/6
lOMoARcPSD| 61526682
I. ợng – chất
*Vận dụng quy luật này vào trong quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên ngày nay.
- Sự khác biệt giữa học tập ở bậc phổ thông và bậc đại học: Biểu hiện của sự chuyển hóa từ lượng
thành chất.
Học tập phổ thông và ở đại học sự khác biệt rõ rệt cả về khối lượng kiến thức, nội dung, hình thức học
tập và cả yêu cầu rèn luyện kỹ năng. phổ thông, kiến thức được chia nhỏ theo từng tiết học, môn học kéo
dài cả năm, còn ở đại học, thời gian học tập rút ngắn chỉ còn từ 1 đến 2 tháng, nhưng khối lượng kiến thức
lại tăng lên rất nhiều. Ngoài ra, sinh viên còn phải tham gia kiến tập, thực tập, nghiên cứu khoa học,...
Sự tăng dần về lượng – từ khối lượng kiến thức lớn hơn, cách học phức tạp hơn – dẫn đến yêu cầu thay đổi
về chất: sinh viên phải thay đổi phương pháp học tập, lối sống, kỹ năng tự học, tự nghiên cứu. Đây chính
một bước nhảy quan trọng để thích nghi phát triển, thể hiện rõ quy luật chuyển hóa từ lượng thành
chất.
- Quá trình tích lũy kiến thức: Biểu hiện sinh động của quy luật
Mỗi sinh viên phải hiểu rằng, học tập là một quá trình tích lũy về lượng: ngày ngày học tập, đọc sách, làm
bài tập, tham gia các hoạt động rèn luyện,... Đến một mức độ nhất định (điểm nút) như thi cuối kỳ, bảo
vệ đồ án, tốt nghiệp – chính là bước nhảy để biến đổi về chất: từ một sinh viên đang học trở thành một cử
nhân, kỹ sư, chuyên gia,...
Ví dụ: Việc hoàn thành đủ số tín chỉ, đủ điều kiện tốt nghiệp chính là quá trình tích lũy về lượng, còn việc
tốt nghiệp, đạt được bằng cấp, kiến thức vững vàng chính là biến đổi về chất.
Điều quan trọng sinh viên phải học tập đều đặn, tích lũy từng chút một, không thể học dồn, học gấp. Phải
biết tích lũy lượng từng bước, để biến đổi chất đúng lúc.
- Rèn luyện ý thức, thái độ học tập: "Tích tiểu thành đại" để thay đổi chất.
Một sinh viên tích cực học tập, rèn luyện đức tính tốt như chăm chỉ, trung thực, kỷ luật, khoa học,... sẽ dần
hình thành nên thói quen học tập tốt, từ đó hình thành nên tính cách tích cực. Ngược lại, nếu không tích
cực rèn luyện, không trung thực, gian lận trong thi cử,... thì kết quả thi cao chăng nữa cũng không
thực sự là bước nhảy về chất, vì kiến thức không thực chất sẽ không giúp sinh viên thành công trong công
việc và cuộc sống sau này.
4. Vận dụng vào xây dựng tập thể lớp vững mạnh
Một tập thể lớp đoàn kết, học tập tốt được hình thành từ nhiều cá nhân tốt. Mỗi sinh viên có ý thức học tập,
rèn luyện tích cực (tích lũy lượng), thì tập thể lp mi có chất lượng tốt (chuyển hóa về chất). Uy tín, thành
tích của tập thể phụ thuộc vào sự phấn đấu của từng cá nhân.
II. CNDVBC: Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
(Quy luật Mâu thuẫn; hạt nhân của phép biện chứng, nguồn gốc đng lực của sự vận đọng phát triển)
(Liên hệ thực ễn) Nguồn gốc, động lực của phát triển bản thân.
lOMoARcPSD| 61526682
Việc học cũng là một quá trình tăng trưởng, ch lũy về mặt tri thức và đồng thời, cách để áp dụng những
tri thức đó vào lao động, đời sống thực tế. Vậy nên, quá trình học tập của bản thân , như bao sự vật hiện
ợng khác, chịu sự tác động của quy luật mâu thuẫn. Chính vì vậy, ta cần phải biết áp dụng quy luật mâu
thuẫn vào thực ễn đời sống nói chung vào sự học nói riêng để thể phát triển bản thân của sinh
viên.
- Đầu ên, bản thân em cần biết tôn trọng mâu thuẫn. Con người cần luôn luôn cố gắng nỗ lực m
hiểu để phát hiện mâu thuẫn, phân ch đầy đủ các mặt đối lập để nắm bắt bản chất khuynh hướng
phát triển. Với em, việc tôn trọng mâu thuẫn chính m hiểu đầy đnhững môn học của nhà trường,
chọn ra các môn phợp với địnhớng, mục êu tương lai; vạch ra kế hoạch học tập, tham gia các hoạt
động ngoại khóa và thực hiện kế hoạch đó để đạt được mục êu của bản thân.
- Thứ hai, em cũng cần có thái độ không sợ mâu thuẫn, không tránh né mâu thuẫn mà cần phải m
ra giải pháp khắc phục, như thế mới thể phát triển bản thân, thêm tự n kinh nghiệm để gii
quyết mâu thuẫn phát sinh sau này.
- Thba, việc biết vận dụng quy luật mâu thuẫn đliên tục m tòi, đổi mới sáng tạo trong tri
thức cũng là vô cùng quan trọng với em. Bởi vì mâu thuẫn luôn tồn tại, nên nó buộc người ta không bao
giđược nghĩ mình đầy đủ tri thức, phải liên tục học thêm các tri thức mới để giải quyết các vấn
đề mới. Đồng thời, quy luật mâu thuẫn cũng buộc chúng ta phải biết vượt qua mọi định kiến đbài trừ
những cái cũ, không còn phù hợp và ếp thu, chọn lọc cái mới còn chưa quen thuộc.
