lOMoARcPSD| 61716437
VẤN ĐỀ 13: QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
Câu 1: Phân tích khái niệm quyết định hình phạt và ý nghĩa
1. Khái niệm hình phạt được quy định tại Điều 30 của Bộ luật hình sự như sau:
Điều 30. Khái niệm hình phạt
“Hình phạt biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật
này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm
tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó” Điều luật trên được
trình bày lại một cách dễ nắm bắt như sau:
Bản chất: Biện pháp cưỡng chế (nghiêm khắc nhất) (1)
Thẩm quyền quyết định: Tòa án (2)
Đối tượng bị áp dụng: Người, pháp nhân thương mại phạm tội (3)
Hướng đến: Tước bỏ (hạn chế) quyền, lợi ích (4)
(1) Nếu thực hiện hành vi vi phạm pháp luật chúng ta sẽ bị chế tài tùy thuộc vào tính chất mức
độ nguy hiểm cho hội của hành vi chế tài chúng ta phải chịu thể chế tài trong nh
vực dân sự, hành chính, hình sự. Trong đó thể thấy hình phạt 1 hình thức chế tài nghiêm
khắc nhất. Điều này chứng tỏ rằng mối quan hệ hội được pháp luật hình sự bảo vệ là những
quan hệ hội quan trọng nhất. Biện pháp chế tài đây không chỉ đơn thuần chế tài về mặt
tài sản (như phạt tiền) mà nó còn là chế tài liên quan đến quyền tự do cư trú, tự do đi lại và cao
nhất là quyền bất khả xâm phạm về tính mạng (án tử hình).
(2) quan duy nhất thẩm quyền quyết định áp dụng hình phạt Tòa án. Tòa án đây phải
được hiểu là Tòa án có thẩm quyền đối với từng vụ án cụ thể theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự. Như vậy so với các biện pháp chế tài trong các lĩnh vực pháp luật khác thì chủ thể
quyền áp dụng hình phạt là ít nhất, ít hơn rất nhiều so với chủ thể thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính và điều đó cũng dẫn đến một hệ quả là quy trình để đưa ra biện pháp chế tài là hình
phạt cũng sẽ khó khăn hơn do tính chất phức tạp và hậu quả pháp lý mà nó mang lại.
(3) “Người” thì chúng ta sẽ không bàn luận thêm hoàn toàn dễ hiểu giống với các quy
định cũ. Do đó chúng ta cùng tìm hiểu thêm về đối tượng mới được bổ sung: pháp nhân thương
mại. Việc thêm đối tượng này vào phạm vi điều chỉnh của Bộ Luật hình sự này được đánh giá là
một tiến bộ lớn trong ngành khoa học pháp nh sự. Đó cả một quá trình thai nghén, học
hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới, tổ chức hội thảo đtiếp thu những góp ý từ những
người có chuyên môn trong và ngoài nước để cho ra chế định áp dụng với đối tượng tương đối
đặc biệt, lạ lẫm trong pháp luật hình sự này. Tuy nhiên do lần đầu tiên đưa vào nên cũng không
tránh khỏi những thiếu sót nhất định như tác giả đã dịp đề cập trong các chương trước.
Nhưng sao xét về mặt tổng thể trên hướng đi của nhà làm luật chúng ta đang đi đúng con
đường con đường này đảm bảo chất lượng, an toàn hay không thì trong quá trình sử
dụng chúng ta sẽ biết được, đồng thời sẽ khắc phục, sửa chữa những lỗ hổng, những chỗ sai khi
cần thiết.
lOMoARcPSD| 61716437
(4) Có thể hiểu một cách xúc tích đối tượng bị áp dụng hình phạt sẽ bị ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích. Mức độ ảnh hưởng thể bị hạn chế một số quyền, lợi ích đó hoặc bị tước bỏ (mất
hẳn). Quyền lợi ích đây thể chia làm 3 nhóm chính: Nhóm quyền về tài sản; quyền về
nhân thân và quyền công dân. Tùy vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà
chủ thể có thể bị hạn chế (tước bỏ) một, một số hoặc tất cả những quyền và lợi ích trên.
2. Khái niệm quyết định hình phạt
Từ góc độ luật hình sự có thể định nghĩa quyết định hình phạt như sau:
Quyết định hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt (đối với loại hình
phạt các mức khác nhau) trong phạm vi luật định để áp dụng đối với chủ thể chịu trách nhiệm
hình sự.
Quyết định hình phạt chỉ đặt ra đối với các trường hợp chủ thể chịu trách nhiệm hình sự không
được miễn trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt, tức đối với các trường hợp cần thiết phải áp
dụng hình phạt nhằm trừng trị và giáo dục chủ thể chịu trách nhiệm hình sự.
Đa số các điều luật về tội phạm cụ thể quy định chế tài gồm nhiều loại hình phạt chính khác
nhau. Quyết định hình phạt đối với chủ thể chịu trách nhiệm hình sự là sự lựa chọn một trong số
các hình phạt chính và xác định mức hình phạt đối với loại hình phạt các mức khác nhau trong
khung hình phạt được quy định. Nếu chế tài được quy định chỉ một loại hình phạt chính
có các mức khác nhau thì quyết định hình phạt trong trường hợp này là xác định mức hình phạt
trong phạm vi khung hình phạt được quy định.
Quyết định hình phạt bổ sung có nội dung tương tự như quyết định hình phạt chính. Đó việc
lựa chọn loại hình phạt bổ sung, có thể là một hoặc nhiều loại nếu luật quy định có thể áp dụng
nhiều loại hình phạt bổ sung và xác định mức hình phạt trong khung quy định để áp dụng kèm
theo hình phạt chính.
Như vậy, quyết định hình phạt bao gồm quyết định hình phạt chính quyết định hình phạt bổ
sung. Quyết định hình phạt theo nghĩa này được coi theo nghĩa hẹp và cũng nghĩa thông
thường.
Quyết định hình phạt còn có thể được hiểu theo các nghĩa rộng khác nhau. Theo đó, quyết định
hình phạt còn có thể bao gồm thêm quyết định biện pháp tư pháp với mục đích thay thế hoặc hỗ
trợ cho hình phạt (như quyết định trả lại tài sản, buộc công khai xin lỗi hoặc bắt buộc chữa
bệnh...). Quyết định hình phạt cũng thể được hiểu quyết định biện pháp xử đối với chủ
thể chịu trách nhiệm hình sự. Theo nghĩa này, quyết định hình phạt hoạt động tiếp theo hoạt
động định tội của toà án, bao gồm quyết định miễn hình phạt và quyết định hình phạt theo nghĩa
rộng ttên. Theo đó, điều luật quy định về miễn hình phạt cũng được xếp ữong chương “Quyết
định hình phạt” (Điều 59 Chương vni BLHS).
Khái niệm quyết định hình phạt thể được hiểu theo nhiều nghĩa nhưng nội dung bản vẫn
là quyết định hình phạt chính.
Quyết định hình phạt liên quan chặt chẽ với việc xác định tội phạm hay còn được gọi là định tội
danh. Việc xác định tội phạm đúng tạo tiền đề cho việc quyết định hình phạt đúng. Dựa trên
lOMoARcPSD| 61716437
cơ sở định tội đúng có thể xác định được đúng loại và mức hình phạt cụ thể để áp dụng đối với
chủ thể chịu trách nhiệm hình sự nhằm đạt được mục đích của hình phạt.
Như vậy, có thể nói quyết định hình phạt có ý nghĩa hai mặt. Một mặt, cùng với định tội, quyết
định hình phạt sự thể hiện cao nhất, tập trung nhất việc áp dụng pháp luật hình sự vào đẩu
tranh chống tội phạm. Mặt khác, quyết định hình phạt tạo sở quan ttọng để đạt được mục đích
của hình phạt.
3. Ý nghĩa của quyết định hình phạt
Việc cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong mỗi khung hình
phạt tuy đảm bảo tương đối tính khoa học, tính hợp lý và tính khái quát cao; nhưng phán quyết
của Tòa án đối với người phạm tội ảnh hưởng tiêu cực đối với con người cụ thể, trực tiếp hạn
chế một phân quyền con người, quyền công dân, ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lý, ý thức cải tạo
của người chấp hành án, ảnh hưởng đến hoạt động của gia đình, ý thức của đa số người thân
cũng như những người dân sống trên địa bàn của người đó.
Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự nhằm tạo cho Tòa án khả năng lựa
chọn trong giai đoạn quyết định hình phạt đối với từng hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người
phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và
các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới.
Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa chống
tội phạm.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải hướng tới mục đích của hình phạt mà mình đã tuyên trong
bản án phải đảm bảo hiệu qủa hài hòa giữa "trừng trị" "cải tạo, giáo dục", nếu hình phạt
được áp đặt cho một trong những mục đích nào đó sẽ làm ảnh hưởng các mục đích khác, sẽ ảnh
hưởng tiêu cực đến hiệu quả và mục đích đây đủ của hình phạt.
Trường hợp coi nhẹ tính trừng trị của hình phạt thì thể dẫn đến hình phạt quá nhẹ, khôngtương
xứng với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, làm giảm tính răn đe, giáo dục
đối với người phạm tội, làm lung lay niềm tin của người dân và của phần lớn những người trực
tiếp tham gia công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Ngược lại, nếu coi nhẹ tính nhân đạo, tính giáo dục sẽ tạo ra quyết định hình phạt nghiêm khắc
dẫn đến tâm tiêu cực, phản giáo dục khó cải tạo đối với người phạm tội. Do vậy, bản án
của Tòa án quyết định hình phạt đảm bảo tính nhân đạo, công minh đúng pháp luật sẽ đạt
được mục đích của hình phạt đối với người phạm tội.
Quyết định hình phạt vai trò cùng to lớn, bởi suy cho cùng, các hoạt động tố tụng hình sự
trước đó (từ khởi tố, điều tra, truy tố, kể cviệc tranh tụng tại phiên toà) sẽ không nhiều ý
nghĩa nếu Tán không làm tốt việc quyết định hình phạt. Quyết định hình phạt đúng pháp luật,
công bằng hợp tiền đề, điều kiện để đạt mục đích hình phạt (cải tạo, giáo dục, phòng
ngừa chung và phòng ngừa riêng). Nếu hình phạt quá nhẹ sẽ làm giảm ý nghĩa phòng ngừa của
hình phạt, bởi thể làm phát sinh ý định phạm tội, thái độ trách nhiệm coi thường
pháp luật.
lOMoARcPSD| 61716437
Nhưng hình phạt quá nặng sẽ tạo tâm không công bằng, không hợp người bị kết án dẫn
đến thái độ oán hận, không tin tưởng pháp luật.
Hình phạt có đạt mục đích hay không và đến mức độ nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó,
hai yếu tố quan trọng nhất yếu tố lập pháp áp dụng pháp luật (về hình phạt quyết định
hình phạt). Yếu tố áp dụng pháp luật chịu sự ràng buộc của yếu tố lập pháp. Ngược lại, yếu tố
áp dụng pháp luật cũng vai trò rất quan trọng, bởi chỉ trên sở nhận thức vận dụng
đúng đắn pháp luật cho từng trường hợp phạm tội cụ thể thì Tán mới thể cho ra đời một
bản án tuyên hình phạt đúng đắn hiệu quả, khi đó, các yếu tố về mặt lập pháp mới ý
nghĩa thực tiễn.
Quyết định hình phạt đúng đắn sẽ có ý nghĩa nâng cao hiệu quả của hình phạt vì hậu quả tiêu cực
do quyết định hình phạt tạo ra càng nhỏ thì hiệu quả của hình phạt càng cao, ngược lại quyết
định hình phạt đưa đến hậu quả tiêu cực thì hiệu quả của hình phạt càng thấp. Mục đích của hình
phạt đảm bảo hiệu quả nếu Tòa án quyết định hình phạt có thể tiết kiệm đến mức thấp nhất yếu
tố trấn áp về hình sự khi sử dụng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được quy định trong
pháp luật hình sự.
Câu 2: Căn cứ quyết định hình phạt
Điều 45 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định vcăn cứ quyết định
hình phạt như sau: “Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân
nhắc nh chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội,
các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.”
Như vậy, theo quy định của Điều 45 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 thì c
căn cứ quyết định hình phạt bao gồm:
1) Các quy định của Bộ luật hình sự;
2) Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội;
3) Nhân thân người phạm tội;
4) Các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự.
1. Căn cứ thứ nhất, các quy định của Bộ luật hình sự
Đây một căn cứ có tính bao trùm, căn cứ này bảo đảm cho việc thực hiện nguyên tắc pháp chế
xã hội chủ nghĩa trong hoạt động xét xử của Tòa án. Khi quyết định hình phạt thì các quy định
của Bộ luật hình sự bao giờ cũng tiêu chuẩn pháp cao nhất để đảm bảo cho Tòa án quyết
định được một hình phạt đúng, tạo khả năng lớn nhất để đạt được mục đích của hình phạt.
Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự tức là căn cứ vào các quy định trong cả Phần chung
và Phần các tội phạm Bộ luật hình sự. Các quy định trong Phần chung Bộ luật hình sự như: quy
định về nguyên tắc xử (Điều 3 Bộ luật hình sự); các quy định liên quan đến hình phạt (Điều
30 đến Điều 45 Bluật hình sự); các quy định về các biện pháp pháp (Điều 46 đến Điều 49
Bộ luật hình sự); các quy định về căn cứ quyết định hình phạt (Điều 50 Bộ luật hình sự); về các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (Điều 46 và Điều 51 Bộ luật hình sự); về các nh tiết tăng
lOMoARcPSD| 61716437
nặng trách nhiệm hình sự (Điều 52 Bộ luật hình sự); về tái phạm, tái phạm nguy hiểm (Điều 53
Bộ luật hình sự); quy định về án treo (Điều 60 Bộ luật hình sự). Các quy định trong Phần các tội
phạm Bộ luật hình sự là những quy định về khung hình phạt chính về hình phạt bổ sung cho
từng loại tội.
Như vậy với yêu cầu của căn cứ này, khi quyết định hình phạt Tòa án cần phải căn cứ vào tất cả
các quy định của Bộ luật hình sự ở dạng thống nhất, tổng thể của chúng và phải cân nhắc chỉ rõ
trong bản án những quy định của Bộ luật hình sự có liên quan trực tiếp đến việc quyết định một
hình phạt cụ thể đối với một bị cáo.
2. Căn cứ thứ hai, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
Khi quyết định hình phạt, Tòa án gặp không ít khó khăn trong việc đánh giá tính chất và mức độ
nguy hiểm cho hội của hành vi phạm tội. Một trong những nguyên nhân dẫn đến điều đó, là
do các quy định của pháp luật không quy định cụ thể khái niệm, tính chất và mức độ nguy hiểm
cho hội của tội phạm đã thực hiện, không chỉ ra các dấu hiệu, sở để xác định, đánh giá
chúng.
