Quan sát viên ? Khái niệm quan sát viên
được hiểu như thế nào ?
1. Khái niệm về quan sát viên
Quan sát viên người đại diện của một nước hoặc tổ chức quốc tế được cử
đến tham gia mức đ hạn chế vào các hoạt động của một hội nghị hay một
tổ chức quốc tế nước phái người đại diện không phải thành viên.
Khi tham gia vào các hội nghị hay một tổ chức quốc tế, quan sát viên không
quyền tham gia bỏ phiếu hoặc các văn bản, nhưng trong một số trường
hợp được phép tham. gia thảo luận một số vấn đề thuộc chương trình nghị
sự của cuộc họp liên quan. Thể thức tham gia quyền hạn của quan sát
viên do quy chế của hội nghị hoặc tổ chức quốc tế quy định.
Trong thể lệ, thủ tục hoạt động của các quan của Liên hợp quốc như Hội
đồng bảo an, Đại hội đồng, Hội đồng quản thác, Toà án quốc tế tuy không
một quy định nào về đại diện của các quốc gia tham gia hoạt động của các t
chức đó, nhưng trên thực tế vẫn một số quan sát viên của các quốc gia
tham gia. Nhiều nước trước khi trở thành thành viên Liên hợp quốc như Nhật
Bản, Italia, Áo... đã cử quan sát viên thường trực tại Liên hợp quốc. Đến năm
1975, Công ước Viên về đại diện của c quốc gia trong quan hệ với các tổ
chức quốc tế tính phổ cập đã quy định về các đại diện này.
2. Quan sát viên Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc gì?
Ngoài 193 quốc gia thành viên, Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thể cấp quy
chế quan sát viên cho 1 t chức quốc tế, thực thể hoặc nhà nước phi thành
viên, thực th được tham gia c công việc của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc,
nhưng rất hạn chế. Đại Hội đồng thể quyết định giới hạn đặc quyền cho
các thực thể quan sát viên, chẳng hạn như quyền được phát biểu tại các
cuộc họp Đại Hội đồng, bỏ phiếu về các vấn đề theo thủ tục, đóng vai trò như
vào giấy tờ chấp thuận, các nghị quyết, nhưng không được đưa ra
nghị quyết quyết định biểu quyết các nghị quyết các vấn đề quan trọng của
Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc.
Tình trạng Quan sát viên được Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc công nhận theo
nghị quyết của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc. Tình trạng thường trực sẽ do
Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc quyết định theo thực tế, không điều khoản
quy định trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Tình trạng được công nhận
quan t viên phi thành viên. Quốc gia phi thành viên được tham gia các tổ
chức của Liên Hiệp Quốc, thể đăng trạng thái thường trực.
3. Quốc gia phi thành viên
Vào năm 2015, 2 quốc gia quan sát viên không thường trú Liên Hiệp
Quốc: Tòa Thánh Vatican Palestine. T Thánh Vatican đã trở thành quan
sát viên không phải thành viên vào năm 1964 Palestine đã được chỉ định
vào năm 2012, sau khi nộp đơn xin gia nhập thành viên vào năm 2011
không được sự chấp thuận của Hội đồng Bảo an. Cả hai đều được tả
"Các quốc gia phi thành viên đã nhận được lời mời thường trực tham gia với
cách quan sát viên trong các phiên họp công việc của Đại Hội đồng
duy t các phái quan sát viên thường trực tại trụ sở chính".[6] Vị thế của
Tòa Thánh Vatican 1 quan sát viên thường trực không phải thành viên
của Liên Hiệp Quốc đã bị đặt câu hỏi không thuộc nh của 1 quốc gia.
Sự thay đổi tình trạng quan sát viên Palestine năm 2012 từ "thực thể quan sát
phi thành viên" thành "nhà nước quan sát viên phi thành viên" được coi
"nâng cấp" vị thế của họ. Nhiều người gọi đây sự thay đổi "tượng trưng",
nhưng được coi đòn bẩy mới cho người Palestine khi họ làm việc với
Israel. Kết quả là, trong sự thay đổi tình trạng, Ban T Liên Hiệp Quốc
thừa nhận quyền Palestine trở thành một bên của các hiệp ước Tổng T
Liên Hiệp Quốc người lưu chiểu.
