đồ tổ chức Bộ máy n nước thời
như thế nào? những ưu, nhược điểm gì?
1. Lịch sử hình thành phát triển nhà
Nhà đã ghi tên mình vào lịch sử Việt Nam bằng chiến thắng oanh liệt
của Lợi trước quân Minh. Sau "Bình Ngô đại cáo", kỉ nguyên mới của
nước Đại Việt bắt đầu, kỉ nguyên của triều đại - một trong những triều
đại rực rỡ nhất của nền phong kiến Việt Nam. thể chia triều thành 3
giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất: 1428 - 1459, với 4 triều vua: Thái Tổ (1428 - 1433),
Thái Tông (1434 - 1442), Lê Nhân Tông (1453 - 1459), Nghi Dân
(1459).
Lợi - Thủ lĩnh tối cao của nghĩa quân Lam Sơn cũng vị vua đầu tiên mở
đầu triều đại đã nhanh chóng triển khai công việc quản đất nước thời
hậu chiến, khắc phục hậu quả chiến tranh.
Năm 1433, Thái Tổ mất. Thái tử Nguyên Long lên nối ngôi (vua Thái
Tông). Đại đồ Sát, khấu đô Tổng quản Ngân phụ chính. Với thời
gian, lần lượt Sát rồi Ngân đều “mắc tội chuyên quyền” “làm trái
đạo”,... rồi bị tội chết. Thái Tông trực tiếp nắm quyền.
Năm 1442, Thái Tông mất, Thái Tử Bang mới 2 tuổi lên ngôi (Vua
Nhân Tông). Tuyên t Thái hậu Nguyễn Thị Anh nhiếp chính. Triều đình
tiếp tục cảnh lục đục, rối loạn. Nhiều công thần bị giết. Đám quan triều tham ô,
hối lộ,... 11 năm sau (1453), Nhân Tông nắm quyền lực, cố gắng vãn hồi tình
hình thì lại xảy ra cuộc chính biến năm 1459 do Nghi Dân cầm đầu. Mẹ
con vua Nhân ng bị giết. Nghi Dân tự lập làm vua. Tám tháng sau,
Nguyễn Xí, Đinh Liệt,... các công thần, tướng lĩnh thời Lam Sơn nổi binh phế
truất Nghi Dân, đưa hoàng đế Thành 14 tuổi lên ngôi.
Giai đoạn thứ hai: Từ khi Thành lên ngôi (tức Lê Thánh Tông:
1460 - 1497) rồi đến Hiến Tông (1498 - 1504).
Triều Thái Tông liên tục tiến hành hàng loạt công việc cải tổ, củng cố bộ
máy hành chính quốc gia. Nhiều công việc được tiến hành dưới triều đại của
Thánh Tông, đã ghi vào lịch sử dân tộc kèm với chữ Hồng Đức - niên hiệu
thứ hai u nhất của triều vua này (1470 - 1497) như đê Hồng Đức, bản đồ
Hồng Đức, giáo dục Hồng Đức, luật Hồng Đức, quan chế Hồng Đức, thơ văn
Hồng Đức,... Chiếm hơn một phần ba thời gian thời kỳ Sơ, giai đoạn trị
của Thánh Tông được coi thịnh trị nhất không chỉ của thời Lê còn
vị trí nổi bật về xây dựng đất nước phục hưng dân tộc trong lịch sử các
vương triều phong kiến Việt Nam.
Giai đoạn thứ ba: 1504 - 1527, giai đoạn suy yếu của triều đình .
Chỉ gần một phần thế kỉ của tình trạng tranh quyền đoạt lợi giữa các phe
cánh (giữa anh em trong hoàng tộc, giữa hoàng tộc ngoại thích,...) đã lần
lượt ném lên ngai ng những “vua quỷ” (Lê Uy Mục 1505 - 1509), vua lợn”
(Lê Tương Dực 1510 - 1516), Chiêu Tông, Cung Hoàng,... Cho
đến năm 1527, Mạc Đăng Dung phế bỏ Cung Hoàng, khai tử triều sơ, lập
nên n Mạc.
2. đồ tổ chức bộ y nhà nước thời
Tổ chức bộ máy nhà nước thời Lê thể được th hiện bằng đồ sau
đây:
thể nói rằng, bộ máy nhà nước triều đã đạt đến đỉnh cao bộ
máy nhà nước hoàn chỉnh, chi tiết nhất trong số c triều đại phong kiến Việt
Nam. Cụ thể, thể phân tích b máy nhà nước triều trên các lĩnh vực
chính trị (chính quyền), quân đội, luật pháp, văn hóa - giáo dục kinh tế -
hội.
2.1. Tổ chức bộ máy chính quyền thời
Ngay sau khi quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi, Lợi lên ngôi hoàng đế,
khôi phục quốc hiệu Đại Việt bắt tay xây dựng lại đất nước.
Chính quyền phong kiến dưới thời rất phát triển hoàn thiện nhất
dưới thời Thánh Tông trị . Đối với bộ máy chính quyền, đứng đầu triều
đình vua. Vua trực tiếp nắm mọi quyền hành, kể cả chức tổng chỉ huy quân
đội. Giúp việc cho vua các quan đại thần. triều đình sáu bộ : Lại, Hộ,
Lễ, Binh, Hình, Công. Ngoài ra, còn một số quan chuyên môn như Hàn
lâm viện (soạn thảo công văn), Quốc sử viện (viết sử), Ngự sử đài (can gián
vua các triều thần).
Dưới thời Thái Tổ, Thái Tông, cả nước chia làm 5 đạo; từ thời Thánh
Tông, được chia lại thành 13 đạo thừa tuyên. Đứng đầu mỗi đạo thừa tuyên
ba ti phụ trách ba mặt hoạt động khác nhau của mỗi đạo. Dưới đạo phủ,
châu, huyện xã.
13 đạo thừa tuyên dưới thời gồm: Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa,
Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, An Bang, ng Hóa, Tuyên
Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Quảng Nam một phủ Trung Đô (Thăng
Long).
2.2. Tổ chức quân đội dưới thời
Dưới thời Sơ, các chính sách, chế độ về quân đội đã được phát triển
kiện toàn. Nhà nước nắm độc quyền trong t chức lực lượng quân sự. Toàn
bộ quân đội trên cả nước được đặt dưới sự thống nhất của triều đình đại
diện nhà vua. Dưới thời sơ, các ơng hầu, quý tộc không quyền tổ
chức quân đội riêng n dưới thời Trần.
Đặc biệt, nhà luôn nêu cao quan điểm "bách tính giai vi binh” (trăm họ
đều lính). Chính vậy, nhà đã triển khai nhiều chính sách, chế độ binh
lính. Đến thời Thánh Tông, những quy định này trở thành thể chế: Nhà
nào 3 đinh thì một người đồ bổ làm lính tráng, một người bổ hạng quân, một
người bổ hạng dân. Nhà nào 4 đinh thì hai người bổ hạng quân, hai người bổ
hạng dân.
Nhà cũng đặc biệt chú ý đến các vấn đề biên viễn vai trò của đồng
bào các dân tộc thiểu số, những chính sách thích hợp, kịp thời để khai
thác sức mạnh của nhân dân trong công tác bảo vệ biên cương của Tổ quốc.
Quân đội thời được tổ chức theo chế đ “ngụ binh ư nông”; khi đất
nước ngoại xâm thì tất cả quân lính đều tại ngũ chiến đấu ng toàn dân;
khi hòa bình thì thay phiên nhau về làm ruộng. Quân đội hai bộ phận chính:
quân triều đình quân các địa phương; bao gồm bộ binh, thủy binh,
tượng binh, kị binh. khí đao, kiếm, giáo, mác, cung tên, hỏa đồng, hỏa
pháo. Hằng năm, quân lính được luyện tập nghệ, chiến trận. Vùng biên
giới đều bố trí quân đội mạnh canh phòng bảo vệ, không để xâm lấn.
2.3. Tổ chức luật pháp dưới thời
Dưới thời các vua Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông, pháp luật đã
được chú ý xây dựng. Vua Thánh Tông cho biên soạn ban hành một bộ
luật mới gọi bộ Quốc triều nh luật hay Luật Hồng Đức. Nội dung chính
của bộ luật bảo vệ quyền lợi của vua, hoàng tộc; bảo vệ quyền lợi của
quan lại giai cấp thống trị, địa chủ phong kiến. Đặc biệt, b luật những
điều luật bảo vệ chủ quyền quốc gia, khuyến khích phát triển kinh tế, gìn giữ
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, bảo vệ một số quyền lợi của phụ nữ.
thể nói đây là một bước tiến lớn trong tiến trình phát triển của pháp luật
Việt Nam. Bộ luật Hồng Đức đã những tưởng, điều luật đổi mới cùng
tân tiến so với thời phong kiến so với các triều đại trước.
2.4. Tổ chức văn hóa - giáo dục dưới thời
Ngay sau khi lên ngôi vua, Lê Thái Tổ cho dựng lại Quốc tử giám kinh
thành Thăng Long, mở trường học các lộ, mở khoa thi cho phép người
nào học đều được dự thi. Đa số dân đều thể đi học, đi thi trừ những kẻ
phạm tội làm nghề ca hát. các đạo, phủ trường công. Nhà nước
tuyển chọn người giỏi, đạo đức để làm thầy giáo. Nội dung học tập thi cử
các sách của đạo Nho. Thời sơ, Nho giáo chiếm địa vị độc n; Phật
giáo, Đạo giáo b hạn chế.
Thời (1428 - 1527) tổ chức được 26 khoa thi tiến sĩ, lấy đỗ 989 tiến sĩ,
20 trạng nguyên. Riêng thời vua Lê Thánh Tông (1460 1497) tổ chức được
12 khoa thi tiến , lấy đỗ 501 tiến sĩ, 9 trạng nguyên.
Bên cạnh đó, văn học phát triển mạnh mẽ cả trên địa hạt chữ Hán chữ
Nôm, với các tác phẩm nổi tiếng n Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại
cáo, Quỳnh uyển cửu ca, Quốc âm thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập,... Sử
học, Địa lý, Toán học, Y học, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc hội họa cũng
cùng phát triển đạt được những thành tựu rực rỡ.
2.5. Tổ chức kinh tế - hội dưới thời
Trong hơn hai mươi năm dưới ách đô hộ của nhà Minh, nước ta đã lâm vào
tình trạng điêu tàn, bị tàn phá về mọi mặt. Ruộng đồng bị bỏ hoang, các làng
nghề tan tác, đời sống nhân dân cực khổ. Để khắc phục tình trạng y, triều
đã nhiều biện pháp xây dựng lại kinh tế - hội, cụ thể là:
Đối với nông nghiệp, để nhanh chóng phục hồi phát triển nông nghiệp, vua
Thái Tổ cho 25 vạn lính (trong tổng số 35 vạn) về quê m ruộng ngay sau
chiến tranh. Còn lại 10 vạn người được chia làm 5 phiên thay nhau về quê
sản xuất. Nhà Lê kêu gọi nhân dân phiêu tán trở về quê hương làm ruộng,
đặt ra một số chức quan chuyên lo về nông nghiệp như Khuyến nông sứ,
đê sứ, Đồn điền sứ, định lại chính sách chia ruộng đất công ng gọi
phép quân điền, cấm giết trâu bừa bãi, cấm điều động dân phu trong
mùa cấy gặt. Để khai phá vùng đất bồi ven biển, n đắp nhiều con đê
ngăn nước mặn đá chắc chắn.
Đối với công thương nghiệp, các ngành, nghề thủ công truyền thống các
làng như kéo tơ, dệt lụa, đan lát, làm nón, đúc đồng, rèn sắt, làm đ gốm...
ngày càng phát triển. Nhiều làng thủ công chuyên nghiệp nổi tiếng ra đời.
Thăng Long nơi tập trung nhiều ngành ngh thủ công nhất. Các làng thủ
công chuyên nghiệp nổi tiếng như Hợp Lễ, Chu Đậu (Hải Dương), Bát Tràng
(Hà Nội) làm đồ gốm; làng Đại Bái (Bắc Ninh) đúc đồng; làng Vân Chàng
(Nam Định) rèn sắt,... Các phường th công kinh thành Thăng Long như
phường Nghi Tàm dệt vải nhỏ lụa, phường Yên Thái làm giấy, phường
Hàng Đào nhuộm điều... Các công xưởng do nhà nước quản cọi Cục
bách tác, sản xuất đồ dùng cho nhà vua, khí, đóng thuyền, đúc tiền đồng...
các nghề khai mỏ đồng, sắt, vàng được đẩy mạnh. Nhà vua khuyến khích lập
chợ mới, họp chợ, ban hành những điều lệ cụ thể quy định việc thành lập chợ
họp chợ. Việc buôn bán với nước ngoài được duy trì. Thuyền các
nước láng giềng qua lại buôn bán một số cửa khẩu như Vân Đồn, Vạn Ninh,
Hội Thống một số địa điểm Lạng Sơn, Tuyên Quang được kiểm soát
chặt chẽ. Các sản phẩm sành, sứ, vải, lụa, lâm sản quý những thứ hàng
được thương nhân nước ngoài ưa chuộng.
Trong hội nhà Lê, nông dân chiếm đại đa số, trong khi đó, tầng lớp thương
nhân, thợ thủ công cũng phát triển ngày càng nhiều cả về số lượng chất
lượng. Trong đó, tầng lớp thấp kém nhất trong hội, tuy nhiên nhờ
pháp luật thời Sơ hạn chế nghiêm ngặt việc tự bán mình làm hoặc bức
dân tự do làm tì, nên số lượng ngày càng giảm.
Đồng thời, nhờ sự nỗ lực của nhân dân chính sách khuyến nông của nhà
nước, cuộc sống của nhân dân được ổn định, dân số ngày càng tăng. Nhiều
làng mới được thành lập. Nền độc lập thống nhất của đất nước được củng
cố. Quốc gia Đại Việt quốc gia cường thịnh nhất Đông Nam Á thời bấy
giờ.
3. Nhận xét ưu, nhược điểm của b máy nhà nước thời
Về ưu điểm, bộ máy nhà nước thời Sơ thể được coi bộ máy nhà
nước tân tiến nhất, phát triển đến mức hoàn chỉnh trong các bộ máy n
nước phong kiến Việt Nam. Dưới thời Sơ, đặc biệt thời gian Thánh
Tông trị vì, Việt Nam phát triển toàn diện về mọi mặt, trở thành một cường
quốc trong khu vực lúc bấy giờ.
Tuy nhiên, trong bộ máy nhà nước vẫn còn tồn tại một số nhược điểm. Bộ
máy nhà nước thời mang tính quan liêu, tập quyền, thiếu tính đại diện
do đó chưa thực sự lắng nghe nguyện vọng của nhân dân. Bên cạnh đó,
bộ máy nhà nước mang tính tản quyền khi xóa bỏ toàn bộ các quan trung
gian, mọi quyền lực đều tập trung trong tay vua. Do đó, khi vua làm chưa hay,
chưa phải, sự can gián từ quan lại, triều đình khó đến kịp lúc.

Preview text:

Sơ đồ tổ chức Bộ máy nhà nước thời Lê sơ
như thế nào? Có những ưu, nhược điểm gì?
1. Lịch sử hình thành và phát triển nhà Lê Sơ
Nhà Lê Sơ đã ghi tên mình vào lịch sử Việt Nam bằng chiến thắng oanh liệt
của Lê Lợi trước quân Minh. Sau "Bình Ngô đại cáo", kỉ nguyên mới của
nước Đại Việt bắt đầu, kỉ nguyên của triều đại Lê Sơ - một trong những triều
đại rực rỡ nhất của nền phong kiến Việt Nam. Có thể chia triều Lê Sơ thành 3 giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất: 1428 - 1459, với 4 triều vua: Lê Thái Tổ (1428 - 1433),
Lê Thái Tông (1434 - 1442), Lê Nhân Tông (1453 - 1459), Lê Nghi Dân (1459).
Lê Lợi - Thủ lĩnh tối cao của nghĩa quân Lam Sơn cũng là vị vua đầu tiên mở
đầu triều đại Lê Sơ đã nhanh chóng triển khai công việc quản lý đất nước thời
hậu chiến, khắc phục hậu quả chiến tranh.
Năm 1433, Lê Thái Tổ mất. Thái tử Nguyên Long lên nối ngôi (vua Lê Thái
Tông). Đại Tư đồ Lê Sát, Tư khấu đô Tổng quản Lê Ngân phụ chính. Với thời
gian, lần lượt Lê Sát rồi Lê Ngân đều “mắc tội chuyên quyền” “làm trái
đạo”,... rồi bị tội chết. Lê Thái Tông trực tiếp nắm quyền.
Năm 1442, Lê Thái Tông mất, Thái Tử Bang Cơ mới 2 tuổi lên ngôi (Vua Lê
Nhân Tông). Tuyên từ Thái hậu Nguyễn Thị Anh nhiếp chính. Triều đình Lê
tiếp tục cảnh lục đục, rối loạn. Nhiều công thần bị giết. Đám quan triều tham ô,
hối lộ,... 11 năm sau (1453), Nhân Tông nắm quyền lực, cố gắng vãn hồi tình
hình thì lại xảy ra cuộc chính biến năm 1459 do Lê Nghi Dân cầm đầu. Mẹ
con vua Lê Nhân Tông bị giết. Lê Nghi Dân tự lập làm vua. Tám tháng sau,
Nguyễn Xí, Đinh Liệt,... các công thần, tướng lĩnh thời Lam Sơn nổi binh phế
truất Nghi Dân, đưa hoàng đế Lê Tư Thành 14 tuổi lên ngôi.
Giai đoạn thứ hai: Từ khi Lê Tư Thành lên ngôi (tức Lê Thánh Tông:
1460 - 1497) rồi đến Lê Hiến Tông (1498 - 1504).
Triều Lê Thái Tông liên tục tiến hành hàng loạt công việc cải tổ, củng cố bộ
máy hành chính quốc gia. Nhiều công việc được tiến hành dưới triều đại của
Lê Thánh Tông, đã ghi vào lịch sử dân tộc kèm với chữ Hồng Đức - niên hiệu
thứ hai và lâu nhất của triều vua này (1470 - 1497) như đê Hồng Đức, bản đồ
Hồng Đức, giáo dục Hồng Đức, luật Hồng Đức, quan chế Hồng Đức, thơ văn
Hồng Đức,... Chiếm hơn một phần ba thời gian thời kỳ Lê Sơ, giai đoạn trị vì
của Lê Thánh Tông được coi là thịnh trị nhất không chỉ của thời Lê sơ mà còn
có vị trí nổi bật về xây dựng đất nước và phục hưng dân tộc trong lịch sử các
vương triều phong kiến Việt Nam.
Giai đoạn thứ ba: 1504 - 1527, là giai đoạn suy yếu của triều đình Lê Sơ.
Chỉ gần một phần tư thế kỉ của tình trạng tranh quyền đoạt lợi giữa các phe
cánh (giữa anh em trong hoàng tộc, giữa hoàng tộc và ngoại thích,. .) đã lần
lượt ném lên ngai vàng những “vua quỷ” (Lê Uy Mục 1505 - 1509), “ vua lợn”
(Lê Tương Dực 1510 - 1516), Lê Chiêu Tông, Lê Cung Hoàng,... Cho
đến năm 1527, Mạc Đăng Dung phế bỏ Cung Hoàng, khai tử triều Lê sơ, lập nên nhà Mạc.
2. Sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước thời Lê Sơ
Tổ chức bộ máy nhà nước thời Lê Sơ có thể được thể hiện bằng sơ đồ sau đây:
Có thể nói rằng, bộ máy nhà nước triều Lê Sơ đã đạt đến đỉnh cao và là bộ
máy nhà nước hoàn chỉnh, chi tiết nhất trong số các triều đại phong kiến Việt
Nam. Cụ thể, có thể phân tích bộ máy nhà nước triều Lê Sơ trên các lĩnh vực
chính trị (chính quyền), quân đội, luật pháp, văn hóa - giáo dục và kinh tế - xã hội.
2.1. Tổ chức bộ máy chính quyền thời Lê Sơ
Ngay sau khi quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế,
khôi phục quốc hiệu là Đại Việt và bắt tay xây dựng lại đất nước.
Chính quyền phong kiến dưới thời Lê Sơ rất phát triển và hoàn thiện nhất
dưới thời Lê Thánh Tông trị vì. Đối với bộ máy chính quyền, đứng đầu triều
đình là vua. Vua trực tiếp nắm mọi quyền hành, kể cả chức tổng chỉ huy quân
đội. Giúp việc cho vua có các quan đại thần. Ở triều đình có sáu bộ : Lại, Hộ,
Lễ, Binh, Hình, Công. Ngoài ra, còn có một số cơ quan chuyên môn như Hàn
lâm viện (soạn thảo công văn), Quốc sử viện (viết sử), Ngự sử đài (can gián vua và các triều thần).
Dưới thời Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, cả nước chia làm 5 đạo; từ thời Thánh
Tông, được chia lại thành 13 đạo thừa tuyên. Đứng đầu mỗi đạo thừa tuyên
là ba ti phụ trách ba mặt hoạt động khác nhau của mỗi đạo. Dưới đạo có phủ, châu, huyện và xã.
13 đạo thừa tuyên dưới thời Lê Sơ gồm: Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa,
Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, An Bang, Hưng Hóa, Tuyên
Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Quảng Nam và một phủ Trung Đô (Thăng Long).
2.2. Tổ chức quân đội dưới thời Lê Sơ
Dưới thời Lê Sơ, các chính sách, chế độ về quân đội đã được phát triển và
kiện toàn. Nhà nước nắm độc quyền trong tổ chức lực lượng quân sự. Toàn
bộ quân đội trên cả nước được đặt dưới sự thống nhất của triều đình mà đại
diện là nhà vua. Dưới thời Lê sơ, các vương hầu, quý tộc không có quyền tổ
chức quân đội riêng như dưới thời Trần.
Đặc biệt, nhà Lê sơ luôn nêu cao quan điểm "bách tính giai vi binh” (trăm họ
đều là lính). Chính vì vậy, nhà Lê đã triển khai nhiều chính sách, chế độ binh
lính. Đến thời Lê Thánh Tông, những quy định này trở thành thể chế: Nhà
nào 3 đinh thì một người đồ bổ làm lính tráng, một người bổ hạng quân, một
người bổ hạng dân. Nhà nào 4 đinh thì hai người bổ hạng quân, hai người bổ hạng dân.
Nhà Lê sơ cũng đặc biệt chú ý đến các vấn đề biên viễn và vai trò của đồng
bào các dân tộc thiểu số, có những chính sách thích hợp, kịp thời để khai
thác sức mạnh của nhân dân trong công tác bảo vệ biên cương của Tổ quốc.
Quân đội thời Lê sơ được tổ chức theo chế độ “ngụ binh ư nông”; khi đất
nước có ngoại xâm thì tất cả quân lính đều tại ngũ chiến đấu cùng toàn dân;
khi hòa bình thì thay phiên nhau về làm ruộng. Quân đội có hai bộ phận chính:
quân ở triều đình và quân ở các địa phương; bao gồm bộ binh, thủy binh,
tượng binh, kị binh. Vũ khí có đao, kiếm, giáo, mác, cung tên, hỏa đồng, hỏa
pháo. Hằng năm, quân lính được luyện tập võ nghệ, chiến trận. Vùng biên
giới đều có bố trí quân đội mạnh canh phòng và bảo vệ, không để xâm lấn.
2.3. Tổ chức luật pháp dưới thời Lê Sơ
Dưới thời các vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, pháp luật đã
được chú ý xây dựng. Vua Lê Thánh Tông cho biên soạn và ban hành một bộ
luật mới gọi là bộ Quốc triều hình luật hay Luật Hồng Đức. Nội dung chính
của bộ luật là bảo vệ quyền lợi của vua, hoàng tộc; bảo vệ quyền lợi của
quan lại và giai cấp thống trị, địa chủ phong kiến. Đặc biệt, bộ luật có những
điều luật bảo vệ chủ quyền quốc gia, khuyến khích phát triển kinh tế, gìn giữ
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, bảo vệ một số quyền lợi của phụ nữ.
Có thể nói đây là một bước tiến lớn trong tiến trình phát triển của pháp luật
Việt Nam. Bộ luật Hồng Đức đã có những tư tưởng, điều luật đổi mới vô cùng
tân tiến so với thời kì phong kiến và so với các triều đại trước.
2.4. Tổ chức văn hóa - giáo dục dưới thời Lê Sơ
Ngay sau khi lên ngôi vua, Lê Thái Tổ cho dựng lại Quốc tử giám ở kinh
thành Thăng Long, mở trường học ở các lộ, mở khoa thi và cho phép người
nào có học đều được dự thi. Đa số dân đều có thể đi học, đi thi trừ những kẻ
phạm tội và làm nghề ca hát. Ở các đạo, phủ có trường công. Nhà nước
tuyển chọn người giỏi, có đạo đức để làm thầy giáo. Nội dung học tập thi cử
là các sách của đạo Nho. Thời Lê sơ, Nho giáo chiếm địa vị độc tôn; Phật
giáo, Đạo giáo bị hạn chế.
Thời Lê sơ (1428 - 1527) tổ chức được 26 khoa thi tiến sĩ, lấy đỗ 989 tiến sĩ,
20 trạng nguyên. Riêng thời vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497) tổ chức được
12 khoa thi tiến sĩ, lấy đỗ 501 tiến sĩ, 9 trạng nguyên.
Bên cạnh đó, văn học phát triển mạnh mẽ cả trên địa hạt chữ Hán và chữ
Nôm, với các tác phẩm nổi tiếng như Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại
cáo, Quỳnh uyển cửu ca, Quốc âm thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập,... Sử
học, Địa lý, Toán học, Y học, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và hội họa cũng
vô cùng phát triển và đạt được những thành tựu rực rỡ.
2.5. Tổ chức kinh tế - xã hội dưới thời Lê Sơ
Trong hơn hai mươi năm dưới ách đô hộ của nhà Minh, nước ta đã lâm vào
tình trạng điêu tàn, bị tàn phá về mọi mặt. Ruộng đồng bị bỏ hoang, các làng
nghề tan tác, đời sống nhân dân cực khổ. Để khắc phục tình trạng ấy, triều
Lê Sơ đã có nhiều biện pháp xây dựng lại kinh tế - xã hội, cụ thể là:
Đối với nông nghiệp, để nhanh chóng phục hồi và phát triển nông nghiệp, vua
Lê Thái Tổ cho 25 vạn lính (trong tổng số 35 vạn) về quê làm ruộng ngay sau
chiến tranh. Còn lại 10 vạn người được chia làm 5 phiên thay nhau về quê
sản xuất. Nhà Lê kêu gọi nhân dân phiêu tán trở về quê hương làm ruộng,
đặt ra một số chức quan chuyên lo về nông nghiệp như Khuyến nông sứ, Hà
đê sứ, Đồn điền sứ, định lại chính sách chia ruộng đất công làng xã gọi
là phép quân điền, cấm giết trâu bò bừa bãi, cấm điều động dân phu trong
mùa cấy gặt. Để khai phá vùng đất bồi ven biển, nhà Lê đắp nhiều con đê
ngăn nước mặn có kè đá chắc chắn.
Đối với công thương nghiệp, các ngành, nghề thủ công truyền thống ở các
làng xã như kéo tơ, dệt lụa, đan lát, làm nón, đúc đồng, rèn sắt, làm đồ gốm. .
ngày càng phát triển. Nhiều làng thủ công chuyên nghiệp nổi tiếng ra đời.
Thăng Long là nơi tập trung nhiều ngành nghề thủ công nhất. Các làng thủ
công chuyên nghiệp nổi tiếng như Hợp Lễ, Chu Đậu (Hải Dương), Bát Tràng
(Hà Nội) làm đồ gốm; làng Đại Bái (Bắc Ninh) đúc đồng; làng Vân Chàng
(Nam Định) rèn sắt,... Các phường thủ công ở kinh thành Thăng Long như
phường Nghi Tàm dệt vải nhỏ và lụa, phường Yên Thái làm giấy, phường
Hàng Đào nhuộm điều... Các công xưởng do nhà nước quản lý cọi là Cục
bách tác, sản xuất đồ dùng cho nhà vua, vũ khí, đóng thuyền, đúc tiền đồng...
các nghề khai mỏ đồng, sắt, vàng được đẩy mạnh. Nhà vua khuyến khích lập
chợ mới, họp chợ, ban hành những điều lệ cụ thể quy định việc thành lập chợ
và họp chợ. Việc buôn bán với nước ngoài được duy trì. Thuyền bè các
nước láng giềng qua lại buôn bán ở một số cửa khẩu như Vân Đồn, Vạn Ninh,
Hội Thống và một số địa điểm ở Lạng Sơn, Tuyên Quang được kiểm soát
chặt chẽ. Các sản phẩm sành, sứ, vải, lụa, lâm sản quý là những thứ hàng
được thương nhân nước ngoài ưa chuộng.
Trong xã hội nhà Lê, nông dân chiếm đại đa số, trong khi đó, tầng lớp thương
nhân, thợ thủ công cũng phát triển ngày càng nhiều cả về số lượng và chất
lượng. Trong đó, nô tì là tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội, tuy nhiên nhờ
pháp luật thời Lê Sơ hạn chế nghiêm ngặt việc tự bán mình làm nô hoặc bức
dân tự do làm nô tì, nên số lượng nô tì ngày càng giảm.
Đồng thời, nhờ sự nỗ lực của nhân dân và chính sách khuyến nông của nhà
nước, cuộc sống của nhân dân được ổn định, dân số ngày càng tăng. Nhiều
làng mới được thành lập. Nền độc lập và thống nhất của đất nước được củng
cố. Quốc gia Đại Việt là quốc gia cường thịnh nhất ở Đông Nam Á thời bấy giờ.
3. Nhận xét ưu, nhược điểm của bộ máy nhà nước thời Lê Sơ
Về ưu điểm, bộ máy nhà nước thời Lê Sơ có thể được coi là bộ máy nhà
nước tân tiến nhất, phát triển đến mức hoàn chỉnh trong các bộ máy nhà
nước phong kiến Việt Nam. Dưới thời Lê Sơ, đặc biệt là thời gian Lê Thánh
Tông trị vì, Việt Nam phát triển toàn diện về mọi mặt, trở thành một cường
quốc trong khu vực lúc bấy giờ.
Tuy nhiên, trong bộ máy nhà nước vẫn còn tồn tại một số nhược điểm. Bộ
máy nhà nước thời Lê Sơ mang tính quan liêu, tập quyền, thiếu tính đại diện
và do đó chưa thực sự lắng nghe nguyện vọng của nhân dân. Bên cạnh đó,
bộ máy nhà nước mang tính tản quyền khi xóa bỏ toàn bộ các cơ quan trung
gian, mọi quyền lực đều tập trung trong tay vua. Do đó, khi vua làm chưa hay,
chưa phải, sự can gián từ quan lại, triều đình khó đến kịp lúc.
Document Outline

  • Sơ đồ tổ chức Bộ máy nhà nước thời Lê sơ như thế n
    • 1. Lịch sử hình thành và phát triển nhà Lê Sơ
    • 2. Sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước thời Lê Sơ
      • 2.1. Tổ chức bộ máy chính quyền thời Lê Sơ
      • 2.2. Tổ chức quân đội dưới thời Lê Sơ
      • 2.3. Tổ chức luật pháp dưới thời Lê Sơ
      • 2.4. Tổ chức văn hóa - giáo dục dưới thời Lê Sơ
      • 2.5. Tổ chức kinh tế - xã hội dưới thời Lê Sơ
    • 3. Nhận xét ưu, nhược điểm của bộ máy nhà nước thờ