tử của nhà Chu, biến sự tồn tại vua chỉ còn là hình thức. Sự phân biệt sang hèn
dựa trên tiêu chuẩn huyết thống của chế độ thị tộc không còn phù hợp, đòi hỏi trong
lúc này, xã hội phân chia phải dựa trên sở tài sản. Các nước chư hầu của nhà Chu
không chịu phục tùng vương mệnh, không chịu cống nạp, mang quân thôn tính lẫn
nhau, tự xưng “Vương đạo suy vi”, tầng lớp quý tộc địa chủ mới lên ngày càng
giàu có, lấn át cả quý tộc thị tộc cũ “trên yếu dưới mạnh” thậm chí còn chiếm cả chính
quyền.
Như vậy, kết quả của những biến động kinh tế đã dẫn đến sự đa dạng trong kết
cấu giai tầng của hội. Nhiều giai tầng mới xuất hiện đan xen mâu thuẫn ngày
càng gay gắt. Mâu thuẫn chính nổi lên trong thời kỳ này mâu thuẫn giữa tầng lớp
mới lên tài sản, địa vị kinh tế trong hội (Hiển tộc) nhưng không được tham
gia vào chính quyền với giai cấp quý tộc thị tộc cũ của nhà Chu. Mâu thuẫn giữa tầng
lớp sản xuất nhỏ, thợ thủ công thương nhân với giai cấp quý tộc thị tộc Chu có một bộ
phận tách ra, chuyển hlên giai tầng mới, một mặt họ muốn bảo lưu nhà Chu, một
mặt họ cũng không hài lòng với trật tự của nó. Họ muốn cải biến bằng con đường
cải lương, cải cách. Tầng lớp tiểu quý tộc thị tộc, một mặt họ đang bị tầng lớp mới lên
tấn công về chính trị và kinh tế, mặt khác họ cũng mâu thuẫn với tầng lớp đại quý tộc
thị tộc đang nắm chính quyền. Mâu thuẫn giữa nông dân công thuộc các tộc bị
người Chu nô dịch với nhà Chu và tầng lớp mới lên đang ra sức bóc lột, tận dụng sức
lao động của họ.
Đó là những mâu thuẫn của thời kỳ lịch sử đang đòi hỏi giải thể chế độ nô lệ thị
tộc, tiến nhập vào xã hội phong kiến đòi hỏi giải thể chế độ của nhà nước gia trưởng,
lOMoARcPSD| 46560390
8
xây dựng nhà nước của giai cấp quốc dân, giải phóng lực lượng sản xuất mở đường
cho xã hội phát triển. Xã hội trong thời kỳ này đang chuyển mình dữ dội, kinh tế phát
triển, tầng lớp dân tdo xuất hiện, đặc biệt sự ra đời của các thành thị. Những thành
quả đạt được trên nhiều lĩnh vực chính là nguồn động lực quan trọng cho sự phát triển
tính chất đột biến của tư tưởng của thời kỳ này. Lịch sử gọi thời kỳ này thời kỳ
“Bách gia chư tử” (trăm nhà trăm thầy), “bách gia tranh minh” (trăm nhà đua tiếng).
Chính trong quá trình “tranh minh” đó đã xuất hiện những nhà tư tưởng đại, hình
thành nên hệ thống triết học khá hoàn chỉnh.
Khởi nguồn của tư tưởng triết học Trung Quốc có thể là thần thoại thời tiền sử.
Song tưởng triết học Trung Quốc trong đó “vấn đề con người” trở thành hệ thống
hoàn chỉnh thì phải đến thời Xuân Thu - Chiến Quốc thời đại của trí tuệ được giải
phóng, trí thức được tôn là thầy, trí thức được phổ cập. Phong trào “Bách gia chư tử”,
“Bách gia tranh minh” là biểu hiện sinh động của tư tưởng học thuật từ quyền lực nhà
nước chuyển xuống thiên hạ rộng rãi. Cuối Xuân Thu, đầu Chiến Quốc học thuyết của
các tưởng gia mọc lên như rừng trong khoảng “103 nhà” nổi lên Sáu nhà”. Nho
gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia, Danh gia, Âm Dương gia trong đó có ảnh hưởng lớn
nhất là Nho gia, Mặc gia và Pháp gia.
Nội dung tưởng triết học của ba học phái này lấy con người làm trung tâm
mục tiêu nhận thức. Đề cao gtrị đạo đức tinh thần nhân văn; khẳng định giá trị
tích cực của con người đối với mình và đối với xã hội; đặt con người trong mối quan
hệ giữa con người với con người. Các học phái này tập trung phân tích con người từ
bản chất mục tiêu chung là xây dựng con người đạo đức, nghĩa, nguyên
tắc.
1.1.Quan niệm của Nho gia về con người
Trong lịch sử triết học Trung Quốc, Nho giáo một trường phái triết học đã đưa
ra học thuyết chính trị đạo đức để giáo hóa con người, nhằm củng cố duy trì trật tự xã
hội. Để làm được điều đó, giáo của Nho giáo thiên vviệc xem xét giải con người
lOMoARcPSD| 46560390
9
ở nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, vấn đề chính vẫn là luận bàn về bản tính con
người thông qua khái niệm “tính người”, “tâm người”, “lý người”, tức chlà bàn đến
phẩm chất tinh thần, ý thức tâm lý, tưởng chưa đi sâu vào bản chất đích thực
của con người. Mặc dù, mỗi nhà triết học của Nho giáo xem xét bản chất con người ở
mỗi khía cạnh khác nhau ( Khổng Tử: Tính tương cận, tập tương viễn; Mạnh Tử:tính
thiện; Tuân Tử: tính ác), song trong toàn bộ quá trình vận động của lịch sử tưởng
thì họ, vẫn skế thừa, phát triển và làm cho quan niệm về bản chất con người
ngày càng trở nên hoàn thiện hơn.
1.1.1. Khổng Tử chưa đi sâu vào nghiên cứu bản chất con người. Tuy vậy, khi
bàn về bản chất con người Khổng Tử đã cho rằng bản tính của con người thiện và
gần giống nhau tất cả mọi người. Ông nói: “Tính tương cận giả, tập tương viễn
giả” [8, tr.81]. Nghĩa con người khi mới sinh ra đều tính trời phú cho là gần giống
nhau, nhưng do quá trình tiếp xúc và học hành làm cho họ có sự khác nhau: có kẻ trí ,
người ngu. Phẩm chất của con người là chất phác, chân thực. điều kiện thuận lợi
để trau dồi đức nhân và tất cả các đức khác cũng từ đức nhân mà ra. Bản tính của con
người thiện nhưng vì con người quen thói đời vật dục nên mới thấy điều nhân
xa mình. Vì vậy, khi con người đã nhân tphải luôn giữ lấy điều nhân, đừng bao
giờ xa rời nó, dù chỉ trong một khoảnh khắc thời gian.
Vào thời Chiến Quốc do hoàn cảnh lịch sử nhiều biến động nên các nhà
tưởng của trường phái triết học Nho giáo khi xem xét bản chất con người đã tuyệt đối
hoá một mặt trong bản chất con người hoặc thiện hoặc là ác. Mặc Mạnh Tử
Tuân Tử môn đồ của trường phái triết học Nho gia nhưng khi bàn về bản chất của
con người, hai ông đãsự đối lập nhau thậm chí nhiều khi còn sự trái ngược nhau
trong quan điểm nhưng dù họ có sự tuyệt đối hoá về mặt này hay mặt khác, thì vẫn
sự kế thừa,bổ sung và phát triển tư tưởng của Khổng Tử với những góc độ khác nhau
và ở chính họ cũng có sự bổ sung cho nhau khi xem xét bản chất con người.
lOMoARcPSD| 46560390
10
1.1.2. Khi bàn về bản chất con người, Mạnh Tử cho rằng bản chất con người là
thiện và tính thiện của con người thể hiện qua bốn đức lớn: nhân, lễ, nghĩa, trí.
Bốn đức lớn đó của con người bắt nguồn từ tđoan hay bốn đầu mối của thiện, còn
gọi là thiện đoan, là tài chất, bản chất trời phú cho con người, sinh ra đã có như mầm
cây trong hạt giống, như tchi của thể. Bốn tứ đoan là: lòng trắc ẩn (biết thương
t), lòng tu (biết thẹn ghét), lòng từ nhượng (biết cung kính) lòng thị phi (biết
phân biệt phải trái). Không có lòng trắc ẩn thì không phải người, không lòng từ
nhượng tkhông phải người, không ng thị phi thì ng không phải người.
Trắc ẩn là đầu mối của nhân, tu ốđầu mối của nghĩa, từ nhượng là đầu mối của lễ,
và thị phi là đầu mối của trí. Con người có bốn cái đầu mối ấy như thân thể có sẵn t
chi. Đây những đoan con người khi sinh ra đã có. Tứ đoan bốn cái đầu mối
của điều thiện nên gọi là thiện đoan. Thiện đoan là cái tính cố hữu của con người. Nếu
con người biết nuôi dưỡng thiện đoan thì dễ dàng trở thành thánh nhân còn nếu đánh
mất thiện đoan để mai một, suy tàn thì trở nên nhỏ nhen không khác loài cầm
thú. Đã bốn mối ấy trong mình, biết mở rộng ra cho thông thì như lửa mới
bắt đầu cháy, như suối mới bắt đầu chảy. Bên cạnh đó theo Mạnh Tử, bản chất con
người là thiện còn vì “tính là cái chung là cái bản chất của một loài”. Ở loài người, có
nhiều điểm giống nhau, trong đó điểm giống nhau đầu tiên tài chất, là bản năng thiện
do trời phú cho. Sau đó là sự giống nhau ở các quan năng để nhận biết tốt xấu thị phi.
Với tài chất quan năng ấy, ai cũng sẵn có mầm thiện Mạnh Tử nói, phàm những vật
đồng loại đều mang một bản tính giống nhau tại sao đối với con người, người ta lại
nghi ngờ rằng bản tính lại tương tự? Các bậc thánh nhân chúng ta đều một loại
tức là tâm tính giống nhau hết thảy.