Các ghế ngồi tại Đại Hội đồng được sắp xếp với các quốc gia quan sát viên
phi thành viên ngồi ngay sau các quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc
trước các quan t viên khác. Vào ngày 10/9/2015, Đại Hội đồng đã quyết
định phê chuẩn việc nâng cao cờ của các quốc gia quan sát viên phi thành
viên của Liên Hiệp Quốc cùng với 193 nước thành viên của Liên Hiệp Quốc.
Nhà ớc
phi thành viên
Thời gian trạng thái quan sát được cấp
Thời gian bổ sung chi tiết
Tòa Thánh
Vatican
6/4/1964: Cấp tư cách nhà nước quan sát viên thường
trú.
1/7/2004: đã được tất cả các quyền của cách
thành viên đầy đủ trừ quyền b phiếu, đệ trình đề xuất giải
quyết không nghị quyết đưa ra c ứng viên
(A/RES/58/314)
Chủ quyền với lãnh thổ thành ph Vatican
Nhà nước
Palestine
22/11/1974: tình trạng quan sát viên phi nhà nước cho
Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO)
(A/RES/3237 (XXIX))
9/12/1988: quyền lưu thông tin liên lạc không cần
trung gian (A/RES/43/160)
15/12/1988: Chỉ định "Palestine"
(A/RES/43/177)
7/7/1998: quyền tham gia tranh luận chung các quyền
bổ sung (A/RES/52/250)
29/11/2012: Trạng thái nhà nước quan sát phi thành
viên (A/RES/67/19)
28/10/1974: Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 7 các quốc
gia Rập họp tại Rabat chỉ định PLO được công nhận
"đại diện độc lập duy nhất của người dân Palestine." (và sau
đó quan hệ với hơn 100 quốc gia Israel).
22/11/1974: PLO công nhận thẩm quyền v mọi vấn
đề liên quan đến các vấn đề của Palestine do Đại Hội đồng
Liên Hiệp Quốc, đại diện cho người Palestine Palestine
độc lập dân tộc ch quyền.
15/11/1988: PLO đơn phương tuyên bố thành lập Nhà
nước Palestine.
4/5/1994: PLO thiết lập Chính quyền Dân tộc
Palestine quản lãnh thổ Palestine theo Hiệp định hòa bình
Oslo do chính PLO, Israel, Hoa K Nga
kết.
7/7/1998: PLO được chỉ định ngồi tại Đại Hội đồng
Liên Hiệp Quốc ngay sau nhà nước phi thành viên trước các
quan sát viên khác.
23/9/2011: Nhà ớc Palestine xin cấp trạng thái thành
viên của Liên Hiệp Quốc.
17/12/2012: Trợ Đặc biệt của Tổng Thư
Yeocheol Yoon quyết định chỉ định Nhà nước Palestine s được
Ban Thư sử dụng trong tất cả các tài liệu chính thức của
Liên Hiệp Quốc.
Ghi chú:
+ Quần đảo Cook Niue, cả 2 liên kết tự do với New Zealand, thành
viên của nhiều quan chuyên môn của Liên Hiệp Quốc, đã "năng lực
hiệp ước đầy đủ" được công nhận bởi Ban Thư Liên Hiệp Quốc vào năm
1992 1994 ơng ứng. Quần đảo Cook đã bày tỏ mong muốn trở thành 1
quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc, nhưng New Zealand tuyên bố rằng
họ sẽ không ủng hộ bất cứ hành động đơn phương thay đổi hiến pháp, đặc
biệt quyền của Quần đảo Cook thuộc quốc tịch New Zealand.