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được thể hiện ở hai khái niệm “tính chất” và “mức độ”
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Khi nói đến tính nguy hiểm cho hội của tội phạm
là nói đến các ranh giới: mức độ khác nhau trong cùng một khung hình phạt; mức độ khác nhau
trong cùng một tội phạm; mức độ khác nhau giữa các tội phạm trong cùng một nhóm; mức độ
khác nhau giữa các nhóm tội phạm với nhau.
Tính chất, mức độ nguy hiểm cho hội của tội phạm trước hết được quyết định bởi ý nghĩa,
tầm quan trọng và giá trị của các quan hệ hội bị tội phạm đó xâm hại - khách thể của tội phạm.
Bên cạnh đó, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm còn phụ thuộc vào các yếu
tố khác như: tính chất của hành vi phạm tội như phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện
phạm tội; nh chất mức độ của hậu quả đã gây ra hoặc đe doạ gây ra; mức độ lỗi của người
phạm tội như tính chất của động cơ, quyết tâm phạm tội, nguyên nhân điều kiện phạm tội;
hoàn cảnh chính trị - hội của địa điểm thời gian xảy ra hành vi phạm tội; nhân thân của
người có hành vi nguy hiểm cho xã hội...
Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được nhà làm luật cân nhắc và thể hiện
khi quy định tội phạm, quy định chế tài khung chế tài đối với tội phạm. Do đó, nhà làm luật
quy định khi quyết định hình phạt, Tòa án phải cân nhắc căn cứ vào cả tính chất lẫn mức
độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã được thực hiện. Tòa án phải nêu rõ trong bản án những
tình tiết cụ thể chứng minh tính chất mức độ nguy hiểm cho hội của tội phạm cụ thể
Tòa án căn cứ vào đó và cùng với các tình tiết khác để chọn loại và mức hình phạt cụ thể đối với
bị cáo. Chỉ khi bảo đảm được sự cân nhắc tổng thể các tình tiết đó với việc dựa vào các căn
cứ khác (nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ các nh tiết tăng nặng), Tòa án mới
có đầy đủ căn cứ để quyết định được loại và mức hình phạt công bằng và đúng pháp luật
3. Căn cứ thứ ba, nhân thân người phạm tội
lOMoARcPSD| 61716437
Dưới góc độ khoa học luật hình sự, nhân thân người phạm tội được nghiên cứu với tính chất
một căn cứ khi quyết định hình phạt. Đây cũng căn cứ thể hiện nguyên tắc thể hoá hình
phạt trong luật hình sự Việt Nam. Căn cứ này đòi hỏi Tán khi quyết định hình phạt phải xác
định loại và mức hình phạt cụ thể không chỉ tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội mà còn phù hợp với những đặc điểm về nhân thân của người phạm tội để bảo
đảm hình phạt đã tuyên đạt được mục đích trừng trị và giáo dục cải tạo người phạm tội.
Những đặc điểm thuộc về nhân thân người phạm tội có rất nhiều, nhưng không phải tất cả những
đặc điểm đó đều được cân nhắc, đánh giá khi quyết định hình phạt. Theo chúng tôi, tiêu chuẩn
để xác định đặc điểm nào thuộc về nhân thân người phạm tội cần được xem xét, cân nhắc khi
quyết định hình phạt phải dựa vào hai tiêu chí sau đây: một là, những đặc điểm thuộc về nhân
thân người phạm tội liên quan trực tiếp đến nh vi phạm tội; hai là, những đặc điểm thuộc
về nhân thân người phạm tội có liên quan đến việc đạt được mục đích của hình phạt.
Dựa vào hai tiêu chí trên, có thể xác định được những đặc điểm về nhân thân người phạm tội như sau:
+ Những đặc điểm thuộc về nhân thân người phạm tội có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội.
Đây là những đặc điểm mà khi người phạm tội thì làm tăng hoặc giảm mức độ nguy hiểm cho xã
hội của tội phạm. Những đặc điểm này được luật quy định thành những tình tiết định khung hình phạt
hoặc tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: phạm tội lần đầu hay đã có tiền án, tiền sự;
tái phạm thường hay tái phạm nguy hiểm; là người chưa thành niên phạm tội hay đã thành niên...
+ Những đặc điểm thuộc về nhân thân người phạm tội phản ánh khả năng cải tạo, giáo dục họ trở thành
người có ích cho hội. Đây là đặc điểm có liên quan đến việc đạt được mục đích của hình phạt. Cân
nhắc những đặc điểm này bảo đảm cho Tòa án lựa chọn được hình phạt cụ thể cho người phạm tội sao
cho tạo khả năng lớn nhất để đạt được các mục đích của hình phạt. Những đặc điểm này bao gồm: thành
phần xã hội, nghề nghiệp, thái độ tự thú hoặc hối cải; lập công chuộc tội hay có thái độ ngoan cố...
+ Những đặc điểm thuộc về nhân thân người phạm tội phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của họ.
Cân nhắc những đặc điểm này khi quyết định hình phạt giúp cho Tòa án lựa chọn được hình phạt cụ thể
sao cho hình phạt đó có tính thực tế, tính khả thi, phù hợp với các quy định của luật hình sự và tạo điều
kiện, khả năng lớn nhất để đạt được mục đích cải tạo giáo dục họ. Nhũng đặc điểm này bao gồm: những
người mắc bệnh hiểm nghèo, người già yếu, phụ nữ có thai hay đang nuôi con nhỏ, người có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn...
4. Căn cứ thứ tư, những tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự
Các tình tiết giảm nhẹ tăng nặng trách nhiệm hình sự không được quy định trong các cấu
thành tội phạm cụ thể được quy định tại Phần chung của Bộ luật hình sự. Điều 51 Bộ luật
hình sự quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Điều 52 Bộ luật hình sự quy định
các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào
các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự, đây chính quy định tính chất
hướng dẫn, bắt buộc để cụ thể hóa một phần khi xem xét, cân nhắc căn cứ thứ hai và thứ ba. Bởi
lOMoARcPSD| 61716437
vì, các nh tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân người phạm tội cũng là
một trong những sở để đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm cho hội của tội phạm,
trong số các nh tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự những tình tiết thuộc về nhân
thân người phạm tội. Do vậy, nếu xem xét, cân nhắc một cách tổng thể các căn cứ quyết định
hình phạt thì căn cứ thứ tư này đã thuộc về một phần nội dung của căn cứ thứ hai và căn cứ thứ
ba.
Khi căn cứ vào căn cứ thứ tư này để quyết định hình phạt cần lưu ý những nguyên tắc sau:
Một là, những tình tiết đã được luật quy định là tình tiết định tội hoặc định khung hình phạt thì
không được coi là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Tinh thần của quy định này xuất phát từ nguyên tắc: một tình tiết không được sử dụng nhiều lần
để phân hóa trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Ví dụ, phạm tội có tổ chức là tình tiết định
khung hình phạt tăng nặng của tội hiếp dâm (điểm a khoản 2 Điều 141 Bộ luật hình sự 2015 sửa
đổi năm 2017). Khi quyết định hình phạt không được coi tình tiết này tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự theo điểm a khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi năm 2017; hoặc tình
tiết “Giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” tình tiết định tội
của tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 126 Bộ luật hình sự 2015 sửa
đổi năm 2017), khi quyết định hình phạt không được coi tình tiết này tình tiết giảm nhẹ của
tội đó theo điểm c khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nữa.
Về vấn đềy, các quy định của pháp luật đã nêu rất rõ ràng. Đó là: đối với các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự, khoản 2 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017 đã quy định
“Các tình tiết đã được Bluật này quy định dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì
không được coi là tình tiết tăng nặng”.
Tương tự đối với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, khoản 3 Điều 51 Bộ luật hình sự năm
2015 sửa đổi năm 2017 quy định “Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình
tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi lý do giảm nhẹ trong bản án”. Các quy định trên
là hoàn toàn hợp lý cơ sở khoa học, vì khi nhà làm luật đã coi một tình tiết nào đó là tình
tiết định tội hoặc là tình tiết định khung hình phạt, thì đã xác định một hình phạt tương xứng vởi
tính chất mức độ nguy hiểm cho hội của tội phạm nh tiết đó. Do vậy, khi quyết định
hình phạt lại vận dụng những tình tiết trên lại một lần nữa với tính chất những tình tiết
giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự để giảm hoặc tăng mức hình phạt cụ thể cho người
phạm tội là không hợp lý, không công bằng.
Hai là, khi quyết định hình phạt phải xác định mức độ ảnh hưởng cụ thể của từng tình tiết giảm
nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự có giá trị pháp lý khác nhau trong từng
tội phạm cụ thể. Điều này có nghĩa một tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nào đó đối với tội A
giá trị làm tăng hoặc giảm rất nhiều mức độ nguy hiểm cho hội của tội phạm, nhưng đối vối
tội B thì giá trị làm tăng hoặc giảm mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm lại hạn chế hơn.
Do đó, luật không quy định cụ thể từng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có ảnh
hưởng đến mức độ nào trong việc quyết định hình phạt đối với từng tội phạm cụ thể. Để bảo
lOMoARcPSD| 61716437
đảm sự linh hoạt, mềm dẻo, sát với từng tội phạm và con người cụ thể khi cá thể hoá hình phạt,
pháp luật đã giành cho Tòa án quyền đánh giá, cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt. Tuy nhiên, quyền trên của Tòa án phải nằm trong những
nguyên tắc và quy định chung của pháp luật.
Ba là, đối với những vụ án vừa có cả tình tiết tăng nặng, vừa có cả tình tiết giảm nhẹ thì phương
pháp cân nhắc, đánh giá như thế nào các tình tiết đó khi quyết định hình phạt? Thông thường
trong một vụ án nhiều tình tiết, thể chỉ tình tiết tăng nặng, hoặc thể chỉ nh tiết
giảm nhẹ, nhưng cũng có vụ án vừa cả tình tiết tăng nặng, vừa cả tình tiết giảm nhẹ. Trong
trường hợp như vậy, những tình tiết tăng nặng giảm nhẹ không những cần được đánh giá riêng
lẻ còn cần được đánh giá tổng thể, toàn diện trong mối quan hệ biện chứng ảnh hưởng
qua lại với nhau gắn với hoàn cảnh, điêu kiện, không gian, thời gia n xảy ra vụ án.
Trên sở đó, a án đánh giá, xác định giá trị pháp của hai loại tình tiết đối lập nhau trong
việc làm tăng hay giảm mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đó trong phạm vi một khung
hình phạt cụ thể đã được xác định. Từ đó đưa ra quyết định hình phạt của vụ án cần tăng nặng,
cần giảm nhẹ, hay chỉ cần xử ở mức trung bình của khung hình phạt. Nếu tình tiết tăng nặng có
mức độ ảnh hưởng lớn hơn tình tiết giảm nhẹ thì trường hợp cần tăng nặng. Hoặc ngược lại,
nếu tình tiết giảm nhẹ có ảnh hưởng lớn hơn tình tiết tăng nặng thì là trường hợp cần giảm nhẹ.
Nếu cả hai loại tình tiết đều mức độ ảnh hưởng tương đương nhau thì trường hợp bình
thường. Điều quan trọng trong trường hợp này là Tòa án phải đưa ra được một nhận định là cần
phải tuyên cho bị cáo một hình phạt mức tăng nặng, mức giảm nhhay mức trung bình
của khung hình phạt, sao cho hình phạt đã tuyên tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm
cho hội của tội phạm, nhân thân người phạm tội các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự. Tuy nhiên, trong trường hợp này khi quyết định hình phạt, Tòa án phải vận dụng
các nguyên tắc quyết định hình phạt, trong đó đáng chú ý nguyên tắc nhân đạo hội chủ
nghĩa để vận dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách
nhiệm hình sự, đây chínhquy định có tính chất hưống dẫn, bắt buộc để cụ thể hóa một phần
khi xem xét, cân nhắc căn cứ thứ hai và thứ ba. Bởi vì, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách
nhiệm hình sự và nhân thân người phạm tội cũng là một trong những cơ sở để đánh giá tính chất
mức độ nguy hiểm cho hội của tội phạm, trong số các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự có những tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội. Do vậy,
nếu xem xét, cân nhắc một cách tổng thể các căn cứ quyết định hình phạt thì căn cứ thứ này
đã thuộc về một phần nội dung của căn cứ thứ hai và căn cứ thứ ba.
Câu 3: Các điều kiện để áp dụng chế định quyết định hình phạt nhẹ hơn quyđịnh của Bộ luật
Điều 54. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng
1. Tòa án thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp
dụngnhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tộiít nhất hai
tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.
lOMoARcPSD| 61716437
2. Tòa án thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp
dụngnhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người
phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
3. Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều
luậtchỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể
quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác
thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.
Điều luật quy định các trường hợp được phép quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của
khung hình phạt được áp dụng và các trường hợp được phép quyết định chuyển sang hình phạt nhẹ hơn.
Theo khoản 1 của điều luật, Tán thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung
hình phạt nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS.
Ví dụ: Trường hợp phạm tội hiếp dâm theo khoản 2 Điều 141 BLHS mà có nhiều tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 51 BLHS thì có thể quyết định hình phạt tù dưới 07
năm nhưng không được thấp hơn 02 năm vì khung hình phạt liền kề nhẹ hơn có mức phạt tù từ
02 năm đến 07 năm. Khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng chỉ có một tình
tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì cũng không có căn cứ để quyết định hình phạt theo
trường hợp này.
Theo khoản 2 của điều luật, Tán thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung
hình phạt (không nhất thiết phải trong khung hình phạt liền kề nhhơn như trường hợp được
quy định tại khoản 1) khi người phạm tội chỉ người giúp sức vai trò không đáng kể thuộc
trường hợp phạm tội lần đầu.
Theo khoản 3 của điều luật, khi có đủ điều kiện của khoản 1 hoặc khoản 2, Tòa án có thể quyết
định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang hình phạt khác thuộc
loại nhẹ hơn nếu khung hình phạt được áp dụng khung hình phạt duy nhất hoặc là khung hình
phạt nhẹ nhất của điều luật.
Ví dụ: Trường hợp phạm tội loạn luân theo Điều 184 BLHS mà có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 51 BLHS thì thể quyết định hình phạt dưới 01 năm
(nhưng không được thấp hơn 03 tháng mức tối thiểu của loại hình phạt có thời hạn) hoặc
chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ hình phạt thuộc loại nhẹ hơn hình phạt
Điều 184 chỉ có 1 khung hình phạt có mức phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Câu 4: Một số bất cập khi thực hiện các điều kiện để áp dụng chế định quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của Bộ luật
Tại khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015 (BLHS 2015) quy định: “Tòa án thể quyết định
một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung
hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy
định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.”
lOMoARcPSD| 61716437
Theo quy định trên, thì Tán chỉ thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của
khung hình phạt điều luật đã quy định nhưng phải trong khung nhẹ hơn liền kề trước hoặc
liền sau đó của điều luật, nếu có ít nhất là hai tình tiết quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS
2015. Tức là trong số các tình tiết giảm nhẹ được vận dụng thì ít nhất phải có hai tình tiết được
luật quy định, đồng thời giới hạn hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt phải trong
phạm vi của khung hình phạt nhẹ hơn liền trước hay liền sau của khung đó. Trên thực tế, khi áp
dụng điều luật lại gặp những vướng mắc tạo ra sự tùy nghi không thông nhất trong cách áp
dụng pháp luật.