Bản chất con người là thiện còn vì trong mỗi con người đều có cái tâm. Tâm là
cái chủ thể trong tinh thần của con người là cái thần minh trời phú cho con người để
hiểu biết, ứng xử với vạn vật, để phân biệt phải, trái, tốt, xấu… biết được điều này
chính bốn đầu mối của thiện, bốn đầu mối đó vốn sẵn trong con người không
phải do bên ngoài nâng đúc. Theo Mạnh Tử tâm là cái gốc của tính thiện, tâm với tính
lOMoARcPSD| 46560390
11
là một và tâm là do trời phú nên khi biết cái tính của mình là biết cái tính của trời, tâm
nơi phân biệt mọi điều phải trái tốt xấu, nên sự hiểu biết từ tâm sâu sắc hơn từ s
hiểu biết ở các quan năng. Trong các quan năng thì tai, mắt là cái không suy nghĩ nên
bị sự vật bên ngoài che lấp vật tiếp xúc với vật nên dễ bị vật đem đi lạc đường. Tâm là
cái suy nghĩ thì hiểu được lẽ phải, hiểu được chính tà. Như vậy theo Mạnh Tử, cái biết
phải trái, chính tà, nhân nghĩa đã có thiện do tâm đem lạicái tự mình biết trời sinh
làm người đã có cái biết ấy. Đó là cái biết tiên thiện là cái “sinh tri” của con người.
Mặc cho rằng con người sinh ra đã sẵn tính thiện nhưng theo Mạnh Tử,
tính thiện đó không phải bất biến. Con người thể đánh mất cái tâm cố hữu của
mình, sa vào con đường bất thiện khi ngoại cảnh xấu tác động. Bản tính của con
người giống như bản tính nước chảy vào chỗ trũng. Không một người nào khi sinh ra
tự bất thiện, cũng như không một thứ nước nào khi sinh ra lại chảy ngược dòng.
Song, nếu như bị đắp đập ngăn bờ thì nước sẽ chảy tràn cả núi. Cũng vậy, nếu bị vật
dục che lấp thì bản tính vốn lành sẽ ngược chiều ngay. Tuy nhiên tác động của ngoại
cảnh cũng giới hạn của nó. Khi tâm của con người thật vững vàng thì vật dụng vô
hiệu. Chính vậy, Mạnh Tử rất chú ý đến vấn đề giáo hoá để làm cho con người
không mai một lương tâm.
Như vậy, với Mạnh Tử, bản tính trời phú cho con người là thiện và nếu có thành
ra bất thiện là vì con người không biết giữ lấy cái tâm. Bởi ông tin có cái thiện là lí trí
thiện, tính con người một phần của thiện ấy. Và con người cần giáo dục làm
cho bản tính thiện đó không bị mờ tối và cần phải trau dồi nó cho nó phát triển để trở
thành một người tốt.
1.1.3. Cuối thời Chiến Quốc, Tuân Tử đã tận mắt thấy cảnh tranh giành xâu xé,
chém giết lẫn nhau giữa các giai cấp, tầng lớp, giữa con người với con người trong
hội, nên ông chủ trương giải bản chất con người bắt đầu bằng tính ác. Theo ông,
khi mới sinh ra con người vốn đã sẵn lòng ham muốn dục vọng nên để thoả
mãn những ham muốn dục vọng đó, con người phải hành động thuận theo tính tự
lOMoARcPSD| 46560390
12
nhiên của mình. Và điều đó tất phải dẫn đến sự tranh giành xâu xé, cướp bóc, chiếm
đoạt của nhau. Tuân Tử cho rằng: “tính con người sinh ra hiếu lợi, thuận theo tính
đó thì ra đoạt lẫn nhau và sự từ nhượng không có, sinh ra đố kị, thuận theo tính đó
thì thành ra tàn tặc, lòng trung tín không có, sinh ra lòng muốn của tai mắt
lòng thích về thanh sắc, thuận theo tính đó thì thành ra dâm loạn lễ nghĩa, văn
không có. Như thế thì theo cái tính của người ta, thuận cái tính của người ta, tất sinh
ra tranh đoạt, phạm vào cái phận (tức là quyền lợi của nhau), làm loạn cái lý mà phải
mắc lối tàn bạo cho nên phải thầy phép để cải hoá cái tính đó, có lễ nghĩa để dẫn
dắt nó rồi sau mới có từ nhượng hợp văn lý và thành ra trị” [8, tr 325]. Như vậy, Tuân
Tử cho rằng tính ban đầu của con người là ác, còn tính thiện là do con người sáng tạo
ra. Tuân Tử cho rằng, cái tính của con người do hoà khí xung hợp thành tính linh
hợp với mọi vật scảm ứng lẫn nhau sự yêu ghét, mừng giận, thương vui của
tính gọi tình. Tình cái cùng, cho nên phải cái tâm để chọn cái nên cái
không nên mà làm, gọi là “tư lự”. Có tâm tư lự để khiến con người hành động và con
người cần phải có sự học tập , rèn luyện thì mới uốn nắn được cái bản tính của mình.
Nếu như Mạnh Tử cho rằng: nhân, lễ, nghĩa, trí bốn cái đầu mối của tính
người thì Tuân Tử cho rằng, đầu mối của con người lòng hiếu lợi, lòng đố kị lòng
dục, chính ra cái này khi mới sinh ra đã sẵn có, còn nhân nghĩa lễ trí do con người
đặt ra chứ không phải là do trời sinh ra.
Mặc dù Tuân Tử cho rằng bản tính con người là ác, nhưng con người có thể tạo
ra được tính thiện, để tạo ra được tính thiện thì con người phải thầy, có phép dạy
bảo thì mới thành thiện cũng cần phải lnghĩa giáo hoá con người. Ông nói:
“Đời xưa thánh nhân lấy cái tính của người ta ác, lấy sự thiên lệch nguy hiểm
không chính, lội loạn mà không trị, bởi thế mới khởi sướng lên lễ nghĩa và chế định ra
chế độ để hiểu cái tình của người ta mà chính lại để nuôi hoá cái tính tình của người ta
đạo dẫn khiến cho theo cái trị hợp cái đạo. Người ta ai hoá theo thầy, theo phép,
tích tập văn hoá theo lễ nghĩa là người quân tử, buông cái tính tình để yên sự nom dòm
lOMoARcPSD| 46560390
13
trái lễ nghĩa kẻ tiểu nhân. Lấy thế xem, thì cái tính ác của con người ta
lắm, mà cái thiện mà người ta gây ra vậy” [8, tr 327].
Như vậy xem xét tư tưởng của các nhà nho Trung Quốc cổ đại chúng ta thấy có
một bước chuyển trong quan niệm về bản chất con người, mặc dù họ có sự khác nhau
trong các quan niệm dó, tuyệt đối hoá tính thiện hoặc tính ác của con người. Nhưng
thực ra đây là sự bổ sung cho nhau, làm cho quan niệm về bản chất con người của
trường phái triết học nho giáo Trung Quốc cổ đại thêm da dạng phong phú, ngày
một hoàn thiện hơn, và đây cũng một cống hiến cho kho tàng tri thức nhân loại về
vấn đề này của các nhà triết học nho giáo Trung Quốc cổ đại.
1.2. Quan niệm của Mặc gia về con người
Khi nói đến học phái mặc gia ta không thể không nhắc tới Mặc Tử, ông là người
sáng lập ra học phái này, khi bàn về con người cũng giống như Khổng Tử ông luôn đề
cao đức nhân nghĩa. Nhưng quan niệm ý nghĩa phạm trù nhân nghĩa của Mặc Tử
khác với quan điểm của Khổng Tử. Nếu như Khổng Tử “nhân” đạo sống của con
người theo “thiên lí” hay “đạo trời” “ái nhân” (yêu thương người) “trung thứ”
(hết lòng hết dạ thành tâm, thật ý, suy lòng mình ra lòng người cái gì mình không
muốn thì dừng đem thi hành cho người khác), nhưng lại sự phân biệt thứ bậc,
“thương yêu người thân, quí trọng người sang”, thì nhân nghĩa của Mặc Tử ý chí
của trời gồm yêu tất cả mọi người và làm lợi cho tất cả mọi người như nhau, không
phân biệt trên dưới, thân sơ qtiện. Dó chính nội dung của chủ nghĩa” kiêm ái”.
thế “kiêm áiđược coi là nội dung tưởng chủ yếu nhất trong học thuyết của Mặc
Tử. Tư tưởng đó với ý nghĩa sâu xa của nó đủ gắn với trường phái triết học mang tên
Mặc Tử nổi danh một thời Trung Quốc cổ đại. Trong sách Mặc Tử ba thiên làn
về “kiêm ái” (kiêm ái thượng, trung, hạ). Theo Mặc Tử “kiêm” gồm gộp hết thảy
như nhau, trái với “biệt” sự chia sẻ phân biệt nhau. “ái” lòng yêu thương con
người, trái với “ố” là sự thù ghét lẫn nhau. Yêu mình như yêu người, yêu người ngoài
cũng như yêu người thân, không người làng mình, người làng người, người nước
lOMoARcPSD| 46560390
14
mình, người nước người. Đó chính ý chí của trời: “gồm yêu hết thảy những kẻ
ta yêu”.
Vì thế “kiêm ái” cũng nghĩa là nhân nghĩa. Người nhân nghĩa người thực
hiện “kiêm ái”. Kiêm ái cái thực của nhân, nội dung của nghĩa. “Ái” nhân,
“kiêm” là nghĩa.
“Kiêm ái” hay nhân nghĩa bao giờ cũng đem lại lợi ích cho mọi người. Vì vậy,
khi nói tới “kiêm ái” hay nhân nghĩa Mặc Tử thường nói tới cái lợi của thiên hạ: “lợi
nghĩa vậy” (lợi nghĩa là dã) (Mặc Tử kinh thượng). nghĩa là danh, lợi là thực. Nghĩa
cái tên đẹp của lợi cái thực của nghĩa. Như thế “kiêm ái” theo Mặc tử còn bao
hàm nội dung thứ hai là “làm lợi cho hết thảy mọi người như nhau”…
“Kiêm ái” không chỉ ý chỉ của trời còn đạo của thánh nhân, không
“kiêm ái” thì thiên hạ loạn, “kiêm ái” thì thiên hạ trị, kiêm ái nhân nghĩa nên khi
thực hiện được cái đức căn bản ấy sẽ làm cho đạo đức luân lý xã hội trở nên tốt đẹp
con người có thể đạt được tất cả các phẩm chất tốt đẹp khác như: Huệ, trung, từ, hiếu,
kính đễ… người người no đủ, nhà nhà hạnh phúc, quốc gia yêu lành, thiên hạ bình trị.
Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử và Tuân Tử, Mặc Tử nói đến con người nói
đến nhân nghĩa, nói đến con người đạo đức. tưởng chủ yếu của Mặc tử được thể
hiện qua học thuyết “kiêm ái”, con người sinh ra để “ái nhân” (yêu người), yêu tất
cả mọi người không phân biệt người quân tử hay kẻ tiểu nhân, người làng này hay
người làng khác, người nước này với người nước khác. Với quan điểm “thượng đồng”
ông coi mọi người bình đẳng như nhau, ông phản đối chiến tranh. Khác với Khổng Tử,
Khổng Tử thì đề cao “Thiên mệnh”, ưa chuộng những chế độ cổ truyền như: thi, thư,
lễ, nhạc, đặc biệt lễ nghĩa phép tắc. Ông chủ trương giáo hoá con người bằng các
quy tắc đạo đức cơ bản như nhân, lễ, nghĩa, trí, dũng theo những nghi lễ tôn giáo của
chế độ phụ quyền. Mặc Tử thì trái lại, chủ trương “phi mệnh”, “phi nho”, “phi nhạc”,
“tiết táng”, “tuyên truyền”, kiêm ái”, “thượng hiền”, thượng đồng” theo “thiên trí”
lOMoARcPSD| 46560390
15
“minh quý”. Từ đó ông đặt tất cả các vấn đvề luân lý, đạo đức, chính trị xã hội
trên cơ sở “kiêm ái” và chủ nghĩa công lợi.
1.3. Quan điểm của Pháp gia về con người
Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, Pháp gia đại biểu xuất sắc là n
Phi Tử giữ vai trò đặc biệt. Trước và cùng thời với Hàn Phi Tử đã có nhiều người bàn
về con người, về tính ngươì. Phái Nho gia như Khổng Tử cho rằng con người sinh ra
vốn là gần nhau, nhưng do tập tục hội phải xa nhau. Còn Mạnh Tử thì quan
niệm, con người sinh ra vốn thiện. Bốn đầu mối của thiện tứ đoan, nhân, lễ,
nghĩa, trí sẵn trong tâm. Trái với các quan điểm trên Tuân Tử cho rằng con người
sinh ra vốn ác. Mặc gia cho rằng con người cao quí thì tính tình tất phải “kiêm ái”
“hỗ lợi”. Hàn Phi Tử cũng bàn về con người, tính người hay nói cách khác bản
chất của con người. Là học trò của Tuân Tử ông kế thừa và phát triển thuyết “tính ác”
của thầy mình, Hàn Phi Tử cho rằng bản chất của con người “ích kỉ” và đặc tính chủ
yếu của sự ham lợi ích thù ghét tai hoạ (Hàn Phi Tử, Vong Trưng) rằng
không con người nào lại “không mong muốn nhận được sự giúp đỡ của người
khác” và không tính toán, ham lợi ích của người khác (Hàn Phi Tử, Cô Phẫn).
Xuất phát từ luận điểm “lợi ích vật chất sở của tất cả quan hệ hội
hành vi con người” Hàn Phi Tử cho rằng “con người sinh ra vốn tham dục, vị lợi, luôn
thích điều lợi và tìm nó, ghét cái hại tránh nó…” (Hàn Phi Tử, gian kiếp thí thần),
đó bản tính tự nhiên. vậy tất cả các quan hệ hội (kể cả các quan hệ đạo đức
ruột thịt…) đều được xây dựng trên sở nh toán lợi hại nhân. Người chủ cho
người làm thuê ăn uống trả tiền công khá sòng phẳng không phải lòng thương
người, mà chính là để cho người làm thuê gắng sức làm việc, còn người làm thuê tận
tâm làm việc không phải thương chủ được ăn uống và tiền bạc… Tất cả
các quan hệ cha – con, vợ- chồng, anh- em, vua- tôi đều có chỗ lợi hại như vậy.” Vua
bán trách nhiệm chức tước, còn bề tôi bán tri thức sức lực (Hàn Phi Tử, gian kiếp
thí thần). Chính vậy muốn trị dân để dân theo nhân nghĩa chỉ là một ảo tưởng của
Nho Gia, làm hại cho nước vì tính con người ta vốn ác (Hàn Phi Tử, Lục Phản). Hơn
lOMoARcPSD| 46560390
16
nữa, nếu dùng nhân nghĩa để phán xét phải trái sẽ rơi vào tình trạng dùng nhân nghĩa
nhân đđịnh nặng nhẹ thiếung minh. Sự thiếu khách quan đầu mối của sự náo
loạn thiên hạ. Vì vậy, phép trị nước công bằng và hữu hiệu hơn cả là dùng luật pháp.
CHƯƠNG II
QUAN NIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NGƯỜI VỚI NGƯỜI TRONG
XÃ HỘI GIAI ĐOẠN XUÂN THU - CHIẾN QUỐC VÀ Ý NGHĨA CỦA
TRONG VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Quan niệm của Nho gia về mối quan hệ giữa người với người
Ở thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc, hệ tư tưởng phong kiến thống trị mọi mặt cả
về vật chất lẫn tinh thần. Quan niệm của các triết gia về con người, về mối quan hệ
giữa con người với con người bị chi phối bởi tư tưởng đạo đức phong kiến. Nho gia là
trường phái hệ tưởng mang nặng tính chất phong kiến gia trưởng và ảnh
hưởng lớn đến đời sống hội. Quan niệm của Nho gia về mối quan hệ giữa người
với người chủ yếu được thể hiện qua học thuyết về chính trị xã hội.
Nhà nho tiêu biểu nhất của trường phái Nho gia đó là Khổng Tử. Ông cho rằng
sự thay đổi của hội làm cho thiên hạ rối ren, nguyên nhân chính do sự xa đọa của
thế lực cầm quyền làm cho “danh” không được “chính” tức là “danh” không phù hợp
với “thực”. Quan niệm “danh” không được “chính” làm cho xã hội loạn lạc, phép tắc
lOMoARcPSD| 46560390
17
kỷ cương xáo trộn, danh phận không ràng, nên để khôi phục trật tự xã hội, Khổng
Tử đã chủ trương thực hành thuyết “chính danh”. Như vậy, khi đề ra học thuyết “chính
danh”, Khổng Tử đã cố gắng thể hiện nó qua hành động của mình. Nó cũng phản ánh
thái độ tôn trọng, tôn ty trật tự phép tắc của Khổng Tử. Tôn ty này trong quan hệ giữa
người với người Nho gia gọi “Luân” được sách “thuyết văn” cho “con đường”,
sách Khúc lễ giảng giải là “loại”, Mạnh Tử gọi là “trật tự”. Mt số nhà nghiên cứu sau
này giải thích là “thứ bậc” là đạo “cư xử”. Có thể hiểu trong xã hội “mỗi một thứ quan
hệ là một luân”.
Trong các mối quan hệ hội, triết học Nho gia xác định năm mối quan h
bản thông thường của mỗi đời người trong thiên hạ, gọi “Ngũ luân” gồm quan
hệ Vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bè - bạn (quân thần, phụ tử, phu phụ,
huynh đệ bằng hữu) (Trung dung 20).
Mỗi quan hệ lại tiêu chuẩn riêng cho từng đối tượng, như cha hiền con thảo, anh tốt
em ngoan, chồng biết tình nghĩa vợ nghe lẽ phải, btrên từ hiếu bề dưới kính thuận,
vua nhân từ tôi trung thành. Trong “ngũ luân” lại có ba mối quan hệ cơ bản nhất, Nho
gia gọi là “Tam cương” (quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vi thê cương). Vào
thời mình, Khổng Tử đã đề cập đến những mối quan hnhững tiêu chuẩn này, song
ông nhấn mạnh nhiều hơn đến quan hệ vua tôi, cha con.
Đối với quan hệ vua tôi, trước hết Khổng Tử chống ngôi vua duy trì theo kiểu
cha truyền con nối. Ông nên án việc chức tước theo truyền thống, dòng dõi, mặc
trong xã hội đương thời vẫn có ba kiểu lên ngôi được thừa nhận như: lên ngôi vua do
cha truyền lại, lên ngôi do vua trước truyền lại và lên ngôi do đổi mệnh vua.
Khổng Tử đã đưa ra yêu cầu đối với người đứng đầu của một quốc gia phải
người đạt được nhân đạo thiên đạo. Về những yêu cầu cụ thể đối với vua, Khổng
Tử chủ trương: vua phải đảm bảo cho dân được no ấm, phải xây dựng được lực lượng
quân sự hùng hậu và đặc biệt phải chiếm được lòng tin của dân. Dân đối với vua, theo
Khổng Tử phải coi như cha mẹ của mình. Trong quan hệ giữa người dân vua, thì
lOMoARcPSD| 46560390
18
dân vua “trung”, vua vì dân để được lòng dân tin cũng “trung” vậy. “Trung”
của Khổng Tử chỉ đòi hỏi sự hết lòng thành tâm thật ý trong quan hệ với nhau.
Ngoài ra vua còn phải biết trong dụng người đức độ và có năng lực làm việc, phải biết
rộng lượng đối với người cộng sự của mình.
Khổng Tử đề cập đến phạm trù “hiếu” trong quan hệ cha con, theo ông hiếu của
con cái đối với cha mẹ, không chỉ là phụng dưỡng người đã sinh ra mình mà trước hết
phải là lòng thành kính. Chỉ nuôi cha mẹ không thôi thì không thể gọi hiếu, vì đến
như giống chó, giống ngựa cũng có người nuôi, nuôi cha mẹ mà không thành kính thì
khác như nuôi chó ngựa, làm sao thể gọi lòng hiếu thảo” (Luận ngữ, vi
chính 7). Ông thường dậy rằng, phận làm con thấy cha mẹ lầm lỗi phải can giám một
cách nhẹ nhàng, hoặc quan điểm “cha ra cha, con ra con” cũng đòi hỏi cha mẹ phải đối
xử với con cái cho đúng đạo của mình. Như vậy, không chủ trương ngu trung, ngu
hiếu, không bắt buộc con người phải phục tùng bề trên điều kiện nội dung trung,
hiếu của Nho gia sau này. Đi với Khổng Tử trong xã hội “Chính danh” quan hệ hai
chiều: quân nhân thì thần mới trung, phụ có từ thì tử mới hiếu... công cụ để thực
hiện hai chiều này là đạo đức xã hội.