+ Đài Loan (Trung Hoa Dân Quốc) nhà nước sáng lập Liên Hiệp Quốc đại
diện cho Trung Quốc trong giai đoạn nội chiến. Tuy nhiên từ 1971, Cộng hòa
Nhân n Trung Hoa nhà nước quản vị trí này. Từ đó Đài Loan đã tìm
cách tiếp tục tham gia vào c hoạt động của Liên Hiệp Quốc như tham gia
các quan chuyên môn của Liên Hiệp Quốc nhưng đều bị ngăn chặn bởi
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
4. Danh sách các quốc gia quan sát viên trước đây
Quốc gia
Quan sát viên
Thành viên chính thức
Thời gian
Thụy
1946
2002
56 năm
Hàn Quốc
1949
1991
42 năm
Áo
1952
1955
3 năm
Cộng hòa Liên bang Đức
1952
1973
21 năm
Italy
1952
1955
3 năm
Nhật Bản
1952
1956
4 năm
Phần Lan
1952
1955
3 năm
Việt Nam Cộng hòa
1952
[Note 1]
(quan sát 24 năm)
Tây Ban Nha
1955
1955
0 năm
Quốc gia
Quan sát viên
Thành viên chính thức
Thời gian
Monaco
1956
1993
37 năm
Kuwait
1962
1963
1 năm
Cộng hòa Dân chủ Đức
1972
1973
1 năm
Bangladesh
1973
1974
1 năm
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên
1973
1991
18 năm
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
1975
[Note 1]
(quan sát 1 năm)
Việt Nam
1976
1977
1 năm
5. Thực thể quan sát viên phi thành viên
Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thể mời các thực thể không phải thành viên
tham gia vào hoạt động của Liên Hiệp Quốc không cách thành viên
chính thức, đã m như vậy trong nhiều dịp. Những thực thể tham gia như
vậy được tả quan sát viên, một số trong số đó thể được phân loại
các nhà nước quan sát viên. Hầu hết c quốc gia không phải thành viên
của n quan sát đều chấp nhận tình trạng quan sát viên tại thời điểm h nộp
đơn xin gia nhập nhưng không thể đạt được điều này, do (hoặc thực tế) sự
phủ quyết của một hoặc nhiều thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an
Liên Hiệp Quốc. Việc cấp ch quan sát viên thực hiện bởi Đại Hội đồng
không thuộc diện phủ quyết của Hội đồng Bảo an.
Trong một số trường hợp 1 quốc gia thể chọn trở thành 1 quan sát viên
chứ không phải thành viên chính thức. dụ, để duy trì tính trung lập của
mình trong khi tham gia vào công việc, Thụy đã chọn để duy trì quan t
viên không phải thành viên thường trực t năm 1948 cho đến khi trở thành
thành viên vào năm 2002 mặc nơi đặt trụ sở châu Âu của một số
quan Liên Hiệp Quốc.Tòa Thánh đã không muốn gia nhập Liên Hiệp Quốc
như 1 thành viên "Việc tham gia vào tổ chức dường như không phù hợp
với các điều khoản của Điều 24 của Hiệp ước Laterano, đặc biệt những vấn
đề chính trị, quân sự kinh tế".Từ ngày 6/4/1964, Tòa Thánh đã chấp nhận
cách quan sát viên thường trực tại Liên Hiệp Quốc, được xem như là 1 giải
pháp ngoại giao, cho phép Vatican tham gia vào các hoạt động của Liên Hiệp
Quốc.
6. lược về Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc?
Kỳ họp thường niên của Đại Hội đồng thường bắt đầu vào ngày thứ ba của
tháng 9 kết thúc o giữa tháng 12 với chức danh Chủ tịch Đại Hội đồng
Liên Hiệp Quốc được bầu vào lúc khởi đầu của mỗi kỳ họp. Kỳ họp đầu tiên
được triệu tập ngày 10 tháng 1 năm 1946 tại Westminster Central Hall tại
Luân Đôn với các đại biểu đến từ 51 quốc gia.
Đại Hội đồng biểu quyết bằng cách bỏ phiếu trong c vấn đ quan trọng
đề xuất hòa bình an ninh; tuyển chọn thành viên cho các quan; thu
nhận, đình chỉ trục xuất thành viên các vấn đ ngân sách cần được
thông qua bởi đa số 2/3 số đại biểu mặt bỏ phiếu. Các vấn đ khác
được quyết định bởi đa số quá bán. Mỗi quốc gia thành viên chỉ một phiếu.