Ví dụ: Nguyễn Văn A (30 tuổi) phạm tội đưa hối lộ bị Tòa án xét xử theo khoản 2 Điều364
BLHS 2015. Trong quá trình giải quyết vụ án, a án nhận thấy A có 2 tình tiết giảm nhẹ được
quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 quyết định áp dụng Điều 54 để quyết định hình
phạt đối với A. Điều 364 quy định:
Người nào trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người chức vụ, quyền hạn
hoặc người khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích nào sau đây để người chức vụ, quyền hạn
làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tiền
từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt
từ 06 tháng đến 03 năm: a) Tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến
dưới 100.000.000 đồng; b) Lợi ích phi vật chất.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt từ 02 năm đến 07 năm… Phạm
tội trong trường hợp của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 500.000.000 đồng
đến dưới 1.000.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.
Phạm tội trong trường hợp của hối lộ tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá
1.000.000.000đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng…
Như vậy, nếu áp dụng Điều 54 thì A sẽ được áp dụng khung hình phạt theo khoản 1 Điều 364
BLHS 2015. Từ việc bị xét xử theo khoản 2 chỉ một khung hình phạt đó phạt trong
khung từ 02 năm đến 07 năm, sau khi áp dụng khoản 1 Điều 54 Tòa án có thể sẽ quyết định
hình phạt với A bằng hình phạt tù thời hạn với khung hình phạt là 06 tháng đến 03 năm;
phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm; phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng.
Như vậy, phạm vi lựa chọn để áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung nhưng phải
trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật là rất rộng (vì Điều 54 không quy định việc
áp dụng hình phạt trong khung liền kề nhẹ hơn phải là hình phạt cùng loại) và chưa có văn bản
quy định chi tiết về vấn đề này nên dẫn tới sự tùy tiện áp dụng không thống nhất các Tòa
án.
Bên cạnh đó, việc áp dụng quy định về quyết định mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung
hình phạt theo quy định của một số điều luật chưa chắc đã lợi hơn cho bị cáo. Ví dụ đối
với trường hợp sau:
M có hành vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người
và bị Tòa án xét xử theo khoản 1 Điều 295 BLHS 2015. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa
lOMoARcPSD| 61716437
án nhận thấy M 2 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 51 BLHS 2015, nên Tòa án đã
áp dụng khoản 1 Điều 54 để quyết định hình phạt đối với M. Trong trường hợp này, Tòa án sẽ
quyết định cho M được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được
quy định tại khoản 1 Điều 295 BLHS nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của
Điều 295.
Theo quy định của Điều 295 thì:
“1. Người nào vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn nơi
đôngngười gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền
từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt
tù từ 01 năm đến 05 năm…
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm…
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 năm đến 12 năm…
Theo quy định tại Điều 295 BLHS, có thể thấy khung hình phạt nhẹ hơn liền kề với khunghình
phạt được quy định tại khoản 1 là khung hình phạt tại khoản 4 “… cải tạo không giam giữ đến
02 năm hoặc phạt từ 03 tháng đến 02 năm”. Như vậy, nếu Tòa án quyết định hình phạt cho
M theo khoản 1 sẽ phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không
giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Nếu như, quyết định hình phạt dưới
mức thấp nhất của khung hình phạt tại khoản 1 sẽ phạt tiền dưới 20 triệu đồng hoặc sẽ chuyển
sang loại hình phạt khác nhẹ hơn là cảnh cáo. Tuy nhiên, mức hình phạt quy định tại khoản 4 là
phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Điều này sẽ dẫn
đến bất lợi cho M chỗ M chỉ được hưởng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung trong
trường hợp hợp hình phạt của M phải hình phạt có thời hạn hoặc cải tạo không giam giữ.
Trong trường hợp này lại không đạt được nguyên tắc nhân đạo mà điều luật muốn hướng đến.
Câu 5: Một số giải pháp về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt
Thứ nhất, để tránh trường hợp khi chuyển sang khung hình phạt khác liền kề nhẹ hơn, phạm vi
lựa chọn để áp dụng hình phạt quá rộng không thống nhất, dẫn tới khi quyết định hình phạt
đối với bị cáo lại không tưng xứng với tính chất và hành vi phạm tội. Theo tác giả, nên quy định
khoản 1 Điều 54 theo hướng “Tòa án thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của
khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật
và hình phạt được áp dụng phải cùng loại với hình phạt trong khung hình phạt mà người phạm
tội bị xét xử khi người phạm tội ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51
của Bộ luật này” và cần có văn bản quy định chi tiết điều này để áp dụng thống nhất.
Thứ hai, cần bổ sung thêm hình phạt tiền vào khung hình phạt nhẹ nhất một số tội danh để
mức tối thiểu của khung phải bằng hoặc thấp hơn mức khung cấu thành bản của điều
luật. Như vậy, khi áp dụng Điều 54 đối với một số tội danh như tội danh được quy định tại Điều
295 mới đạt hiệu quả tối đa.
lOMoARcPSD| 61716437
Câu 6: Quyết định hình phạt trong một số trường hợp đặc biệt
1. Căn cứ quyết định hình phạt
Theo Điều 50 Bộ luật Hình sự 2015 thì căn cứ quyết định hình phạt được quy định như sau:
- Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc nh chất
vàmức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ
và tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định trên, Tòa án căn cứ vào tình hình
tàisản, khả năng thi hành của người phạm tội.
2. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng
Theo quy định tại Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015 và khoản 7 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017
thì:
- Tòa án thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp
dụngnhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tộiít nhất hai
tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015.
- Tòa án thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp
dụngnhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người
phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
- Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều
luậtchỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể
quyết định chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi
rõ trong bản án.
dụ: Trong vụ án cố ý gây thương tích, tội phạm hình phạt được quy định tại Điều 134 Bộ luật
Hình sự năm 2015. A với vai trò là người chủ mưu, B là người thực hành, C là người giúp sức (hành vi
hào, đi theo). A, B C bị truy tố xét xử theo khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015,
khung hình phạt từ 05 năm đến 10 năm giam. Do A B 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm nh
sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử quyền áp dụng
khung hình phạt liền kề nhẹ hơn. Đó là khung 2 (khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015), với mức
hình phạt từ 02 năm đến 06 năm giam. Cần lưu ý khi tuyên án, Hội đồng xét xử vẫn tuyên theo
khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với cả ba bị cáo là A, B C. Tuy nhiên, trường hợp
của A B cần nêu được hạ khung hình phạt xuống khung 2 của Điều 134 Bộ luật Hình sự năm
2015. Như vậy A và B bị áp dụng khoản 2, khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, khoản 1 Điều
54 và khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Cần lưu ý thêm là Hội đồng xét xử có thể tuyên
phạt A B trong khoảng từ 02 năm đến dưới 05 năm giam, không được thấp hơn 02 năm
giam, nhưng phải dưới 05 năm giam, khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 mức hình
phạt tù từ 02 năm đến 06 năm, còn khoản 3 là từ 05 năm đến 10 năm tù giam.
lOMoARcPSD| 61716437
Riêng trường hợp C người giúp sức như đã nêu trên, căn cứ khoản 2 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm
2015 được đề cập trên, Hội đồng xét xử vẫn tuyên C phạm tội Cố ý gây thương tích theo khoản 3
Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (cùng với A B), nhưng C tình tiết giảm nhẹ phạm tội lần
đầu nh tiết vai trò giúp sức trong vụ án đồng phạm, thì Hội đồng xét xử thể hạ khung
hình phạt xuống khung 1 (khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015) mà không bắt buộc phải khung
2 (là khung liền kề nhẹ hơn). Khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 có mức hình phạt là cải tạo
không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Trường hợp này Hội đồng xét xử
thể phạt C cải tạo không giam giữ, hoặc phạt tù giam đối với C ở mức từ 06 tháng đến 03 năm. Cần lưu
ý là không được thấp hơn 06 tháng tù giam và không vượt quá 03 năm tù, nếu Hội đồng xét xử đã quyết
định hạ khung hình phạt xuống khung 1 Điều 134 Bluật Hình sự năm 2015 như đã đề cập. Khoản 2
Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 được nhà làm luật quy định và được vận dụng trên thực tế là nhằm
mục đích bảo đảm công bằng cho người bị buộc tội trong vụ án có đồng phạm; đòi hỏi phải được phân
hóa hình phạt cho công bằng. Ở đây, vai trò của người giúp sức là C phải chịu hình phạt nhẹ hơn.
Trường hợp C bị truy tố và xét xử theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015; C có đủ các điều
kiện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015. C bị áp dụng khung hình phạt
nhẹ nhất của Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, do vậy, Hội đồng xét xử có thể phạt C hình phạt cảnh
cáo, phạt tiền hoặc phạt tù dưới mức 06 tháng tù giam. Vì khoản 1 Điều 134 có mức hình phạt tù giam
từ 06 tháng đến 03 năm. Tuy nhiên không được phạt C thấp hơn 03 tháng tù giam, vì khoản 1 Điều 138
của Bộ luật Hình sự quy định mức phạt thời hạn tối thiểu 03 tháng. Như vậy C thể bị phạt
cảnh cáo, phạt tiền (nếu đủ các điều kiện khác để phạt tiền), hoặc phạt giam mức 03 hoặc 04
hoặc 05 tháng.
3. Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Theo quy định tại Điều 55 Bộ luật Hình sự 2015 thì khi xét xử cùng 01 lần một người phạm nhiều tội,
Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt theo quy định sau đây:
- Đối với hình phạt chính:
+ Nếu các hình phạt đã tuyên cùng cải tạo không giam giữ hoặc cùng thời hạn, thì các hình
phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không được vượt quá 03 năm đối với
hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn;
dụ 1: Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo A 24 tháng cải tạo không giam giữ về Tội vu khống 36
tháng cải tạo không giam giữ về Tội cố ý gây thương tích, thì được tổng hợp hình phạt như sau: 24
tháng cải tạo không giam giữ + 36 cải tạo không giam giữ = 36 tháng cải tạo không giam giữ (đây
hình phạt chung được tổng hợp).
Ví dụ 2: Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo A 20 năm tù giam về Tội giết người, 12 năm tù giam về Tội
cướp tài sản, thì được tổng hợp hình phạt như sau: 20 năm tù giam + 12 năm tù giam = 30 năm tù giam
(đây là hình phạt chung được tổng hợp).
lOMoARcPSD| 61716437
+ Nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam
giữ được chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi
thành 01 ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này;
+ Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên chung thân thì hình phạt chung
chung thân;
+ Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình thì hình phạt chung là tử hình;
+ Phạt tiền không tổng hợp với các loại hình phạt khác; các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình
phạt chung;
+ Trục xuất không tổng hợp với các loại hình phạt khác;
- Đối với hình phạt bổ sung:
+ Nếu các hình phạt đã tuyên cùng loại thì hình phạt chung được quyết định trong giới hạn do Bộ luật
này quy định đối với loại hình phạt đó; riêng đối với hình phạt tiền thì các khoản tiền phạt được cộng
lại thành hình phạt chung;
+ Nếu các hình phạt đã tuyên khác loại thì người bị kết án phải chấp hành tất cả các hình phạt đã
tuyên.
Phạm nhiều tội là trường hợp người phạm tội đã phạm những tội khác nhau được quy định trong
Luật hình sự mà những tội này chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và cũng chưa bị
đưa ra xét xử và kết án lần nào nay bị Tòa án đưa ra xét xử cùng một lúc.
Thực tiễn xét xử thường gặp những vụ án bị cáo phạm nhiều tội, nhưng tùy trường hợp cụ thể
Tòa án có thể xử người phạm tội về nhiều tội hoặc có thể chỉ xử về một tội chủ yếu và coi nhưng
hành vi phạm tội khác chỉ là những tình tiết tăng nặng, cụ thể là:
Khi người phạm tội nhiều hành vi, mỗi hành vi cấu thành một tội nhằm những mục đích
khác nhau,không có quan hệ hữu cơ với nhau, thì cần phải xử về nhiều tội.
Khi người phạm tội nhiều hành vi, mỗi hành vi tuy cấu thành một tội phạm khác nhau,
nhưng quan hệ với nhau cùng nhằm một mục đích phạm tội thì cần xử về nhiều tội nếu
các hành vi phạm tội đó đều nghiêm trọng ngang nhau.
Nếu trong những hành vi phạm tội đó hành vi ít nghiêm trọng thì thể chỉ xử về một tội
nghiêm trọng và coi những hành vi khác là tình tiết tăng nặng.
Trường hợp người phạm tội chỉ có một hành vi, nhưng hành vi này lại cấu thành nhiều tội khác
nhau thì tùy từng vụ án cụ thể mà xét xử về nhiều tội hoặc chỉ xét xử về một tội.
Trong trường hợp xử bị cáo về nhiều tội, sau khi phân tích, kết luận về từng tội, Tòa án quyết
định hình phạt đối với từng tội, sau đó quyết định hình phạt chung cho các tội.
Ví dụ 1: Bị cáo A phạm 02 tội, ngoài việc bị áp dụng 01 hình phạt chính, còn bị Hội đồng xét xử tuyên
phạt hình phạt bổ sung “Cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định” cho cả 02 tội do A đã thực hiện,
đó là “Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả” (Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 2015) và “Tội in, phát hành,
mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước” (Điều 203 Bộ luật Hình sự năm
lOMoARcPSD| 61716437
2015). Mỗi tội do A thực hiện đều bị phạt hình phạt bổ sung 05 năm, nhưng tổng hợp hình phạt chung
A phải chấp hành là 05 năm. Vì theo quy định tại Điều 41 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì hình phạt
bổ sung “Cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định” có thời hạn tối đa là 05 năm.
Ví dụ 2: Trường hợp bị cáo phạm một tội bị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung “Cấm đảm
nhiệm chức vụ” một tội khác bị áp dụng hình phạt bổ sung “Tịch thu tài sản”, thì tổng hợp hình
phạt chung buộc bị cáo phải chấp hành cả hai loại hình phạt bổ sung này.
4. Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án
Theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự 2015 thì:
- Trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án lại bị xét xử về tội đã phạm
trướckhi bản án này, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định
hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.
Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.
- Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới,
Tòaán quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của
bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.
- Trong trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản án đã hiệu lực pháp luật các
hìnhphạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tổng
hợp hình phạt của các bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
Ví dụ 1: Bị cáo A đang chấp hành bản án với hình phạt 20 năm tù giam về tội cướp tài sản, A
chấp hành được 10 năm thì Cơ quan điều tra phát hiện A phạm tội giết người trước khi có bản
án đang phải chấp hành. A bị truy tố và đưa ra xét xử. Hội đồng xét xử tuyên phạt A thời hạn
09 năm tù giam về tội giết người. Hình phạt chung A phải chấp hành: (20 năm tù giam + 09 năm
tù giam) - 10 năm tù giam = 19 năm tù giam.
Ví dụ 2: Bị cáo Phạm Tuất L bị Tòa án nhân dân tỉnh K áp dụng hình phạt tử hình về các tội Giết
người, Cướp tài sản Hủy hoại tài sản. Phạm Tuất L cùng hai đồng phạm đã hành vi giết
chủ tàu một thuyền viên nấu bếp, sau đó cướp tàu để bán dầu, rồi ptàu cho chìm xuống
biển để phi tang chứng cứ… Trong thời gian chờ thi hành án tử hình đối với Phạm Tuất L,
quan điều tra phát hiện trước đó vào tháng 7/2013, L đã hành vi lấy trộm 01 chiếc máy tính
bảng trị giá 3.150.000 đồng. Vụ án được khởi tố, điều tra làm rõ. Đến ngày 23/4/2018, Tòa án
nhân dân huyện B, thành phố H mở phiên tòa xét xử Phạm Tuất L về tội Trộm cắp tài sản. L bị
xét xử vắng mặt do đang bị giam tại Trại tạm giam tỉnh K chờ thi hành án tử hình không
kịp di lý đến thành phố H. Hội đồng xét xử tuyên bố L phạm tội Trộm cắp tài sản và xử phạt 01
năm tù giam, đồng thời tổng hợp hình phạt buộc L chấp hành hình phạt chung của hai bản án là
tử hình (bản án phúc thẩm hồi tháng 01/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố H đã
hiệu lực pháp luật, L bị xử phạt tử hình)1. Viện kiểm sát nhân dân thành phố H kháng nghị
bản án của Tòa án nhân dân huyện B theo hướng hủy án, với do vi phạm nghiêm trọng thủ tục
lOMoARcPSD| 61716437
tố tụng; lập luận rằng việc tổng hợp hình phạt đã vi phạm thẩm quyền xét xử. Cho rằng lẽ ra Tòa
án nhân dân huyện B phải báo cáo với a án nhân dân thành phố H để cấp xét xử này thống
nhất với Viện kiểm sát nhân dân thành phố H rút hồ sơ lên để truy tố, xét xử. Viện kiểm sát nhân
dân thành phố H viện dẫn căn cứ khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 02/2010/NQ-HĐTP ngày
22/10/2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (về việc bổ sung một số hướng
dẫn của Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 Nghị quyết số 02/2007/NQ-
HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao) về trường hợp này,
thẩm quyền truy tố, xét xử thuộc cấp thành phố. Cụ thể, khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số
02/2010/NQ-HĐTP nêu trên quy định: Trường hợp bị cáo bị truy tố về một hoặc một số tội thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện mà khi thụ vụ án xét thấy bị cáo đã bị áp
dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình tại một bản án khác và bản án đó đã có hiệu lực pháp
luật thì Tòa án nhân dân cấp huyện phải báo cáo với Tòa án nhân dân cấp tỉnh để Tòa án nhân
dân cấp tỉnh thống nhất với Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh rút hồ vụ án lên để truy tố, xét
xử ở cấp tỉnh.
Vấn đề đặt ra ở đây Tòa án nhân huyện B có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hay không?
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì Tòa án nhân dân huyện B xét xử tội trộm cắp tài
sản đúng thẩm quyền, vì đây là tội phạm có khung hình phạt tù có thời hạn dưới 15 năm và cũng
không phải trường hợp nếu Tòa án cấp huyện xét xử một người mà họ phạm 01 tội thuộc thẩm
quyền của mình và 01 tội thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp trên thì vụ án phải được chuyển lên
cấp trên hoặc là các trường hợp khác phải chuyển vụ án. Nếu kết luận Tòa án nhân dân huyện B
vi phạm thẩm quyền xét xử do đã tổng hợp hình phạt là chưa thuyết phục. Bởi vì việc tổng hợp
hình phạt khác với thẩm quyền xét xử. Theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì
Tòa án cấp huyện nói chung, Tòa án nhân dân huyện B có quyền tổng hợp hình phạt, kể cả tổng
hợp hình phạt tử hình. Mặt khác, khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 02/2010/NQ-HĐTP nêu trên
hướng dẫn về việc rút vụ án lên Tòa án cấp tỉnh đxét xử dường như lại đặt ra một thủ tục tố
tụng mới. Theo tác giả, việc hướng dẫn luật là nhằm làm rõ điều luật, để bảo đảm thi hành điều
luật, chứ không phải đặt ra một thủ tục tố tụng mới khi chưa được quy định trong Bộ luật Tố
tụng hình sự. Tác giả cho rằng, sẽ hợp hơn khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 pháp điển
hóa thủ tục chuyển vụ án Bộ luật Hình sự năm 2015 pháp điển hóa việc tổng hợp hình phạt
để tránh những vướng mắc và bảo đảm pháp luật được thống nhất.
Ví dụ: A phạm tội “Cố ý gây thương tích”, bị Hội đồng xét xử tuyên phạt 10 năm giam; bản
án trước về “Tội đánh bạc” A chưa chấp hành hình phạt tiền 10 triệu đồng. Hình phạt chung
A phải chấp hành: 10 năm tù giam + 10 triệu đồng của hình phạt tiền.
5. Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
Khi quyết định hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, Toà án phải
dựa vào những căn cứ sau:
- Các điều của bộ luật hình sự về các tội phạm tương ứng.
- Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội.
lOMoARcPSD| 61716437
- Căn cứ vào mức độ thực hiện ý định phạm tội.
- Căn nhắc những tình tiết khác khiến người phạm tội không thức hiện được tội phạm đến cùng.
Trong những điều kiện tương đương, tội phạm đã hoàn thành bao giờ cùng nguy hiểm hơn là phạm tội
chưa đạt và càng nguy hiểm hơn so với tội phạm trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Xuất phát từ nhận
thức đó, Khoản 2 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, luật sửa đổi bổ sung năm 2017 nhà làm luật đã
quy định
Theo quy định tại Điều 57 Bộ luật Hình sự 2015 thì:
- Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo
cácđiều của Bộ luật Hình sự về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho
hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không
thực hiện được đến cùng.
- Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, hình phạt được quyết định trong phạm vi khung hình phạtđược
quy định trong các điều luật cụ thể.
- Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhấtlà
tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức
hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.
dụ: Tội giết người quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 với khoản 1 quy định
hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, chung thân hoặc tử hình; khoản 2 quy định hình phạt
từ 07 năm đến 15 năm tù; khoản 3 quy định: người chuẩn bị phạm tội giết người thì bị phạt
từ 01 năm đến 05 năm. Ví dụ khác như: Tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước
ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 120 Bộ luật Hình sự
năm 2015), Tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân
dân (Điều 121 Bộ luật Hình sự năm 2015). Cả hai tội danh này đều quy định tại khoản 3 về
trường hợp người chuẩn bị phạm tội phải chịu hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Trong khung
hình phạt đó, Hội đồng xét xử thể quyết định mức hình phạt cho các ví dụ nêu trên tối thiểu
phải từ 01 năm tù cho đến tối đa là 05 năm tù, mà không được vượt quá phạm vi đó.
Ví dụ 1: khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 về Tội giết người quy định hình phạt tù từ
12 năm đến 20 năm, chung thân hoặc tử hình. Người hành vi phạm tội chưa đạt trong tội
phạm này chỉ bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn, với mức không quá 20 năm.
Ví dụ 2: khoản 1 Điều 127 Bộ luật Hình sự năm 2015 về Tội làm chết người trong khi thi hành
công vụ quy định hình phạt thời hạn từ 05 năm đến 10 năm. Người hành vi phạm tội
chưa đạt trong tội phạm này bị áp dụng hình phạt với mức hình phạt không quá ba phần
của thời hạn 05 năm đến 10 năm
6. Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm
Khi xác định trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với mỗi người đồng phạm, toà án phải xét đến:
lOMoARcPSD| 61716437
- Tính chất của đồng phạm: Ảnh hưởng đến tính chất mức độ nguy hiểm cho hội của tội
phạmchung cả bọn cùng thực hiệ - Tính chất mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng
phạm:
Tính chất tham gia vào việc phạm tội được quyết định bởi vai trò người đồng phạm thực hiện, bởi
tính đặc thù của chức năng, nhiệm vụ cũng như tác dụng của người đó trong hoạt động phạm tội chung.
Xác định mức độ tham gia phụ thuộc vào việc thực hiện tội phạm cũng như hậu quả của tội phạm chung.
Tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự chỉ được áp dụng cho từng người.
Theo quy định tại Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 thì:
- Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án phải t đến tính chất của
đồngphạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm.
- Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm
nào, thìchỉ áp dụng đối với người đó.
Ví dụ, A rủ B đến nhà chị C để thực hiện việc trộm cắp tài sản. Khi đến trước cổng nhà chị C,
A trèo tường vào trong nhà tìm kiếm tài sản, còn B đứng ngoài cảnh giới. A lấy được 01 dây
chuyền vàng, chuẩn bị tẩu thoát thì bị chị C phát hiện hô hoán; lúc này A dùng tay đấm một cái
vào mặt chị C và chạy thoát ra ngoài. Chị C bị gãy 02 chiếc răng.
Hành vi dùng vũ lực của A (người thực hành) tấn công gây thương tích cho chị C, vượt quá vai
trò của B, do đó B chỉ chịu trách nhiệm hình sự về Tội trộm cắp tài sản cùng với A; còn A phải
chịu trách nhiệm hình sự thêm về tội cố ý gây thương tích cho người khác.
7. Miễn hình phạt
Theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự 2015 thì người phạm tội thể được miễn hình phạt nếu
thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 khoản 2 Điều 54 của Bộ luật Hình sự 2015 đáng được
khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự.
Câu 7: So sánh miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt
1. Giống nhau
Đều là chế định phản ánh chính sách khoan hồng, nhân đạo của luật hình sự Việt Nam.
Không cách ly họ ra khỏi đời sống hội tạo điều kiện cho họ nhanh chóng tái a nhập
cộng đồng, trở thành người có ích cho xã hội.
Đều chỉ áp dụng khi đáp ứng đủ các điều kiện luật định.
Người được miễn trách nhiệm hình sự miễn hình phạt đều không phải chịu hậu quả pháp
bất lợi của việc phạm tội hoặc của việc quyết định hình phạt và án tích.
2. Khác nhau
Tiêu chí
Miễn trách nhiệm hình sự
Miễn hình phạt
lOMoARcPSD| 61716437
Khái niệm
Miễn trách nhiệm hình sviệc ko bắt buộc
người phạm tội phải chịu TNHS về tội họ
đã thực hiện
Miễn hình phạt ko buộc
người bị kết án phải chịu hình
phạt về tội họ đã thực hiện.
Điều kiện
+ Người phạm tội được miễn TNHS khi một
trong những căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét
xử,do có sự thay đổi chính sách, pháp luật
làm cho hành vi phạm tội không còn nguy
hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi có quyết định đại xá.
+ Người phạm tội có thể được miễn TNHS khi
có một trong các căn cứ sau:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do
chuyển biến của tình hình người phạm tội
không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
Người phạm tội có nhiều tình
tiết giảm nhẹ quy định tại
k1,2 Đ54 BLHS năm 2015,
đáng được khoan hồng đặc
biệt nhưng chưa đến mức
được miễn TNHS.
Theo quy định khoản 1,2
Điều 54 “1. a án thể
quyết định một hình phạt
dưới mức thấp nhất của
khung hình phạt được áp
dụng nhưng phải trong khung
hình phạt liền kề nhẹ
b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, t
xử,người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn
đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho
hội nữa;
c) Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc,
gópphần hiệu quả vào việc phát hiện điều
tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp
nhất hậu quả của tội phạm lập công lớn hoặc
cống hiến đặc biệt, được Nhà nước hội
thừa nhận.
+ Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng
hoặc tội phạm nghiêm trọng do ý gây thiệt
hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm hoặc tài sản của người khác được
người bị hại hoặc người đại diện của người bị
hại tự nguyện a giải và đề nghị miễn trách
nhiệm hình sự, thì có thể được miễn TNHS.
hơn của điều luật khi người
phạm tội ít nhất hai tình
tiết giảm nhẹ quy định tại
khoản 1 Điều 51 của Bộ luật
này.
2. Tòa án thể quyết định
một hình phạt dưới mức thấp
nhất của khung hình phạt
được áp dụng nhưng không
bắt buộc phải trong khung
hình phạt liền kề nhẹ hơn của
điều luật đối với người phạm
tội lần đầu người giúp sức
trong vụ án đồng phạm nhưng
có vai trò không đáng kể.”
lOMoARcPSD| 61716437
Thẩm quyền áp
dụng
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
Tòa án
Hậu quả pháp lý
- Không có án tích.
- Có tính khoan hồng cao hơn so với
miễnhình phạt
án tích nhưng thuộc
trường hợp đương nhiên được
xóa án tích.
Đối tượng
Đối tượng của MTNHS thể người đã bị
kết án hoặc chưa bị kết án.
Người đã bị kết án bằng một
bản án có hiệu lực pháp luật.
Các trường hợp
được miễn TNHS
và miễn hình phạt.
- Các TH miễn TNHS bao gồm tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội Điều 16; người chưa
thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc
nghiêm trọng, gây hại ko lớn, nhiều tình tiết
giảm nhẹ...Điều 91; người đã nhận làm gián
điệp, nhưng ko thực hiện nhiệm vụ được giao
tự thú, thành khẩn khai báo Điều 110; người
không tố giác hành động can ngăn người
phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm
khoản 3 Điều 390 tội không tố giác
Miễn hình phạt chỉ đc quy
định 2 điều luật đó Điều
59 khoản 3 Điều 390 tội
không tố giác tội phạm.
tội phạm
Câu 8: So sánh miễn hình phạt và miễn chấp hành hình phạt
1. Giống nhau
Miễn hình phạt và miễn chấp hành hình phạt đều là đều thuộc hệ thống các biện pháp tha miễn
trong luật hình sự nước ta, thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo trong chính sách hình sự nói chung
và của luật hình sự Việt Nam nói riêng.
Miễn hình phạt miễn chấp hành hình phạt chỉ thể áp dụng đối với người nào bị coi
lỗi trong việc thực hiện chính tội phạm đó. Nói cách khác, hành vi nguy hiểm cho hội do
người đó thực hiện bị pháp luật hình sự cấm (Bộ luật hình sự (BLHS) quy định là tội phạm).
Miễn hình phạt và miễn chấp hành hình phạt chỉ có thể áp dụng khi có đầy đủ căn cứ pháp lý và
những điều kiện cụ thể do pháp luật hình sự quy định tương ứng trong từng trường hợp cụ thể.
2. Khác nhau
Tiêu chí
Miễn hình phạt
Miễn chấp hành hình phạt

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61716437
VẤN ĐỀ 13: QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
Câu 1: Phân tích khái niệm quyết định hình phạt và ý nghĩa
1. Khái niệm hình phạt được quy định tại Điều 30 của Bộ luật hình sự như sau:
• Điều 30. Khái niệm hình phạt
• “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật
này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm
tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó”  Điều luật trên được
trình bày lại một cách dễ nắm bắt như sau:
• Bản chất: Biện pháp cưỡng chế (nghiêm khắc nhất) (1)
• Thẩm quyền quyết định: Tòa án (2)
• Đối tượng bị áp dụng: Người, pháp nhân thương mại phạm tội (3)
• Hướng đến: Tước bỏ (hạn chế) quyền, lợi ích (4)
(1) Nếu thực hiện hành vi vi phạm pháp luật chúng ta sẽ bị chế tài và tùy thuộc vào tính chất mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà chế tài chúng ta phải chịu có thể là chế tài trong lĩnh
vực dân sự, hành chính, hình sự. Trong đó có thể thấy hình phạt là 1 hình thức chế tài nghiêm
khắc nhất. Điều này chứng tỏ rằng mối quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ là những
quan hệ xã hội quan trọng nhất. Biện pháp chế tài ở đây không chỉ đơn thuần là chế tài về mặt
tài sản (như phạt tiền) mà nó còn là chế tài liên quan đến quyền tự do cư trú, tự do đi lại và cao
nhất là quyền bất khả xâm phạm về tính mạng (án tử hình).
(2) Cơ quan duy nhất có thẩm quyền quyết định áp dụng hình phạt là Tòa án. Tòa án ở đây phải
được hiểu là Tòa án có thẩm quyền đối với từng vụ án cụ thể theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự. Như vậy so với các biện pháp chế tài trong các lĩnh vực pháp luật khác thì chủ thể có
quyền áp dụng hình phạt là ít nhất, ít hơn rất nhiều so với chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính và điều đó cũng dẫn đến một hệ quả là quy trình để đưa ra biện pháp chế tài là hình
phạt cũng sẽ khó khăn hơn do tính chất phức tạp và hậu quả pháp lý mà nó mang lại.
(3) “Người” thì chúng ta sẽ không bàn luận gì thêm vì nó hoàn toàn dễ hiểu và giống với các quy
định cũ. Do đó chúng ta cùng tìm hiểu thêm về đối tượng mới được bổ sung: pháp nhân thương
mại. Việc thêm đối tượng này vào phạm vi điều chỉnh của Bộ Luật hình sự này được đánh giá là
một tiến bộ lớn trong ngành khoa học pháp lý hình sự. Đó là cả một quá trình thai nghén, học
hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới, tổ chức hội thảo để tiếp thu những góp ý từ những
người có chuyên môn trong và ngoài nước để cho ra chế định áp dụng với đối tượng tương đối
đặc biệt, lạ lẫm trong pháp luật hình sự này. Tuy nhiên do lần đầu tiên đưa vào nên cũng không
tránh khỏi những thiếu sót nhất định mà như tác giả đã có dịp đề cập trong các chương trước.
Nhưng dù sao xét về mặt tổng thể trên hướng đi của nhà làm luật chúng ta đang đi đúng con
đường và con đường này có đảm bảo có chất lượng, an toàn hay không thì trong quá trình sử
dụng chúng ta sẽ biết được, đồng thời sẽ khắc phục, sửa chữa những lỗ hổng, những chỗ sai khi cần thiết. lOMoAR cPSD| 61716437
(4) Có thể hiểu một cách xúc tích đối tượng bị áp dụng hình phạt sẽ bị ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích. Mức độ ảnh hưởng có thể là bị hạn chế một số quyền, lợi ích đó hoặc là bị tước bỏ (mất
hẳn). Quyền và lợi ích ở đây có thể chia làm 3 nhóm chính: Nhóm quyền về tài sản; quyền về
nhân thân và quyền công dân. Tùy vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà
chủ thể có thể bị hạn chế (tước bỏ) một, một số hoặc tất cả những quyền và lợi ích trên.
2. Khái niệm quyết định hình phạt
Từ góc độ luật hình sự có thể định nghĩa quyết định hình phạt như sau:
• Quyết định hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt (đối với loại hình
phạt có các mức khác nhau) trong phạm vi luật định để áp dụng đối với chủ thể chịu trách nhiệm hình sự.
• Quyết định hình phạt chỉ đặt ra đối với các trường hợp chủ thể chịu trách nhiệm hình sự không
được miễn trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt, tức là đối với các trường hợp cần thiết phải áp
dụng hình phạt nhằm trừng trị và giáo dục chủ thể chịu trách nhiệm hình sự.
• Đa số các điều luật về tội phạm cụ thể quy định chế tài gồm nhiều loại hình phạt chính khác
nhau. Quyết định hình phạt đối với chủ thể chịu trách nhiệm hình sự là sự lựa chọn một trong số
các hình phạt chính và xác định mức hình phạt đối với loại hình phạt có các mức khác nhau trong
khung hình phạt được quy định. Nếu chế tài được quy định chỉ có một loại hình phạt chính và
có các mức khác nhau thì quyết định hình phạt trong trường hợp này là xác định mức hình phạt
trong phạm vi khung hình phạt được quy định.
• Quyết định hình phạt bổ sung có nội dung tương tự như quyết định hình phạt chính. Đó là việc
lựa chọn loại hình phạt bổ sung, có thể là một hoặc nhiều loại nếu luật quy định có thể áp dụng
nhiều loại hình phạt bổ sung và xác định mức hình phạt trong khung quy định để áp dụng kèm theo hình phạt chính.
• Như vậy, quyết định hình phạt bao gồm quyết định hình phạt chính và quyết định hình phạt bổ
sung. Quyết định hình phạt theo nghĩa này được coi là theo nghĩa hẹp và cũng là nghĩa thông thường.
• Quyết định hình phạt còn có thể được hiểu theo các nghĩa rộng khác nhau. Theo đó, quyết định
hình phạt còn có thể bao gồm thêm quyết định biện pháp tư pháp với mục đích thay thế hoặc hỗ
trợ cho hình phạt (như quyết định trả lại tài sản, buộc công khai xin lỗi hoặc bắt buộc chữa
bệnh...). Quyết định hình phạt cũng có thể được hiểu là quyết định biện pháp xử lí đối với chủ
thể chịu trách nhiệm hình sự. Theo nghĩa này, quyết định hình phạt Jà hoạt động tiếp theo hoạt
động định tội của toà án, bao gồm quyết định miễn hình phạt và quyết định hình phạt theo nghĩa
rộng ttên. Theo đó, điều luật quy định về miễn hình phạt cũng được xếp ữong chương “Quyết
định hình phạt” (Điều 59 Chương vni BLHS).
• Khái niệm quyết định hình phạt có thể được hiểu theo nhiều nghĩa nhưng nội dung cơ bản vẫn
là quyết định hình phạt chính.
• Quyết định hình phạt liên quan chặt chẽ với việc xác định tội phạm hay còn được gọi là định tội
danh. Việc xác định tội phạm đúng tạo tiền đề cho việc quyết định hình phạt đúng. Dựa trên lOMoAR cPSD| 61716437
cơ sở định tội đúng có thể xác định được đúng loại và mức hình phạt cụ thể để áp dụng đối với
chủ thể chịu trách nhiệm hình sự nhằm đạt được mục đích của hình phạt.
• Như vậy, có thể nói quyết định hình phạt có ý nghĩa hai mặt. Một mặt, cùng với định tội, quyết
định hình phạt là sự thể hiện cao nhất, tập trung nhất việc áp dụng pháp luật hình sự vào đẩu
tranh chống tội phạm. Mặt khác, quyết định hình phạt tạo cơ sở quan ttọng để đạt được mục đích của hình phạt.
3. Ý nghĩa của quyết định hình phạt
 Việc cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong mỗi khung hình
phạt tuy đảm bảo tương đối tính khoa học, tính hợp lý và tính khái quát cao; nhưng phán quyết
của Tòa án đối với người phạm tội ảnh hưởng tiêu cực đối với con người cụ thể, trực tiếp hạn
chế một phân quyền con người, quyền công dân, ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lý, ý thức cải tạo
của người chấp hành án, ảnh hưởng đến hoạt động của gia đình, ý thức của đa số người thân
cũng như những người dân sống trên địa bàn của người đó.
 Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự nhằm tạo cho Tòa án khả năng lựa
chọn trong giai đoạn quyết định hình phạt đối với từng hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người
phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và
các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới.
 Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
• Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải hướng tới mục đích của hình phạt mà mình đã tuyên trong
bản án phải đảm bảo hiệu qủa và hài hòa giữa "trừng trị" và "cải tạo, giáo dục", nếu hình phạt
được áp đặt cho một trong những mục đích nào đó sẽ làm ảnh hưởng các mục đích khác, sẽ ảnh
hưởng tiêu cực đến hiệu quả và mục đích đây đủ của hình phạt.
• Trường hợp coi nhẹ tính trừng trị của hình phạt thì có thể dẫn đến hình phạt quá nhẹ, khôngtương
xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, làm giảm tính răn đe, giáo dục
đối với người phạm tội, làm lung lay niềm tin của người dân và của phần lớn những người trực
tiếp tham gia công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
 Ngược lại, nếu coi nhẹ tính nhân đạo, tính giáo dục sẽ tạo ra quyết định hình phạt nghiêm khắc
dẫn đến tâm lý tiêu cực, phản giáo dục và khó cải tạo đối với người phạm tội. Do vậy, bản án
của Tòa án quyết định hình phạt đảm bảo tính nhân đạo, công minh và đúng pháp luật sẽ đạt
được mục đích của hình phạt đối với người phạm tội.
 Quyết định hình phạt có vai trò vô cùng to lớn, bởi suy cho cùng, các hoạt động tố tụng hình sự
trước đó (từ khởi tố, điều tra, truy tố, kể cả việc tranh tụng tại phiên toà) sẽ không có nhiều ý
nghĩa nếu Toà án không làm tốt việc quyết định hình phạt. Quyết định hình phạt đúng pháp luật,
công bằng và hợp lý là tiền đề, điều kiện để đạt mục đích hình phạt (cải tạo, giáo dục, phòng
ngừa chung và phòng ngừa riêng). Nếu hình phạt quá nhẹ sẽ làm giảm ý nghĩa phòng ngừa của
hình phạt, bởi nó có thể làm phát sinh ý định phạm tội, thái độ vô trách nhiệm và coi thường pháp luật. lOMoAR cPSD| 61716437
 Nhưng hình phạt quá nặng sẽ tạo tâm lý không công bằng, không hợp lý ở người bị kết án dẫn
đến thái độ oán hận, không tin tưởng pháp luật.
 Hình phạt có đạt mục đích hay không và đến mức độ nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó,
hai yếu tố quan trọng nhất là yếu tố lập pháp và áp dụng pháp luật (về hình phạt và quyết định
hình phạt). Yếu tố áp dụng pháp luật chịu sự ràng buộc của yếu tố lập pháp. Ngược lại, yếu tố
áp dụng pháp luật cũng có vai trò rất quan trọng, bởi vì chỉ trên cơ sở nhận thức và vận dụng
đúng đắn pháp luật cho từng trường hợp phạm tội cụ thể thì Toà án mới có thể cho ra đời một
bản án tuyên hình phạt đúng đắn và có hiệu quả, khi đó, các yếu tố về mặt lập pháp mới có ý nghĩa thực tiễn.
 Quyết định hình phạt đúng đắn sẽ có ý nghĩa nâng cao hiệu quả của hình phạt vì hậu quả tiêu cực
do quyết định hình phạt tạo ra càng nhỏ thì hiệu quả của hình phạt càng cao, ngược lại quyết
định hình phạt đưa đến hậu quả tiêu cực thì hiệu quả của hình phạt càng thấp. Mục đích của hình
phạt đảm bảo hiệu quả nếu Tòa án quyết định hình phạt có thể tiết kiệm đến mức thấp nhất yếu
tố trấn áp về hình sự khi sử dụng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được quy định trong pháp luật hình sự.
Câu 2: Căn cứ quyết định hình phạt
• Điều 45 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về căn cứ quyết định
hình phạt như sau: “Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân
nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội,
các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.”
• Như vậy, theo quy định của Điều 45 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 thì các
căn cứ quyết định hình phạt bao gồm:
1) Các quy định của Bộ luật hình sự;
2) Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội;
3) Nhân thân người phạm tội;
4) Các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự.
1. Căn cứ thứ nhất, các quy định của Bộ luật hình sự
• Đây là một căn cứ có tính bao trùm, căn cứ này bảo đảm cho việc thực hiện nguyên tắc pháp chế
xã hội chủ nghĩa trong hoạt động xét xử của Tòa án. Khi quyết định hình phạt thì các quy định
của Bộ luật hình sự bao giờ cũng là tiêu chuẩn pháp lý cao nhất để đảm bảo cho Tòa án quyết
định được một hình phạt đúng, tạo khả năng lớn nhất để đạt được mục đích của hình phạt.
• Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự tức là căn cứ vào các quy định trong cả Phần chung
và Phần các tội phạm Bộ luật hình sự. Các quy định trong Phần chung Bộ luật hình sự như: quy
định về nguyên tắc xử lý (Điều 3 Bộ luật hình sự); các quy định liên quan đến hình phạt (Điều
30 đến Điều 45 Bộ luật hình sự); các quy định về các biện pháp tư pháp (Điều 46 đến Điều 49
Bộ luật hình sự); các quy định về căn cứ quyết định hình phạt (Điều 50 Bộ luật hình sự); về các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (Điều 46 và Điều 51 Bộ luật hình sự); về các tình tiết tăng lOMoAR cPSD| 61716437
nặng trách nhiệm hình sự (Điều 52 Bộ luật hình sự); về tái phạm, tái phạm nguy hiểm (Điều 53
Bộ luật hình sự); quy định về án treo (Điều 60 Bộ luật hình sự). Các quy định trong Phần các tội
phạm Bộ luật hình sự là những quy định về khung hình phạt chính và về hình phạt bổ sung cho từng loại tội.
• Như vậy với yêu cầu của căn cứ này, khi quyết định hình phạt Tòa án cần phải căn cứ vào tất cả
các quy định của Bộ luật hình sự ở dạng thống nhất, tổng thể của chúng và phải cân nhắc chỉ rõ
trong bản án những quy định của Bộ luật hình sự có liên quan trực tiếp đến việc quyết định một
hình phạt cụ thể đối với một bị cáo.
2. Căn cứ thứ hai, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
• Khi quyết định hình phạt, Tòa án gặp không ít khó khăn trong việc đánh giá tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Một trong những nguyên nhân dẫn đến điều đó, là
do các quy định của pháp luật không quy định cụ thể khái niệm, tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của tội phạm đã thực hiện, không chỉ ra các dấu hiệu, cơ sở để xác định, đánh giá chúng.
• Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được thể hiện ở hai khái niệm “tính chất” và “mức độ”
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Khi nói đến tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
là nói đến các ranh giới: mức độ khác nhau trong cùng một khung hình phạt; mức độ khác nhau
trong cùng một tội phạm; mức độ khác nhau giữa các tội phạm trong cùng một nhóm; mức độ
khác nhau giữa các nhóm tội phạm với nhau.
• Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm trước hết được quyết định bởi ý nghĩa,
tầm quan trọng và giá trị của các quan hệ xã hội bị tội phạm đó xâm hại - khách thể của tội phạm.
• Bên cạnh đó, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm còn phụ thuộc vào các yếu
tố khác như: tính chất của hành vi phạm tội như phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện
phạm tội; tính chất và mức độ của hậu quả đã gây ra hoặc đe doạ gây ra; mức độ lỗi của người
phạm tội như tính chất của động cơ, quyết tâm phạm tội, nguyên nhân và điều kiện phạm tội;
hoàn cảnh chính trị - xã hội của địa điểm và thời gian xảy ra hành vi phạm tội; nhân thân của
người có hành vi nguy hiểm cho xã hội...
• Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được nhà làm luật cân nhắc và thể hiện
khi quy định tội phạm, quy định chế tài và khung chế tài đối với tội phạm. Do đó, nhà làm luật
quy định là khi quyết định hình phạt, Tòa án phải cân nhắc và căn cứ vào cả tính chất lẫn mức
độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã được thực hiện. Tòa án phải nêu rõ trong bản án những
tình tiết cụ thể chứng minh tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm cụ thể mà
Tòa án căn cứ vào đó và cùng với các tình tiết khác để chọn loại và mức hình phạt cụ thể đối với
bị cáo. Chỉ khi bảo đảm được sự cân nhắc tổng thể các tình tiết đó và với việc dựa vào các căn
cứ khác (nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và các tình tiết tăng nặng), Tòa án mới
có đầy đủ căn cứ để quyết định được loại và mức hình phạt công bằng và đúng pháp luật
3. Căn cứ thứ ba, nhân thân người phạm tội lOMoAR cPSD| 61716437
• Dưới góc độ khoa học luật hình sự, nhân thân người phạm tội được nghiên cứu với tính chất là
một căn cứ khi quyết định hình phạt. Đây cũng là căn cứ thể hiện nguyên tắc cá thể hoá hình
phạt trong luật hình sự Việt Nam. Căn cứ này đòi hỏi Toà án khi quyết định hình phạt phải xác
định loại và mức hình phạt cụ thể không chỉ tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội mà còn phù hợp với những đặc điểm về nhân thân của người phạm tội để bảo
đảm hình phạt đã tuyên đạt được mục đích trừng trị và giáo dục cải tạo người phạm tội.
• Những đặc điểm thuộc về nhân thân người phạm tội có rất nhiều, nhưng không phải tất cả những
đặc điểm đó đều được cân nhắc, đánh giá khi quyết định hình phạt. Theo chúng tôi, tiêu chuẩn
để xác định đặc điểm nào thuộc về nhân thân người phạm tội cần được xem xét, cân nhắc khi
quyết định hình phạt phải dựa vào hai tiêu chí sau đây: một là, những đặc điểm thuộc về nhân
thân người phạm tội có liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội; hai là, những đặc điểm thuộc
về nhân thân người phạm tội có liên quan đến việc đạt được mục đích của hình phạt.
Dựa vào hai tiêu chí trên, có thể xác định được những đặc điểm về nhân thân người phạm tội như sau:
+ Những đặc điểm thuộc về nhân thân người phạm tội có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Đây là những đặc điểm mà khi có ở người phạm tội thì làm tăng hoặc giảm mức độ nguy hiểm cho xã
hội của tội phạm. Những đặc điểm này được luật quy định thành những tình tiết định khung hình phạt
hoặc tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: phạm tội lần đầu hay đã có tiền án, tiền sự;
tái phạm thường hay tái phạm nguy hiểm; là người chưa thành niên phạm tội hay đã thành niên...
+ Những đặc điểm thuộc về nhân thân người phạm tội phản ánh khả năng cải tạo, giáo dục họ trở thành
người có ích cho xã hội. Đây là đặc điểm có liên quan đến việc đạt được mục đích của hình phạt. Cân
nhắc những đặc điểm này bảo đảm cho Tòa án lựa chọn được hình phạt cụ thể cho người phạm tội sao
cho tạo khả năng lớn nhất để đạt được các mục đích của hình phạt. Những đặc điểm này bao gồm: thành
phần xã hội, nghề nghiệp, thái độ tự thú hoặc hối cải; lập công chuộc tội hay có thái độ ngoan cố...
+ Những đặc điểm thuộc về nhân thân người phạm tội phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của họ.
Cân nhắc những đặc điểm này khi quyết định hình phạt giúp cho Tòa án lựa chọn được hình phạt cụ thể
sao cho hình phạt đó có tính thực tế, tính khả thi, phù hợp với các quy định của luật hình sự và tạo điều
kiện, khả năng lớn nhất để đạt được mục đích cải tạo giáo dục họ. Nhũng đặc điểm này bao gồm: những
người mắc bệnh hiểm nghèo, người già yếu, phụ nữ có thai hay đang nuôi con nhỏ, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn...
4. Căn cứ thứ tư, những tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự
• Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự không được quy định trong các cấu
thành tội phạm cụ thể mà được quy định tại Phần chung của Bộ luật hình sự. Điều 51 Bộ luật
hình sự quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Điều 52 Bộ luật hình sự quy định
các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào
các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự, đây chính là quy định có tính chất
hướng dẫn, bắt buộc để cụ thể hóa một phần khi xem xét, cân nhắc căn cứ thứ hai và thứ ba. Bởi lOMoAR cPSD| 61716437
vì, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân người phạm tội cũng là
một trong những cơ sở để đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm,
trong số các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có những tình tiết thuộc về nhân
thân người phạm tội. Do vậy, nếu xem xét, cân nhắc một cách tổng thể các căn cứ quyết định
hình phạt thì căn cứ thứ tư này đã thuộc về một phần nội dung của căn cứ thứ hai và căn cứ thứ ba.
• Khi căn cứ vào căn cứ thứ tư này để quyết định hình phạt cần lưu ý những nguyên tắc sau:
 Một là, những tình tiết đã được luật quy định là tình tiết định tội hoặc định khung hình phạt thì
không được coi là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Tinh thần của quy định này xuất phát từ nguyên tắc: một tình tiết không được sử dụng nhiều lần
để phân hóa trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Ví dụ, phạm tội có tổ chức là tình tiết định
khung hình phạt tăng nặng của tội hiếp dâm (điểm a khoản 2 Điều 141 Bộ luật hình sự 2015 sửa
đổi năm 2017). Khi quyết định hình phạt không được coi tình tiết này là tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự theo điểm a khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi năm 2017; hoặc tình
tiết “Giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” là tình tiết định tội
của tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 126 Bộ luật hình sự 2015 sửa
đổi năm 2017), khi quyết định hình phạt không được coi tình tiết này là tình tiết giảm nhẹ của
tội đó theo điểm c khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nữa.
Về vấn đề này, các quy định của pháp luật đã nêu rất rõ ràng. Đó là: đối với các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự, khoản 2 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017 đã quy định
“Các tình tiết đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì
không được coi là tình tiết tăng nặng”.
Tương tự đối với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, khoản 3 Điều 51 Bộ luật hình sự năm
2015 sửa đổi năm 2017 quy định “Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình
tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án”. Các quy định trên
là hoàn toàn hợp lý và có cơ sở khoa học, vì khi nhà làm luật đã coi một tình tiết nào đó là tình
tiết định tội hoặc là tình tiết định khung hình phạt, thì đã xác định một hình phạt tương xứng vởi
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm có tình tiết đó. Do vậy, khi quyết định
hình phạt mà lại vận dụng những tình tiết trên lại một lần nữa với tính chất là những tình tiết
giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự để giảm hoặc tăng mức hình phạt cụ thể cho người
phạm tội là không hợp lý, không công bằng.
 Hai là, khi quyết định hình phạt phải xác định mức độ ảnh hưởng cụ thể của từng tình tiết giảm
nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự có giá trị pháp lý khác nhau trong từng
tội phạm cụ thể. Điều này có nghĩa là một tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nào đó đối với tội A có
giá trị làm tăng hoặc giảm rất nhiều mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, nhưng đối vối
tội B thì giá trị làm tăng hoặc giảm mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm lại hạn chế hơn.
Do đó, luật không quy định cụ thể từng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có ảnh
hưởng đến mức độ nào trong việc quyết định hình phạt đối với từng tội phạm cụ thể. Để bảo lOMoAR cPSD| 61716437
đảm sự linh hoạt, mềm dẻo, sát với từng tội phạm và con người cụ thể khi cá thể hoá hình phạt,
pháp luật đã giành cho Tòa án quyền đánh giá, cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt. Tuy nhiên, quyền trên của Tòa án phải nằm trong những
nguyên tắc và quy định chung của pháp luật.
 Ba là, đối với những vụ án vừa có cả tình tiết tăng nặng, vừa có cả tình tiết giảm nhẹ thì phương
pháp cân nhắc, đánh giá như thế nào các tình tiết đó khi quyết định hình phạt? Thông thường
trong một vụ án có nhiều tình tiết, có thể chỉ có tình tiết tăng nặng, hoặc có thể chỉ có tình tiết
giảm nhẹ, nhưng cũng có vụ án vừa có cả tình tiết tăng nặng, vừa có cả tình tiết giảm nhẹ. Trong
trường hợp như vậy, những tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ không những cần được đánh giá riêng
lẻ mà còn cần được đánh giá tổng thể, toàn diện trong mối quan hệ biện chứng và ảnh hưởng
qua lại với nhau gắn với hoàn cảnh, điêu kiện, không gian, thời gia n xảy ra vụ án.
Trên cơ sở đó, Tòa án đánh giá, xác định giá trị pháp lý của hai loại tình tiết đối lập nhau trong
việc làm tăng hay giảm mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đó trong phạm vi một khung
hình phạt cụ thể đã được xác định. Từ đó đưa ra quyết định hình phạt của vụ án là cần tăng nặng,
cần giảm nhẹ, hay chỉ cần xử ở mức trung bình của khung hình phạt. Nếu tình tiết tăng nặng có
mức độ ảnh hưởng lớn hơn tình tiết giảm nhẹ thì là trường hợp cần tăng nặng. Hoặc ngược lại,
nếu tình tiết giảm nhẹ có ảnh hưởng lớn hơn tình tiết tăng nặng thì là trường hợp cần giảm nhẹ.
Nếu cả hai loại tình tiết đều có mức độ ảnh hưởng tương đương nhau thì là trường hợp bình
thường. Điều quan trọng trong trường hợp này là Tòa án phải đưa ra được một nhận định là cần
phải tuyên cho bị cáo một hình phạt ở mức tăng nặng, ở mức giảm nhẹ hay ở mức trung bình
của khung hình phạt, sao cho hình phạt đã tuyên tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của tội phạm, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự. Tuy nhiên, trong trường hợp này khi quyết định hình phạt, Tòa án phải vận dụng
các nguyên tắc quyết định hình phạt, trong đó đáng chú ý là nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ
nghĩa để vận dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách
nhiệm hình sự, đây chính là quy định có tính chất hưống dẫn, bắt buộc để cụ thể hóa một phần
khi xem xét, cân nhắc căn cứ thứ hai và thứ ba. Bởi vì, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách
nhiệm hình sự và nhân thân người phạm tội cũng là một trong những cơ sở để đánh giá tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, trong số các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự có những tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội. Do vậy,
nếu xem xét, cân nhắc một cách tổng thể các căn cứ quyết định hình phạt thì căn cứ thứ tư này
đã thuộc về một phần nội dung của căn cứ thứ hai và căn cứ thứ ba.
Câu 3: Các điều kiện để áp dụng chế định quyết định hình phạt nhẹ hơn quyđịnh của Bộ luật
 Điều 54. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng 1.
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp
dụngnhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai
tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này. lOMoAR cPSD| 61716437 2.
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp
dụngnhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người
phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể. 3.
Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều
luậtchỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể
quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác
thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.
Điều luật quy định các trường hợp được phép quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của
khung hình phạt được áp dụng và các trường hợp được phép quyết định chuyển sang hình phạt nhẹ hơn.
• Theo khoản 1 của điều luật, Toà án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung
hình phạt nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS.
Ví dụ: Trường hợp phạm tội hiếp dâm theo khoản 2 Điều 141 BLHS mà có nhiều tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 51 BLHS thì có thể quyết định hình phạt tù dưới 07
năm nhưng không được thấp hơn 02 năm vì khung hình phạt liền kề nhẹ hơn có mức phạt tù từ
02 năm đến 07 năm. Khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng chỉ có một tình
tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì cũng không có căn cứ để quyết định hình phạt theo trường hợp này.
• Theo khoản 2 của điều luật, Toà án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung
hình phạt (không nhất thiết phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn như trường hợp được
quy định tại khoản 1) khi người phạm tội chỉ là người giúp sức có vai trò không đáng kể và thuộc
trường hợp phạm tội lần đầu.
• Theo khoản 3 của điều luật, khi có đủ điều kiện của khoản 1 hoặc khoản 2, Tòa án có thể quyết
định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang hình phạt khác thuộc
loại nhẹ hơn nếu khung hình phạt được áp dụng là khung hình phạt duy nhất hoặc là khung hình
phạt nhẹ nhất của điều luật.
Ví dụ: Trường hợp phạm tội loạn luân theo Điều 184 BLHS mà có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 51 BLHS thì có thể quyết định hình phạt tù dưới 01 năm
(nhưng không được thấp hơn 03 tháng là mức tối thiểu của loại hình phạt tù có thời hạn) hoặc
chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt thuộc loại nhẹ hơn hình phạt tù vì
Điều 184 chỉ có 1 khung hình phạt có mức phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Câu 4: Một số bất cập khi thực hiện các điều kiện để áp dụng chế định quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của Bộ luật
Tại khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015 (BLHS 2015) quy định: “Tòa án có thể quyết định
một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung
hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy
định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.” lOMoAR cPSD| 61716437 •
Theo quy định trên, thì Toà án chỉ có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của
khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung nhẹ hơn liền kề trước hoặc
liền sau đó của điều luật, nếu có ít nhất là hai tình tiết quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS
2015. Tức là trong số các tình tiết giảm nhẹ được vận dụng thì ít nhất phải có hai tình tiết được
luật quy định, đồng thời giới hạn hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt phải trong
phạm vi của khung hình phạt nhẹ hơn liền trước hay liền sau của khung đó. Trên thực tế, khi áp
dụng điều luật lại gặp những vướng mắc tạo ra sự tùy nghi và không thông nhất trong cách áp dụng pháp luật. •
Ví dụ: Nguyễn Văn A (30 tuổi) phạm tội đưa hối lộ và bị Tòa án xét xử theo khoản 2 Điều364
BLHS 2015. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhận thấy A có 2 tình tiết giảm nhẹ được
quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 và quyết định áp dụng Điều 54 để quyết định hình
phạt đối với A. Điều 364 quy định: •
Người nào trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn
hoặc người khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích nào sau đây để người có chức vụ, quyền hạn
làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tiền
từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt
tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến
dưới 100.000.000 đồng; b) Lợi ích phi vật chất. •
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm… Phạm
tội trong trường hợp của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 500.000.000 đồng
đến dưới 1.000.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm. •
Phạm tội trong trường hợp của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá
1.000.000.000đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. •
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng… •
Như vậy, nếu áp dụng Điều 54 thì A sẽ được áp dụng khung hình phạt theo khoản 1 Điều 364
BLHS 2015. Từ việc bị xét xử theo khoản 2 chỉ có một khung hình phạt đó là phạt tù trong
khung từ 02 năm đến 07 năm, sau khi áp dụng khoản 1 Điều 54 Tòa án có thể sẽ quyết định
hình phạt với A bằng hình phạt tù có thời hạn với khung hình phạt tù là 06 tháng đến 03 năm;
phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm; phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng.
Như vậy, phạm vi lựa chọn để áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung nhưng phải
trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật là rất rộng (vì Điều 54 không quy định việc
áp dụng hình phạt trong khung liền kề nhẹ hơn phải là hình phạt cùng loại) và chưa có văn bản
quy định chi tiết về vấn đề này nên dẫn tới sự tùy tiện áp dụng và không thống nhất ở các Tòa án. •
Bên cạnh đó, việc áp dụng quy định về quyết định mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung
hình phạt theo quy định của một số điều luật chưa chắc đã là có lợi hơn cho bị cáo. Ví dụ đối với trường hợp sau: •
M có hành vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người
và bị Tòa án xét xử theo khoản 1 Điều 295 BLHS 2015. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa lOMoAR cPSD| 61716437
án nhận thấy M có 2 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 51 BLHS 2015, nên Tòa án đã
áp dụng khoản 1 Điều 54 để quyết định hình phạt đối với M. Trong trường hợp này, Tòa án sẽ
quyết định cho M được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được
quy định tại khoản 1 Điều 295 BLHS nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của Điều 295. •
Theo quy định của Điều 295 thì: •
“1. Người nào vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi
đôngngười gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền
từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt
tù từ 01 năm đến 05 năm… •
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm… •
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 năm đến 12 năm… •
Theo quy định tại Điều 295 BLHS, có thể thấy khung hình phạt nhẹ hơn liền kề với khunghình
phạt được quy định tại khoản 1 là khung hình phạt tại khoản 4 “… cải tạo không giam giữ đến
02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”. Như vậy, nếu Tòa án quyết định hình phạt cho
M theo khoản 1 sẽ là phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không
giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Nếu như, quyết định hình phạt dưới
mức thấp nhất của khung hình phạt tại khoản 1 sẽ là phạt tiền dưới 20 triệu đồng hoặc sẽ chuyển
sang loại hình phạt khác nhẹ hơn là cảnh cáo. Tuy nhiên, mức hình phạt quy định tại khoản 4 là
phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Điều này sẽ dẫn
đến bất lợi cho M ở chỗ M chỉ được hưởng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung trong
trường hợp hợp hình phạt của M phải là hình phạt tù có thời hạn hoặc cải tạo không giam giữ.
Trong trường hợp này lại không đạt được nguyên tắc nhân đạo mà điều luật muốn hướng đến.
Câu 5: Một số giải pháp về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt
• Thứ nhất, để tránh trường hợp khi chuyển sang khung hình phạt khác liền kề nhẹ hơn, phạm vi
lựa chọn để áp dụng hình phạt quá rộng và không thống nhất, dẫn tới khi quyết định hình phạt
đối với bị cáo lại không tưng xứng với tính chất và hành vi phạm tội. Theo tác giả, nên quy định
khoản 1 Điều 54 theo hướng “Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của
khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật
và hình phạt được áp dụng phải cùng loại với hình phạt trong khung hình phạt mà người phạm
tội bị xét xử khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51
của Bộ luật này” và cần có văn bản quy định chi tiết điều này để áp dụng thống nhất.
• Thứ hai, cần bổ sung thêm hình phạt tiền vào khung hình phạt nhẹ nhất ở một số tội danh để
mức tối thiểu của khung phải bằng hoặc thấp hơn mức ở khung có cấu thành cơ bản của điều
luật. Như vậy, khi áp dụng Điều 54 đối với một số tội danh như tội danh được quy định tại Điều
295 mới đạt hiệu quả tối đa. lOMoAR cPSD| 61716437
Câu 6: Quyết định hình phạt trong một số trường hợp đặc biệt
1. Căn cứ quyết định hình phạt
Theo Điều 50 Bộ luật Hình sự 2015 thì căn cứ quyết định hình phạt được quy định như sau: -
Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất
vàmức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ
và tăng nặng trách nhiệm hình sự. -
Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định trên, Tòa án căn cứ vào tình hình
tàisản, khả năng thi hành của người phạm tội.
2. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng
Theo quy định tại Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015 và khoản 7 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 thì: -
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp
dụngnhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai
tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015. -
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp
dụngnhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người
phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể. -
Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều
luậtchỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể
quyết định chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.
Ví dụ: Trong vụ án cố ý gây thương tích, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 134 Bộ luật
Hình sự năm 2015. A với vai trò là người chủ mưu, B là người thực hành, C là người giúp sức (hành vi
hô hào, đi theo). A, B và C bị truy tố và xét xử theo khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, có
khung hình phạt từ 05 năm đến 10 năm tù giam. Do A và B có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử có quyền áp dụng
khung hình phạt liền kề nhẹ hơn. Đó là khung 2 (khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015), với mức
hình phạt từ 02 năm đến 06 năm tù giam. Cần lưu ý là khi tuyên án, Hội đồng xét xử vẫn tuyên theo
khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với cả ba bị cáo là A, B và C. Tuy nhiên, trường hợp
của A và B cần nêu rõ là được hạ khung hình phạt xuống khung 2 của Điều 134 Bộ luật Hình sự năm
2015. Như vậy A và B bị áp dụng khoản 2, khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, khoản 1 Điều
54 và khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Cần lưu ý thêm là Hội đồng xét xử có thể tuyên
phạt A và B ở trong khoảng từ 02 năm đến dưới 05 năm tù giam, mà không được thấp hơn 02 năm tù
giam, nhưng phải dưới 05 năm tù giam, vì khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 có mức hình
phạt tù từ 02 năm đến 06 năm, còn khoản 3 là từ 05 năm đến 10 năm tù giam. lOMoAR cPSD| 61716437
Riêng trường hợp C là người giúp sức như đã nêu trên, căn cứ khoản 2 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm
2015 được đề cập ở trên, Hội đồng xét xử vẫn tuyên C phạm tội Cố ý gây thương tích theo khoản 3
Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (cùng với A và B), nhưng C có tình tiết giảm nhẹ là phạm tội lần
đầu và có tình tiết là vai trò giúp sức trong vụ án có đồng phạm, thì Hội đồng xét xử có thể hạ khung
hình phạt xuống khung 1 (khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015) mà không bắt buộc phải khung
2 (là khung liền kề nhẹ hơn). Khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 có mức hình phạt là cải tạo
không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Trường hợp này Hội đồng xét xử có
thể phạt C cải tạo không giam giữ, hoặc phạt tù giam đối với C ở mức từ 06 tháng đến 03 năm. Cần lưu
ý là không được thấp hơn 06 tháng tù giam và không vượt quá 03 năm tù, nếu Hội đồng xét xử đã quyết
định hạ khung hình phạt xuống khung 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 như đã đề cập. Khoản 2
Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 được nhà làm luật quy định và được vận dụng trên thực tế là nhằm
mục đích bảo đảm công bằng cho người bị buộc tội trong vụ án có đồng phạm; đòi hỏi phải được phân
hóa hình phạt cho công bằng. Ở đây, vai trò của người giúp sức là C phải chịu hình phạt nhẹ hơn.
Trường hợp C bị truy tố và xét xử theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015; C có đủ các điều
kiện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015. C bị áp dụng khung hình phạt
nhẹ nhất của Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, do vậy, Hội đồng xét xử có thể phạt C hình phạt cảnh
cáo, phạt tiền hoặc phạt tù dưới mức 06 tháng tù giam. Vì khoản 1 Điều 134 có mức hình phạt tù giam
từ 06 tháng đến 03 năm. Tuy nhiên không được phạt C thấp hơn 03 tháng tù giam, vì khoản 1 Điều 138
của Bộ luật Hình sự quy định mức phạt tù có thời hạn tối thiểu là 03 tháng. Như vậy C có thể bị phạt
cảnh cáo, phạt tiền (nếu có đủ các điều kiện khác để phạt tiền), hoặc phạt tù giam ở mức 03 hoặc 04 hoặc 05 tháng.
3. Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Theo quy định tại Điều 55 Bộ luật Hình sự 2015 thì khi xét xử cùng 01 lần một người phạm nhiều tội,
Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt theo quy định sau đây:
- Đối với hình phạt chính:
+ Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì các hình
phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không được vượt quá 03 năm đối với
hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn;
Ví dụ 1: Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo A 24 tháng cải tạo không giam giữ về Tội vu khống và 36
tháng cải tạo không giam giữ về Tội cố ý gây thương tích, thì được tổng hợp hình phạt như sau: 24
tháng cải tạo không giam giữ + 36 cải tạo không giam giữ = 36 tháng cải tạo không giam giữ (đây là
hình phạt chung được tổng hợp).
Ví dụ 2: Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo A 20 năm tù giam về Tội giết người, 12 năm tù giam về Tội
cướp tài sản, thì được tổng hợp hình phạt như sau: 20 năm tù giam + 12 năm tù giam = 30 năm tù giam
(đây là hình phạt chung được tổng hợp). lOMoAR cPSD| 61716437
+ Nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam
giữ được chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi
thành 01 ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này;
+ Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tù chung thân thì hình phạt chung là tù chung thân;
+ Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình thì hình phạt chung là tử hình;
+ Phạt tiền không tổng hợp với các loại hình phạt khác; các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung;
+ Trục xuất không tổng hợp với các loại hình phạt khác;
- Đối với hình phạt bổ sung:
+ Nếu các hình phạt đã tuyên là cùng loại thì hình phạt chung được quyết định trong giới hạn do Bộ luật
này quy định đối với loại hình phạt đó; riêng đối với hình phạt tiền thì các khoản tiền phạt được cộng
lại thành hình phạt chung;
+ Nếu các hình phạt đã tuyên là khác loại thì người bị kết án phải chấp hành tất cả các hình phạt đã tuyên.
• Phạm nhiều tội là trường hợp người phạm tội đã phạm những tội khác nhau được quy định trong
Luật hình sự mà những tội này chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và cũng chưa bị
đưa ra xét xử và kết án lần nào nay bị Tòa án đưa ra xét xử cùng một lúc.
• Thực tiễn xét xử thường gặp những vụ án bị cáo phạm nhiều tội, nhưng tùy trường hợp cụ thể
Tòa án có thể xử người phạm tội về nhiều tội hoặc có thể chỉ xử về một tội chủ yếu và coi nhưng
hành vi phạm tội khác chỉ là những tình tiết tăng nặng, cụ thể là:
 Khi người phạm tội có nhiều hành vi, mỗi hành vi cấu thành một tội và nhằm những mục đích
khác nhau,không có quan hệ hữu cơ với nhau, thì cần phải xử về nhiều tội.
 Khi người phạm tội có nhiều hành vi, mỗi hành vi tuy có cấu thành một tội phạm khác nhau,
nhưng có quan hệ với nhau và cùng nhằm một mục đích phạm tội thì cần xử về nhiều tội nếu
các hành vi phạm tội đó đều nghiêm trọng ngang nhau.
 Nếu trong những hành vi phạm tội đó có hành vi ít nghiêm trọng thì có thể chỉ xử về một tội
nghiêm trọng và coi những hành vi khác là tình tiết tăng nặng.
 Trường hợp người phạm tội chỉ có một hành vi, nhưng hành vi này lại cấu thành nhiều tội khác
nhau thì tùy từng vụ án cụ thể mà xét xử về nhiều tội hoặc chỉ xét xử về một tội.
 Trong trường hợp xử bị cáo về nhiều tội, sau khi phân tích, kết luận về từng tội, Tòa án quyết
định hình phạt đối với từng tội, sau đó quyết định hình phạt chung cho các tội.
Ví dụ 1: Bị cáo A phạm 02 tội, ngoài việc bị áp dụng 01 hình phạt chính, còn bị Hội đồng xét xử tuyên
phạt hình phạt bổ sung “Cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định” cho cả 02 tội do A đã thực hiện,
đó là “Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả” (Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 2015) và “Tội in, phát hành,
mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước” (Điều 203 Bộ luật Hình sự năm lOMoAR cPSD| 61716437
2015). Mỗi tội do A thực hiện đều bị phạt hình phạt bổ sung là 05 năm, nhưng tổng hợp hình phạt chung
A phải chấp hành là 05 năm. Vì theo quy định tại Điều 41 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì hình phạt
bổ sung “Cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định” có thời hạn tối đa là 05 năm.
Ví dụ 2: Trường hợp bị cáo phạm một tội bị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là “Cấm đảm
nhiệm chức vụ” và một tội khác bị áp dụng hình phạt bổ sung là “Tịch thu tài sản”, thì tổng hợp hình
phạt chung buộc bị cáo phải chấp hành cả hai loại hình phạt bổ sung này.
4. Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án
Theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự 2015 thì: -
Trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm
trướckhi có bản án này, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định
hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.

Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung. -
Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới,
Tòaán quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của
bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.
-
Trong trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các
hìnhphạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tổng
hợp hình phạt của các bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.