Qua những điều đã nói ở trên, có thể thy việc vận dụng nhuần nhuyễn quy luật mâu thuẫn vào thực ễn
đời sống nói chung việc học tập i riêng cùng cần thiết với em cũng như tất cả học sinh, sinh
viên. Điều đó là nền tảng sự phát triển của bản thân mỗi sinh viên cũng quyết định thành bại trong sự
nghiệp và cuộc sống sau này. Là sinh viên, em cần phải biết cách áp dụng những điểm có lợi của quy luật
thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập vào học tập và lao động để hoàn thành mục êu của mình.
III. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA ĐÃ VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC ỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN
HỆ SẢN XUẤT VÀO THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN KINH TẾ ĐT NƯỚC TA TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY NHƯ THẾ NÀO?
1. Trước kỳ trước đổi mới: Giai đoạn y kinh tế ớc ta vốn đã lạc hậu nay càng gặp nhiều khó
khăn sau cuộc chiến tranh nhiều gian khổ. Lực lượng sản xuất nước ta thời ky còn thấp chưa
nhiều điều kiện để phát triển. Cụ thể: Trình độ của người lao động thấp, hầu hết không chuyên môn,
tay nghề, phần lớn lao động chưa qua đào tạo. Lao động chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp
và dựa trên kinh nghiệm ông cha để lại. Tư liệu sản xuất nhất là công cụ lao động ớc ta thời kỳ y
còn thô sơ, lạc hậu. Trong hoàn cảnh này, Đảng và Nhà nước đã chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm hai thành phần kinh tế: thành phần
kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân thành phần kinh tế hợp tác thuộc sở hữu tập thể của
nhân dân lao động.
lOMoARcPSD| 61526682
2. Thời kỳ sau đổi mới: Rút kinh nghiệm tnhững sai lầm giai đoạn trước, Đại hội Đảng lần thứ
VI năm 1986 đã thừa nhận thẳng thắn những khuyết điểm, chủ trương đổi mới phương thức quản lý kinh
tế. Đây là dấu mốc quan trọng trong quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về con đường và phương
pháp y dựng chủ nghĩa hội ớc ta, thể hiện sự nhận thức vận dụng quy luật về sự phù hợp giữa
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; đồng thời, đã đặt cơ sở, nền tảng quan
trọng để các nhân tố mới ra đời, tạo ền đề để từng bước phát triển nền kinh tế của đất nước. Chính vì
vậy đến nay, nước ta đã đạt được nhiều thành tự to lớn như Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương,
biện pháp để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo cốt vật
chất” cho quan hệ sản xuất mới. Đảng và Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều chính sách và pháp luật đ
hoàn thiện các mặt của quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hi chủ nghĩa về sở hữu, tổ chc qun
phân phối. Trong những năm đổi mới, nước ta đã nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp để
tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia các quan hệ song phương tổ chức đa phương, như
ASEAN, APEC, ASEM, WTO, thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài (FDI, ODA…), xúc ến mạnh thương
mại đầu tư, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, khai thác hiệu quả các chế hợp tác quốc tế, các
nguồn lực về vn, khoa học và công nghệ.
IV. Biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
🌿 Sự vận dụng của Đảng trong xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc
Đảng ta đã nhận thức u sắc mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại hội ý thức hội, từ đó
đề ra đường lối xây dựng văn hóa phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước:
Xác định vai trò then chốt của văn hóa:
Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Xây dựng văn hóa xây dựng ý thức hội mới, làm giàu đời sống tinh thần, nâng cao
đạo đức, lối sống, góp phần phát triển toàn diện con người Việt Nam.
Phát huy các giá trị cốt lõi của văn hóa Việt Nam:
Giữ gìn phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết, khoan dung, nhân ái, trọng nghĩa
tình.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên sở tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại.
Gắn văn hóa với khoa học, giáo dục, kinh tế và đời sống chính trị.
Đề ra các phương châm chỉ đạo xuyên suốt:
Dân tộc – Khoa học – Đại chúng (từ Đề cương văn hóa Việt Nam 1943).
lOMoARcPSD| 61526682
Đảng ta khẳng định: Xây dựng nền văn a tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc phải gắn kết
chặt chẽ với phát triển kinh tế - hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh
nội sinh quan trọng cho phát triển.
Triển khai đồng bộ qua các nghị quyết, văn kiện:
Đại hội VII (1991): Khẳng định xã hội mới phải có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
Nghị quyết TW 5 (khóa VIII, 1998): Là nghị quyết chuyên đề đầu tiên về văn hóa, đặt ra
mục tiêu lâu dài.
Đại hội X, XI và các văn kiện sau đó: Tiếp tục nhấn mạnh phát triển toàn diện, thống nhất
trong đa dạng, văn hóa phải thấm sâu vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội, điều tiết kinh tế thị
trường theo hướng phát triển bền vững.
Xây và chống đồng thời:
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, nhân văn, khoa học, gắn với đời sống tinh thần của nhân
dân.
Chống lại các biểu hiện tiêu cực: suy thoái đạo đức, lối sống thực dụng, "sính ngoại", phai
nhạt bản sắc, hủ tục lạc hậu...