Ngoại trừ việc thông qua các vấn đề về ngân sách bao gồm việc chấp nhận
một thang bậc thẩm định, nghị quyết của Đại hội đồng không giá trị ràng
buộc đối với thành viên. Đại hội đồng thể đề xuất về các sự việc trong
khuôn khổ của Liên Hiệp Quốc, ngoại trừ các vấn đề liên quan đến hòa nh
an ninh thuộc thẩm quyền xem xét của Hội đồng Bảo an. Trên thuyết,
quy chế 1 quốc gia, 1 phiếu cho phép các nước nhỏ với dân số tổng cộng
chiếm chỉ 8% dân số thế giới kh năng thông qua nghị quyết với đa số 2/3
trên tổng số phiếu.
Suốt thập niên 1980, Đại Hội đồng tr thành diễn đàn cho “đối thoại Bắc-Nam”
thảo luận về các vấn đề nảy sinh giữa các nước đã công nghiệp hóa c
nước đang phát triển. Những vấn đ này được đưa lên hàng đầu cớ sự
phát triển thần kỳ diện mạo đang thay đổi của thành phần thành viên
Liên Hiệp Quốc. Năm 1945, Liên Hiệp Quốc 51 thành viên, nay con số này
193, với hơn 2 phần 3 các quốc gia đang phát triển. Chiếm phần đa số,
các nước đang phát triển khả năng ấn định nghị trình của Đại hội đồng
(thông qua phương pháp phối hợp các nhóm quốc gia như G7), chiều hướng
các cuộc tranh luận thực chất của các quyết định. Đối với nhiều quốc gia
đang phát triển, Liên Hiệp Quốc nguồn cung ứng cho họ ảnh hưởng ngoại
giao diễn đàn chính cho những sáng kiến ngoại giao.

Preview text:

Quan sát viên là gì ? Khái niệm quan sát viên
được hiểu như thế nào ?
1. Khái niệm về quan sát viên
Quan sát viên là người đại diện của một nước hoặc tổ chức quốc tế được cử
đến tham gia ở mức độ hạn chế vào các hoạt động của một hội nghị hay một
tổ chức quốc tế mà nước phái người đại diện không phải là thành viên.
Khi tham gia vào các hội nghị hay một tổ chức quốc tế, quan sát viên không
có quyền tham gia bỏ phiếu hoặc kí các văn bản, nhưng trong một số trường
hợp được phép tham. gia thảo luận một số vấn đề thuộc chương trình nghị
sự của cuộc họp liên quan. Thể thức tham gia và quyền hạn của quan sát
viên do quy chế của hội nghị hoặc tổ chức quốc tế quy định.
Trong thể lệ, thủ tục hoạt động của các cơ quan của Liên hợp quốc như Hội
đồng bảo an, Đại hội đồng, Hội đồng quản thác, Toà án quốc tế tuy không có
một quy định nào về đại diện của các quốc gia tham gia hoạt động của các tổ
chức đó, nhưng trên thực tế vẫn có một số quan sát viên của các quốc gia
tham gia. Nhiều nước trước khi trở thành thành viên Liên hợp quốc như Nhật
Bản, Italia, Áo... đã cử quan sát viên thường trực tại Liên hợp quốc. Đến năm
1975, Công ước Viên về đại diện của các quốc gia trong quan hệ với các tổ
chức quốc tế có tính phổ cập đã có quy định về các đại diện này.
2. Quan sát viên Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc là gì?
Ngoài 193 quốc gia thành viên, Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc có thể cấp quy
chế quan sát viên cho 1 tổ chức quốc tế, thực thể hoặc nhà nước phi thành
viên, thực thể được tham gia các công việc của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc,
nhưng rất hạn chế. Đại Hội đồng có thể quyết định giới hạn đặc quyền cho
các thực thể quan sát viên, chẳng hạn như quyền được phát biểu tại các
cuộc họp Đại Hội đồng, bỏ phiếu về các vấn đề theo thủ tục, đóng vai trò như
ký vào giấy tờ chấp thuận, và ký các nghị quyết, nhưng không được đưa ra
nghị quyết quyết định và biểu quyết các nghị quyết các vấn đề quan trọng của
Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc.
