






Preview text:
Sơ lược Triết học của Trung Quốc thời kỳ cổ đại và trung đại
1. Điều kiện ra đời triết học của Trung Quốc
Trung Quốc là một trong những chiếc nôi văn minh của nhân loại, là trung
tâm văn hoá và triết học rực rỡ, phong phú của phương Đông. Sự hình thành
và phát triển của các tư tưởng triết học Trung Quốc cổ, trung đại gắn liền với
quá trình biến đổi của điều kiện kinh tế - xã hội, văn hoá và sự phát triển của
những mầm mống khoa học tự nhiên trong xã hội Trung Quốc qua từng thời kỳ.
1.1 Điều kiện tự nhiên
Trung Quốc cổ, trung đại là một quốc gia rộng lớn, phía Bắc xa biển, khí hậu
khắc nghiệt, đất đai khô cằn; phía Nam có sông Hoàng Hà, Dương Tử, khí
hậu thuận lợi; phía Đông là biển với địa hình phức tạp; phía Tây là các dãy núi cao.
1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội và văn hoá
- Thời Xuân thu (770 - 475 TCN), công cụ lao động và sự phân công lao động
đã phát triển khá mạnh; có lưỡi cày bằng sắt và đã dùng bò kéo, thuỷ nông
góp phần nâng cao năng suất lao động, chăn nuôi đã tách khỏi tách khỏi
trồng trọt; thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển, xuất hiện các nghề
mới như luyện kim, đúc, rèn sắt, nhôm, đồ gốm; nông dân vỡ hoang tạo ra
nhiều số lượng ruộng tư, quý tộc phong kiến chiếm đoạt đất công tạo ra chế
độ sở hữu tư nhân về ruộng đất. Trung Quốc cổ, trung đại bị chia ra thành
các nước Tề, Tấn, Tần, Sở, Tống và về sau thêm Ngô, Việt. Người dân càng
đói khổ hơn vì các cuộc chiến tranh đó.
- Thời Chiến quốc (475 - 221 TCN), công cụ và sự phân công lao động phát
triển mạnh hơn. Nghề luyện sắt hưng thịnh; buôn bán phát triển tạo nên
những đô thị và các làng xóm bên các bờ sông; các nghề thủ công như đồ
gốm, chạm bạc, ươm tơ, dệt lụa và đúc tiền ra đời; các công trình thuỷ lợi
được xây dựng nhiều tại các lưu vực sông Hoàng Hà đến Dương Tử. Chế độ
tự do mua, bán ruộng đất tạo ra hình thức bóc lột phát canh, thu tô, quan hệ
sản xuất nông nô xuất hiện và dần chiếm ưu thế trong đời sống xã hội. Trong
giai đoạn đầy biến động đó của lịch sử Trung Quốc cổ, trung đại, xuất hiện
một loạt những vấn đề đặt ra cho các nhà tư tưởng lớn.
2. Quá trình hình thành và phát triển của triết học Trung Quốc cổ, trung đại
2.1 Mầm mống tư tưởng triết học Trung Quốc
Triết học Trung Quốc cổ đại ra đời từ cuối thiên niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I
TNC khi xã hội đánh dấu sự tan rã của chế độ nô lệ và bắt đầu hình thành
các quan hệ xã hội phong kiến phức tạp. Tính chất phức tạp đó của xã hội
được phản ánh trong tính phức tạp của triết học Trung Quốc.
2.2 Vào thời Tam đại (Hạ, Thương, Chu, từ thiên niên kỷ I - I TCN)
Vào thời Tam đại (Hạ, Thương, Chu, từ thiên niên kỷ II - I TCN) nàu, những
biểu tượng tôn giáo - triết học xuất hiện với những biểu tượng về Đế, Thượng
Đế, Thiên mệnh, Quỷ thần v.v.
Đầu thiên niên kỷ I xuất hiện thêm những biểu tượng về Âm dương - Ngũ
hành. Vào giai đoạn này cuộc đấu tranh giữa các quan điểm của các trường
phái diễn ra xung quanh các biểu tượng đó và diễn ra quanh vấn đề khởi
nguyên của thế giới; vấn đề con người và số phận con người; vấn đề đạo đức, tri thức v.v.
2.3 Vào thời Đông Chu (Xuân Thu - Chiến Quốc, 770 - 221 TCN)
Ở giai đoạn này tư tưởng triết học có hệ thống được hình thành và là những
mầm mống ban đầu của các loại thế giới quan và phương pháp luận của văn
hoá Trung Quốc cổ, trung đại. Đây là thời kỳ xuất hiện nhiều học thuyết chính
trị - xã hội, triết học, có đến 6 trường phái triết học chủ yếu là Nho gia, Đạo
gia, Mặc gia, Pháp gia, Danh gia và Âm Dương gia (Kinh học của Khổng tử;
Huyền học của Lão tử;Âm Dương gia của Trâu Diễn và những người khác;
Phật học rồi về sau là Lý học, Thực học v.v) và chúng không ngừng đấu tranh với nhau.
3. Tư tưởng bản thể luận trong triết học Trung Quốc cổ, trung đại
Tuy không rõ ràng như các nền triết học khác trong thế giới nhưng tư tưởng
về bản thể luận trong triết học Trung Quốc cổ, trung đại cũng có những đặc điểm của mình.
Trong Nho gia, Trời, Đạo Trời và Mệnh Trời được Khổng Tử làm chỗ dựa khi
luận bàn đến các vấn đề thuộc chính trị, đạo đức và xã hội. Những quan niệm
đó được các nhà triết học hậu thế bổ sung khác nhau. Mạnh Tử coi mệnh
Trời sinh ra con người và thế giới, Trời quy định số phận con người; Tuân Tử
cho rằng Trời Đất hợp lại thì sinh ra vạn vật, âm dương giao tiếp với nhau thì
sinh ra biến hoá; Vương Sung, Trương Tải đều coi nguyên khí là yếu tố đầu
tiên, là nguồn gốc của thế giới.
Trong Đạo gia, Đạo là bản nguyên của thế giới theo trình tự đạo sinh một,
một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh ra vạn vật. Trong Âm Dương gia, âm dương
là hai khí, hai nguyên lý tác động qua lại với nhau làm sản sinh ra vạn vật.
Kinh Dịch bổ sung thêm Thái cực, theo đó tiến hoá trong vũ trụ theo lịch trình
Thái cự sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tư tượng; Tư tượng sinh Bát quái,
Bát quái sinh vạn vật (384 sự vật, hiện tượng).
4. Tư tưởng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức
Tư tưởng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức được thể hiện trong các
cặp Thần - Hình, Tâm - Vật, Lý - Khí.
Thần - Hình xuất hiện thời Hán với quan điểm Thần là bản nguyên của Hình,
Hình là phái sinh từ Thần của Đổng Trọng Thư. Ngược lại, Vương Sung phê
phán quan điểm trên của Đổng Trọng Thư và khẳng định rằng không thể tồn
tại tinh thần vô hình; Trọng Thường Thông coi thần học, mê tín là do những
kẻ thống trị đề xướng.
Tâm - Vật xuất hiện thời Tuỳ - Đường, khi Đạo Phật làm chủ nền triết học
Trung Quốc. Đạo Phật coi Tâm là bản nguyên của thế giới, nghĩa là mọi sự
vật, hiện tượng trong thế giới đều do thanh tịnh tâm tuỳ duyên mà sinh ra.
Ngược lại, một số nhà tư tưởng khác cho rằng có Vật thì mới có Tâm, Tâm
có dựa vào Vật thì mới tồn tại được; thậm chí Trương Tải lại coi Tâm của
Đạo Phật chỉ là sự chủ quan, bịa đặt.
Lý - Khí xuất hiện thời Tống. Lý học là hình thái ý thức giữ vai trò chủ đạo
trong xã hội phong kiến thời Tống. Theo Trình Hạo và Trình Di, Lý là cái có
trước, sinh ra tất cả. Ngược lại Vương Phu Chi phủ định Lý học và chỉ rõ mối
quan hệ giữa đạo và khí là quy luật chung của sự vật, hiện tượng vật chất.
5. Tư tưởng biện chứng và nhận thức
5.1 Tư tưởng biện chứng
Triết lý duy vật biện chứng của triết học Trung Quốc cổ, trung đại đã có
những ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới quan triết học không những của
người Trung Quốc, mà còn của những người chịu ảnh hưởng của triết học Trung Quốc.
Biến dịch là quan niệm chung của triết học Trung Quốc cổ, trung đại, theo đó,
Trời Đất, vạn vật luôn vận động và biến đổi với nguyên nhân là giữa Trời Đất
với vạn vật vừa đồng nhất, vừa mâu thuẫn với nhau. Lão Tử cho rằng vũ trụ
vận động, biến đổi theo luật bình quân và luật phản phục, trong đó luật bình
quân giữ cho vạn vật được thăng bằng theo lẽ tự nhiên; luật phản phục dùng
để chỉ sự quay trở lại phương hướng cũ sau khi sự vật, hiện tượng đã phát
triển đến cực điểm. Trong Kinh Dịch, sự biến hoá của vạn vật tuân theo quy
trình từ không rõ ràng -> rõ ràng -> sâu sắc -> kịch liệt -> cao điểm -> mặt trái.
Vương An Thạch cho rằng mâu thuẫn nội, ngoại của Ngũ hành là nguyên
nhân cơ bản và vô cùng của sự biến hoá của vạn vật. Vương Đình Tương
cho rằng động lực của vận động, biến hoá của vạn vật là do khí ân dương
không đồng đều nhau v.v.
5.2 Nội dung tư tưởng về nhận thức
Trong quá trình tìm hiểu thế giới bên ngoài đẻ phục vụ cho lợi ích của con
người, các nhà triết học Trung Quốc cổ, trung đại đã có những tư tưởng khác nhau về nhận thức.
Khổng Tử tập trung vào thực tiễn giáo dục và phương pháp học hỏi; thuyết
chính danh của ông lấy Danh để định Thực, Danh có trước Thực. Ngược lại,
Tuân Tử cho rằng Thực khác nhau bằng Danh. Mặc Tử với thuyết Tam biểu
(lập luận phải có căn cứ, lập luận phải có chứng minh, lập luận phải có hiệu
quả) lấy Thực đặt Tên. Huệ Thi coi Thực to đến mức không có cái bên ngoài
gọi là đại nhất, nhỏ đến mức không có cái bên trong gọi là tiểu nhất. Ngược
lại, Công Tôn Long bắt đầu từ Danh, nhấn mạnh sự khác nhau giữa từ và khái niệm.
6. Nội dung tư tưởng về con người và xây dựng con người
6.1 Tư tưởng về con người.
- Vấn đề xác định vị trí và vai trò của con người trong mối liên hệ với Trời, Đất,
Người, Vạn vật trong vũ trụ, Lão Tử cho rằng trong vũ trụ có bốn cái lớn là
Đạo lớn, Trời lớn, Đất lớn, Người cũng lớn. Khổng Tử và Mặc Tử đều coi con
người do Trời sinh ra nhưng sau đó cùng với Trời và Đất tạo nên ba ngôi tiêu
biểu cho mọi sự vật, hiện tượng vật chất và tinh thần.
- Vấn đề quan hệ giữa Trời với Người được thể hiện trong các quan điểm 1)
quan điểm cho rằng Mệnh Trời chi phối cuộc sống của con người và xã hội
loài người, Trời an bài địa vị xã hội của con người. 2) Thuyết Thiên Nhân cảm
ứng cho rằng Trời là chủ tể của việc người. Ngược lại, quan điểm Thiên Nhân
hợp nhất lại cho rằng Trời với Người là một, trong đó con người phải theo
Trời, lấy phép tắc của Trời làm mẫu mực, coi Thiên Đạo là Nhân Đạo, người
đời phải ăn ở phù hợp với Đạo Trời. 3) Lão Tử cho rằng con người phải sống
và hành động theo lẽ tự nhiên, không can thiệp và không làm trái với bản tính
tự nhiên. Kinh Dịch đưa ra quan niệm Trời, Đất, Muôn Vật là nhất thể để có
thể từ bản thân mà suy ra tìm hiểu được Trời, Đất và Muôn Vật. 4) Đối lập với
các quan điểm trên là quan điểm Thiên Nhân bất tương quan của Tuân Tử,
ông cho rằng Đạo Trời không quan hệ gì với Đạo Người; trị, loạn không phải
tại Trời, Đất, nếu biết chăm lo sản xuất, chi dùng điều độ thì Trời không thể làm hại Người.
- Vấn đề bản tính con người cũng được chú trọng. Khổng Tử coi tính người là
gần nhau, do tập tành và thói quen nên mới xa nhau. Mạnh Tử coi bản tính
người là thiện (thuyết tính thiện), sự khác nhau giữa con người với cầm thú là
ở chỗ trong mỗi con người đều có phần cao quý và phần thấp hèn, phần cao
quý làm nên sự khác biệt giữa người với cầm thú. Tuân Tử lại cho rằng ác
(thuyết tính ác), con người sinh ra vốn ham lợi, dẫn đến tranh giành lẫn nhau,
sinh ra đố kỵ, không có lòng trung tín thành dâm loạn, không có lễ nghĩa. Cáo
Tử lại coi là không thiện, không ác. Vương Sung còn cho rằng thiện có thể
biến thành ác và ác có thể biến thành thiện. Về sau, thuyết tính ác bị Hàn Phi
cực đoan hoá, Lý Tư đã thực hành triệt để chính sách pháp trị, chuyên chế
cực độ để giúp Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc.
6.2 Tư tưởng về xây dựng con người
Với tư tưởng xây dựng con người coi trọng sự nỗ lực của cá nhân, sự quan
tâm của giai đình và xã hội trong việc xây dựng con người.
- Mục tiêu xây dựng con người của Nho gia hết sức thiết thực, giúp con
người xây dựng mình thông qua năm mối quan hệ cơ bản (Vua - tôi, cha -
con, anh - em, chồng - vợ, bạn hữu) và làm tròn trách nhiệm của mình trong
năm mối quan hệ ấy (Vua nhân, tôi trung, cha từ, con hiếu, anh lành, em đễ,
chồng có nghĩa, vợ vâng lời, bạn hữu phải có tín). Muốn vậy, phải tu thân, tề
gia, trị quốc, bình thiên hạ, trong đó tu dưỡng bản thân là hàng đầu. Tu thân
trước hết thể hiện trong mối quan hệ của mình với gia đình, tiếp đó là trách
nhiệm với nước, trung với Vua và mục tiêu cuối cùng của tu thân là bình thiên
hạ. Phải thường xuyên trau dồi năm đức Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Sáu đức
Hiếu, Đễ, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa dành cho các đệ tử của Nho gia. Ba đức
Nhân, Trí, Dũng dành cho những người có trọng trách, vị trí trong xã hội.
Trong tất cả những đức đó, nổi bật và quan trọng nhất là Nhân, Lễ. Tóm lại,
theo Nho gia, con người phải xác định và làm tròn quan hệ của mình là Ngũ
Luân (Vua - tôi, cha - con, anh - em, chồng - vợ, bạn hữu), trong đó Vua - tôi,
cha - con, chồng - vợ (Tam cương) là các quan hệ chính. Trong Tam cương
lại có hai quan hệ cơ bản là Vua - tôi, biểu hiện bằng đức Trung, cha - con
biểu hiện bằng đức Hiếu. Con người phải thường xuyên trau dồi Ngũ thường
(Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín), đứng đầu Ngũ thường là Nhân, Nghĩa, trong đó Nhân là chủ.
- Đạo gia coi bản tính của con người có khuynh hướng trở về cuộc sống với
tự nhiên, do vậy phải trừ khử cái thái quá, nâng đỡ cái bất cập, sống thanh
cao, gần giũ tự nhiên và tránh chạy theo cuộc sống vật chất. Đạo Phật
khuyên con người sống hiền lành, không sát sinh, không làm hại người khác.
7. Nội dung tư tưởng về xã hội lý tưởng và con đường trị quốc
Điển hình của tư tưởng về xã hội lý tưởng và con đường trị quốc là xã hội đại
đồng của Khổng Tử với đặc trưng cơ bản là xã hội thái bình, ổn định; có trật
tự, kỷ cương; mọi người được chăm sóc bình đẳng và mọi cái đều là của
chung; được đảm bảo đầy đủ về vật chất; quan hệ tốt đẹp giữa người với
người; xã hội có giáo dục, mọi người đều được giáo hoá. Muốn vậy, phải có
Vua đứng đầu, hiểu Đạo và hành Đạo là trên dưới thuận hoà; Hiếu, Đễ làm
gốc là mọi nhà nhân hậu, thiên hạ được yên.
Đường lối trị nước theo Thuyết Nhân trị và Thuyết Pháp trị:
Nội dung cơ bản của Thuyết Nhân trị : Thuyết Nhân trị chủ trương lấy đạo
đức làm căn bản trong việc cai trị. Những người cầm quyền quy định sự hưng
thịnh, suy vong của đất nước; do vậy những người cầm quyền phải có khả
năng và đức hạnh. Theo Thuyết Nhân trị, những người cầm quyền phải lấy
đạo đức để giáo hoá, dẫn dắt dân chúng mà không dùng cách cai trị cưỡng
chế, trừng phạt. Biện pháp cơ bản để thực hiện Nhân trị là Chính danh, Lễ,
vai trò của những người cầm quyền và vai trò của dân chúng với tư cách là
gốc, là nền tảng của chính trị.
8. Đặc điểm cơ bản của triết học Trung Quốc cổ, trung đại
Qua những điểm trên ta rút ra một số đặc điểm cơ bản của triết học Trung
Quốc cổ, trung đại như sau:
- Nhấn mạnh sự hài hoà giữa tự nhiên với con người, với xã hội.
- Nhấn mạnh vấn đề chính trị đạo đức.
- Các quan điểm, tư tưởng triết học Trung Quốc cổ, trung đại thường dùng
châm ngôn, ngụ ngôn, ẩn ngữ để diễn đạt tư tưởng của mình. Cách diễn đạt
đạt ý quên lời, ý ở ngoài lời mở ra sự suy ngẫm. Châm ngôn, ngụ ngôn, ẩn
ngữ không thể khúc chiết, mạch lạc nhưng bù lại, sức mạnh và tính chất sâu
xa của tư tưởng triết học ẩn náu trong đó là sự gợi ý thâm trầm, sâu rộng
dường như vô biên của chúng.
9. Câu hỏi thường gặp về triết học Trung quốc
9.1 Các giai đoạn hình thành và phát triển của triết học Trung Quốc cổ, trung đại?
Sự hình thành và phát triển của triết học Trung Quốc cổ, trung đại có thể chia
thành những giai đoạn sau: Giai đoạn cuối thiên niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I
TNC; giai đoạn thiên niên kỷ II - I TCN; Giai đoạn 770 - 221 TCN.
9.2 Hãy nêu nội dung cơ bản của Thuyết Pháp trị?
Thuyết Pháp trị chủ trương lấy pháp luật làm căn bản trong việc cai trị. Do
bản tính con người là yếu hèn, thấp kém, dễ mắc sai lầm nên phải dùng pháp
luật áp dụng cho đồng đều, không thiên vị, không phân biệt đẳng cấp xã hội.
Những người cầm quyền phải có khả năng đặt ra pháp luật rõ ràng và ban bố
cho mọi người cùng biết để thực hiện, do vậy xã hội cần có minh quân sáng
suốt, am hiểu nguyên tắc pháp trị và chiụ khép mình theo nguyên tắc đó.
9.3 Nêu quan điểm của Khổng Tử và Mặc Tử về vấn đề nguồn gốc con người?
Vấn đề nguồn gốc con người, Khổng Tử và Mặc Tử đều coi con người do
Trời sinh ra và bị quy định bởi Mệnh Trời “Nhân giã kỹ thiên địa chi đức, âm
dương chi giao, quỷ thần chi hội, ngũ hành chi trí khí giã- Con người là cái
đức của Trời Đất, sự giao hợp của âm dương, sự tụ hội của quỷ thần, cái khí
tinh tú của ngũ hành”. Lão Tử Đạo sinh ra Trời, Đất, Người, Vạn vật. Trang
Tử cho rằng ở mỗi vật đều có cái đức tự sinh, tự hoá ở bên trong.
Document Outline
- Sơ lược Triết học của Trung Quốc thời kỳ cổ đại và
- 1. Điều kiện ra đời triết học của Trung Quốc
- 1.1 Điều kiện tự nhiên
- 1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội và văn hoá
- 2. Quá trình hình thành và phát triển của triết họ
- 2.1 Mầm mống tư tưởng triết học Trung Quốc
- 2.2 Vào thời Tam đại (Hạ, Thương, Chu, từ thiên ni
- 2.3 Vào thời Đông Chu (Xuân Thu - Chiến Quốc, 770
- 3. Tư tưởng bản thể luận trong triết học Trung Qu
- 4. Tư tưởng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thứ
- 5. Tư tưởng biện chứng và nhận thức
- 5.1 Tư tưởng biện chứng
- 5.2 Nội dung tư tưởng về nhận thức
- 6. Nội dung tư tưởng về con người và xây dựng con
- 6.1 Tư tưởng về con người.
- 6.2 Tư tưởng về xây dựng con người
- 7. Nội dung tư tưởng về xã hội lý tưởng và con đườ
- 8. Đặc điểm cơ bản của triết học Trung Quốc cổ, tr
- 9. Câu hỏi thường gặp về triết học Trung quốc
- 9.1 Các giai đoạn hình thành và phát triển của tri
- 9.2 Hãy nêu nội dung cơ bản của Thuyết Pháp trị?
- 9.3 Nêu quan điểm của Khổng Tử và Mặc Tử về vấn đề
- 1. Điều kiện ra đời triết học của Trung Quốc