(Gốc)
Sự vận dụng của Đảng ta trong việc xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
1. Sự phóng phú, đa dạng của nền văn hoá dân tộc một số tồn tại, hạn chế. Đất nước Việt Nam đã trải
qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước giữ nước nên cũng qua đó hình thành một nền văn hoá dân tộc
Việt Nam rất riêng biệt. Nền văn hoá Việt Nam kết quả của cả một quá trình, là tinh hoa của lịch sử
thời đại. Cơ sở hình thành và phát triển của văn hóa Việt Nam cụ thể như sau: Thời gian văn hóa Việt
Nam: Văn hóa Việt Nam đã được định hình từ khi hình thành nhà nước khai đầu tiên của Việt Nam c
thể đó là kể từ khi có nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng. Đặc điểm tự nhiên: • Việt Nam là đất nước
nằm trung tâm Đông Nam Á. • Việt Nam địa hình đa dạng; nền khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, mưa
nhiều; là xứ sở thực vật; nhiều sông ngòi và đồng bằng phù sa; có bờ biển chạy dài suốt chiều dài đất nước
(hơn 3.000 km); vùng sông nước trồng lúa nước. Phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước
giữ vị trí chủ đạo đối với đất nước và đây chính là đặc trưng gốc chi phối đến sự hình thành các đặc trưng
bản sắc của văn hóa Việt Nam cho đến tận ngày nay. Điều kiện lịch sử xã hội: Đất nước ta liên tục
bị xâm lược và đấu tranh chống xâm lược và có sự giao lưu, tiếp xúc với các nền văn hóa khác trên thế giới.
Thành phần xã hội của Việt Nam: nông dân giữ vị trí chủ đạo. • Tổ chức xã hội của Việt Nam: ng là đơn
vị cộng đồng nền tảng. Tại Việt Nam thì văn hóa làng là hạt nhân bản làm nên bản sắc văn hóa đất nước.
Chủ thể văn hóa Việt Nam: hiện nay đất nước ta bao gồm 54 dân tộc và là một cấu trúc đa tộc người và
đa văn hóa. Cấu trúc đa tộc người Việt Nam bao gồm: Các tộc người bản địa đã mặt trên lãnh thổ
Việt Nam từ thời tiền sử, xuất phát từ nhiều nguồn gốc nhân chủng ngôn ngữ khác nhau. Tộc người
Việt (người Kinh) đóng vai trò chủ thể. Ta nhận thấy rằng, văn hóa của người Việt giữ vai trò hạt nhân
đối với sự hình thành bản sắc văn hóa Việt Nam. Từ sở hình thành phát triển của nền văn hóa Việt
Nam ta rút ra những đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam như sau: a. Nền văn hóa hình thành từ nền tảng
nông nghiệp trồng lúa nước ở miền sông nước và biển đảo. b. Nền văn hóa đề cao giá trị văn hóa gia đình
lOMoARcPSD| 61526682
truyền thống. c. Nền văn hóa đậm tính cộng đồng, tự trị của văn hóa làng xã. d. Nền văn hóa thấm đậm,
bao trùm tinh thần yêu nước, ý thức quốc gia - dân tộc. e. Nền văn hóa đa dân tộc, thống nhất trong đa dạng.
g. Nền văn hóa mở, thích ứng và tiếp biến hài hoà các nền văn minh nhân loại. Tuy nhiên, cùng với sự hội
nhập phát triển bên cạnh những mặt tích cực nền văn hóa Việt Nam đã xuất hiện những hiện tượng tự
diễn biến, tự chuyển hóa, thậm chí đánh mất bản sắc dân tộc. Đặc biệt là người trẻ không mặn mà với các
giá trị văn hóa truyền thống dân tộc mà thay vào đó lại rất ưa chuộng những điều mới lạ, “sính ngoại”, dễ
dàng đón nhận những nét văn hóa ngoại lại không có chọn lọc. dụ, Trong lĩnh vực giải trí, giới trẻ
đang bị cuốn hút mải mê chạy theo những trào lưu du nhập từ nước ngoài, thậm chí vấn đề đã lên đến
mức báo động. Giới trẻ bị thu hút bởi những trào lưu văn hóa ngoại lại như: thời trang, âm nhạc Hàn Quốc,
Âu Mỹ,… ngược lại thờ ơ với các loại hình văn hóa truyền thống dân tộc như: tuồng, chèo, cải lương,....
Ngoài ra,vẫn còn tồn tại một số hủ tục, phong tục của đồng bào dân tộc thiểu số không còn phù hợp, cản
trở sự phát triển kinh tế - xã hội. Ví dụ, Tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống; mê tín dị đoan, tục bắt vợ,…
2. Sự vận dụng mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội của Đảng ta trong việc xây dựng nền văn
hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng ý thức xã hội mới là vấn
đề bức thiết. Xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên cơ
sở xây dựng phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vận dụng sáng tạo phát triển
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Xây dựng ý thức
xã hội mới, chúng ta cần phải đẩy mạnh công cuộc xây dựng đời sống kinh tế mới, văn hoá mới, con người
mới; không ngừng hoàn thiện ý thức hội theo hướng khoa học, cách mạng, tiến bộ; đồng thời tăng cường
công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức hội mới. thể hiểu ý thức hội mới chúng ta đang xây
dựng là toàn bộ quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng... của xã hội mới mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước phản ánh lợi ích căn bản của
nhân dân nhằm phục vụ công cuộc xây dựng hội mới. Trên thực tế, ý thức hội mới đó biểu hiện rất
phong phú, đa dạng. Ngoài hệ tư tưởng, nó còn được biểu hiện ra ở tâm trạng, tình cảm, nhu cầu và cả thói
quen, phong tục, tập quán của cộng đồng xã hội. Trong nh vực văn hóa, Đảng ta xác định xây dựng ý thức
xã hội mới trên cơ sở đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, làm cho văn hoá thực sự trở thành mục tiêu, động lực của phát triển, thành nền tảng tinh thần của
hội. Sự phát triển xã hội không chỉ có đời sống vật chất, mà còn có đời sống tinh thần. Đó là hai mặt không
thể thiếu giữa chúng có sự gắn bó, tác động tương hỗ có thể làm giàu, phong phú cho nhau và cũng
thể kìm hãm nhau trong quá trình phát triển. Bên cạnh kinh tế, văn hoá luôn đóng vai trò quyết định trong
quá trình phát triển sự trường tồn của mỗi quốc gia, dân tộc. Hơn nữa, từ trong bản chất, văn hoá đã
mang tính nhân văn, chứa đựng cái đúng, cái tốt, cái đẹp được cộng đồng dân tộc sáng tạo, lưu giữ, truyền
lại cho thế hệ sau thành truyền thống văn hoá, thành hồn thiêng dân tộc. Các truyền thống này được chuyển
tải vào các lĩnh vực chính trị, đạo đức, pháp luật, nghệ thuật, tôn giáo, v.v. tạo thành môi trường văn hoá