Kế thừa quan điểm triết lý nhân sinh của Khổng Tử, Mạnh Tử, bên cạnh thuyết
“tính thiện” nổi tiếng còn tưởng chính trị đặc sắc, những tưởng này thể hiện
quan điểm của Mạnh Tử về mối quan hệ giữa người với người, được nói tinh thần
“dân bản”. Dựa trên học thuyết “tính thiện” tiếp tục tư tưởng đạo đức của Khổng Tử,
Mạnh Tử đã kịch liệt phê phán phương pháp trị nước của các trường phái triết học
khác như Mặc Gia, Đạo Gia, : “Họ Dương vị ngã ấy không nhận vua, họ Mặc
kiêm ái ấy là không nhận có cha. Không có vua, không có cha, ấy là cầm thú rồi vậy...
Nếu cái đạo của họ Dương họ Mặc không tắt thì đạo của Khổng Tử chẳng được
sáng tỏ” (Mạnh Tử, đằng văn công). Từ đó ông đề ra thuyết “Nhân chính” trong đạo
trị nước chủ trương lấy phép tắc đạo đức, đạo của Thánh Vương đời Tam đại, ngũ
đế là chuẩn mực để giáo hoá dân, bình trị nước, gọi là “pháp tiên vương”.
lOMoARcPSD| 46560390
19
Theo thuyết “nhân chính” việc trị nước chăm dân của các bậc vương giả” phải
vì nhân nghĩa chứ không phải vì lợi. Vua hà tất phải nói đến lợi, chỉ có nhân nghĩa
thôi. Nếu ông vua nói rằng làm thế nào lợi cho nước ta, quan đại phu nói rằng làm thế
nào lợi cho nhà ta, kẻ sĩ và thứ dân nói rằng làm thế nào lợi cho thân ta, kẻ trên người
dưới ai lấy đều tranh nhau điều lợi thì nguy vậy (Mạnh Tử, Lương Huệ Vương).
Ở đây Mạnh Tử đã có sự phân biệt rất rõ ràng ý nghĩa, công dụng của “nghĩa”
“lợi”. Khi ông gặp Tống Hinh (383 290 TC ) đem chữ “lợi” đkhuyên Tần Sở
đừng đánh nhau, Mạnh Tử đã phân tích: “Nếu tiên sinh lấy điều lợi nói với vua
nước Tần Sở thì vua hai nước đó ắt lợi thôi đánh nhau. Nhưng nếu ai cũng
chỉ thích vì lợi thì thành ra người làm tôi lấy bụng lợi thờ vua, người làm con lấy
bụng lợi thờ cha mẹ, người em lấy bụng lợi mà kính anh. Vua tôi, cha con, anh em
đều bỏ cả nhân nghĩa, chỉ đem cái bụng cầu lợi tiếp đãi nhau, như thế nước chưa mất
là chưa có vậy” (Mạnh Tử, Cáo Tử Hạ).
Trên sở tưởng “nhân nghĩa” chủ trương “nhân chính”. Mạnh tử đã đề
xuất quan điểm hết sức độc đáo, đó là quan điểm “dân bản”. Theo Mạnh Tử trong một
nước có ba của báu là đất đai, nhân dân, chính sự. Kẻ nào lấy châu ngọc làm của báu
thì tai hoạ mắc vào thêm. Trong ba của báu ấy, theo ông quần chúng nhân dân lao động
vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn vong suy thịnh của một đất nước. Thậm
chí ông còn cho rằng, dân còn quý hơn cả vua chúa và xã tắc. Ông nói : “Dân vi quý,
tắc vi thứ chi quân vi khinh” (Mạnh Tử, Tận tâm hạ) sở trong một nước dân
cái quý nhất, theo ông, dân gốc của nước, dân mới có nước, mới có vua. Ý dân
là ý trời : “Trời trông ở dân, ta trông trời nghe ở dân ta nghe” (Vạn Chương Thượng).
“Vì vậy hễ ai được lòng dân chúng thì được làm vua thiên hạ” (Mạnh Tử , Tận Tâm
Hạ).
Từ đó Mạnh Tử chủ trương thi hành một chế độ “bảo dân” và khuyên các bậc
vua chúa: “Ngài vui cái vui của dân thì dân cùng vui cái vui của mình, ngài lo cái lo
| 1/47

Preview text:

lOMoAR cPSD| 46560390
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP
………..***……….
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC 0 lOMoAR cPSD| 46560390
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG Tên đề tài
QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI TRONG LỊCH SỬ TRIẾT
HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI GIAI ĐOẠN XUÂN THU -
CHIẾN QUỐC VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG VIỆC XÂY
DỰNG CON NGƯỜI MỚI VIỆT NAM HIỆN NAY THÁI NGUYÊN - 2010 1 lOMoAR cPSD| 46560390 MỤC LỤC Stt Nội dung Trang 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1 2 NỘI DUNG 7
Chương 1: KHÁI QUÁT QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI TRONG
TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI GIAI ĐOẠN XUÂN THU - CHIẾN QUỐC
1.1 Quan niệm của Nho gia về con người 7
1.2 Quan niệm của Mặc gia về con người 11
1.3 Quan niệm của Pháp gia về con người 13
Chương 2: QUAN NIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NGƯỜI VỚI 15
NGƯỜI TRONG XÃ HỘI GIAI ĐOẠN XUÂN THU - CHIẾN
QUỐC VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG VIỆC XÂY DỰNG CON
NGƯỜI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Quan niệm của Nho gia về mối quan hệ giữa người với người 15
2.2 Quan niệm của Mặc gia về mối quan hệ giữa người với người 20
2.4 Quan niệm của Pháp gia về mối quan hệ giữa người với 22 người
2.4 Ý nghĩa của các quan niệm nêu trên trong việc xây dựng con 24
người mới ở Việt Nam hiện nay 3 KẾT LUẬN 39 4
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 41 2 lOMoAR cPSD| 46560390
MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài
Con người là giá trị sản sinh ra mọi giá trị. Con người là thước đo của mọi bậc
thang giá trị. Nhận thức được vai trò to lớn của thước đo con người, đặc biệt trong thời
kỳ đổi mới đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có con người chủ nghĩa xã
hội.Con người chủ nghĩa xã hội chính là con người mới, phát triển toàn diện: có tinh
thần làm chủ xã hội, có trí thức văn hoá và khoa học, có trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, có phẩm chất đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, phải nghiêm
khắc chống chủ nghĩa cá nhân.
Hiện nay, thực hiện chiến lược phát triển con người toàn diện, Đại hội lần thứ IX,
X của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương phát triển nguồn lực con người
với yêu cầu ngày càng cao, không thể không kế thừa các giá trị truyền thống của dân
tộc nói riêng và kế thừa tinh hoa của tư tưởng nhân loại về con người nói chung. Chúng
ta xây dựng nền văn hóa mới, đạo đức mới, con người mới trên nền tảng những giá trị
ấy, trong đó có cả những quan niệm về đạo đức, con người của trường phái Nho gia,
Mặc gia và Pháp gia. Vấn đề đặt ra là, chúng ta có thể và cần phải kế thừa những gì,
loại bỏ những gì từ trong di sản đạo đức, con người của các trường phái triết học nói
trên. Do đó, khai thác và phát huy những điểm tích cực cũng như khắc phục, xóa bỏ
những hạn chế của quan niệm về đạo đức, con người Nho gia, Mặc gia, Pháp gia trong
việc xây dựng và hoàn thiện con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam giờ đây là
một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách.
Xuất phát từ vấn đề nêu trên, tôi chọn đề tài: “Quan niệm về con người trong lịch
sử triết học Trung Quốc cổ đại giai đoạn Xuân Thu – Chiến Quốc và ý nghĩa của nó
trong việc xây dựng con người mới Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình. 3 lOMoAR cPSD| 46560390
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến đề tài nghiên cứu khoa học của tôi, ở Việt Nam có các tác giả sau:
Vũ Minh Tâm (chủ biên): “Tư tưởng triết học về con người”, Nxb Giáo dục, 1996.
An Mạnh Toàn (dịch): “con người- những ý kiến mới về một đề tài cũ”, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Nguyễn Văn Hiền: “Thuyết kiêm ái: nội dung, giá trị và ý nghĩa đối với việc
xây dựng đạo đức ở nước ta”, Tạp chí Triết học, số 232, 9-2010.
Triệu Quang Minh, Trần Thị Lan Hương: “Vấn đề con người trong quan niệm
pháp trị của Hàn Phi”, tạp chí Triết học, số 219, 8-2010.
Nguyễn Thị Thu Thủy: “Một số nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo và vai
trò, ý nghĩa của nó với việc hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam hiện nay”, Báo cáo NCKH năm 2010.
Và còn rất nhiều những công trình khác và những bài viết trong các tạp chí khi
nói về con người nói chung, trong lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại thời Xuân Thu
- Chiến Quốc. Những công trình và bài viết trên đã phân tích khái quát một cách chung
nhất và làm sáng tỏ vấn đề con người trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Tuy nhiên, do
thời gian có hạn nên trong đề tài nghiên cứu khoa học này, tôi chỉ trình bày một số
quan niệm cơ bản về con người trong lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại giai đoạn
Xuân Thu - Chiến Quốc, từ đó rút ra ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người
mới ở Việt Nam hiện nay.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích: Báo cáo khoa học trình bày một cách hệ thống Quan niệm về con người
trong lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại giai đoạn Xuân Thu – Chiến Quốc và rút ra
ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục đích có 3 nhiệm vụ:
+ Quan niệm của các học phái về con người 4 lOMoAR cPSD| 46560390
- Quan niệm của Nho gia về con người.