Tình trạng Quan sát viên được Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc công nhận theo
nghị quyết của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc. Tình trạng thường trực sẽ do
Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc quyết định theo thực tế, không có điều khoản
quy định trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Tình trạng được công nhận
quan sát viên phi thành viên. Quốc gia phi thành viên được tham gia các tổ
chức của Liên Hiệp Quốc, có thể đăng ký trạng thái thường trực.
3. Quốc gia phi thành viên
Vào năm 2015, có 2 quốc gia quan sát viên không thường trú ở Liên Hiệp
Quốc: Tòa Thánh Vatican và Palestine. Toà Thánh Vatican đã trở thành quan
sát viên không phải thành viên vào năm 1964 và Palestine đã được chỉ định
vào năm 2012, sau khi nộp đơn xin gia nhập thành viên vào năm 2011 mà
không được sự chấp thuận của Hội đồng Bảo an. Cả hai đều được mô tả là
"Các quốc gia phi thành viên đã nhận được lời mời thường trực tham gia với
tư cách là quan sát viên trong các phiên họp và công việc của Đại Hội đồng
và duy trì các phái quan sát viên thường trực tại trụ sở chính".[6] Vị thế của
Tòa Thánh Vatican là 1 quan sát viên thường trực không phải là thành viên
của Liên Hiệp Quốc đã bị đặt câu hỏi vì không có thuộc tính của 1 quốc gia.
Sự thay đổi tình trạng quan sát viên Palestine năm 2012 từ "thực thể quan sát
phi thành viên" thành "nhà nước quan sát viên phi thành viên" được coi là
"nâng cấp" vị thế của họ. Nhiều người gọi đây là sự thay đổi "tượng trưng",
nhưng nó được coi là đòn bẩy mới cho người Palestine khi họ làm việc với
Israel. Kết quả là, trong sự thay đổi tình trạng, Ban Thư ký Liên Hiệp Quốc
thừa nhận quyền Palestine trở thành một bên của các hiệp ước mà Tổng Thư
ký Liên Hiệp Quốc là người lưu chiểu.
Các ghế ngồi tại Đại Hội đồng được sắp xếp với các quốc gia quan sát viên
phi thành viên ngồi ngay sau các quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc và
trước các quan sát viên khác. Vào ngày 10/9/2015, Đại Hội đồng đã quyết
định phê chuẩn việc nâng cao cờ của các quốc gia quan sát viên phi thành
viên của Liên Hiệp Quốc cùng với 193 nước thành viên của Liên Hiệp Quốc. Nhà nước
Thời gian trạng thái quan sát được cấp
Thời gian bổ sung và chi tiết phi thành viên 
6/4/1964: Cấp tư cách nhà nước quan sát viên thường trú.
Tòa Thánh 1/7/2004: đã có được tất cả các quyền của tư cách Chủ quyền với lãnh thổ thành phố Vatican Vatican
thành viên đầy đủ trừ quyền bỏ phiếu, đệ trình đề xuất giải
quyết mà không có nghị quyết và đưa ra các ứng viên (A/RES/58/314) 
22/11/1974: tình trạng quan sát viên phi nhà nước cho 28/10/1974: Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 7 các quốc
Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) gia Ả Rập họp tại Rabat chỉ định PLO được công nhận (A/RES/3237 (XXIX))
là "đại diện độc lập duy nhất của người dân Palestine." (và sau 
9/12/1988: quyền lưu thông tin liên lạc mà không cần đó có quan hệ với hơn 100 quốc gia và Israel).
Nhà nước trung gian (A/RES/43/160) 
22/11/1974: PLO công nhận có thẩm quyền về mọi vấn  15/12/1988: Chỉ định
"Palestine" đề liên quan đến các vấn đề của Palestine do Đại Hội đồng Palestine (A/RES/43/177)
Liên Hiệp Quốc, đại diện cho người Palestine ở Palestine 
7/7/1998: quyền tham gia tranh luận chung và các quyền độc lập dân tộc và chủ quyền. bổ sung (A/RES/52/250) 
15/11/1988: PLO đơn phương tuyên bố thành lập Nhà 
29/11/2012: Trạng thái nhà nước quan sát phi thành nước Palestine. viên (A/RES/67/19) 
4/5/1994: PLO thiết lập Chính quyền Dân tộc
Palestine quản lý lãnh thổ Palestine theo Hiệp định hòa bình
Oslo do chính PLO, Israel, Hoa Kỳ và Nga ký kết. 
