Số phận người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ | Văn mẫu lớp 12
Số phận người phụ nữ xưa luôn là đề tài nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà văn nhà thơ. Nó trở thành đề tài nhân văn, nhân đạo vô cùng sâu sắc, tạo ra nhiều tác phẩm hay bất hủ như tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân và “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài.
Preview text:
Số phận người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
Dàn ý Số phận người phụ nữ xưa và nay 1. Mở bài
• Giới thiệu tác giả Tô Hoài và Kim Lân cùng hai truyện ngắn Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ.
• Giới thiệu nhân vật Mị và nhân vật cô thị. 2. Thân bài a. Nhân vật Mị
- Mị trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra
• Cô gái xinh đẹp và tài hoa: có tài thổi sáo làm biết bao chàng trai phải si mê ngày
đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Trai đến đứng nhẵn cả vách đầu buồng Mị.
• Có một tình yêu trong sáng.
• Cô gái chăm chỉ, cần cù, hiếu hạnh, khát khao được sống tự do, không tham cuộc
sống sang giàu, rất ý thức về nhân cách của mình.
- Khi Mị về làm dâu gạt nợ nhà thống lí
• Mị lâm vào một tình cảnh éo le, bất hạnh, bị tròng bởi dây trói “con nợ bắt buộc”
và “con dâu bị ép buộc”.
• Tâm trạng Mị trong những ngày đầu làm dâu: Buồn tủi, đau khổ, rất đơn độc và
thấm thía nỗi đau của một người con gái bị cướp đoạt; định tìm cái chết để tự
giải thoát mình nhưng vì lòng hiếu thảo, thương bố nên Mị đã cố gắng chịu đựng,
dũng cảm quay trở về nhà thống lí.
• Tâm trạng Mị những ngày sau: Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá
ngón tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Mị sống lầm lũi, âm thầm,
trở thành người nô lệ cam chịu, nhẫn nhục đến mức tê liệt cả ý thức, buông xuôi, phó mặc cho hoàn cảnh.
Số phận người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
• Tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân: Tiếng sáo đã thức tỉnh tâm hồn, sức
sống của Mị tưởng đã bị hoàn cảnh hủy hoại, vùi lấp, nay đã trỗi dậy; Mị cứ lén
lấy hũ rượu cứ uống ừng ực từng bát. Tai Mị văng vẳng nghe tiếng sáo gọi bạn
đầu làng… Mị thấy vui sướng, phơi phới, tràn đầy sức sống nhưng cũng đau đớn,
tuyệt vọng nghĩ đến cái chết để khỏi đối diện với thực tại. Mị muốn đi chơi nhưng
bị A Sử đàn áp thô bạo. Sáng tỉnh dậy, Mị cảm giác sợ và đau đớn khi nghĩ về thân phận mình.
- Tâm trạng của Mị khi giải thoát cho A Phủ: Nhìn những giọt nước mắt của A Phủ, Mị
xúc động thấy thương cho A Phủ và nhớ lại nỗi đau chính mình. Sức sống cùng sự đánh
thức tâm hồn, lòng thương người cùng cảnh ngộ đã giúp Mị vượt qua nỗi sợ, Mị quyết
định cởi dây trói cho A Phủ và tự giải thoát mình.
→ Sức sống luôn tiềm tàng trong tâm hồn Mị dẫn đến sức phản kháng mãnh liệt, táo
bạo để giành lại tự do ở Mị. Khi sức sống tiềm tàng trong tâm hồn con người được hồi
sinh, nó tất yếu chuyển hóa thành hành động phản kháng táo bạo.
b. Nhân vật cô thị
- Hoàn cảnh, ngoại hình:
• Một người đàn bà không tên, không tuổi, không quê quán, gốc gác, không gia đình.
• Không có một nhan sắc xinh đẹp, và cái đói khổ nó lại càng làm cho cái nhan
sắc xấu xí ấy thêm phần thảm hại: “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người ngợm “gầy
sọp”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, “cái ngực gầy
lép nhô lên” và “hai con mắt trũng hoáy”.
- Tính cách thị khi mới gặp Tràng:
- Cách nói năng, hành động đanh đá chua ngoa:
• Cong cớn, sưng sỉa, chỏng lỏn vì miếng ăn.
Số phận người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
• Khi nghe thấy anh Tràng đãi ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên”, điệu
dáng đon đả, đổi hẳn thái độ.
• Cúi đầu ăn một chặp 4 bát bánh đúc không thèm chuyện trò gì, ăn xong thì lấy
đôi đũa quệt ngang miệng, thở “hà”. → Vô duyên, hành động táo bạo và bất chấp vì miếng ăn.
→ Mọi hành động của Thị đều chỉ vì muốn được sống, khao khát được hạnh phúc, được
có một mái ấm, một tấm chồng để nương tựa những lúc khó khăn như này dẫn đến hành
động theo không Tràng về làm vợ.
→ Một hiện thực đau xót của xã hội lúc bấy giờ: giá trị con người dường như đã xuống
đến mức âm, thậm chí còn không bằng cọng rơm cọng rác, để đến nỗi những người làng
trông thấy Tràng dẫn vợ về họ còn cho đó là “của nợ”.
- Sau khi trở thành vợ Tràng:
- Trên đường trở về nhà với Tràng:
• Thị bỗng trở nên “e thẹn, rón rén”, đầu cúi xuống, cái nón tà nghiêng nghiêng
che nửa đi khuôn mặt đang ngại ngùng, đúng với dáng vẻ của một cô dâu khi bước về nhà chồng.
• Gặp phải cảnh trêu chọc của đám trẻ con, ánh nhìn ái ngại của những người làng,
thị thấy khó chịu, tủi cho phận mình là một người vợ theo không.
- Khi đến nhà Tràng khung cảnh xác xơ, tiêu điều của một căn nhà tạm, khiến thị thất
vọng, nhưng thị không hề phàn nàn với Tràng.
• Khi ra mắt mẹ chồng, thị đã rất phải phép mà chào bà cụ Tứ, dáng điệu khép nép,
ngại ngùng, thị đã lột xác trở thành một nàng dâu hiền lành, e ấp, khác hẳn với
dáng bộ của người đàn bà đanh đá, chua ngoa ở chợ tỉnh.
• Sau đêm tân hôn, thị trở thành một người phụ nữ của gia đình, đảm đang tháo
vát, gánh lấy cái trách nhiệm thu xếp nhà cửa, đem đống quần áo rách ra sân
hong, gánh nước, quét sân, gom rác đem vứt, rồi dọn cơm,...
Số phận người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
• Khi đối diện với nồi cháo cám “đôi mắt thị tối lại” nhưng vẫn “điềm nhiên và
vào miệng” → Cách cư xử tinh tế, bộc lộ sự thấu hiểu và cảm thông.
• Kể việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế mà đi phá kho
thóc của Nhật. → Bộc lộ những suy nghĩ và hướng nhìn mới của thị, người đàn
bà bà này không cam chịu cuộc đời đói kém và tìm kiếm một tương lai tươi sáng hơn. 3. Kết bài
Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật cùng ý nghĩa của hai truyện ngắn.
Số phận người phụ nữ xưa và nay - Mẫu 1
Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân và truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà
văn Tô Hoài là những bức tranh thu nhỏ về hiện thực xã hội Việt Nam trong thời kì hấp
hối của chế độ thực dân, phong kiến trước Cách mạng tháng Tám 1945 và trong cuộc
kháng chiến chống Pháp trường kì. Bao phủ lên những bức tranh đó là gam màu xám
lạnh, thê lương của cuộc sống khốn đốn, cùng cực của tầng lớp dân nghèo ở miền xuôi
và miền ngược. Kim Lân, Tô Hoài tập trung thể hiện số phận bất hạnh của số đông phụ
nữ – những nạn nhân đáng thương qua hình ảnh bà cụ Tứ, người “vợ nhặt” và Mị – cô
“con dâu gạt nợ” nhà thống lí Pá Tra.
Nội dung tác phẩm Vợ nhặt kể về cuộc sống bức bối, ngột ngạt của nhân dân ta năm
1945 với nạn đói khủng khiếp làm chết hơn hai triệu người. Đó chính là hậu quả chính
sách cai trị dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật ở Việt Nam. Cũng như một số
tác phẩm khác viết về nạn đói, ngòi bút Kim Lân chứa chan thương cảm trước số phận
bất hạnh của những con người nghèo khổ trong xã hội đương thời, nhất là đối với phụ
nữ. Nhân vật bà cụ Tứ mẹ anh Tràng và chị "vợ nhặt” được tác giả miêu tả bằng sự
thương cảm chân thành đã gây ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Tội nghiệp thay cho người con gái mà anh Tràng “nhặt” về làm “vợ”. Sinh ra làm người,
ai cũng có một cái tên dù đẹp hay xấu. Thế nhưng chị ta không có đến một cái tên để
gọi. Không tên, không tuổi, không cha mẹ, anh em. Không ai biết gốc gác quê hương,
Số phận người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
nhà cửa của chị ta ở đâu. Về hình thức, chị ta giống như bao kẻ đói khát khác: …áo
quần tả tơi như tổ đỉa… trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt…
Chị là hiện thân của hàng triệu nông dân bần cùng, tha phương cầu thực kiếm sống qua
ngày, để rồi gục chết bất cứ lúc nào nơi đầu đường xó chợ.
Chị nhận lời làm vợ anh Tràng giống như một trò đùa, hay nói như tác giả là chuyện
tầm phơ tầm phào đâu có hai bận giữa chị với Tràng, người đàn ông nghèo khổ làm
nghề kéo xe thuê. Gặp lại Tràng, chị ta đang đói lắm nên sỗ sàng vòi anh đãi ăn bánh
đúc. Chị cặm cụi ăn liền một chập bốn bát bánh đúc. Ăn không kịp thở, ăn mà không
nói tiếng nào. Ăn như thế là đói đã lâu rồi nên quên cả ý tứ, sĩ diện, thẹn thùng. Nhìn
cảnh ấy, Tràng động lòng thương, bèn bảo: Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân
hàng lên xe rồi cùng về. Tưởng nói giỡn chơi, ai dè chị ta theo về thật khiến anh chợn,
nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng.
Một người đàn ông mới quen sơ sơ đôi lần, nay hào phóng đãi một bữa no nê, ngoài ra
chẳng biết tí gì về anh ta; chỉ nghe nói là chưa có vợ, ai biết thật giả thế nào, ấy thế mà
chị ta dám đi theo mà không hề đắn đo, sợ hãi. Có liều lĩnh, nhẹ dạ quá chăng? Mặc kệ!
Trước mắt, cứ theo anh ta để được ăn cái đã, mọi chuyện tính sau. Vợ chồng là chuyện
lâu dài, trong tình cảnh sống nay chết mai, biết thế nào mà nói trước. Có lẽ chị ta chỉ
nghĩ đơn giản như vậy. Thế là Tràng đã “nhặt” được “vợ”, giống như nhặt được một
vật gì đó rơi trên đường. Tội nghiệp biết bao nhiêu cho người “vợ nhặt” ấy, vì xã hội
phong kiến khinh bỉ và không chấp nhận loại "vợ” theo không như vậy.
Chị ta theo Tràng về cái xóm ngụ cư: Ngã tư xóm chợ về chiều càng xác xơ, heo hút.
Từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt Hai bên dãy phố, úp súp, tối om, không
nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật
dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ kêu trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ
gào lên từng hồi thê thiết. Quả là một khung cảnh ngập tràn tử khí! Con người đang
mấp mé bên vực thẳm của cái chết.
Về đến nhà Tràng, chị “vợ nhặt” cứ ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái
thúng, mặt bần thần. Tràng mời ngồi, sao chị ta lại không dám ngồi cho đàng hoàng,
ngay ngắn? Thì ra cái thế ngồi rụt rè, chông chênh ấy là cái thế của lòng chị, đời chị.
Số phận người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
Chị băn khoăn không biết chỗ này có phải là chỗ của chị hay không? Mái nhà xa lạ này
liệu có phải là chỗ dung thân của chị? Căn nhà xơ xác, dúm dó của mẹ con Tràng chắc
cũng không khỏi làm cho chị thất vọng. Đúng là cảnh “đồ nát đụng nhau”, không biết
được mấy ngày?! Mặt chị bần thần vì mải nghĩ đến chuyện thành vợ bỗng dưng của
mình. Nó là thực mà cứ như không phải thực. Làm vợ, làm dâu mà thảm hại đến thế
này ư?! Lấy chồng, hạnh phúc lớn nhất của đời người con gái, chị có được hưởng chút
nào đâu? Buồn lắm! Tủi lắm! Nỗi buồn tủi không thể nói thành lời. Trăm mối ngổn
ngang trong lòng. Nỗi đau không trào ra theo nước mắt mà chảy ngược vào tim nên
càng đau, càng tủi. Nhà văn Kim Lân viết về người “vợ nhặt” với ngòi bút chan chứa
xót thương. Trong chế độ phong kiến thực dân thời ấy, có bao nhiêu người phụ nữ phải
chịu thân phận bất hạnh như thế? Ý nghĩa tố cáo hiện thực xã hội, ý nghĩa nhân đạo sâu
xa của tác phẩm ẩn chứa trong số phận của nhân vật đáng thương này.
Hình ảnh bà cụ Tứ bổ sung cho hình ảnh chị “vợ nhặt” để hoàn chỉnh số phận tăm tối
của phụ nữ nói chung trong xã hội đương thời. Có thể nói nhân vật này tuy là phụ nhưng
lại chiếm được cảm tình của người đọc bởi nét chân phương của một bà mẹ nghèo rất
đỗi thương con, bởi lòng nhân hậu rất đáng quý trọng. Khi thấy người con gái lạ mặt
ngồi ở giường con trai mình, bà cụ Tứ ngạc nhiên lắm, chẳng hiểu ra làm sao cả. Nhưng
đến lúc nghe Tràng bảo: Kìa nhà tôi nó chào u… thì bà vỡ lẽ ngay: Bà lão cúi đầu nín
lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự,
vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình… Hóa ra là thằng con trai mình
cũng đã kiếm được một cô vợ, dù là trông dở người dở ma. Bà tủi phận làm cha làm mẹ
mà không cưới nổi vợ cho con. Trăm sự cũng tại cái nghèo mà ra cả: Chao ôi, người ta
dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái
mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng
nước mắt. Bà vừa vui mừng, vừa lo lắng: Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua
được cơn đói khát này không? Nhưng ngẫm tới thân phận nghèo khó của mình, bà lại
tự an ủi: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình.