 Ví dụ 1: Bị cáo A đang chấp hành bản án với hình phạt 20 năm tù giam về tội cướp tài sản, A
chấp hành được 10 năm thì Cơ quan điều tra phát hiện A phạm tội giết người trước khi có bản
án đang phải chấp hành. A bị truy tố và đưa ra xét xử. Hội đồng xét xử tuyên phạt A thời hạn
09 năm tù giam về tội giết người. Hình phạt chung A phải chấp hành: (20 năm tù giam + 09 năm
tù giam) - 10 năm tù giam = 19 năm tù giam.
• Ví dụ 2: Bị cáo Phạm Tuất L bị Tòa án nhân dân tỉnh K áp dụng hình phạt tử hình về các tội Giết
người, Cướp tài sản và Hủy hoại tài sản. Phạm Tuất L cùng hai đồng phạm đã có hành vi giết
chủ tàu và một thuyền viên nấu bếp, sau đó cướp tàu để bán dầu, rồi phá tàu cho chìm xuống
biển để phi tang chứng cứ… Trong thời gian chờ thi hành án tử hình đối với Phạm Tuất L, cơ
quan điều tra phát hiện trước đó vào tháng 7/2013, L đã có hành vi lấy trộm 01 chiếc máy tính
bảng trị giá 3.150.000 đồng. Vụ án được khởi tố, điều tra làm rõ. Đến ngày 23/4/2018, Tòa án
nhân dân huyện B, thành phố H mở phiên tòa xét xử Phạm Tuất L về tội Trộm cắp tài sản. L bị
xét xử vắng mặt vì lý do đang bị giam tại Trại tạm giam tỉnh K chờ thi hành án tử hình không
kịp di lý đến thành phố H. Hội đồng xét xử tuyên bố L phạm tội Trộm cắp tài sản và xử phạt 01
năm tù giam, đồng thời tổng hợp hình phạt buộc L chấp hành hình phạt chung của hai bản án là
tử hình (bản án phúc thẩm hồi tháng 01/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố H đã
có hiệu lực pháp luật, L bị xử phạt tử hình)1. Viện kiểm sát nhân dân thành phố H kháng nghị
bản án của Tòa án nhân dân huyện B theo hướng hủy án, với lý do vi phạm nghiêm trọng thủ tục lOMoAR cPSD| 61716437
tố tụng; lập luận rằng việc tổng hợp hình phạt đã vi phạm thẩm quyền xét xử. Cho rằng lẽ ra Tòa
án nhân dân huyện B phải báo cáo với Tòa án nhân dân thành phố H để cấp xét xử này thống
nhất với Viện kiểm sát nhân dân thành phố H rút hồ sơ lên để truy tố, xét xử. Viện kiểm sát nhân
dân thành phố H viện dẫn căn cứ khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 02/2010/NQ-HĐTP ngày
22/10/2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (về việc bổ sung một số hướng
dẫn của Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 và Nghị quyết số 02/2007/NQ-
HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao) về trường hợp này,
thẩm quyền truy tố, xét xử thuộc cấp thành phố. Cụ thể, khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số
02/2010/NQ-HĐTP nêu trên quy định: Trường hợp bị cáo bị truy tố về một hoặc một số tội thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện mà khi thụ lý vụ án xét thấy bị cáo đã bị áp
dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình tại một bản án khác và bản án đó đã có hiệu lực pháp
luật thì Tòa án nhân dân cấp huyện phải báo cáo với Tòa án nhân dân cấp tỉnh để Tòa án nhân
dân cấp tỉnh thống nhất với Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh rút hồ sơ vụ án lên để truy tố, xét xử ở cấp tỉnh.
• Vấn đề đặt ra ở đây là Tòa án nhân huyện B có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hay không?
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì Tòa án nhân dân huyện B xét xử tội trộm cắp tài
sản đúng thẩm quyền, vì đây là tội phạm có khung hình phạt tù có thời hạn dưới 15 năm và cũng
không phải trường hợp nếu Tòa án cấp huyện xét xử một người mà họ phạm 01 tội thuộc thẩm
quyền của mình và 01 tội thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp trên thì vụ án phải được chuyển lên
cấp trên hoặc là các trường hợp khác phải chuyển vụ án. Nếu kết luận Tòa án nhân dân huyện B
vi phạm thẩm quyền xét xử do đã tổng hợp hình phạt là chưa thuyết phục. Bởi vì việc tổng hợp
hình phạt khác với thẩm quyền xét xử. Theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì
Tòa án cấp huyện nói chung, Tòa án nhân dân huyện B có quyền tổng hợp hình phạt, kể cả tổng
hợp hình phạt tử hình. Mặt khác, khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 02/2010/NQ-HĐTP nêu trên
hướng dẫn về việc rút vụ án lên Tòa án cấp tỉnh để xét xử dường như lại đặt ra một thủ tục tố
tụng mới. Theo tác giả, việc hướng dẫn luật là nhằm làm rõ điều luật, để bảo đảm thi hành điều
luật, chứ không phải đặt ra một thủ tục tố tụng mới khi chưa được quy định trong Bộ luật Tố
tụng hình sự. Tác giả cho rằng, sẽ hợp lý hơn khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 pháp điển
hóa thủ tục chuyển vụ án và Bộ luật Hình sự năm 2015 pháp điển hóa việc tổng hợp hình phạt
để tránh những vướng mắc và bảo đảm pháp luật được thống nhất.
• Ví dụ: A phạm tội “Cố ý gây thương tích”, bị Hội đồng xét xử tuyên phạt 10 năm tù giam; bản
án trước về “Tội đánh bạc” A chưa chấp hành hình phạt tiền là 10 triệu đồng. Hình phạt chung
A phải chấp hành: 10 năm tù giam + 10 triệu đồng của hình phạt tiền.
5. Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
Khi quyết định hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, Toà án phải
dựa vào những căn cứ sau:
- Các điều của bộ luật hình sự về các tội phạm tương ứng.
- Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội. lOMoAR cPSD| 61716437
- Căn cứ vào mức độ thực hiện ý định phạm tội.
- Căn nhắc những tình tiết khác khiến người phạm tội không thức hiện được tội phạm đến cùng.
Trong những điều kiện tương đương, tội phạm đã hoàn thành bao giờ cùng nguy hiểm hơn là phạm tội
chưa đạt và càng nguy hiểm hơn so với tội phạm trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Xuất phát từ nhận
thức đó, Khoản 2 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, luật sửa đổi bổ sung năm 2017 nhà làm luật đã quy định
Theo quy định tại Điều 57 Bộ luật Hình sự 2015 thì:
- Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo
cácđiều của Bộ luật Hình sự về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không
thực hiện được đến cùng.

- Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, hình phạt được quyết định trong phạm vi khung hình phạtđược
quy định trong các điều luật cụ thể.
- Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhấtlà
tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức
hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.

• Ví dụ: Tội giết người quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 với khoản 1 quy định
hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình; khoản 2 quy định hình phạt tù
từ 07 năm đến 15 năm tù; khoản 3 quy định: người chuẩn bị phạm tội giết người thì bị phạt tù
từ 01 năm đến 05 năm. Ví dụ khác như: Tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước
ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 120 Bộ luật Hình sự
năm 2015), Tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân
dân (Điều 121 Bộ luật Hình sự năm 2015). Cả hai tội danh này đều quy định tại khoản 3 về
trường hợp người chuẩn bị phạm tội phải chịu hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Trong khung
hình phạt đó, Hội đồng xét xử có thể quyết định mức hình phạt cho các ví dụ nêu trên tối thiểu
phải từ 01 năm tù cho đến tối đa là 05 năm tù, mà không được vượt quá phạm vi đó.
• Ví dụ 1: khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 về Tội giết người quy định hình phạt tù từ
12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Người có hành vi phạm tội chưa đạt trong tội
phạm này chỉ bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn, với mức không quá 20 năm.
• Ví dụ 2: khoản 1 Điều 127 Bộ luật Hình sự năm 2015 về Tội làm chết người trong khi thi hành
công vụ quy định hình phạt tù có thời hạn từ 05 năm đến 10 năm. Người có hành vi phạm tội
chưa đạt trong tội phạm này bị áp dụng hình phạt tù với mức hình phạt không quá ba phần tư
của thời hạn 05 năm đến 10 năm
6. Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm
Khi xác định trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với mỗi người đồng phạm, toà án phải xét đến: lOMoAR cPSD| 61716437 -
Tính chất của đồng phạm: Ảnh hưởng đến tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội
phạmchung mà cả bọn cùng thực hiệ - Tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm:
Tính chất tham gia vào việc phạm tội được quyết định bởi vai trò mà người đồng phạm thực hiện, bởi
tính đặc thù của chức năng, nhiệm vụ cũng như tác dụng của người đó trong hoạt động phạm tội chung.
Xác định mức độ tham gia phụ thuộc vào việc thực hiện tội phạm cũng như hậu quả của tội phạm chung.
Tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự chỉ được áp dụng cho từng người.
Theo quy định tại Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 thì: -
Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án phải xét đến tính chất của
đồngphạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm. -
Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm
nào, thìchỉ áp dụng đối với người đó.
• Ví dụ, A rủ B đến nhà chị C để thực hiện việc trộm cắp tài sản. Khi đến trước cổng nhà chị C,
A trèo tường vào trong nhà tìm kiếm tài sản, còn B đứng ngoài cảnh giới. A lấy được 01 dây
chuyền vàng, chuẩn bị tẩu thoát thì bị chị C phát hiện hô hoán; lúc này A dùng tay đấm một cái
vào mặt chị C và chạy thoát ra ngoài. Chị C bị gãy 02 chiếc răng.
• Hành vi dùng vũ lực của A (người thực hành) tấn công gây thương tích cho chị C, vượt quá vai
trò của B, do đó B chỉ chịu trách nhiệm hình sự về Tội trộm cắp tài sản cùng với A; còn A phải
chịu trách nhiệm hình sự thêm về tội cố ý gây thương tích cho người khác. 7. Miễn hình phạt
Theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự 2015 thì người phạm tội có thể được miễn hình phạt nếu
thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 của Bộ luật Hình sự 2015 mà đáng được
khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự.
Câu 7: So sánh miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt 1. Giống nhau
• Đều là chế định phản ánh chính sách khoan hồng, nhân đạo của luật hình sự Việt Nam.
• Không cách ly họ ra khỏi đời sống xã hội mà tạo điều kiện cho họ nhanh chóng tái hòa nhập
cộng đồng, trở thành người có ích cho xã hội.
• Đều chỉ áp dụng khi đáp ứng đủ các điều kiện luật định.
• Người được miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt đều không phải chịu hậu quả pháp lý
bất lợi của việc phạm tội hoặc của việc quyết định hình phạt và án tích. 2. Khác nhau Tiêu chí
Miễn trách nhiệm hình sự Miễn hình phạt lOMoAR cPSD| 61716437 Khái niệm
Miễn trách nhiệm hình sự là việc ko bắt buộc
người phạm tội phải chịu TNHS về tội mà họ Miễn hình phạt là ko buộc đã thực hiện
người bị kết án phải chịu hình
phạt về tội họ đã thực hiện. Điều kiện
+ Người phạm tội được miễn TNHS khi có một Người phạm tội có nhiều tình
trong những căn cứ sau đây:
tiết giảm nhẹ quy định tại a)
Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét k1,2 Đ54 BLHS năm 2015,
xử,do có sự thay đổi chính sách, pháp luật
đáng được khoan hồng đặc
làm cho hành vi phạm tội không còn nguy
biệt nhưng chưa đến mức hiểm cho xã hội nữa; được miễn TNHS. b)
Khi có quyết định đại xá. Theo quy định khoản 1,2
Điều 54 “1. Tòa án có thể
+ Người phạm tội có thể được miễn TNHS khi quyết định một hình phạt
có một trong các căn cứ sau:
dưới mức thấp nhất của
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do khung hình phạt được áp
chuyển biến của tình hình mà người phạm tội dụng nhưng phải trong khung
không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
hình phạt liền kề nhẹ
hơn của điều luật khi người b)
Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét phạm tội có ít nhất hai tình
xử,người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn tiết giảm nhẹ quy định tại
đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hội nữa; này. c)
Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, 2. Tòa án có thể quyết định
gópphần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều một hình phạt dưới mức thấp
tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất của khung hình phạt
được áp dụng nhưng không
nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc bắt buộc phải trong khung
có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội hình phạt liền kề nhẹ hơn của thừa nhận.
điều luật đối với người phạm
tội lần đầu là người giúp sức
+ Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng trong vụ án đồng phạm nhưng
hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt có vai trò không đáng kể.”
hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm hoặc tài sản của người khác và được
người bị hại hoặc người đại diện của người bị
hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách
nhiệm hình sự, thì có thể được miễn TNHS. lOMoAR cPSD| 61716437
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án Tòa án Thẩm quyền áp dụng Hậu quả pháp lý Có án tích nhưng thuộc - Không có án tích.
trường hợp đương nhiên được -
Có tính khoan hồng cao hơn so với xóa án tích. miễnhình phạt Đối tượng
Đối tượng của MTNHS có thể là người đã bị Người đã bị kết án bằng một
kết án hoặc chưa bị kết án.
bản án có hiệu lực pháp luật. Các trường hợp
Miễn hình phạt chỉ đc quy được miễn TNHS
định ở 2 điều luật đó là Điều và miễn hình phạt.
- Các TH miễn TNHS bao gồm tự ý nửa chừng 59 và khoản 3 Điều 390 tội
chấm dứt việc phạm tội Điều 16; người chưa không tố giác tội phạm.
thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc
nghiêm trọng, gây hại ko lớn, có nhiều tình tiết
giảm nhẹ...Điều 91; người đã nhận làm gián
điệp, nhưng ko thực hiện nhiệm vụ được giao
và tự thú, thành khẩn khai báo Điều 110; người
không tố giác có hành động can ngăn người
phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm
khoản 3 Điều 390 tội không tố giác tội phạm
Câu 8: So sánh miễn hình phạt và miễn chấp hành hình phạt 1. Giống nhau
• Miễn hình phạt và miễn chấp hành hình phạt đều là đều thuộc hệ thống các biện pháp tha miễn
trong luật hình sự nước ta, thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo trong chính sách hình sự nói chung
và của luật hình sự Việt Nam nói riêng.
• Miễn hình phạt và miễn chấp hành hình phạt chỉ có thể áp dụng đối với người nào bị coi là có
lỗi trong việc thực hiện chính tội phạm đó. Nói cách khác, hành vi nguy hiểm cho xã hội do
người đó thực hiện bị pháp luật hình sự cấm (Bộ luật hình sự (BLHS) quy định là tội phạm).
• Miễn hình phạt và miễn chấp hành hình phạt chỉ có thể áp dụng khi có đầy đủ căn cứ pháp lý và
những điều kiện cụ thể do pháp luật hình sự quy định tương ứng trong từng trường hợp cụ thể. 2. Khác nhau Tiêu chí Miễn hình phạt
Miễn chấp hành hình phạt