7/7/1998: PLO được chỉ định ngồi tại Đại Hội đồng
Liên Hiệp Quốc ngay sau nhà nước phi thành viên và trước các quan sát viên khác. 
23/9/2011: Nhà nước Palestine xin cấp trạng thái thành
viên của Liên Hiệp Quốc. 
17/12/2012: Trợ lý Đặc biệt của Tổng Thư ký
Yeocheol Yo n quyết định chỉ định Nhà nước Palestine sẽ được
Ban Thư ký sử dụng trong tất cả các tài liệu chính thức của Liên Hiệp Quốc. Ghi chú:
+ Quần đảo Cook và Niue, cả 2 có liên kết tự do với New Zealand, là thành
viên của nhiều cơ quan chuyên môn của Liên Hiệp Quốc, và đã có "năng lực
hiệp ước đầy đủ" được công nhận bởi Ban Thư ký Liên Hiệp Quốc vào năm
1992 và 1994 tương ứng. Quần đảo Cook đã bày tỏ mong muốn trở thành 1
quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc, nhưng New Zealand tuyên bố rằng
họ sẽ không ủng hộ bất cứ hành động đơn phương thay đổi hiến pháp, đặc
biệt là quyền của Quần đảo Cook thuộc quốc tịch New Zealand.
+ Đài Loan (Trung Hoa Dân Quốc) là nhà nước sáng lập Liên Hiệp Quốc đại
diện cho Trung Quốc trong giai đoạn nội chiến. Tuy nhiên từ 1971, Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa là nhà nước quản lý vị trí này. Từ đó Đài Loan đã tìm
cách tiếp tục tham gia vào các hoạt động của Liên Hiệp Quốc như tham gia
các cơ quan chuyên môn của Liên Hiệp Quốc nhưng đều bị ngăn chặn bởi
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
4. Danh sách các quốc gia quan sát viên trước đây Quốc gia
Quan sát viên Thành viên chính thức Thời gian Thụy Sĩ 1946 2002 56 năm Hàn Quốc 1949 1991 42 năm Áo 1952 1955 3 năm Cộng hòa Liên bang Đức 1952 1973 21 năm Italy 1952 1955 3 năm Nhật Bản 1952 1956 4 năm Phần Lan 1952 1955 3 năm Việt Nam Cộng hòa 1952 — [Note 1] — (quan sát 24 năm) Tây Ban Nha 1955 1955 0 năm Quốc gia
Quan sát viên Thành viên chính thức Thời gian Monaco 1956 1993 37 năm Kuwait 1962 1963 1 năm Cộng hòa Dân chủ Đức 1972 1973 1 năm Bangladesh 1973 1974 1 năm
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên 1973 1991 18 năm
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1975 — [Note 1] — (quan sát 1 năm) Việt Nam 1976 1977 1 năm
5. Thực thể quan sát viên phi thành viên
Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc có thể mời các thực thể không phải thành viên
tham gia vào hoạt động của Liên Hiệp Quốc mà không có tư cách thành viên
chính thức, và đã làm như vậy trong nhiều dịp. Những thực thể tham gia như
vậy được mô tả là quan sát viên, một số trong số đó có thể được phân loại là
các nhà nước quan sát viên. Hầu hết các quốc gia không phải là thành viên
của nhà quan sát đều chấp nhận tình trạng quan sát viên tại thời điểm họ nộp
đơn xin gia nhập nhưng không thể đạt được điều này, do (hoặc thực tế) sự
phủ quyết của một hoặc nhiều thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an
Liên Hiệp Quốc. Việc cấp tư cách quan sát viên thực hiện bởi Đại Hội đồng
và không thuộc diện phủ quyết của Hội đồng Bảo an.
Trong một số trường hợp 1 quốc gia có thể chọn trở thành 1 quan sát viên
chứ không phải là thành viên chính thức. Ví dụ, để duy trì tính trung lập của
mình trong khi tham gia vào công việc, Thụy Sĩ đã chọn để duy trì quan sát
viên không phải là thành viên thường trực từ năm 1948 cho đến khi trở thành
thành viên vào năm 2002 mặc dù là nơi đặt trụ sở châu Âu và của một số cơ
quan Liên Hiệp Quốc.Tòa Thánh đã không muốn gia nhập Liên Hiệp Quốc
như 1 thành viên vì "Việc tham gia vào tổ chức dường như không phù hợp
với các điều khoản của Điều 24 của Hiệp ước Laterano, đặc biệt những vấn
đề chính trị, quân sự và kinh tế".Từ ngày 6/4/1964, Tòa Thánh đã chấp nhận
tư cách quan sát viên thường trực tại Liên Hiệp Quốc, được xem như là 1 giải
pháp ngoại giao, cho phép Vatican tham gia vào các hoạt động của Liên Hiệp Quốc.
6. Sơ lược về Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc?
Kỳ họp thường niên của Đại Hội đồng thường bắt đầu vào ngày thứ ba của
tháng 9 và kết thúc vào giữa tháng 12 với chức danh Chủ tịch Đại Hội đồng
Liên Hiệp Quốc được bầu vào lúc khởi đầu của mỗi kỳ họp. Kỳ họp đầu tiên
được triệu tập ngày 10 tháng 1 năm 1946 tại Westminster Central Hal tại
Luân Đôn với các đại biểu đến từ 51 quốc gia.
Đại Hội đồng biểu quyết bằng cách bỏ phiếu trong các vấn đề quan trọng –
đề xuất hòa bình và an ninh; tuyển chọn thành viên cho các cơ quan; thu
nhận, đình chỉ và trục xuất thành viên và các vấn đề ngân sách – cần được
thông qua bởi đa số 2/3 số đại biểu có mặt và bỏ phiếu. Các vấn đề khác
được quyết định bởi đa số quá bán. Mỗi quốc gia thành viên chỉ có một phiếu.
Ngoại trừ việc thông qua các vấn đề về ngân sách bao gồm việc chấp nhận
một thang bậc thẩm định, nghị quyết của Đại hội đồng không có giá trị ràng
buộc đối với thành viên. Đại hội đồng có thể đề xuất về các sự việc trong
khuôn khổ của Liên Hiệp Quốc, ngoại trừ các vấn đề liên quan đến hòa bình
và an ninh thuộc thẩm quyền xem xét của Hội đồng Bảo an. Trên lý thuyết,
quy chế 1 quốc gia, 1 lá phiếu cho phép các nước nhỏ với dân số tổng cộng
chiếm chỉ 8% dân số thế giới có khả năng thông qua nghị quyết với đa số 2/3 trên tổng số phiếu.
Suốt thập niên 1980, Đại Hội đồng trở thành diễn đàn cho “đối thoại Bắc-Nam”
– thảo luận về các vấn đề nảy sinh giữa các nước đã công nghiệp hóa và các
nước đang phát triển. Những vấn đề này được đưa lên hàng đầu vì cớ sự
phát triển thần kỳ và vì có diện mạo đang thay đổi của thành phần thành viên
Liên Hiệp Quốc. Năm 1945, Liên Hiệp Quốc có 51 thành viên, nay con số này
là 193, với hơn 2 phần 3 là các quốc gia đang phát triển. Chiếm phần đa số,
các nước đang phát triển có khả năng ấn định nghị trình của Đại hội đồng
(thông qua phương pháp phối hợp các nhóm quốc gia như G7), chiều hướng
các cuộc tranh luận và thực chất của các quyết định. Đối với nhiều quốc gia
đang phát triển, Liên Hiệp Quốc là nguồn cung ứng cho họ ảnh hưởng ngoại
giao và diễn đàn chính cho những sáng kiến ngoại giao.
Document Outline

  • Quan sát viên là gì ? Khái niệm quan sát viên được
    • 1. Khái niệm về quan sát viên
    • 2. Quan sát viên Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc là gì
    • 3. Quốc gia phi thành viên
    • 4. Danh sách các quốc gia quan sát viên trước đây
    • 5. Thực thể quan sát viên phi thành viên
    • 6. Sơ lược về Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc?