




Preview text:
lOMoAR cPSD| 58933639
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất của Đảng cộng sản Việt Nam trong thời kì đổi mới I. Cơ sở lí luận I.1.
Khái niệm phương thức sản xuất.
Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan
hệ sản xuất tương ứng tạo thành cách thức sản xuất mà con người thực hiện trong quá trình sản
xuất ra của cải vật chất trong một giai đoạn nhất định của lịch sử. Phương thức sản xuất bao gồm
hai mối quan hệ cơ bản là con người quan hệ với giới tự nhiên được gọi là lực lượng sản xuất và
con người quan hệ với nhau được gọi là quan hệ sản xuất.
1.2.1. Lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên trong quá trình sản
xuất tạo ra của cải vật chất đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển, là thước đo quan trọng trong sự
tiến bộ của xã hội loài người. Trải qua những giai đoạn phát triển khác nhau, lực lượng sản xuất
sẽ có tính chất và trình độ khác nhau.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất: - Người lao động: Là chủ
thể của quá trình lao động sản xuất với sự vận dụng trí tuệ, năng lực và kinh nghiệm của con người
vào tư liệu sản xuất để tạo ra vật chất. Tư liệu sản xuất: Là toàn bộ điều kiện vật chất cần thiết để con
người tiến hành quá trình lao động sản xuất, đây được xem là yếu tố thiết yếu của lực lượng sản xuất.
Nó bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đối tượng lao động: Không phải toàn bộ giới tự
nhiên mà chỉ một bộ phận của giới tự nhiên được con người đưa vào sản xuất để tạo ra của cải. Bao
gồm cả những cái có sẵn trong tự nhiên và cả dạng nhân tạo bởi trong quá trình sản xuất cần những
đối tượng lao động mới để mở rộng khả năng sản xuất của con người.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển... Tư liệu lao đông: Là
vật thể hay phức hợp vật thể mà con người đặt dưới mình với đối tượng lao
động, giúp con người tác động lên đối tượng lao động. Tư liệu lao động và đối
tượng lao động là những yếu tố vật chất của quá trình lao động sản xuất tạo nên
tư liệu sản xuất. Do con người tạo ra như phương tiện lao động và công cụ lao
động. Công cụ lao động được xem như hệ thống “chủ lực” của sản xuất, thể hiện
trình độ chinh phục tự nhiên của con người, kết nối trung gian giữa người và tư
liệu sản xuất làm giảm áp lực và tăng năng xuất lao động của con người. Trong
toàn bộ yếu tố của lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố không thể thiếu,
là chủ thể sáng tạo có vai trò quyết định nhất, sử dụng trí tuệ để chế tạo và vận
dụng công cụ lao động vào quá trình sản xuất.
Quan hệ sản xuất là biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trong quá trình
sản xuất, cũng giống như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực lOMoAR cPSD| 58933639
đời sống xã hội. Nó có tính khách quan và tồn tại độc lập với ý muốn chủ quan
của con người, thể hiện sự đặc trưng của mỗi hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Quan hệ sản xuất bao gồm các kết cấu sau: - Quan hệ sỡ hữu về tư liệu sản xuất. Quan hệ tổ chức
quản lí. - Quan hệ phân phối sản phẩm lao động. Ba mặt nói trên có mối quan hệ biện chứng thống
nhất với nhau, mỗi mặt đều có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm qua lại, trong đó quan hệ sở hữu về
tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với những quan hệ khác. Trong quá trình hình thành và phát
triển của xã hội loài người tồn tại hai loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sơ hữu công cộng.
Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu thể hiện mối quan hệ thống trị và bóc lột giữa người với người
trong sản xuất và đời sống xã hội khi mà tư liệu sản xuất chỉ tập trung trong tay số ít người. - Sở hữu
công cộng là loại hình sở hữu mà tư liệu sản xuất thuộc về cộng đồng, nhờ đó mà quan hệ xã hội trở
nên bình đẳng, công bằng. Quan hệ tổ chức và quản lý có tác động lớn đối với quá trình sản xuất, là
nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc tổ chức, điều khuyển quá trình sản xuất và quyết định quy mô,
tốc độ của nền kinh tế. Quan hệ phân phối sản phẩm lao động bị chi phối bởi quan hệ sỡ hữu về tư
liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lí nhưng lại đóng vai trò là chất xúc tác trực tiếp đến lợi ích và
thái độ của con người trong quá trình lao động sản xuất, nó có thể thúc đẩy hoặc cản trở sản xuất phát triển.
1.3. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất được xem là hai khía cạnh của phương thức sản xuất, giữa chúng tồn
tại mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với nhau. Chúng phụ thuộc và tác động lẫn nhau tạo thành quy
luật xã hội cơ bản của lịch sử loài người. Quy luật thể hiện động lực và xu thế phát triển của lịch sử.
1.3.1. Tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất. Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của
tư liệu sản xuất và của người lao động. Có tính cá thể hoặc xã hội, thể hiện sự đòi hỏi trong nền sản
xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện qua trình độ chuyên môn, kỹ năng lao động của
con người, sự phát triển của các công cụ lao động, trình độ phân công lao động và tổ chức quản lí lao
động xã hội, quy mô của nền sản xuất. Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời và phát triển
1.3.2. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất thì lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi
của quan hệ sản xuất. Và chỉ làm biến đổi cục bộ chứ không thể thay đổi toàn diện bởi quy luật này
thể hiện sự cân đối hài hòa của bản chất mối quan hệ trên. Lực lượng sản xuất được xem là nội dung
của quá trình sản xuất có xu hướng phát triển và biến đổi thường xuyên, còn quan hệ sản xuất là hình
thức xã hội của sản xuất có yếu tố tương đối ổn định và bảo thủ, khi nội dung thay đổi làm hình thức
thay đổi theo. Sự phù hợp giữa chúng tạo động lực giúp cho sản xuất phát triển cân đối, có hiệu quả
giữa các yếu tố, làm tăng năng suất lao động đồng thời giảm chi phí và thời gian sản xuất.
1.3.3. Sự tác động trở lại của Quan hệ sản xuất đối với Lực lượng sản xuất. Trong mối quan hệ biện
chứng, quan hệ sản xuất giữ vai trò hình thức kinh tế của quá trình sản xuất, là tiền đề tạo ra mục tiêu
thích hợp cho lực lượng sản xuất. Do đó quan hệ sản xuất đã tác động trở lại, quy định mục đích, cách
thức sản xuất và phân phối những lợi ích từ quá trình sản xuất, gây ra tác động trực tiếp tới thái độ
của người lao động, năng suất, chất lượng cũng như hiệu quả của quá trình sản xuất và cải tiến công
cụ lao động và ngược lại. Từ đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất
Sự phù hợp giữa giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo động lực và điều kiện giúp thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển, - Ngược lại, khi quan hệ sản xuất lỗi thời do tính chất ổn định không lOMoAR cPSD| 58933639
còn phù hợp với tính chất vận động của lực lượng sản xuất thì sẽ kìm hãm, thậm chí phá hoại lực
lượng sản xuất, điều này thường xảy ra trong lịch sử do sự vận động của xã hội. Tuy nhiên, sự kìm
hãm đó chỉ diễn ra trong điều kiện nhất định và mức giới hạn quy định
1.4. Ý nghĩa của phương pháp luận. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất có ý nghĩa vô cùng quan trọng, việc nhận thức đúng đắn quy luật này giúp cho việc
nắm bắt quan điểm, hoạch định đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học để nhận thức rõ sự đổi mới
trong tư duy kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Khi có xuất hiện mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực
lượng sản xuất với sự lạc hậu của quan hệ sản xuất thì cần phải có những cuộc cải cách, đổi mới mà
cao hơn là một cuộc cách mạng chính trị để có thể giải quyết được mâu thuẫn, từ đó từng bước khôi
phục, tạo lập sự phù hợp giữa chúng.