- Quan niệm của Mặc gia về con người.
- Quan niệm của Pháp gia về con người.
+ Quan niệm của các học phái về mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội.
- Quan niệm của Nho gia về mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội.
- Quan niệm của Mặc gia về mối quan hệ giữa con người với con người trongxã hội
- Quan niệm của Pháp gia về mối quan hệ giữa con người với con người trongxã hội.
+ Rút ra ý nghĩa của vấn đề phân tích trên trong việc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là một số quan niệm cơ bản về con người trong lịch sử triết
học Trung Quốc cổ đại giai đoạn Xuân Thu - Chiến Quốc, từ đó rút ra ý nghĩa của nó
trong việc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu là các tài liệu liên quan đến đạo đức, con người của trường
phái Nho gia, Mặc gia, Pháp gia và vấn đề con người trong việc xây dựng con người mới ở Việt Nam.
5. Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu
Báo cáo dựa trên cơ sở của những nguyên lý triết học Mác – Lênin, đồng thời sử
dụng và kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích –
tổng hợp, phương pháp logic – lịch sử, phương pháp khái quát hóa và trừu tượng hóa…
6. Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu góp phần làm rõ hệ thống quan niệm con người trong trường phái
triết học Nho gia, Mặc gia và Pháp gia, qua đó rút ra ý nghĩa của nó trong việc xây
dựng con người Việt Nam hiện nay. 5 lOMoAR cPSD| 46560390
Những kết quả đạt được của báo cáo nghiên cứu khoa học là sự bổ sung cho quá
trình nghiên cứu về quan niệm con người trong giai đoạn Xuân Thu - Chiến Quốc ở
Trung Quốc và ý nghĩa của nó trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, nó có thể làm tài liệu
tham khảo, nghiên cứu và học tập về vấn đề con người trong quan niệm của triết học
Trung Quốc cổ trung đại nói riêng và vấn đề con người nói chung.
7. Kết cấu của báo cáo khoa học
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của báo cáo gồm 2 chương, 7 tiết.
Chương 1: Khái quát quan niệm về con người trong triết học Trung Quốc cổ đại
giai đoạn Xuân Thu Chiến Quốc (gồm 3 tiết).
Chương 2: Quan niệm về mối quan hệ giữa con người với con người trong giai
đoạn Xuân Thu - Chiến Quốc và ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người mới ở
Việt Nam hiện nay (gồm 4 tiết).
NỘI DUNG CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT QUAN NIỆM VỀ CON
NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI GIAI
ĐOẠN XUÂN THU - CHIẾN QUỐC
Như chúng ta đã biết Trung Quốc là một quốc gia nhiều dân tộc có lịch sử lâu
đời, là một trong những nước có nền văn minh sớm nhất trên thế giới. Triết học Trung
Quốc từ khi ra đời đến nay, đã trải qua các giai đoạn phát triển từ Hạ, Thương, Tây
Chu và đến thời Xuân Thu - Chiến Quốc (707 TCN-221 TCN). Có thể nói rằng đây là
thời kỳ phồn vinh, trăm hoa đua nở, Chư tử bách gia đã rầm rộ sáng lập nên các hệ
thống triết học độc đáo.
Từ thế kỷ thứ VIII trước công nguyên, xã hội Tây Chu bước vào một thời kỳ có
nhiều biến động lớn lao, toàn diện kéo dài cho đến giữa thế kỷ thứ III TCN. Lịch sử
gọi là thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc. Ở thời kỳ này đồ sắt xuất hiện phổ biến, công
cụ bằng sắt tham gia vào thế giới công cụ. Đây cũng là thời kỳ khởi sắc của nền kinh
tế thương nghiệp. Thế kỷ thứ VI và thứ V TCN xuất hiện những thành thị thương
nghiệp buôn bán nhộn nhịp ở các nước Hàn, Tề, Tần, Sở. Thành thị đã có một cơ sở 6 lOMoAR cPSD| 46560390
kinh tế tương đối độc lập, từng bước tách ra khỏi chế độ thành thị thị tộc của quý tộc
thị tộc, thành những đơn vị khu vực của tầng lớp địa chủ mới lên. Sự phát triển của
sức sản xuất, kinh tế phát triển đã tác động mạnh mẽ đến hình thức sở hữu ruộng đất
và kết cấu giai tầng xã hội. Giai cấp quý tộc, thị tộc Chu bị mất đất đai, mất dân, địa
vị kinh tế ngày càng sa sút và chính điều này đã ảnh hưởng đến địa vị chính trị, ngôi
Thiên Tử của nhà Chu, biến sự tồn tại vua chỉ còn là hình thức. Sự phân biệt sang hèn
dựa trên tiêu chuẩn huyết thống của chế độ thị tộc không còn phù hợp, đòi hỏi trong
lúc này, xã hội phân chia phải dựa trên cơ sở tài sản. Các nước chư hầu của nhà Chu
không chịu phục tùng vương mệnh, không chịu cống nạp, mang quân thôn tính lẫn
nhau, tự xưng Bá “Vương đạo suy vi”, tầng lớp quý tộc địa chủ mới lên ngày càng
giàu có, lấn át cả quý tộc thị tộc cũ “trên yếu dưới mạnh” thậm chí còn chiếm cả chính quyền.
Như vậy, kết quả của những biến động kinh tế đã dẫn đến sự đa dạng trong kết
cấu giai tầng của xã hội. Nhiều giai tầng mới xuất hiện đan xen và mâu thuẫn ngày
càng gay gắt. Mâu thuẫn chính nổi lên trong thời kỳ này là mâu thuẫn giữa tầng lớp
mới lên có tài sản, có địa vị kinh tế trong xã hội (Hiển tộc) nhưng không được tham
gia vào chính quyền với giai cấp quý tộc thị tộc cũ của nhà Chu. Mâu thuẫn giữa tầng
lớp sản xuất nhỏ, thợ thủ công thương nhân với giai cấp quý tộc thị tộc Chu có một bộ
phận tách ra, chuyển hoá lên giai tầng mới, một mặt họ muốn bảo lưu nhà Chu, một
mặt họ cũng không hài lòng với trật tự cũ của nó. Họ muốn cải biến nó bằng con đường
cải lương, cải cách. Tầng lớp tiểu quý tộc thị tộc, một mặt họ đang bị tầng lớp mới lên
tấn công về chính trị và kinh tế, mặt khác họ cũng mâu thuẫn với tầng lớp đại quý tộc
thị tộc đang nắm chính quyền. Mâu thuẫn giữa nông dân công xã thuộc các tộc bị
người Chu nô dịch với nhà Chu và tầng lớp mới lên đang ra sức bóc lột, tận dụng sức lao động của họ.
Đó là những mâu thuẫn của thời kỳ lịch sử đang đòi hỏi giải thể chế độ nô lệ thị
tộc, tiến nhập vào xã hội phong kiến đòi hỏi giải thể chế độ của nhà nước gia trưởng, 7 lOMoAR cPSD| 46560390
xây dựng nhà nước của giai cấp quốc dân, giải phóng lực lượng sản xuất mở đường
cho xã hội phát triển. Xã hội trong thời kỳ này đang chuyển mình dữ dội, kinh tế phát
triển, tầng lớp dân tự do xuất hiện, đặc biệt là sự ra đời của các thành thị. Những thành
quả đạt được trên nhiều lĩnh vực chính là nguồn động lực quan trọng cho sự phát triển
có tính chất đột biến của tư tưởng của thời kỳ này. Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ
“Bách gia chư tử” (trăm nhà trăm thầy), “bách gia tranh minh” (trăm nhà đua tiếng).
Chính trong quá trình “tranh minh” đó đã xuất hiện những nhà tư tưởng vĩ đại, hình
thành nên hệ thống triết học khá hoàn chỉnh.
Khởi nguồn của tư tưởng triết học Trung Quốc có thể là thần thoại thời tiền sử.
Song tư tưởng triết học Trung Quốc trong đó có “vấn đề con người” trở thành hệ thống
hoàn chỉnh thì phải đến thời Xuân Thu - Chiến Quốc thời đại của trí tuệ được giải
phóng, trí thức được tôn là thầy, trí thức được phổ cập. Phong trào “Bách gia chư tử”,
“Bách gia tranh minh” là biểu hiện sinh động của tư tưởng học thuật từ quyền lực nhà
nước chuyển xuống thiên hạ rộng rãi. Cuối Xuân Thu, đầu Chiến Quốc học thuyết của
các tư tưởng gia mọc lên như rừng trong khoảng “103 nhà” nổi lên “ Sáu nhà”. Nho
gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia, Danh gia, Âm Dương gia trong đó có ảnh hưởng lớn
nhất là Nho gia, Mặc gia và Pháp gia.
Nội dung tư tưởng triết học của ba học phái này lấy con người làm trung tâm và
mục tiêu nhận thức. Đề cao giá trị đạo đức và tinh thần nhân văn; khẳng định giá trị
tích cực của con người đối với mình và đối với xã hội; đặt con người trong mối quan
hệ giữa con người với con người. Các học phái này tập trung phân tích con người từ
bản chất và có mục tiêu chung là xây dựng con người đạo đức, có nghĩa, có nguyên tắc.
1.1.Quan niệm của Nho gia về con người
Trong lịch sử triết học Trung Quốc, Nho giáo là một trường phái triết học đã đưa
ra học thuyết chính trị đạo đức để giáo hóa con người, nhằm củng cố duy trì trật tự xã
hội. Để làm được điều đó, giáo lý của Nho giáo thiên về việc xem xét lý giải con người 8 lOMoAR cPSD| 46560390
ở nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, vấn đề chính vẫn là luận bàn về bản tính con
người thông qua khái niệm “tính người”, “tâm người”, “lý người”, tức chỉ là bàn đến
phẩm chất tinh thần, ý thức tâm lý, tư tưởng mà chưa đi sâu vào bản chất đích thực
của con người. Mặc dù, mỗi nhà triết học của Nho giáo xem xét bản chất con người ở
mỗi khía cạnh khác nhau ( Khổng Tử: Tính tương cận, tập tương viễn; Mạnh Tử:tính
thiện; Tuân Tử: tính ác), song trong toàn bộ quá trình vận động của lịch sử tư tưởng
thì ở họ, vẫn có sự kế thừa, phát triển và làm cho quan niệm về bản chất con người
ngày càng trở nên hoàn thiện hơn.