Mà con mình mới có vợ được…
Nghĩ thế nên bà vui vẻ chấp nhận nàng dâu mới. Bà cư xử với chị dịu dàng, gọi chị là
con, xưng là u và nhìn cô con dâu mới bằng ánh mắt xót thương, thông cảm.
Số phận người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
Bữa cơm đầu tiên mẹ chồng đãi hàng dâu chỉ có món cháo loãng với muối hột và chè
cám, ấy thế nhưng bà cụ Tứ cố tỏ ra vồn vã, tươi cười, chỉ toàn nói tới chuyện vui. Bà
khen cháo cám ngon đáo để, nhà khác chẳng có mà ăn. Chao ôi! Đói đến mức nào thì
ăn cám thấy ngon?! Bà từ tốn nói với con trai và con dâu: Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ
chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thể
nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau… Bà
cảm động bày tỏ ý muốn và nỗi khổ tâm của mình: Kể có ra làm được dăm ba mâm thì
phải đẩy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt
làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy
nhau lúc này, u thương quá… Hình ảnh bà mẹ già nua cố bấu víu, hi vọng vào tương
tai thật đáng thương và cũng đáng quý biết bao!
Nội dung truyện ngắn vợ chồng A Phủ kể về cuộc đời đầy biến cố của đôi vợ chồng trẻ
người Mông ở vùng cao Tây Bắc dưới ách thống trị tàn bạo của bọn lang đạo chúa đất
và thực dân Pháp. Nhân vật chính của truyện là Mị. Vì nghèo khổ, bố mẹ Mị phải vay
tiền của thống lí Pá Tra để làm đám cưới. Mãi cho tới năm mẹ Mị qua đời vì bệnh tật
và Mị cũng đã lớn khôn mà bố Mị vẫn không có tiền trả nợ. Mị là cô gái đẹp người đẹp
nết, được nhiều chàng trai trong vùng đem lòng yêu mến. Lẽ ra Mị phải được sống trong
tình yêu và hạnh phúc, thế nhưng chỉ vì món nợ không thể trả nổi của gia đình nên Mị
bị bố con tên thống lí Pá Tra gian tham và tàn bạo bắt về làm “con dâu trừ nợ”. Từ cuộc
đời của người con gái xinh đẹp mà bất hạnh này, nhà văn Tô Hoài đã phản ánh chân
thực và sinh động kiếp sống đau thương, tủi nhục của người phụ nữ vùng cao thuở trước.
Từ ngày bị bắt về làm vợ A Sử, sống trong nhà thống lí Pá Tra, Mị đã rơi vào cảnh đọa
đày của địa ngục trần gian. Cô đau đớn đến tuyệt vọng: Có đến hàng mấy tháng, đêm
nào Mị cũng khóc. Một hôm, Mị trốn về nhà, hai tròng mắt còn đỏ hoe. Trông thấy bố,
Mị quỳ lạy, úp mặt xuống đất, nức nở. Bố Mị cũng khóc, đoán biết lòng con gái:
Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt
tao trả nợ. Mày chết rồi thì không lấy ai làm nương ngô giả được nợ người ta, tao thì
ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi!
Số phận người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
Mị chỉ bưng mặt khóc. Mị ném nắm lá ngón xuống đất, nắm lá ngón Mị đã tìm hái trong
rừng, Mị vẫn giấu trong áo. Thế là Mị không đành lòng chết Mị chết thì bố Mị còn khổ
hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa. Mị đành trở lại nhà thống lí.
Mị buồn tủi, thờ ơ với cuộc sống xung quanh, buông xuôi cuộc đời cho số phận. Những
năm tháng Mị sống với cha con tên thống lí Pá Tra là chuỗi dài đọa đày, đau khổ. Danh
nghĩa là con dâu nhà quan lớn nhưng thực chất Mị là đầy tớ không công, là nô lệ mãn
đời, bị coi rẻ hơn cả con trâu, con ngựa. Suốt ngày, Mị phải làm việc quần quật không
lúc nào ngơi; đến đêm lại phải thức để hầu hạ thằng chồng vũ phu, tàn ác. Đau khổ, cực
nhục đã cướp mất tuổi thanh xuân của Mị, biến cô thành người nhẫn nhịn và cam chịu.
Mọi cảm xúc dường như đã nguội lạnh. Cô gái Mông xinh đẹp, hồn nhiên đa tình đa
cảm thuở nào giờ đây ủ rũ, héo hắt, sống âm thầm như chiếc bóng, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.
Người đọc không thể quên hình ảnh tội nghiệp của Mị ở phần mở đầu tác phẩm: Ai ở
xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay
sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ
ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn
rười rượi. Người ta thường nói: nhà Pá Tra làm thống ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho
muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng.
Thế thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Nhưng rồi hỏi
ra mới rõ cô ấy không phải con gái nhà Pá Tra: cô ấy là vợ A sử, con trai thống lí Pá Tra.
Dần dần, Mị cũng quen với nỗi khổ: Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình
cũng là con ngựa… chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi… Bao giờ cũng thế, suốt
năm suốt đời như thế. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi
chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày. Mỗi
ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở cái buồng Mị nằm,
kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy
trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái
lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi.
Số phận người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
Không những bị đọa đày về thể xác, Mị còn bị đè nén, áp bức về tinh thần. Cô chán
sống nhưng không được chết, vì Mị chết thì món nợ truyền kiếp kia vẫn còn và người
cha già càng thêm đau khổ. Bắt buộc phải sống nhưng Mị lại bị tước đoạt quyền sống
tự do của một con người. Cuộc đời Mị bị trói buộc bằng quyền lực, bằng tập tục mê tín
dị đoan lâu đời của các dân tộc thiểu số vùng cao. Mị cho rằng mình đã bị bắt về làm
vợ A Sử, bị con ma nhà thống lí nhận mặt:… nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ
còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi.
Cách đối xử tàn tệ, bất công của cha con tên thống lí làm cho Mị phải sống triền miên
trong đau khổ. Cô lặng lẽ ra vào như chiếc bóng, không có ai để chia sẻ tâm tình. Trong
những đêm đông dài và buồn, cô chỉ biết làm bạn với ngọn lửa;… nếu không có bếp lửa
sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo.
Ngọn lửa giúp Mị xua bớt phần nào bóng tối u ám, lạnh lẽo đang bao phủ lên số phận
bất hạnh của cô. Không có người cảm thông với nỗi tủi nhục của mình, Mị phải tìm đến
ngọn lửa và coi nó là người bạn duy nhất, khổ sở biết chừng nào. Tác giả giúp người
đọc hình dung rõ hơn về cuộc đời bế tắc của Mị qua hình ảnh căn buồng kín mít, chỉ có
một lỗ cửa sổ bé bằng bàn tay. Ngồi ờ trong nhìn ra không biết là đêm hay ngày, là sương hay là nắng.
Tất cả những ước muốn chính đáng dù là nhỏ nhoi của Mị đều bị thằng chồng tàn bạo
ngăn cấm và dập tắt một cách phũ phàng. Đêm xuân, Mị uống rượu, lòng bồi hồi nhớ
tới những đêm xuân thuở còn con gái. Mị thả hồn về ngày trước. Tiếng sáo gọi bạn yêu
vẫn lửng lơ bay ngoài đường khiến Mị muốn đi chơi. Mị định thay váy áo đẹp để đi
chơi. A Sử đi đâu về, thấy thế liền bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó
xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn
luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, A
Sử thắt nối cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại.
Hắn để mặc Mị trong đau đớn, tủi hờn giữa bóng đêm đen kịt.
Sau bao năm bị đọa đày trong nhà thống lí, mọi cảm xúc và tinh thần phản kháng của
Mị hầu như bị tê liệt. Cuộc sống của Mị không còn ý nghĩa bởi cô cho rằng mình sống
Số phận người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
mà như đã chết. Tội ác của bọn lang đạo, trong chế độ phong kiến thực dân chính là ở
chỗ đã nhẫn tâm tước đoạt quyền sống chính đáng của con người, nhất là đối với phụ
nữ. Cuộc đời Mị sẽ cứ thế trôi đi trong vô vọng nếu không có một sự việc bất ngờ xảy
ra: cô đã cắt dây trói cứu A Phủ và cùng anh chạy trốn khỏi nhà thống lí, sang tới tận
Phiềng Sa. Cuối cùng, nhờ gặp được cán bộ cách mạng, được giác ngộ, Mị và A Phủ đã
trở thành những nhân tố tích cực ở khu du kích Phiềng Sa. Cô đã thực sự được sống, được làm người.
Trong xã hội phong kiến thực dân trước đây, người phụ nữ bị rẻ rúng, coi thường, bị
tước đoạt quyền sống, quyền tự do. Những ràng buộc bất công, phi lí đã kìm hãm phụ
nữ về mọi mặt. Họ hầu như bị lệ thuộc hoàn toàn vào người đàn ông. Không gian sống
của người phụ nữ xưa chỉ quanh quẩn trong phạm vi gia đình với công việc nội trợ,
chăm sóc chồng con; vì thế mà họ không thể phát huy được những khả năng tiềm ẩn
của mình để đóng góp cho xã hội..
Ngày nay, quan niệm trọng nam khinh nữ tuy chưa thay đổi hoàn toàn nhưng người phụ
nữ cũng đã được hưởng những quyền lợi như nam giới và được xã hội tôn trọng. Phụ
nữ được học tập, làm việc, cống hiến trong mọi lĩnh vực, kể cả lĩnh vực chính trị hay
nghiên cứu khoa học tưởng chừng chỉ dành riêng cho nam giới, ở nhiều nước trên thế
giới, phụ nữ đã vươn tới những địa vị tối cao như Tổng thống, Thủ tướng, Bộ trưởng,…
còn ở nước ta cũng đã có Phó Chủ tịch nước và nhiều phụ nữ là giáo sư, bác sĩ, doanh
nhân… xuất sắc, mang lại vinh quang cho đất nước.
Được hưởng quyền bình đẳng với nam giới không có nghĩa là người phụ nữ coi nhẹ
thiên chức làm vợ, làm mẹ. Ở ngoài xã hội, phụ nữ là những người tài giỏi, nhưng trong
gia đình, họ vẫn là vợ hiền, con thảo, là người mẹ tận tụy và giàu tình yêu thương đối với các con.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng phụ nữ Việt Nam tám chữ vàng: Anh hùng,
bất khuất, trung hậu, đảm đang. Trong thời đại mới, họ xứng đáng với lời khen: Giỏi
việc nước, đảm việc nhà. Có sự thay đổi lớn lao như vậy trong số phận của người phụ
nữ là nhờ sự nghiệp cách mạng giải phóng giành lại chủ quyền độc lập, tự do cho dân
Số phận người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
tộc và đất nước, Điều đặc biệt quan trọng là nhận thức về vai trò của phụ nữ ngày càng
đúng đắn, tiến bộ. Do đó mà đóng góp của phụ nữ cho xã hội cũng ngày càng to lớn hơn.
Số phận người phụ nữ xưa và nay - Mẫu 2
Đề tài về người phụ nữ luôn thu hút sự quan tâm, chú ý của đông đảo các nhà văn, nhà
thơ xưa và nay. Người phụ nữ trong xã hội xưa luôn phải chịu những đau khổ, bất công,
những định kiến lạc hậu mà xã hội phong kiến xưa mang lại. Đồng cảm với thân phận
và cuộc sống khổ đau của những người phụ nữ, các nhà văn, nhà thơ đã đi sâu khai thác
không chỉ cuộc đời, số phận mà cả đời sống nội tâm vô cùng phức tạp của những người
phụ nữ trong nghịch cảnh. Viết về những người phụ nữ, cả nhà văn Kim Lân và Tô Hoài
đều thể hiện sự trân trọng đối với những người phụ nữ trong tác phẩm của mình.
Số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa vô cùng đau khổ và bất hạnh, sinh ra là phụ
nữ đã thiệt thòi, sống trong xã hội phong kiến đầy bất công càng làm cho số phận của
những người phụ nữ trở nên nhỏ bé, bọt bèo hơn. Những người phụ nữ không có quyền
lựa chọn hạnh phúc cho riêng mình, tất cả cuộc đời và số phận đều phụ thuộc vào người
khác. Nhà thơ Hồ Xuân Hương đã cất lên những tiếng nói đấu tranh, nỗi lòng đồng cảm
với thân phận của những người phụ nữ. Ta có thể thấy rõ điều này thông qua bài thơ Bánh trôi nước:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại cũng có hai tác phẩm tiêu biểu viết về số phận
của người phụ nữ trong xã hội, đó chính là tác phẩm truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà
văn Kim Lân và truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài. Hai truyện ngắn khai thác
những khía cạnh khác nhau trong cuộc sống của những người phụ nữ. Nếu như Vợ nhặt
nói về sự rẻ rúng của giá trị con người trong nạn đói cũng như hạnh phúc bình dị, ấm
áp mà nhân vật vợ nhặt có được trong phần cuối của tác phẩm thì “Vợ chồng A Phủ”
Số phận người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
lại nói về sức sống tinh thần tiềm tàng của nhân vật Mị, sức sống ấy giúp cho Mị giải
phóng mình khỏi những đau khổ nhà thống lí Pá Tra.
Trước hết, ta nói về truyện ngắn Vợ nhặt, truyện ngắn này nói về người vợ nhặt, người
đàn bà này không có tên, không có quê quán cụ thể để làm nổi bật lên thân phận nhạt
nhòa, rẻ rúng của con người trong nạn đói. Người vợ nhặt trong một lần đẩy xe thóc
giúp anh Tràng đã tạo thành một mối nhân duyên vô cùng bất ngờ, tình cờ. Người đàn
bà trở thành người vợ của anh Tràng, một người vợ nhặt được trong nạn đói. Ta cảm
thấy xót xa vì người vợ là người gây dựng lên mái ấm gia đình mà trong nạn đói lại rẻ
mạt đến mức nhặt được.
Người đàn bà khi gặp anh Tràng lần thứ hai đã tỏ ra chanh chua, chỏng lỏn, trực tiếp
đòi ăn thứ gì khác chứ không ăn trầu. Khi được anh Tràng mời thì chị ta không hề ngần
ngại mà ăn liền một chặp hết ba bát bánh đúc. Sau đó, bằng lời nói bâng quơ mà chị ta
đã đồng ý về làm vợ anh Tràng, sự việc diễn ra bất ngờ khiến cho tất cả mọi người,
người dân xóm ngụ cư, bà cụ Tứ và chín người trong cuộc là anh Tràng cũng cảm thấy
ngỡ ngàng, không dám tin là sự thật.
Khi ở chợ, người đàn bà tỏ ra là một người đanh đá, chỏng lỏn có phần trơ trẽn nhưng
đó không phải bản chất thật của chị ta, chỉ cần nhìn vào cách chị ta ăn ta có thể thấy
được chị ta rất đói, đói lâu ngày. Chị ta cũng là người có lòng tự trọng, sau khi ăn nghĩa
là cái đói tạm thời được giải quyết thì lòng tự trọng trỗi dậy, chị ta quẹt đũa vào miệng
mà nói đùa: “Chà, ngon. Lần này chị ấy thấy hụt tiền thì nguy…”
Khi về nhà anh Tràng chị ta như trở thành một người khác hẳn, trở nên nhẹ nhàng, ý tứ
hơn rất nhiều. Khi về nhà anh Tràng, thấy cái đói cái nghèo vẫn hiện ra trước mặt, dù
thất vọng nhưng chị ta chỉ cố nén tiếng thở dài, ánh mắt thì tối lại. Khi bà cụ Tứ trở về
chị ta đã chủ động cất tiếng chào u như một lời làm quen, như lời chào hỏi đầu tiên với
người sau này sẽ trở thành gia đình của mình. Sáng sớm hôm sau chị ta cũng thức dậy
từ sớm cùng bà cụ Tứ quét dọn nhà cửa, cùng chuẩn bị bữa cơm ngày đói.
Ta có thể thấy, người vợ nhặt trong truyện bên ngoài lớp vỏ ngụy trang xù xì là một con
người khát khao hạnh phúc, là một con người có lòng tự trọng, có ý thức. Cái chao chát,
Số phận người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
chỏng lỏn mà chị ta thể hiện ra bên ngoài như một cách chị ta phản ứng đối với cái khắc
nghiệt của cuộc sống, như một lời thách thức với cuộc sống đầy khắc nghiệt ấy.
Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài lại xoay quanh cuộc đời và số
phận của nhân vật Mị. Gia đình Mị vì vay tiền của thống lí Pá Tra, không có tiền trả mà
phải trở thành con dâu trừ nợ cho nhà thống lí. Điều đáng nói ở đây là Mị đã có người
mà mình yêu thương, đã sống hết lòng vì tình yêu nhưng cuối cùng lại bị bắt về làm vợ
A Sử. Những ngày tháng sống trong gia đình thống lí Pá Tra khiến Mị vô cùng đau khổ,
những ngày mới về ngày nào Mị cũng khóc.
Mị đã từng có ý định ăn lá ngón để kết thúc sự đau khổ của bản thân, Mị trốn khỏi nhà
thống lí Pá Trá về chào tạm biệt bố để chết, nhưng nghe những lời tâm sự đầy đau khổ
của bố thì cuối cùng Mị vẫn không đành lòng chết đi, để lại nỗi đau khổ cho cha. Mị
chấp nhận cuộc sống như địa ngục trong gia đình thống lí Pá Trá, nhẫn nhục lầm lũi
như con rùa nuôi trong xó cửa. Từ khi trở thành người con dâu trừ nợ Mị bị đối xử bất
công, phải làm việc như con trâu con ngựa, phải chung sống với người chồng độc ác, vũ phu.
Mọi phản ứng của Mị dường như bị tê liệt, Mị chết dần trong đau khổ, đáng sợ đến mức
Mị dần quen với cái khổ của bản thân “Sống lâu trong cái khổ Mị quen rồi”. Khi bị A
Sử trói chặt vào cột nhà suốt một đêm, cả người đau nhức nhưng vẫn phải ngồi xoa
thuốc cho A Sử khi hắn ta bị thương, vì mệt mà thiếp đi Mị bị A sử dùng chân đạp thẳng
vào mặt, Mị tỉnh lại và tiếp tục công việc thoa thuốc của mình mà không hề có bất cứ
một phản ứng nào với hành động nhẫn tâm ấy.
Khi thấy A Phủ bị trói đứng giữa sân nhà thống lí, ban đầu Mị hoàn toàn vô cảm vì đó
là cảnh tượng quen thuộc mà Mị thường xuyên bắt gặp trong nhà thống lí Pá Tra. Nhưng
khi chứng kiến giọt nước mắt của A Phủ lăn trên gò má sạm đen, Mị ý thức được rằng
người kia rồi sẽ chết, chết đau chết đớn, chết đói, chết rét cũng phải chết. Mị nhớ lại
mình cũng từng bị trói đứng cả đêm như thế, nước mắt rơi nhưng không thể tự lau được.
Từ đồng cảnh sinh ra đồng cảm, Mị đã liều lĩnh cắt dây giải thoát cho A Phủ. Khi A
Số phận người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
Phủ chạy đi rồi Mị đối diện với một nỗi sợ hãi tột cùng, bản năng ham sống khiến cho
MỊ vùng chạy theo A phủ để giải phóng mình.
Qua hai truyện ngắn “Vợ nhặt” và “Vợ chồng A Phủ” ta thấy được số phận đáng thương
của những người đàn bà, là sự rẻ rúng mà hoàn cảnh khắc nghiệt mang lại, là sự chèn
ép, bóc lột dã man của giai cấp cầm quyền. Nhưng cuối cùng nhờ sức sống tinh thần
mạnh mẽ thì cả người vợ nhặt và nhân vật Mị đều tìm được hạnh phúc thực sự của cuộc đời mình.
Số phận người phụ nữ xưa và nay - Mẫu 3
Số phận người phụ nữ xưa luôn là đề tài nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà văn
nhà thơ. Nó trở thành đề tài nhân văn, nhân đạo vô cùng sâu sắc, tạo ra nhiều tác phẩm
hay bất hủ như tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân và “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài.
Trong hai tác phẩm này ta thấy Mị và bà cụ Tứ, cũng như vợ cu Tràng đều là những
người phụ nữ khốn khổ, chịu nhiều tai ương trong cuộc sống.
Hoàn cảnh sống khó khăn đã khiến cho những người phụ nữ sống thu mình, chịu đựng
tới mức chai lì và mất dần cảm xúc trong của con người.
Trong tác phẩm vợ nhặt hình ảnh vợ cu Tràng hiện lên chanh chua, là người không có
lòng tự trọng, chỉ vì sự đói khổ mà cô có thể gạ gẫm người khác mời ăn, rồi ngồi xuống
húp hết một chập bốn bát bánh đúc một cách ngon lành. Rồi những lời nói bông đùa mà
theo người ta về nhà làm vợ. Không cần cưới xin, hai họ làm chứng…
Chính sự đói khổ đã khiến con người trở nên không còn lòng tự trọng, không còn sự lựa
chọn nào khác, nên người phụ nữ trở nên như vậy. Họ bị tước đoạt mọi quyền sống,
quyền hạnh phúc, sự lạc hậu nghèo đói đã khiến cho người phụ nữ thay đổi, không còn
giữ được phẩm hạnh, lòng tự trọng của mình. Nhưng tự trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn
mong muốn có một cuộc sống hạnh phúc. Một gia đình, đúng nghĩa quây quần sớm tối bên nhau.
Số phận người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
Thân phận người phụ nữ xưa dù bị dòng đời xô đẩy nghiệt ngã tới mức nào thì vẫn luôn
giữ cho mình một tấm lòng thủy chung son sắt. Đúng như bài thơ của Hồ Xuân Hương đã viết:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
Vợ cu Tràng tuy có vẻ ngoài “chỏng lỏm”, chua ngoa, đanh đá nhưng thực chất bên
trong cô lại là người vô cùng hiền thục. Từ khi trở thành vợ cu Tràng cô đã thay đổi
hoàn toàn, dù thấy cái nghèo đói nhà chồng hiện ra trước mặt nhưng vẫn điềm nhiên
chấp nhận, nén lại tiếng thở dài.
Cô biết cùng mẹ chồng chăm lo vun vén nhà cửa, biết chuẩn bị bữa sáng trong gia đình
chồng. Trở thành người phụ nữ đúng nghĩa.
Nội tâm cô gái này là người yêu hạnh phúc gia đình và mong ước cô một gia đình, một
tổ ấm thật sự. Chính vì vậy khi được Tràng và bà cụ Tứ chấp nhận cô đã biến đổi hoàn
toàn gỡ bỏ lớp da xù xì của mình để trở thành người con dâu đảm đang hiền lành
Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” Mị là nhân vật vô cùng đáng thương, cô vì món nợ
của gia đình với nhà thống lí Pá Tra mà trở thành con dâu bắt nợ của họ. Phải sống cuộc
sống câm lặng như con rùa rúc đầu trong xó cửa hết ngày này qua tháng khác, cam chịu
cảnh bị đè nén, đánh đập làm việc như con trâu con bò trong nhà họ. Tới con trâu khi
làm việc còn có buổi tối được nghỉ ngơi, nhưng số phận Mị sống trong nhà thống lí thì
không có giây phút nào được nghỉ.
Mị nhiều lần định ăn lá ngón để kết thúc số phận mình nhưng cô lại nghĩ tới những
người thân của mình. Nếu cô chết đi thì gia đình nhà thống lí sẽ ép cha mẹ cô không thể
nào sống nổi trong bản này. Chính vì thương gia đình mà Mị cam chịu cuộc sống nô lệ
bị đày đọa cả về thể xác lẫn tâm hồn trong gia đình quyền hành đó.
Số phận người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
Mị sống mà như đã chết, cuộc sống chẳng khác nào địa ngục trần gian cô thường bị
chồng mình là A Sử trói vào đánh đập khi không làm theo ý nó. Những khi nó chán đời
hay buồn bực việc gì nó cũng sẵn sàng mang cơn tức giận trút lên thân thể cô. Sống lâu
trong cái khổ Mị quen dần Mị coi như mình là người đã chết tâm hồn cô đã chết, chỉ có
thể xác là lay lắt sống qua ngày mà thôi.
Nhưng rồi mọi chuyện đã thay đổi khi Mị nghe tiếng sáo gọi bạn ở chợ tình mùa xuân.
Tiếng nhạc đó đã thức tỉnh tâm hồn tưởng như đã chết trong Mị từ lâu khiến Mị cảm
thấy mình còn trẻ lắm.
Mị muốn đi chơi, nhiều người phụ nữ có chồng có con vẫn đi chơi chợ tình trong mùa
xuân có sao đâu. Mị muốn đi chơi, chính sự chuyển biến tâm lí đó của Mị đã khiến cô
bị trả giá. Cô bị A Sử trói vào cột nhà đánh tới tấp, nhưng chính trận đòn đó đã thức
tỉnh ý thức làm người trong Mị thôi thúc Mị vùng lên đấu tranh đòi quyền sống.
Hành động Mị cởi trói cho A Phủ và giải phóng mình khỏi nhà thống lí là một hành
động đòi quyền làm người vô cùng chính đáng. Nó thể hiện chân lí “Con giun xéo mãi cũng quằn”.
Số phận người phụ nữ xưa và nay - Mẫu 4
Trong văn học, ở thời đại nào, số phận người phụ nữ cũng là điều khiến những người
cầm bút trăn trở nhiều nhất.
Những trang viết về họ bao giờ cũng là những trang viết ám ảnh, để lại trong người đọc
nhiều trăn trở hơn cả. Đã qua rất lâu rồi thời của những cô Mị (Vợ chồng A Phủ - Tô
Hoài), thời của những người “vợ nhặt”, của bà cụ Tứ (Vợ nhặt- Kim Lân), nhưng câu
chuyện về cuộc đời của họ vẫn làm ta khôn nguôi nghĩ về số phận người phụ nữ xưa và nay.
Từ chị Dậu (Tắt đèn - Ngô Tất Tố) đến Thị Nở (Chí Phèo - Nam Cao), đến Mị, người
“vợ nhặt”, bà cụ Tứ, và cả người đàn bà làng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa của
Nguyễn Minh Châu những năm sau này, văn học đã cho chúng ta chứng kiến bao nỗi
Số phận người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
cơ khổ, nhọc nhằn của người phụ nữ. Mỗi người một cảnh ngộ riêng nhưng bao phủ lên
cuộc đời họ đều là màu đen hắc ám. Đè nén, áp bức, thống trị họ không chỉ là gông cùm,
xiềng xích của chế độ mà có khi là sự tàn bạo của những người chồng. Nhưng không vì
thế mà người phụ nữ mãi mãi yếu thế. Cuộc đời nhiều thăng trầm đã tiếp thêm cho học
sức để kháng mạnh mẽ. Trong nước mắt, tủi hờn, họ vẫn không ngừng hướng về sự
sống, về tương lai sáng lạn.
Là cô gái lao động miền núi, ở Mị hội tụ tất cả những nét đẹp của một thiếu nữ miền
sơn cước: xinh đẹp, giỏi giang, đảm đang, hiếu thảo. Chỉ vài chi tiết rất nhỏ, Tô Hoài
đã khiến chúng ta phải say mê bông hoa rừng này, huống gì những thanh niên trai bản
đã bị Mị hút hồn, ngày đêm thổi sáo theo Mị. Mị sinh ra trong một gia đình nghèo. Đó
không phải là điều bất hạnh đối với cô gái trẻ trung, yêu đời. Nhưng cha Mị không được
thách cưới cho con gái. Mị không được ném pao chọn người yêu, không được tìm người
yêu trong phiên chợ tình. Mị cay đắng vô cùng khi sớm phải chịu cảnh làm dâu gạt nợ
nhà thống lí Pá Tra. Món nợ truyền kiếp từ đời cha mẹ nay cô gái phải gánh trả bằng cả
hạnh phúc tuổi trẻ của mình. Tiếng nhạc sinh tiền cúng ma buổi sáng hôm Mị bị bắt đã
trói chặt cuộc đời Mị vào nhà thống lí. Mị đã làm dâu nhà nó thì có chết cũng làm ma
nhà nó. Số phận người con gái miền núi đã được an bài. Không ai chống lại được và
không ai dám chống lại thần quyền cả. Thân phận đàn bà như Mị lại càng không thể
vùng lên được, huống hồ, Mị còn cha nữa.
Mị về làm dâu nhưng thực chất là làm người ở cho nhà thống lí. Không ai nghĩ rằng
được làm dâu nhà giàu mà Mị lại cơ khổ đến vậy. Về làm dâu nhà Pá Tra, Mị đã biết:
"đàn hà con gái nhà này thì vùi vào làm việc cả đêm cả ngày". Mị đâu được ăn sung
mặc sướng, đâu được “ăn trên ngồi trốc” như bà Ba - vợ Bá Kiến (Chí phèo -Nam Cao),
hay như Thị Mịch (Giông tố - Vũ Trọng Phụng). Sự tồn tại của Mị được đánh dấu bằng
các công việc lặp đi lặp lại, vất vả, buồn tẻ: “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa
năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung
ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi, Lúc nào cũng vậy,
dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy
cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Tô Hoài như vô tình kể lại cho chúng ta công việc
thường nhật của cô con dâu nhà Pá Tra, nhưng thực chất chúng ta lại được chứng kiến
Số phận người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
sự thật đau lòng. Công việc nhọc nhằn đày ải thân xác và những tủi hờn, khốn khổ trong
sâu thẳm tâm hồn lúc nào cũng phảng phất trên nét mặt cô gái. Nếu không phải nhà
thống lí tham tiền, đày ải dâu con trong nhà, lẽ nào bao việc cực nhọc, triền miên như
thế phải đến tay Mị? Bản chất thống trị, bóc lột của bọn cường quyền miền núi không
được trực tiếp miêu tả nhưng ít nhiều lộ hiện trong câu chuyện cuộc đời Mị. Mị cay
đắng nhận ra cuộc sống của mình không bằng con trâu, con ngựa.
Thân phận của Mị làm ta không khỏi nhớ đến nhân vật “em” yêu trong truyện thơ dân
gian Xống chụ xon xao của dân tộc Tày. Ở thời đại nào, những cô gái nông dân miền
núi cũng không thoát được sự áp chế hà khắc, thậm chí tàn bạo của cường quyền và
thần quyền nơi mình sống. Họ không được tự do lựa chọn người yêu và một khi bị
cưỡng bức lấy chồng thì muôn đời phải làm trâu ngựa cho nhà chồng. Sống với chồng,
nhưng người con gái ấy cũng chỉ giữ được phận tôi đòi hèn mọn. Hành động A Sử bắt
Mị về làm vợ thực chất hành động cưỡng bức chiếm đoạt của tên con trai nhà quan,
hồng thể hiện uy lực của cường quyền. Vậy nên, sau Mị, hắn vẫn tiếp tục đi lùng bắt những cô gái khác.
Càng sống trong nhà giàu, tâm hồn Mị càng héo hon, tàn lụi. Bao nhiêu ngày ở nhà
thống lí là bấy nhiêu ngày Mị cam chịu sống trong địa ngục trần gian. Sự đè nén của
chế độ phong kiến và thần quyền miền núi đã làm Mị mất dần sức phản kháng, gần như
tê liệt hoàn toàn. Mị không khóc như tháng đầu mới về nhà A Sử, cũng không nghĩ đến
chuyện tự tử nữa. “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
Chính Mị cũng nghĩ "mình cứ chỉ ngồi mãi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao
giờ chết thì thôi". Cô gái vốn trẻ trung, yêu đời, khát khao được yêu, khát khao cuộc
sống tự do lại phải sống trong cảnh giam hãm, tù túng tất nhiên không thể trông đợi
tương lai tươi sáng được.
Nhưng im lặng không có nghĩa là thỏa hiệp, cam chịu chấp nhận hoàn toàn. Tiếng sáo
gọi bạn tình và men rượu ngày xuân đã thức dậy nơi Mị niềm khát khao sống. Hành
động cởi trói cho A Phủ mặc dù tự phát nhưng là đỉnh điểm của sự bộc phát một sức
sống tiềm tàng mãnh liệt. Mị giải thoát cho A Phủ cũng chính là giải thoát cho chính
Số phận người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
mình. Số phận của Mị dù thế nào đi chăng nữa cũng đã rẽ một bước ngoặt và chắc chắn
cuộc sống mới sẽ không u ám như cuộc sống trước đây.
Nếu như vây hãm cuộc đời cô gái lao động người Mèo trong câu chuyện của Tô Hoài
là cường quyên và thần quyền miền núi, thì thế lực đè nén, áp bức người đàn bà không
tên trong Vợ nhặt của Kim Lân là chế độ thực dân, phát xít. Thế lực thống trị này có
đẳng cấp cao hơn, tinh vi hơn, xảo quyệt hơn rất nhiều. Câu chuyện của Kim Lân không
xuất hiện bóng dáng những tên đế quốc đó, nhưng sự hoành hành của nạn đói là bằng
chứng tố cáo đanh thép nhất về tội ác của chúng, Cái đói làm “người chết như ngả rạ”
người sống “xanh xám như những bóng ma”.
Người “vợ nhặt” trong truyện ngắn được miêu tả với thân hình gầy đét, trên "khuôn mặt
lưỡi cày xám xịt" chỉ còn "đôi mắt trũng hoáy". Cuộc đời cô gái kém nhan sắc này lại
không được đảm bảo bởi thứ vật chất có giá trị nào khác. Không gia đình, không nhà
cửa, thị sống cù bơ cù bất, ngày nào cũng ngồi ở cửa nhà kho nhặt hạt rơi hạt vãi, hay
đợi ai có việc gì gọi đến thì làm. Cuộc sống nghèo đói không chỉ đẩy thị vào thế phụ
thuộc mà còn làm phai đi ở thị những phẩm chất vốn có ở người con gái. Cái đói làm
thị tối mắt trước miếng ăn, không ngại ngần, xấu hổ nên thị mới dễ dàng chấp nhận lời
mời xã giao của anh cu Tràng: “Ăn thật nhá, ừ ăn thì ăn sợ gì” sau lời tự động viên mình
là hành động "ăn thật" của thị. Thị "cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc nên chẳng
chuyện trò gì". Chỉ chi tiết này cũng đủ để Kim Lân khắc sâu bao nỗi cơ nhục trong số
kiếp người đàn bà ấy.
Thị trở thành người đói nhất trong đám người đói, người đáng thương nhất trong đám
người khốn khổ. Khủng khiếp hơn, thị đã là người đàn bà mang thân phận rẻ rúng nhất
khi liều lĩnh chấp nhận theo không anh cu Tràng, bất biết anh chàng là người như thế
nào. Nhân vật Đào trong Mùa lạc (Nguyễn Khải) sau này dẫu không có nhan sắc, dẫu
cuộc đời đã qua nhiều rủi ro nhưng không khi nào chị tự hạ thấp mình, bán rẻ mình. Có
lẽ người “vợ nhặt” là hình ảnh đại diện cho sự thê thảm, đáng thương của người phụ nữ
dưới ách áp bức của chế độ thực dân, phát xít. Đám bạn gái cùng ngồi trước cửa nhà
kho với thị, chắc có ai đã khá hơn thị.
Số phận người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
Nói đến cuộc đời người phụ nữ trong truyện ngắn của Kim Lân không thể bỏ qua cuộc
đời của bà cụ Tứ. Nếu ghép hai mảnh đời của hai người đàn bà khốn khổ trong câu
chuyện cũng chỉ được một cuộc đời khốn khổ. Người đàn bà ấy đã đi qua những tháng
ngày cay cực nhất, đã chịu đựng nỗi đau mất đi hai người thân trong gia đình, và đến
cuối đời, những giọt nước mắt cuối cùng cũng phải nhỏ xuống khi không thể lo cho con
trai một đám cưới tươm tất. Cay cực, tủi hờn là tất cả những gì đã kết đọng trong cuộc
đời người mẹ khốn khổ ấy.
Từ “vợ nhặt” đến bà cụ Tứ, chúng ta đã bắt gặp hai thế hệ phụ nữ khốn cùng nhất trong
xã hội. Họ là nạn nhân thảm hại của nạn đói khủng khiếp những năm trước Cách mạng.
Dẫu mỗi người có mang trong mình giấc mơ một tương lai tươi sáng, mỗi người đều cố
quên đi cuộc sống thực tại của mình, đều cố gắng vun đắp cho gia đình bé nhỏ mới gây
dựng nhưng chắc chắn những ám ảnh về cuộc đời tăm tối của họ sẽ không thể nguôi ngoai trong mỗi chúng ta.
Đọc Vợ chồng A Phủ và Vợ nhặt, chúng ta đều được chứng kiến cuộc đời của người
phụ nữ Việt Nam cách đây hơn nửa thế kỉ. Nếu để khái quát về số phận người phụ nữ
xưa, chúng ta chỉ có thể nói rằng họ quá bị động, phụ thuộc, đáng thương. Họ không
yếu đuối nhưng sức phản kháng của họ chưa đủ để chống lại các thế lực thống trị. Hơn
nữa, tinh thần đấu tranh của những con người này chưa được vũ trang bởi sức mạnh tập
thể nên chưa mang tính chất tự giác.
Đất nước sạch bóng quân thù, con người không phải đối mặt với các thế lực áp chế tàn
tệ nữa. Dân tộc độc lập và người phụ nữ cũng đã được giải phóng, tất nhiên, đâu đó
trong kẽ ngách xa xôi nào của cuộc sống sẽ vẫn còn những có gái như Mị. Nhiều phụ
nữ vẫn bị người chồng vũ phu đánh đập tàn tệ, nhiều bé gái vẫn bị chính cha đẻ, cha
dượng của mình cưỡng bức, nhiều em gái đi ở vẫn bị nhà chủ đánh đập tàn tệ. Chung
ta có thể tin điều đó khi đọc Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, khi chứng
kiến những thước phim mà các phóng viên quay được về tấm lưng đầy sẹo của em gái
đi ở thuê.,. Điều đó không tránh khỏi bởi tàn dư của chế độ phu quyền vẫn còn bởi
những tư tưởng hủ lậu vẫn chưa hoàn toàn mất hẳn... Song, tôi tin, không còn bất kì cô
Số phận người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
gái nào phải tự hạ thấp mình vì miếng ăn như người "vợ nhặt", không còn người mẹ già
nào phải rơi lệ khi không thể cưới vợ cho con nữa.
Người phụ nữ ngày nay không còn chịu ách áp bức của bất kì chế độ bất công nào cả.
Họ được tự do hoàn toàn, tự do trong tình yêu, tự do trong công việc, tự do trong mọi
hoạt động sống. Cuộc đời họ do chính họ làm chủ. Họ bình đẳng với nam giới. Họ được
tôn vinh trong các ngày lễ của giới mình. Họ được học tập, được làm việc, được hưởng
thụ những thành quả lao động do mình làm ra. Trên xe buýt, phụ nữ có bầu được nhường
chỗ. Càng ngày càng có nhiều người phụ nữ thành danh trong công việc của mình. Có
những nữ nhà văn nổi tiếng như Phạm Tin Hoài, Thuận, Võ Thị Hảo..., có những nữ
bác sĩ xuất sắc như Nguyễn Thị Minh Phượng, có những nữ chính trị gia tài giỏi như
Nguyễn Thị Bình, Trương Mĩ Hoa, Hà Thị Khiết... Họ vẫn là người vợ, người mẹ hoàn
hảo, vẫn làm tròn trách nhiệm trong công việc của mình. Vẻ đẹp của họ là vẻ đẹp của
sự chủ động, năng động, của ý thức sâu sắc về giá trị và vị trí của mình trong xã hội.
Phụ nữ thời nay may mắn hơn phụ nữ thời xưa bởi họ được sống trong xã hội văn minh,
bình ổn. Cuộc đời của họ có dịp được nở hoa, đơm trái. Họ đã bước lên nấc thang cao
hơn, xa hơn so với những người của thế hệ trước.
Tuy nhiên trong xã hội vẫn có nhiều phụ nữ không làm chủ được bản thân. Họ sa đọa
vào những trò vô bổ, những tệ nạn như cờ bạc, ma tuý, mại dâm... Họ lạm dụng chức
quyền của mình để tham tán tài sản của Nhà nước. Bản án cho Lã Thị Kim Oanh cách
đây không lâu là bài học cho những người phụ nữ có quá nhiều tham vọng trong cuộc
sống - Chính họ đã tự huỷ hoại mình, tự dìm cuộc sống của mình trong đó. Và lúc này,
xã hội lại phải vực họ dậy, kéo họ thoát khỏi cảnh sống lầm lạc.
Một trong những vấn nạn của xã hội hiện nay là nạn hành hung và bắt cóc phụ nữ bán
qua biên giới. Hàng năm, số phụ nữ bị bắt cóc bán qua biên giới vẫn không ngừng gia
tăng. Đây là một trong những điều bất cập của xã hội hiện đại, có ảnh hưởng lớn đến
đời sống tinh thần của người phụ nữ, nhất là những người phụ nữ nông thôn ra thành
thị lao động kiếm sống...
Số phận người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
Làm thế nào để một nửa thế giới luôn được sống hạnh phúc và ngày càng được hạnh
phúc hơn? Làm thế nào để tất cả phụ nữ Việt Nam luôn ngập tràn trong tiếng cười?...
Đó là những câu hỏi không dành riêng cho bất cứ ai, không dành riêng cho phái nam
mà chính những người phụ nữ cũng phải trả lời chúng.