THỰC TIỄN VẬN DỤNG QUY LUẬT VÀO TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở
VIỆT NAM. Sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
hình thành nên các quy luật về sự phù hợp, đây được xem là quy luật cơ bản nhất, phổ biến nhất chi
phối sự vận động và phát triển của xã hội loài người, không những thế mà còn tác động đến nền kinh
tế của mỗi quốc gia trên thế giới. Điều này đòi hỏi chúng ta muốn phát triển kinh tế đất nước cần phải
có một quá trình đổi mới song song với việc giải quyết những lý luận đã và đang được đặt ra, cần
nhận thức đúng đắn để hành động phù hợp, đẩy nhanh tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Thời kì trước năm 1986: Đây được xem là thời kì trước đổi mới, ngay sau khi đánh thắng đế quốc Mỹ
và dành được chính quyền, nước ta quá độ đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội, lúc bấy giờ Việt Nam
vẫn đang là một nước nông nghiệp với lực lượng sản xuất và lực lượng lao động phát triển chưa đồng
bộ, tư liệu lao động còn thô sơ, lạc hậu
Về bản chất, việc chúng ta muốn có ngay Chủ nghĩa xã hội đã đẩy quan hệ sản xuất lên quá cao, trong
trong khi lực lượng sản xuất còn yếu kém, chúng ta chỉ chủ trương phát triển quan hệ sở hữu, bao
gồm sở hữu nhà nước và tập thể, xóa bỏ nhanh chế độ tư hữu. Chủ trương phát triển nền kinh tế
quốc doanh và kinh tế hợp tác xã ồ ạt mà không quan tâm tới sở hữu tư nhân, không tìm cách để phát
triển kinh tế tư nhân với quan niệm rằng việc phát triển hoặc có tồn tại hình thức sở hữu tư nhân và
phát triển nền kinh tế tư nhân, sợ rằng Việt Nam sẽ đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Về mặt tổ
chức quản lý, nước ta lại thực hiện các cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, các hoạt
động sản xuất và kinh doanh của chúng ta lúc bấy giờ không tuân theo quy luật của thị trường mà chỉ
tuân theo những mệnh lệnh hành chính của cơ quan nhà nước, can thiệp trực tiếp và chỉ đạo các đơn
vị sản xuất kinh doanh để sản xuất, như vậy rõ ràng về mặt tổ chức quản lý ở đây, chúng ta vi phạm
các cái quy luật của thị trường. Về mặt phân phối, chúng ta thực hiện nguyên tắc phân phối bình quân,
các công cụ lao động và khoa học công nghệ lúc bấy giờ còn hết sức lạc hậu, người lao động với trình
độ và kỹ năng lao động vẫn còn hạn chế, tinh thần tự giác, tính trách nhiệm trong lao động còn rất
thấp. Qua đó ta có thể thấy lực lượng sản xuất còn yếu kém như vậy trong khi đó chúng ta lại đưa
quan hệ sản xuất lên quá cao, điều này hoàn toàn mâu thuẫn với sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất
với lực lượng sản xuất, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất và làm cho kinh tế Việt Nam rơi
vào tình trạng trì trệ dẫn tới sự khủng hoảng trầm trọng về kinh tế xã hội. lOMoAR cPSD| 58933639
Thời kì sau năm 1986: Từ lý luận và thực tiễn, chúng ta nhận thấy rằng lực lượng sản xuất chỉ có thể
phát triển khi có một quan hệ sản xuất phù hợp với nó. Còn quan hệ sản xuất lạc hậu hơn hay tiên
tiến hơn so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Đứng trước hoàn cảnh đó Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức lại, cần phải đổi mới trước hết là
đổi mới về tư duy một cách toàn diện trong đó phải lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm từng bước đổi
mới về chính trị xã hội. Do đó trong giai đoạn từ năm 1986 trở lại đây, Đảng và nhà nước ta đã nhận
thức được rằng cần phải đổi mới toàn diện nền kinh tế, từng bước đổi mới về chính trị, cụ thể chúng
ta cần đẩy mạnh phát triển lực lượng, thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước từ đó xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn, phát triển nền kinh tế tri thức, nâng cao mức cạnh tranh thị trường. Tiếp tục thực hiện cải tạo
quan hệ sản xuất, nhất là về quan hệ sở hữu, chúng ta thực hiện đa dạng hóa hình thức sở hữu bao
gồm sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp. Về kinh tế, Đảng ta chủ
trương phát triển nền kinh tế hàng hóa đa thành phần, chuyển dịch theo cơ chế thị trường với sự
quản lý của nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Doanh nghiệp và hàng hoá dịch vụ chủ động
hội nhập quốc một cách tích cực, lĩnh hội những thành tựu về khoa học công nghệ. Bên cạnh đó, về
mặt tổ chức quản lý chúng ta đã xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp và chuyển
sang cơ chế thị trường, quá trình sản xuất kinh doanh đều tuân theo các quy luật của thị trường và
do thị trường điều chứ không dựa vào ý muốn chủ quan để thay cho các quy luật của thị trường. Về
mặt phân phối, từ khi đổi mới hiện nay, nước ta đã thực hiện nhiều hình thức phân phối trong đó lấy
phân phối theo lao động làm cơ bản từ đó đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất, từng bước cải tạo
quan hệ sản xuất dẫn tới quan hệ sản xuất dần dần phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất làm cho kinh tế ngày càng phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao, mức sống của nhân dân
ngày càng được cải thiện. Điều đó cho thấy rằng quy luật giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất cần phải căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam để xây dựng
và phát triển sao cho phù hợp. Đây được coi là một trong những quy luật quan trọng nhất và chính
sự vận động nội tại của quy luật này vậy nên cần phải nhận thức đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để vận dụng vào quá trình đổi mới kinh tế, xã hội ở nước ta.
GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ. Để đất nước chúng ta tiếp tục phát triển và đi lên, đạt
nhiều thành quả tốt đẹp trong việc xây dựng, phát triển toàn diện kinh tế - xã hội của quốc gia, em
xin đưa ra một vài ý kiến đóng góp sau Cần xác định rõ phương hướng phát triển lượng sản xuất song
song hoàn thiện quan hệ sản xuất. Thực hiện hiệu quả quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất thông qua việc nâng cao trình độ học vấn, đào tạo tay nghề cho
người lao động, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, đầu tư xây dựng cơ sở
vật chất, thiết bị kĩ thuật, trang bị máy móc hiện đại theo kịp sự phát triển của khoa học kĩ thuật. Phát
triển nền kinh kế đa dạng thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền kinh tế tri thức
hội nhập với nền kinh tế quốc tế đa phương. Phát huy tích cực vai trò quản lí, lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước ta trong mọi vấn đề xã hội cũng như trong công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế thị
trường, đổi mới về chính trị xã hội, ổn định đời sống của nhân dân. lOMoAR cPSD| 58933639
4. KẾT LUẬN. Sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
hình thành nên các quy luật về sự phù hợp, đây được xem là quy luật cơ bản nhất, phổ biến nhất chi
phối sự vận động và phát triển của xã hội loài người, không những thế mà còn tác động đến nền kinh
tế của mỗi quốc gia trên thế giới. Quy luật này có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng, việc nhận
thức đúng đắn giúp quán triệt, xác lập quan điểm, hoàn thiện đường lối, chính sách, là cơ sở khoa
học để nhận thức sâu sắc sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng và nhà nước ta. Điều này đòi hỏi chúng
ta muốn phát triển kinh tế đất nước cần phải có một quá trình đổi mới song song với việc giải quyết
những lý luận đã và đang được đặt ra, cần nhận thức đúng đắn để hành động phù hợp, giúp đẩy
nhanh tiến trình xây dựng 11