1.1.1. Khổng Tử chưa đi sâu vào nghiên cứu bản chất con người. Tuy vậy, khi
bàn về bản chất con người Khổng Tử đã cho rằng bản tính của con người là thiện và
nó gần giống nhau ở tất cả mọi người. Ông nói: “Tính tương cận giả, tập tương viễn
giả” [8, tr.81]. Nghĩa là con người khi mới sinh ra đều có tính trời phú cho là gần giống
nhau, nhưng do quá trình tiếp xúc và học hành làm cho họ có sự khác nhau: có kẻ trí ,
người ngu. Phẩm chất của con người là chất phác, chân thực. Nó là điều kiện thuận lợi
để trau dồi đức nhân và tất cả các đức khác cũng từ đức nhân mà ra. Bản tính của con
người là thiện nhưng vì con người quen thói đời mê vật dục nên mới thấy điều nhân
xa mình. Vì vậy, khi con người đã có nhân thì phải luôn giữ lấy điều nhân, đừng bao
giờ xa rời nó, dù chỉ trong một khoảnh khắc thời gian.
Vào thời Chiến Quốc do hoàn cảnh lịch sử có nhiều biến động nên các nhà tư
tưởng của trường phái triết học Nho giáo khi xem xét bản chất con người đã tuyệt đối
hoá một mặt trong bản chất con người hoặc là thiện hoặc là ác. Mặc dù Mạnh Tử và
Tuân Tử là môn đồ của trường phái triết học Nho gia nhưng khi bàn về bản chất của
con người, hai ông đã có sự đối lập nhau thậm chí nhiều khi còn có sự trái ngược nhau
trong quan điểm nhưng dù họ có sự tuyệt đối hoá về mặt này hay mặt khác, thì vẫn có
sự kế thừa,bổ sung và phát triển tư tưởng của Khổng Tử với những góc độ khác nhau
và ở chính họ cũng có sự bổ sung cho nhau khi xem xét bản chất con người. 9 lOMoAR cPSD| 46560390
1.1.2. Khi bàn về bản chất con người, Mạnh Tử cho rằng bản chất con người là
thiện và tính thiện của con người thể hiện qua bốn đức lớn: nhân, lễ, nghĩa, trí.
Bốn đức lớn đó của con người bắt nguồn từ tứ đoan hay bốn đầu mối của thiện, còn
gọi là thiện đoan, là tài chất, bản chất trời phú cho con người, sinh ra đã có như mầm
cây trong hạt giống, như tứ chi của cơ thể. Bốn tứ đoan là: lòng trắc ẩn (biết thương
xót), lòng tu ố (biết thẹn ghét), lòng từ nhượng (biết cung kính) và lòng thị phi (biết
phân biệt phải trái). Không có lòng trắc ẩn thì không phải là người, không có lòng từ
nhượng thì không phải là người, không có lòng thị phi thì cũng không phải là người.
Trắc ẩn là đầu mối của nhân, tu ố là đầu mối của nghĩa, từ nhượng là đầu mối của lễ,
và thị phi là đầu mối của trí. Con người có bốn cái đầu mối ấy như thân thể có sẵn tứ
chi. Đây là những đoan mà con người khi sinh ra đã có. Tứ đoan là bốn cái đầu mối
của điều thiện nên gọi là thiện đoan. Thiện đoan là cái tính cố hữu của con người. Nếu
con người biết nuôi dưỡng thiện đoan thì dễ dàng trở thành thánh nhân còn nếu đánh
mất thiện đoan để nó mai một, suy tàn thì trở nên nhỏ nhen không khác gì loài cầm
thú. Đã có bốn mối ấy ở trong mình, mà biết mở rộng ra cho thông thì như lửa mới
bắt đầu cháy, như suối mới bắt đầu chảy. Bên cạnh đó theo Mạnh Tử, bản chất con
người là thiện còn vì “tính là cái chung là cái bản chất của một loài”. Ở loài người, có
nhiều điểm giống nhau, trong đó điểm giống nhau đầu tiên là tài chất, là bản năng thiện
do trời phú cho. Sau đó là sự giống nhau ở các quan năng để nhận biết tốt xấu thị phi.
Với tài chất và quan năng ấy, ai cũng sẵn có mầm thiện Mạnh Tử nói, phàm những vật
đồng loại đều mang một bản tính giống nhau tại sao đối với con người, người ta lại
nghi ngờ rằng bản tính lại tương tự? Các bậc thánh nhân và chúng ta đều là một loại
tức là tâm tính giống nhau hết thảy.
Bản chất con người là thiện còn vì trong mỗi con người đều có cái tâm. Tâm là
cái chủ thể trong tinh thần của con người là cái thần minh trời phú cho con người để
hiểu biết, ứng xử với vạn vật, để phân biệt phải, trái, tốt, xấu… biết được điều này
chính là bốn đầu mối của thiện, bốn đầu mối đó vốn có sẵn trong con người không
phải do bên ngoài nâng đúc. Theo Mạnh Tử tâm là cái gốc của tính thiện, tâm với tính 10 lOMoAR cPSD| 46560390
là một và tâm là do trời phú nên khi biết cái tính của mình là biết cái tính của trời, tâm
là nơi phân biệt mọi điều phải trái tốt xấu, nên sự hiểu biết từ tâm sâu sắc hơn từ sự
hiểu biết ở các quan năng. Trong các quan năng thì tai, mắt là cái không suy nghĩ nên
bị sự vật bên ngoài che lấp vật tiếp xúc với vật nên dễ bị vật đem đi lạc đường. Tâm là
cái suy nghĩ thì hiểu được lẽ phải, hiểu được chính tà. Như vậy theo Mạnh Tử, cái biết
phải trái, chính tà, nhân nghĩa đã có thiện do tâm đem lại là cái tự mình biết trời sinh
làm người đã có cái biết ấy. Đó là cái biết tiên thiện là cái “sinh tri” của con người.
Mặc dù cho rằng con người sinh ra đã có sẵn tính thiện nhưng theo Mạnh Tử,
tính thiện đó không phải là bất biến. Con người có thể đánh mất cái tâm cố hữu của
mình, sa vào con đường bất thiện khi có ngoại cảnh xấu tác động. Bản tính của con
người giống như bản tính nước chảy vào chỗ trũng. Không một người nào khi sinh ra
mà tự bất thiện, cũng như không một thứ nước nào khi sinh ra mà lại chảy ngược dòng.
Song, nếu như bị đắp đập ngăn bờ thì nước sẽ chảy tràn cả núi. Cũng vậy, nếu bị vật
dục che lấp thì bản tính vốn lành sẽ ngược chiều ngay. Tuy nhiên tác động của ngoại
cảnh cũng có giới hạn của nó. Khi tâm của con người thật vững vàng thì vật dụng vô
hiệu. Chính vì vậy, Mạnh Tử rất chú ý đến vấn đề giáo hoá để làm cho con người
không mai một lương tâm.
Như vậy, với Mạnh Tử, bản tính trời phú cho con người là thiện và nếu có thành
ra bất thiện là vì con người không biết giữ lấy cái tâm. Bởi ông tin có cái thiện là lí trí
thiện, mà tính con người là một phần của thiện lí ấy. Và con người cần giáo dục làm
cho bản tính thiện đó không bị mờ tối và cần phải trau dồi nó cho nó phát triển để trở thành một người tốt.
1.1.3. Cuối thời Chiến Quốc, Tuân Tử đã tận mắt thấy cảnh tranh giành xâu xé,
chém giết lẫn nhau giữa các giai cấp, tầng lớp, giữa con người với con người trong
xã hội, nên ông chủ trương lý giải bản chất con người bắt đầu bằng tính ác. Theo ông,
vì khi mới sinh ra con người vốn đã có sẵn lòng ham muốn và dục vọng nên để thoả
mãn những ham muốn và dục vọng đó, con người phải hành động thuận theo tính tự 11 lOMoAR cPSD| 46560390
nhiên của mình. Và điều đó tất phải dẫn đến sự tranh giành xâu xé, cướp bóc, chiếm
đoạt của nhau. Tuân Tử cho rằng: “tính con người sinh ra là hiếu lợi, thuận theo tính
đó thì ra đoạt lẫn nhau và sự từ nhượng không có, sinh ra là đố kị, thuận theo tính đó
thì thành ra tàn tặc, mà lòng trung tín không có, sinh ra có lòng muốn của tai mắt có
lòng thích về thanh sắc, thuận theo tính đó thì thành ra dâm loạn mà lễ nghĩa, văn lý
không có. Như thế thì theo cái tính của người ta, thuận cái tính của người ta, tất sinh
ra tranh đoạt, phạm vào cái phận (tức là quyền lợi của nhau), làm loạn cái lý mà phải
mắc lối tàn bạo cho nên phải có thầy có phép để cải hoá cái tính đó, có lễ nghĩa để dẫn
dắt nó rồi sau mới có từ nhượng hợp văn lý và thành ra trị” [8, tr 325]. Như vậy, Tuân
Tử cho rằng tính ban đầu của con người là ác, còn tính thiện là do con người sáng tạo
ra. Tuân Tử cho rằng, cái tính của con người là do hoà khí xung hợp mà thành tính linh
hợp với mọi vật và có sự cảm ứng lẫn nhau sự yêu ghét, mừng giận, thương vui của
tính gọi là tình. Tình là cái vô cùng, cho nên phải có cái tâm để chọn cái nên và cái
không nên mà làm, gọi là “tư lự”. Có tâm tư lự để khiến con người hành động và con
người cần phải có sự học tập , rèn luyện thì mới uốn nắn được cái bản tính của mình.
Nếu như Mạnh Tử cho rằng: nhân, lễ, nghĩa, trí là bốn cái đầu mối của tính
người thì Tuân Tử cho rằng, đầu mối của con người là lòng hiếu lợi, lòng đố kị và lòng
dục, chính ra cái này khi mới sinh ra đã sẵn có, còn nhân nghĩa lễ trí là do con người
đặt ra chứ không phải là do trời sinh ra.
Mặc dù Tuân Tử cho rằng bản tính con người là ác, nhưng con người có thể tạo
ra được tính thiện, và để tạo ra được tính thiện thì con người phải có thầy, có phép dạy
bảo thì mới thành thiện và cũng cần phải có lễ nghĩa giáo hoá con người. Ông nói:
“Đời xưa thánh nhân lấy cái tính của người ta là ác, lấy sự thiên lệch nguy hiểm mà
không chính, lội loạn mà không trị, bởi thế mới khởi sướng lên lễ nghĩa và chế định ra
chế độ để hiểu cái tình của người ta mà chính lại để nuôi hoá cái tính tình của người ta
mà đạo dẫn khiến cho theo cái trị hợp cái đạo. Người ta ai hoá theo thầy, theo phép,
tích tập văn hoá theo lễ nghĩa là người quân tử, buông cái tính tình để yên sự nom dòm 12 lOMoAR cPSD| 46560390
mà trái lễ nghĩa là kẻ tiểu nhân. Lấy thế mà xem, thì cái tính ác của con người ta rõ
lắm, mà cái thiện mà người ta gây ra vậy” [8, tr 327].
Như vậy xem xét tư tưởng của các nhà nho Trung Quốc cổ đại chúng ta thấy có
một bước chuyển trong quan niệm về bản chất con người, mặc dù họ có sự khác nhau
trong các quan niệm dó, tuyệt đối hoá tính thiện hoặc tính ác của con người. Nhưng
thực ra đây là sự bổ sung cho nhau, làm cho quan niệm về bản chất con người của
trường phái triết học nho giáo Trung Quốc cổ đại thêm da dạng và phong phú, ngày
một hoàn thiện hơn, và đây cũng là một cống hiến cho kho tàng tri thức nhân loại về
vấn đề này của các nhà triết học nho giáo Trung Quốc cổ đại.
1.2. Quan niệm của Mặc gia về con người
Khi nói đến học phái mặc gia ta không thể không nhắc tới Mặc Tử, ông là người
sáng lập ra học phái này, khi bàn về con người cũng giống như Khổng Tử ông luôn đề
cao đức nhân nghĩa. Nhưng quan niệm ý nghĩa và phạm trù nhân nghĩa của Mặc Tử
khác với quan điểm của Khổng Tử. Nếu như Khổng Tử “nhân” là đạo sống của con
người theo “thiên lí” hay “đạo trời” là “ái nhân” (yêu thương người) là “trung thứ”
(hết lòng hết dạ thành tâm, thật ý, suy lòng mình ra lòng người cái gì mình không
muốn thì dừng đem thi hành cho người khác), nhưng lại có sự phân biệt thứ bậc,
“thương yêu người thân, quí trọng người sang”, thì nhân nghĩa của Mặc Tử là ý chí
của trời gồm yêu tất cả mọi người và làm lợi cho tất cả mọi người như nhau, không
phân biệt trên dưới, thân sơ quí tiện. Dó chính là nội dung của chủ nghĩa” kiêm ái”. Vì
thế “kiêm ái” được coi là nội dung tư tưởng chủ yếu nhất trong học thuyết của Mặc
Tử. Tư tưởng đó với ý nghĩa sâu xa của nó đủ gắn với trường phái triết học mang tên
Mặc Tử nổi danh một thời ở Trung Quốc cổ đại. Trong sách Mặc Tử có ba thiên làn
về “kiêm ái” (kiêm ái thượng, trung, hạ). Theo Mặc Tử “kiêm” là gồm gộp hết thảy
như nhau, trái với “biệt” là sự chia sẻ phân biệt nhau. “ái” là lòng yêu thương con
người, trái với “ố” là sự thù ghét lẫn nhau. Yêu mình như yêu người, yêu người ngoài
cũng như yêu người thân, không có người làng mình, người làng người, người nước 13 lOMoAR cPSD| 46560390
mình, người nước người. Đó chính là ý chí của trời: “gồm yêu hết thảy những kẻ mà ta yêu”.
Vì thế “kiêm ái” cũng có nghĩa là nhân nghĩa. Người nhân nghĩa là người thực
hiện “kiêm ái”. Kiêm ái là cái thực của nhân, là nội dung của nghĩa. “Ái” là nhân, “kiêm” là nghĩa.
“Kiêm ái” hay nhân nghĩa bao giờ cũng đem lại lợi ích cho mọi người. Vì vậy,
khi nói tới “kiêm ái” hay nhân nghĩa Mặc Tử thường nói tới cái lợi của thiên hạ: “lợi
nghĩa là vậy” (lợi nghĩa là dã) (Mặc Tử kinh thượng). nghĩa là danh, lợi là thực. Nghĩa
là cái tên đẹp của lợi là cái thực của nghĩa. Như thế “kiêm ái” theo Mặc tử còn bao
hàm nội dung thứ hai là “làm lợi cho hết thảy mọi người như nhau”…
“Kiêm ái” không chỉ là ý chỉ của trời mà còn là đạo lý của thánh nhân, không
“kiêm ái” thì thiên hạ loạn, “kiêm ái” thì thiên hạ trị, kiêm ái là nhân nghĩa nên khi
thực hiện được cái đức căn bản ấy sẽ làm cho đạo đức luân lý xã hội trở nên tốt đẹp và
con người có thể đạt được tất cả các phẩm chất tốt đẹp khác như: Huệ, trung, từ, hiếu,
kính đễ… người người no đủ, nhà nhà hạnh phúc, quốc gia yêu lành, thiên hạ bình trị.
Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử và Tuân Tử, Mặc Tử nói đến con người là nói
đến nhân nghĩa, nói đến con người đạo đức. Tư tưởng chủ yếu của Mặc tử được thể
hiện qua học thuyết “kiêm ái”, con người sinh ra là để “ái nhân” (yêu người), yêu tất
cả mọi người không phân biệt người quân tử hay kẻ tiểu nhân, người làng này hay
người làng khác, người nước này với người nước khác. Với quan điểm “thượng đồng”
ông coi mọi người bình đẳng như nhau, ông phản đối chiến tranh. Khác với Khổng Tử,
Khổng Tử thì đề cao “Thiên mệnh”, ưa chuộng những chế độ cổ truyền như: thi, thư,
lễ, nhạc, đặc biệt là lễ nghĩa phép tắc. Ông chủ trương giáo hoá con người bằng các
quy tắc đạo đức cơ bản như nhân, lễ, nghĩa, trí, dũng theo những nghi lễ tôn giáo của
chế độ phụ quyền. Mặc Tử thì trái lại, chủ trương “phi mệnh”, “phi nho”, “phi nhạc”,
“tiết táng”, “tuyên truyền”, kiêm ái”, “thượng hiền”, “ thượng đồng” theo “thiên trí” 14 lOMoAR cPSD| 46560390
và “minh quý”. Từ đó ông đặt tất cả các vấn đề về luân lý, đạo đức, chính trị xã hội
trên cơ sở “kiêm ái” và chủ nghĩa công lợi.
1.3. Quan điểm của Pháp gia về con người
Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, Pháp gia mà đại biểu xuất sắc là Hàn
Phi Tử giữ vai trò đặc biệt. Trước và cùng thời với Hàn Phi Tử đã có nhiều người bàn
về con người, về tính ngươì. Phái Nho gia như Khổng Tử cho rằng con người sinh ra
vốn là gần nhau, nhưng do tập tục xã hội mà phải xa nhau. Còn Mạnh Tử thì quan
niệm, con người sinh ra vốn là thiện. Bốn đầu mối của thiện là tứ đoan, là nhân, lễ,
nghĩa, trí có sẵn trong tâm. Trái với các quan điểm trên Tuân Tử cho rằng con người
sinh ra vốn là ác. Mặc gia cho rằng con người cao quí thì tính tình tất phải “kiêm ái”
và “hỗ lợi”. Hàn Phi Tử cũng bàn về con người, tính người hay nói cách khác là bản
chất của con người. Là học trò của Tuân Tử ông kế thừa và phát triển thuyết “tính ác”
của thầy mình, Hàn Phi Tử cho rằng bản chất của con người là “ích kỉ” và đặc tính chủ
yếu của nó là sự ham mê lợi ích và thù ghét tai hoạ (Hàn Phi Tử, Vong Trưng) rằng
không có con người nào mà lại “không mong muốn nhận được sự giúp đỡ của người
khác” và không tính toán, ham lợi ích của người khác (Hàn Phi Tử, Cô Phẫn).
Xuất phát từ luận điểm “lợi ích vật chất là cơ sở của tất cả quan hệ xã hội và
hành vi con người” Hàn Phi Tử cho rằng “con người sinh ra vốn tham dục, vị lợi, luôn
thích điều lợi và tìm nó, ghét cái hại và tránh nó…” (Hàn Phi Tử, gian kiếp thí thần),
đó là bản tính tự nhiên. Vì vậy tất cả các quan hệ xã hội (kể cả các quan hệ đạo đức
ruột thịt…) đều được xây dựng trên cơ sở tính toán lợi hại cá nhân. Người chủ cho
người làm thuê ăn uống và trả tiền công khá sòng phẳng không phải vì lòng thương
người, mà chính là để cho người làm thuê gắng sức làm việc, còn người làm thuê tận
tâm làm việc không phải vì thương chủ mà vì được ăn uống và có tiền bạc… Tất cả
các quan hệ cha – con, vợ- chồng, anh- em, vua- tôi đều có chỗ lợi hại như vậy.” Vua
bán trách nhiệm và chức tước, còn bề tôi bán tri thức và sức lực (Hàn Phi Tử, gian kiếp
thí thần). Chính vì vậy muốn trị dân để dân theo nhân nghĩa chỉ là một ảo tưởng của
Nho Gia, làm hại cho nước vì tính con người ta vốn ác (Hàn Phi Tử, Lục Phản). Hơn 15 lOMoAR cPSD| 46560390
nữa, nếu dùng nhân nghĩa để phán xét phải trái sẽ rơi vào tình trạng dùng nhân nghĩa
cá nhân để định nặng nhẹ thiếu công minh. Sự thiếu khách quan là đầu mối của sự náo
loạn thiên hạ. Vì vậy, phép trị nước công bằng và hữu hiệu hơn cả là dùng luật pháp. CHƯƠNG II
QUAN NIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NGƯỜI VỚI NGƯỜI TRONG
XÃ HỘI GIAI ĐOẠN XUÂN THU - CHIẾN QUỐC VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ
TRONG VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Quan niệm của Nho gia về mối quan hệ giữa người với người
Ở thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc, hệ tư tưởng phong kiến thống trị mọi mặt cả
về vật chất lẫn tinh thần. Quan niệm của các triết gia về con người, về mối quan hệ
giữa con người với con người bị chi phối bởi tư tưởng đạo đức phong kiến. Nho gia là
trường phái có hệ tư tưởng mang nặng tính chất phong kiến gia trưởng và nó có ảnh
hưởng lớn đến đời sống xã hội. Quan niệm của Nho gia về mối quan hệ giữa người
với người chủ yếu được thể hiện qua học thuyết về chính trị xã hội.
Nhà nho tiêu biểu nhất của trường phái Nho gia đó là Khổng Tử. Ông cho rằng
sự thay đổi của xã hội làm cho thiên hạ rối ren, nguyên nhân chính là do sự xa đọa của
thế lực cầm quyền làm cho “danh” không được “chính” tức là “danh” không phù hợp
với “thực”. Quan niệm “danh” không được “chính” làm cho xã hội loạn lạc, phép tắc 16 lOMoAR cPSD| 46560390
kỷ cương xáo trộn, danh phận không rõ ràng, nên để khôi phục trật tự xã hội, Khổng
Tử đã chủ trương thực hành thuyết “chính danh”. Như vậy, khi đề ra học thuyết “chính
danh”, Khổng Tử đã cố gắng thể hiện nó qua hành động của mình. Nó cũng phản ánh
thái độ tôn trọng, tôn ty trật tự phép tắc của Khổng Tử. Tôn ty này trong quan hệ giữa
người với người mà Nho gia gọi là “Luân” được sách “thuyết văn” cho là “con đường”,
sách Khúc lễ giảng giải là “loại”, Mạnh Tử gọi là “trật tự”. Một số nhà nghiên cứu sau
này giải thích là “thứ bậc” là đạo “cư xử”. Có thể hiểu trong xã hội “mỗi một thứ quan hệ là một luân”.
Trong các mối quan hệ xã hội, triết học Nho gia xác định năm mối quan hệ cơ
bản và thông thường của mỗi đời người trong thiên hạ, gọi là “Ngũ luân” gồm quan
hệ Vua – tôi, cha – con, chồng – vợ, anh – em, bè - bạn (quân thần, phụ tử, phu phụ,
huynh đệ bằng hữu) (Trung dung 20).
Mỗi quan hệ lại có tiêu chuẩn riêng cho từng đối tượng, như cha hiền con thảo, anh tốt
em ngoan, chồng biết tình nghĩa vợ nghe lẽ phải, bề trên từ hiếu bề dưới kính thuận,
vua nhân từ tôi trung thành. Trong “ngũ luân” lại có ba mối quan hệ cơ bản nhất, Nho
gia gọi là “Tam cương” (quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vi thê cương). Vào
thời mình, Khổng Tử đã đề cập đến những mối quan hệ và những tiêu chuẩn này, song
ông nhấn mạnh nhiều hơn đến quan hệ vua tôi, cha con.
Đối với quan hệ vua tôi, trước hết Khổng Tử chống ngôi vua duy trì theo kiểu
cha truyền con nối. Ông nên án việc chức tước theo truyền thống, dòng dõi, mặc dù
trong xã hội đương thời vẫn có ba kiểu lên ngôi được thừa nhận như: lên ngôi vua do
cha truyền lại, lên ngôi do vua trước truyền lại và lên ngôi do đổi mệnh vua.
Khổng Tử đã đưa ra yêu cầu đối với người đứng đầu của một quốc gia phải là
người đạt được nhân đạo và thiên đạo. Về những yêu cầu cụ thể đối với vua, Khổng
Tử chủ trương: vua phải đảm bảo cho dân được no ấm, phải xây dựng được lực lượng
quân sự hùng hậu và đặc biệt phải chiếm được lòng tin của dân. Dân đối với vua, theo
Khổng Tử phải coi như cha mẹ của mình. Trong quan hệ giữa người dân và vua, thì 17 lOMoAR cPSD| 46560390
dân vì vua là “trung”, vua vì dân để được lòng dân tin cũng là “trung” vậy. “Trung”
của Khổng Tử chỉ là đòi hỏi sự hết lòng và thành tâm thật ý trong quan hệ với nhau.
Ngoài ra vua còn phải biết trong dụng người đức độ và có năng lực làm việc, phải biết
rộng lượng đối với người cộng sự của mình.
Khổng Tử đề cập đến phạm trù “hiếu” trong quan hệ cha con, theo ông hiếu của
con cái đối với cha mẹ, không chỉ là phụng dưỡng người đã sinh ra mình mà trước hết
phải là lòng thành kính. Chỉ nuôi cha mẹ không thôi thì không thể gọi là hiếu, vì đến
như giống chó, giống ngựa cũng có người nuôi, nuôi cha mẹ mà không thành kính thì
có khác gì như nuôi chó ngựa, làm sao có thể gọi là lòng hiếu thảo” (Luận ngữ, vi
chính 7). Ông thường dậy rằng, phận làm con thấy cha mẹ lầm lỗi phải can giám một
cách nhẹ nhàng, hoặc quan điểm “cha ra cha, con ra con” cũng đòi hỏi cha mẹ phải đối
xử với con cái cho đúng đạo của mình. Như vậy, không chủ trương ngu trung, ngu
hiếu, không bắt buộc con người phải phục tùng bề trên vô điều kiện nội dung trung,
hiếu của Nho gia sau này. Đối với Khổng Tử trong xã hội “Chính danh” là quan hệ hai
chiều: quân có nhân thì thần mới trung, phụ có từ thì tử mới hiếu... mà công cụ để thực
hiện hai chiều này là đạo đức xã hội.
Kế thừa quan điểm triết lý nhân sinh của Khổng Tử, Mạnh Tử, bên cạnh thuyết
“tính thiện” nổi tiếng còn có tư tưởng chính trị đặc sắc, những tư tưởng này thể hiện
quan điểm của Mạnh Tử về mối quan hệ giữa người với người, được nói ở tinh thần
“dân bản”. Dựa trên học thuyết “tính thiện” tiếp tục tư tưởng đạo đức của Khổng Tử,
Mạnh Tử đã kịch liệt phê phán phương pháp trị nước của các trường phái triết học
khác như Mặc Gia, Đạo Gia, : “Họ Dương vị ngã ấy là không nhận có vua, họ Mặc
kiêm ái ấy là không nhận có cha. Không có vua, không có cha, ấy là cầm thú rồi vậy...
Nếu cái đạo của họ Dương và họ Mặc không tắt thì đạo của Khổng Tử chẳng được
sáng tỏ” (Mạnh Tử, đằng văn công). Từ đó ông đề ra thuyết “Nhân chính” trong đạo
trị nước chủ trương lấy phép tắc đạo đức, đạo lý của Thánh Vương đời Tam đại, ngũ
đế là chuẩn mực để giáo hoá dân, bình trị nước, gọi là “pháp tiên vương”. 18 lOMoAR cPSD| 46560390
Theo thuyết “nhân chính” việc trị nước chăm dân của các bậc vương giả” phải
vì nhân nghĩa chứ không phải vì lợi. Vua hà tất phải nói đến lợi, chỉ có nhân nghĩa mà
thôi. Nếu ông vua nói rằng làm thế nào lợi cho nước ta, quan đại phu nói rằng làm thế
nào lợi cho nhà ta, kẻ sĩ và thứ dân nói rằng làm thế nào lợi cho thân ta, kẻ trên người
dưới ai lấy đều tranh nhau điều lợi thì nguy vậy (Mạnh Tử, Lương Huệ Vương).
Ở đây Mạnh Tử đã có sự phân biệt rất rõ ràng ý nghĩa, công dụng của “nghĩa” và
“lợi”. Khi ông gặp Tống Hinh (383 – 290 TC ) đem chữ “lợi” để khuyên Tần và Sở
đừng đánh nhau, Mạnh Tử đã phân tích: “Nếu tiên sinh lấy điều lợi mà nói với vua
nước Tần và Sở thì vua hai nước đó ắt vì lợi mà thôi đánh nhau. Nhưng nếu ai cũng
chỉ thích vì lợi thì thành ra người làm tôi lấy bụng lợi mà thờ vua, người làm con lấy
bụng lợi mà thờ cha mẹ, người em lấy bụng lợi mà kính anh. Vua tôi, cha con, anh em
đều bỏ cả nhân nghĩa, chỉ đem cái bụng cầu lợi tiếp đãi nhau, như thế nước chưa mất
là chưa có vậy” (Mạnh Tử, Cáo Tử Hạ).
Trên cơ sở tư tưởng “nhân nghĩa” và chủ trương “nhân chính”. Mạnh tử đã đề
xuất quan điểm hết sức độc đáo, đó là quan điểm “dân bản”. Theo Mạnh Tử trong một
nước có ba của báu là đất đai, nhân dân, chính sự. Kẻ nào lấy châu ngọc làm của báu
thì tai hoạ mắc vào thêm. Trong ba của báu ấy, theo ông quần chúng nhân dân lao động
có vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn vong suy thịnh của một đất nước. Thậm
chí ông còn cho rằng, dân còn quý hơn cả vua chúa và xã tắc. Ông nói : “Dân vi quý,
xã tắc vi thứ chi quân vi khinh” (Mạnh Tử, Tận tâm hạ) sở dĩ trong một nước dân là
cái quý nhất, vì theo ông, dân là gốc của nước, có dân mới có nước, mới có vua. Ý dân
là ý trời : “Trời trông ở dân, ta trông trời nghe ở dân ta nghe” (Vạn Chương Thượng).
“Vì vậy hễ ai được lòng dân chúng thì được làm vua thiên hạ” (Mạnh Tử , Tận Tâm Hạ).
Từ đó Mạnh Tử chủ trương thi hành một chế độ “bảo dân” và khuyên các bậc
vua chúa: “Ngài vui cái vui của dân thì dân cùng vui cái vui của mình, ngài lo cái lo 19