nuôi dưỡng đời sống tinh thần mỗi nhân và cả cộng đồng. Trong điều kiện hiện nay, văn hoá còn đóng
vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế thị trường theo hướng phát triển bền vững, hạn chế bớt
những mặt trái của kinh tế thị trường. Chính vậy, xây dựng phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc là nội dung cốt lõi trong đời sống tinh thần xã hội, là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp
xây dựng hội mới. Quan điểm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã
được Đảng ta đề cập đến từ rất sớm, được phản ánh trong Đề cương văn hóa Việt Nam (năm 1943), trong
các văn kiện sau đó của Đảng. Ngay trong Đề cương văn hoá Việt Nam, Đảng ta đã xác định văn hoá
một trong ba mặt trận: kinh tế, chính trị, văn hoá ba mặt trận này quan hệ biện chứng với nhau, tạo
thành động lực đưa cách mạng tới thành công. cũng đây, văn hoá được xác định "gồm cả tưởng,
học thuật, nghệ thuật". Như vậy, văn hóa cốt lõi của ý thức hội xây dựng nền văn hóa mới cốt
lõi của việc xây dựng ý thức xã hội mới. Với quan niệm đó, Đảng ta đã xác định ba phương châm xây dựng
văn hóa mới là: dân tộc, khoa học và đại chúng. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII (1991), Đảng ta đã chrõ, hội mà chúng ta xây dựng
hội nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, với việc tiếp
thu, thừa kế các nghị quyết về trước, nghị quyết “Xây dựng phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
lOMoARcPSD| 61526682
đậm đà bản sắc dân tộc” Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (1998) đưa ra đến nay Nghị quyết ý
nghĩa chiến lược, chỉ đạo quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa ở nước ta, cần được kế thừa,
bổ sung và phát huy trong thời kỳ mới. Văn kiện Đại hội X (2006) đã nhấn mạnh: “Tiếp tục phát triển sâu
rộng nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ đồng bộ
hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”. Cương
lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển 2011) được Đại hội XI của
Đảng thông qua đã xác định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển
toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn
hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sốnghội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức
mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”. Đảng ta đã xác định: “Phương hướng chung của sự nghiệp văn
hoá nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, t
cường, xây dựng bảo vệ tổ quốc hội chủ nghĩa, xây dựng phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đạm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho văn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời
sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư,
tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá mục tiêu dân giàu, nước mạnh. hội công bằng, văn minh,
tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa hội”.- Về phương hướng xây dựng phát triển văn hóa hiện nay,
chúng ta cần nhấn mạnh hai điểm sau: Thứ nhất, trong thời kỳ đổi mới hiện nay, chúng ta phải phát huy
chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ tự cường để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Mặc dù đây là thời kỳ hoà bình và xây dựng đất nước nhưng không phải
là thời kỳ nghỉ ngơi, hưởng lạc mà là thời kỳ mở ra một cuộc chiến đấu mới chống lại nghèo nàn, lạc hậu,
đưa đất nước phát triển giàu mạnh. Trong cuộc chiến đấu quyết liệt này, chủ nghĩa yêu nước, sự thông minh
và giàu năng lực sáng tạo của nhân dân, truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập, tự chủ, tự cường
là cơ sở tạo nên sự thống nhất về ý chí, bản nh của dân tộc trong quá trình đấu tranh gian khổ, vất vả, đầy
thách thức để xây dựng bảo vệ Tổ quốc. vậy, giáo dục truyền thống yêu nước, bổ sung những nội
dung mới vào khái niệm yêu nước, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với tư tưởng cách mạng và tiến bộ của thời
đại; giáo dục tinh thần tự hào, tự tin dân tộc, tin vào con đường hội chủ nghĩa Bác Hồ, Đảng ta
nhân dân ta đã lựa chọn; bồi dưỡng quyết tâm chính trị, xây dựng ý chí bản lĩnh của cả dân tộc trong
cuộc chiến đấu mới này nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân ta. Thứ hai, về hành động, chúng ta
phải chủ động, tích cực, sáng tạo hơn nữa trong việc nâng cao chất lượng xây dựng nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo điều kiện hội nhiều hơn nữa để nâng cao dân trí, phát triển
nguồn nhân lực và khoa học công nghệ, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ở đây, cần phát huy tính tích cực chính trị của công dân, chú trọng tới các phong
trào quần chúng trong tổ chức và xây dựng sự nghiệp phát triển văn hoá, làm cho văn hóa gắn kết chặt
đồng bộ hơn với phát triển kinh tế, xây dựng Đảng, củng cố hệ thống chính trị và thấm sâu vào toàn bộ đời
sống xã hội. Năm quan điểm chỉ đạo cơ bản trong quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp phát triển văn
hoá nước ta là:- Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế- xã hội.- Nền văn hoá mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.- Nền văn hoá Việt Namnền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.-
Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ
vai trò quan trọng.- Văn hoá là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách mạng
lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng. Năm quan điểm này đều mang tầm chiến
lược lâu dài cần quán triệt nhất quán xuyên suốt quá trình xây dựng phát triển sự nghiệp văn hoá ở
nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61526682 I. Lượng – chất
*Vận dụng quy luật này vào trong quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên ngày nay.
- Sự khác biệt giữa học tập ở bậc phổ thông và bậc đại học: Biểu hiện của sự chuyển hóa từ lượng thành chất.
Học tập ở phổ thông và ở đại học có sự khác biệt rõ rệt cả về khối lượng kiến thức, nội dung, hình thức học
tập và cả yêu cầu rèn luyện kỹ năng. Ở phổ thông, kiến thức được chia nhỏ theo từng tiết học, môn học kéo
dài cả năm, còn ở đại học, thời gian học tập rút ngắn chỉ còn từ 1 đến 2 tháng, nhưng khối lượng kiến thức
lại tăng lên rất nhiều. Ngoài ra, sinh viên còn phải tham gia kiến tập, thực tập, nghiên cứu khoa học,...
Sự tăng dần về lượng – từ khối lượng kiến thức lớn hơn, cách học phức tạp hơn – dẫn đến yêu cầu thay đổi
về chất: sinh viên phải thay đổi phương pháp học tập, lối sống, kỹ năng tự học, tự nghiên cứu. Đây chính
là một bước nhảy quan trọng để thích nghi và phát triển, thể hiện rõ quy luật chuyển hóa từ lượng thành chất.
- Quá trình tích lũy kiến thức: Biểu hiện sinh động của quy luật
Mỗi sinh viên phải hiểu rằng, học tập là một quá trình tích lũy về lượng: ngày ngày học tập, đọc sách, làm
bài tập, tham gia các hoạt động rèn luyện,... Đến một mức độ nhất định (điểm nút) – như thi cuối kỳ, bảo
vệ đồ án, tốt nghiệp – chính là bước nhảy để biến đổi về chất: từ một sinh viên đang học trở thành một cử
nhân, kỹ sư, chuyên gia,...
Ví dụ: Việc hoàn thành đủ số tín chỉ, đủ điều kiện tốt nghiệp chính là quá trình tích lũy về lượng, còn việc
tốt nghiệp, đạt được bằng cấp, kiến thức vững vàng chính là biến đổi về chất.
Điều quan trọng là sinh viên phải học tập đều đặn, tích lũy từng chút một, không thể học dồn, học gấp. Phải
biết tích lũy lượng từng bước, để biến đổi chất đúng lúc.
- Rèn luyện ý thức, thái độ học tập: "Tích tiểu thành đại" để thay đổi chất.
Một sinh viên tích cực học tập, rèn luyện đức tính tốt như chăm chỉ, trung thực, kỷ luật, khoa học,... sẽ dần
hình thành nên thói quen học tập tốt, từ đó hình thành nên tính cách tích cực. Ngược lại, nếu không tích
cực rèn luyện, không trung thực, gian lận trong thi cử,... thì dù kết quả thi có cao chăng nữa cũng không
thực sự là bước nhảy về chất, vì kiến thức không thực chất sẽ không giúp sinh viên thành công trong công
việc và cuộc sống sau này.
4. Vận dụng vào xây dựng tập thể lớp vững mạnh
Một tập thể lớp đoàn kết, học tập tốt được hình thành từ nhiều cá nhân tốt. Mỗi sinh viên có ý thức học tập,
rèn luyện tích cực (tích lũy lượng), thì tập thể lớp mới có chất lượng tốt (chuyển hóa về chất). Uy tín, thành
tích của tập thể phụ thuộc vào sự phấn đấu của từng cá nhân.
II. CNDVBC: Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
(Quy luật Mâu thuẫn; hạt nhân của phép biện chứng, nguồn gốc động lực của sự vận đọng phát triển)
(Liên hệ thực tiễn) Nguồn gốc, động lực của phát triển bản thân. lOMoAR cPSD| 61526682
Việc học cũng là một quá trình tăng trưởng, tích lũy về mặt tri thức và đồng thời, cách để áp dụng những
tri thức đó vào lao động, đời sống thực tế. Vậy nên, quá trình học tập của bản thân , như bao sự vật hiện
tượng khác, chịu sự tác động của quy luật mâu thuẫn. Chính vì vậy, ta cần phải biết áp dụng quy luật mâu
thuẫn vào thực tiễn đời sống nói chung và vào sự học nói riêng để có thể phát triển bản thân của sinh viên. -
Đầu tiên, bản thân em cần biết tôn trọng mâu thuẫn. Con người cần luôn luôn cố gắng nỗ lực tìm
hiểu để phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập để nắm bắt bản chất và khuynh hướng
phát triển. Với em, việc tôn trọng mâu thuẫn chính là tìm hiểu đầy đủ những môn học của nhà trường,
chọn ra các môn phù hợp với định hướng, mục tiêu tương lai; vạch ra kế hoạch học tập, tham gia các hoạt
động ngoại khóa và thực hiện kế hoạch đó để đạt được mục tiêu của bản thân. -
Thứ hai, em cũng cần có thái độ không sợ mâu thuẫn, không tránh né mâu thuẫn mà cần phải tìm
ra giải pháp khắc phục, như thế mới có thể phát triển bản thân, có thêm tự tin và kinh nghiệm để giải
quyết mâu thuẫn phát sinh sau này. -
Thứ ba, việc biết vận dụng quy luật mâu thuẫn để liên tục tìm tòi, đổi mới và sáng tạo trong tri
thức cũng là vô cùng quan trọng với em. Bởi vì mâu thuẫn luôn tồn tại, nên nó buộc người ta không bao
giờ được nghĩ mình có đầy đủ tri thức, mà phải liên tục học thêm các tri thức mới để giải quyết các vấn
đề mới. Đồng thời, quy luật mâu thuẫn cũng buộc chúng ta phải biết vượt qua mọi định kiến để bài trừ
những cái cũ, không còn phù hợp và tiếp thu, chọn lọc cái mới còn chưa quen thuộc.
Qua những điều đã nói ở trên, có thể thấy việc vận dụng nhuần nhuyễn quy luật mâu thuẫn vào thực tiễn
đời sống nói chung và việc học tập nói riêng là vô cùng cần thiết với em cũng như tất cả học sinh, sinh
viên. Điều đó là nền tảng sự phát triển của bản thân mỗi sinh viên và cũng quyết định thành bại trong sự
nghiệp và cuộc sống sau này. Là sinh viên, em cần phải biết cách áp dụng những điểm có lợi của quy luật
thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập vào học tập và lao động để hoàn thành mục tiêu của mình.
III. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA ĐÃ VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN
HỆ SẢN XUẤT VÀO THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN KINH TẾ ĐẤT NƯỚC TA TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY NHƯ THẾ NÀO? 1.
Trước kỳ trước đổi mới: Giai đoạn này kinh tế nước ta vốn đã lạc hậu nay càng gặp nhiều khó
khăn sau cuộc chiến tranh nhiều gian khổ. Lực lượng sản xuất nước ta thời kỳ này còn thấp và chưa có
nhiều điều kiện để phát triển. Cụ thể: Trình độ của người lao động thấp, hầu hết không có chuyên môn,
tay nghề, phần lớn lao động chưa qua đào tạo. Lao động chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp
và dựa trên kinh nghiệm ông cha để lại. Tư liệu sản xuất nhất là công cụ lao động ở nước ta thời kỳ này
còn thô sơ, lạc hậu. Trong hoàn cảnh này, Đảng và Nhà nước đã chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm hai thành phần kinh tế: thành phần
kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động. lOMoAR cPSD| 61526682 2.
Thời kỳ sau đổi mới: Rút kinh nghiệm từ những sai lầm ở giai đoạn trước, Đại hội Đảng lần thứ
VI năm 1986 đã thừa nhận thẳng thắn những khuyết điểm, chủ trương đổi mới phương thức quản lý kinh
tế. Đây là dấu mốc quan trọng trong quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về con đường và phương
pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thể hiện sự nhận thức và vận dụng quy luật về sự phù hợp giữa
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; đồng thời, đã đặt cơ sở, nền tảng quan
trọng để các nhân tố mới ra đời, tạo tiền đề để từng bước phát triển nền kinh tế của đất nước. Chính vì
vậy đến nay, nước ta đã đạt được nhiều thành tự to lớn như Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương,
biện pháp để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo “cốt vật
chất” cho quan hệ sản xuất mới. Đảng và Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều chính sách và pháp luật để
hoàn thiện các mặt của quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa về sở hữu, tổ chức – quản
lý và phân phối. Trong những năm đổi mới, nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp để
tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia các quan hệ song phương và tổ chức đa phương, như
ASEAN, APEC, ASEM, WTO…, thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài (FDI, ODA…), xúc tiến mạnh thương
mại và đầu tư, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các
nguồn lực về vốn, khoa học và công nghệ.
IV. Biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
🌿 Sự vận dụng của Đảng trong xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Đảng ta đã nhận thức sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, từ đó
đề ra đường lối xây dựng văn hóa phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước:
✅ Xác định vai trò then chốt của văn hóa: •
Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. •
Xây dựng văn hóa là xây dựng ý thức xã hội mới, làm giàu đời sống tinh thần, nâng cao
đạo đức, lối sống, góp phần phát triển toàn diện con người Việt Nam.
✅ Phát huy các giá trị cốt lõi của văn hóa Việt Nam: •
Giữ gìn và phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết, khoan dung, nhân ái, trọng nghĩa tình. •
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên cơ sở tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. •
Gắn văn hóa với khoa học, giáo dục, kinh tế và đời sống chính trị.
✅ Đề ra các phương châm chỉ đạo xuyên suốt: •
Dân tộc – Khoa học – Đại chúng (từ Đề cương văn hóa Việt Nam 1943). lOMoAR cPSD| 61526682 •
Đảng ta khẳng định: Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc phải gắn kết
chặt chẽ với phát triển kinh tế - xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh
nội sinh quan trọng cho phát triển.
✅ Triển khai đồng bộ qua các nghị quyết, văn kiện: •
Đại hội VII (1991): Khẳng định xã hội mới phải có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. •
Nghị quyết TW 5 (khóa VIII, 1998): Là nghị quyết chuyên đề đầu tiên về văn hóa, đặt ra mục tiêu lâu dài. •
Đại hội X, XI và các văn kiện sau đó: Tiếp tục nhấn mạnh phát triển toàn diện, thống nhất
trong đa dạng, văn hóa phải thấm sâu vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội, điều tiết kinh tế thị
trường theo hướng phát triển bền vững.
✅ Xây và chống đồng thời: •
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, nhân văn, khoa học, gắn với đời sống tinh thần của nhân dân. •
Chống lại các biểu hiện tiêu cực: suy thoái đạo đức, lối sống thực dụng, "sính ngoại", phai
nhạt bản sắc, hủ tục lạc hậu... (Gốc)
Sự vận dụng của Đảng ta trong việc xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
1. Sự phóng phú, đa dạng của nền văn hoá dân tộc và một số tồn tại, hạn chế. Đất nước Việt Nam đã trải
qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước nên cũng qua đó hình thành một nền văn hoá dân tộc
Việt Nam rất riêng biệt. Nền văn hoá Việt Nam là kết quả của cả một quá trình, là tinh hoa của lịch sử và
thời đại. Cơ sở hình thành và phát triển của văn hóa Việt Nam cụ thể như sau:   Thời gian văn hóa Việt
Nam: Văn hóa Việt Nam đã được định hình từ khi hình thành nhà nước sơ khai đầu tiên của Việt Nam cụ
thể đó là kể từ khi có nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng. Đặc điểm tự nhiên: • Việt Nam là đất nước
nằm ở trung tâm Đông Nam Á. • Việt Nam có địa hình đa dạng; có nền khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, mưa
nhiều; là xứ sở thực vật; nhiều sông ngòi và đồng bằng phù sa; có bờ biển chạy dài suốt chiều dài đất nước
(hơn 3.000 km); và là vùng sông nước – trồng lúa nước.  Phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước
giữ vị trí chủ đạo đối với đất nước và đây chính là đặc trưng gốc chi phối đến sự hình thành các đặc trưng
bản sắc của văn hóa Việt Nam cho đến tận ngày nay.  Điều kiện lịch sử – xã hội: • Đất nước ta liên tục
bị xâm lược và đấu tranh chống xâm lược và có sự giao lưu, tiếp xúc với các nền văn hóa khác trên thế giới.
• Thành phần xã hội của Việt Nam: nông dân giữ vị trí chủ đạo. • Tổ chức xã hội của Việt Nam: làng là đơn
vị cộng đồng nền tảng. Tại Việt Nam thì văn hóa làng là hạt nhân cơ bản làm nên bản sắc văn hóa đất nước.
 Chủ thể văn hóa Việt Nam: hiện nay đất nước ta bao gồm 54 dân tộc và là một cấu trúc đa tộc người và
đa văn hóa. Cấu trúc đa tộc người ở Việt Nam bao gồm: • Các tộc người bản địa đã có mặt trên lãnh thổ
Việt Nam từ thời tiền sử, xuất phát từ nhiều nguồn gốc nhân chủng và ngôn ngữ khác nhau. • Tộc người
Việt (người Kinh) đóng vai trò chủ thể.  Ta nhận thấy rằng, văn hóa của người Việt giữ vai trò hạt nhân
đối với sự hình thành bản sắc văn hóa Việt Nam. Từ cơ sở hình thành và phát triển của nền văn hóa Việt
Nam ta rút ra những đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam như sau: a. Nền văn hóa hình thành từ nền tảng
nông nghiệp trồng lúa nước ở miền sông nước và biển đảo. b. Nền văn hóa đề cao giá trị văn hóa gia đình lOMoAR cPSD| 61526682
truyền thống. c. Nền văn hóa đậm tính cộng đồng, tự trị của văn hóa làng xã. d. Nền văn hóa thấm đậm,
bao trùm tinh thần yêu nước, ý thức quốc gia - dân tộc. e. Nền văn hóa đa dân tộc, thống nhất trong đa dạng.
g. Nền văn hóa mở, thích ứng và tiếp biến hài hoà các nền văn minh nhân loại. Tuy nhiên, cùng với sự hội
nhập và phát triển bên cạnh những mặt tích cực nền văn hóa Việt Nam đã xuất hiện những hiện tượng tự
diễn biến, tự chuyển hóa, thậm chí đánh mất bản sắc dân tộc. Đặc biệt là người trẻ không mặn mà với các
giá trị văn hóa truyền thống dân tộc mà thay vào đó lại rất ưa chuộng những điều mới lạ, “sính ngoại”, dễ
dàng đón nhận những nét văn hóa ngoại lại mà không có chọn lọc. Ví dụ, Trong lĩnh vực giải trí, giới trẻ
đang bị cuốn hút và mải mê chạy theo những trào lưu du nhập từ nước ngoài, thậm chí vấn đề đã lên đến
mức báo động. Giới trẻ bị thu hút bởi những trào lưu văn hóa ngoại lại như: thời trang, âm nhạc Hàn Quốc,
Âu Mỹ,… ngược lại thờ ơ với các loại hình văn hóa truyền thống dân tộc như: tuồng, chèo, cải lương,....
Ngoài ra,vẫn còn tồn tại một số hủ tục, phong tục của đồng bào dân tộc thiểu số không còn phù hợp, cản
trở sự phát triển kinh tế - xã hội. Ví dụ, Tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống; mê tín dị đoan, tục bắt vợ,…
2. Sự vận dụng mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội của Đảng ta trong việc xây dựng nền văn
hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng ý thức xã hội mới là vấn
đề bức thiết. Xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên cơ
sở xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Xây dựng ý thức
xã hội mới, chúng ta cần phải đẩy mạnh công cuộc xây dựng đời sống kinh tế mới, văn hoá mới, con người
mới; không ngừng hoàn thiện ý thức xã hội theo hướng khoa học, cách mạng, tiến bộ; đồng thời tăng cường
công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức xã hội mới. Có thể hiểu ý thức xã hội mới mà chúng ta đang xây
dựng là toàn bộ quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng... của xã hội mới mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước phản ánh lợi ích căn bản của
nhân dân nhằm phục vụ công cuộc xây dựng xã hội mới. Trên thực tế, ý thức xã hội mới đó biểu hiện rất
phong phú, đa dạng. Ngoài hệ tư tưởng, nó còn được biểu hiện ra ở tâm trạng, tình cảm, nhu cầu và cả thói
quen, phong tục, tập quán của cộng đồng xã hội. Trong lĩnh vực văn hóa, Đảng ta xác định xây dựng ý thức
xã hội mới trên cơ sở đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, làm cho văn hoá thực sự trở thành mục tiêu, động lực của phát triển, thành nền tảng tinh thần của xã
hội. Sự phát triển xã hội không chỉ có đời sống vật chất, mà còn có đời sống tinh thần. Đó là hai mặt không
thể thiếu và giữa chúng có sự gắn bó, tác động tương hỗ có thể làm giàu, phong phú cho nhau và cũng có
thể kìm hãm nhau trong quá trình phát triển. Bên cạnh kinh tế, văn hoá luôn đóng vai trò quyết định trong
quá trình phát triển và sự trường tồn của mỗi quốc gia, dân tộc. Hơn nữa, từ trong bản chất, văn hoá đã
mang tính nhân văn, chứa đựng cái đúng, cái tốt, cái đẹp được cộng đồng dân tộc sáng tạo, lưu giữ, truyền
lại cho thế hệ sau thành truyền thống văn hoá, thành hồn thiêng dân tộc. Các truyền thống này được chuyển
tải vào các lĩnh vực chính trị, đạo đức, pháp luật, nghệ thuật, tôn giáo, v.v. tạo thành môi trường văn hoá
nuôi dưỡng đời sống tinh thần mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Trong điều kiện hiện nay, văn hoá còn đóng
vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế thị trường theo hướng phát triển bền vững, hạn chế bớt
những mặt trái của kinh tế thị trường. Chính vì vậy, xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc là nội dung cốt lõi trong đời sống tinh thần xã hội, là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp
xây dựng xã hội mới. Quan điểm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã
được Đảng ta đề cập đến từ rất sớm, được phản ánh trong Đề cương văn hóa Việt Nam (năm 1943), trong
các văn kiện sau đó của Đảng. Ngay trong Đề cương văn hoá Việt Nam, Đảng ta đã xác định văn hoá là
một trong ba mặt trận: kinh tế, chính trị, văn hoá và ba mặt trận này có quan hệ biện chứng với nhau, tạo
thành động lực đưa cách mạng tới thành công. Và cũng ở đây, văn hoá được xác định "gồm cả tư tưởng,
học thuật, nghệ thuật". Như vậy, văn hóa là cốt lõi của ý thức xã hội và xây dựng nền văn hóa mới là cốt
lõi của việc xây dựng ý thức xã hội mới. Với quan niệm đó, Đảng ta đã xác định ba phương châm xây dựng
văn hóa mới là: dân tộc, khoa học và đại chúng. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII (1991), Đảng ta đã chỉ rõ, xã hội mà chúng ta xây dựng
là xã hội có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, với việc tiếp
thu, thừa kế các nghị quyết về trước, nghị quyết “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, lOMoAR cPSD| 61526682
đậm đà bản sắc dân tộc” mà Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (1998) đưa ra đến nay là Nghị quyết có ý
nghĩa chiến lược, chỉ đạo quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa ở nước ta, cần được kế thừa,
bổ sung và phát huy trong thời kỳ mới. Văn kiện Đại hội X (2006) đã nhấn mạnh: “Tiếp tục phát triển sâu
rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ
hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”. Cương
lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển 2011) được Đại hội XI của
Đảng thông qua đã xác định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển
toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn
hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức
mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”. Đảng ta đã xác định: “Phương hướng chung của sự nghiệp văn
hoá nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự
cường, xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đạm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho văn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời
sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư,
tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh. xã hội công bằng, văn minh,
tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”.- Về phương hướng xây dựng và phát triển văn hóa hiện nay,
chúng ta cần nhấn mạnh hai điểm sau: Thứ nhất, trong thời kỳ đổi mới hiện nay, chúng ta phải phát huy
chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ tự cường để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Mặc dù đây là thời kỳ hoà bình và xây dựng đất nước nhưng không phải
là thời kỳ nghỉ ngơi, hưởng lạc mà là thời kỳ mở ra một cuộc chiến đấu mới chống lại nghèo nàn, lạc hậu,
đưa đất nước phát triển giàu mạnh. Trong cuộc chiến đấu quyết liệt này, chủ nghĩa yêu nước, sự thông minh
và giàu năng lực sáng tạo của nhân dân, truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập, tự chủ, tự cường
là cơ sở tạo nên sự thống nhất về ý chí, bản lĩnh của dân tộc trong quá trình đấu tranh gian khổ, vất vả, đầy
thách thức để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, giáo dục truyền thống yêu nước, bổ sung những nội
dung mới vào khái niệm yêu nước, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với tư tưởng cách mạng và tiến bộ của thời
đại; giáo dục tinh thần tự hào, tự tin dân tộc, tin vào con đường xã hội chủ nghĩa mà Bác Hồ, Đảng ta và
nhân dân ta đã lựa chọn; bồi dưỡng quyết tâm chính trị, xây dựng ý chí và bản lĩnh của cả dân tộc trong
cuộc chiến đấu mới này là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân ta. Thứ hai, về hành động, chúng ta
phải chủ động, tích cực, sáng tạo hơn nữa trong việc nâng cao chất lượng xây dựng nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo điều kiện và cơ hội nhiều hơn nữa để nâng cao dân trí, phát triển
nguồn nhân lực và khoa học công nghệ, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ở đây, cần phát huy tính tích cực chính trị của công dân, chú trọng tới các phong
trào quần chúng trong tổ chức và xây dựng sự nghiệp phát triển văn hoá, làm cho văn hóa gắn kết chặt và
đồng bộ hơn với phát triển kinh tế, xây dựng Đảng, củng cố hệ thống chính trị và thấm sâu vào toàn bộ đời
sống xã hội. Năm quan điểm chỉ đạo cơ bản trong quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp phát triển văn
hoá nước ta là:- Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế- xã hội.- Nền văn hoá mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.- Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.-
Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ
vai trò quan trọng.- Văn hoá là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách mạng
lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng. Năm quan điểm này đều mang tầm chiến
lược lâu dài cần quán triệt nhất quán và xuyên suốt quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hoá ở
nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế