So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến và Đồng chí | Ngữ văn 12

So sánh Đồng chí và Tây Tiến chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp của những anh lính bộ đội cụ Hồ sống chiến đấu trong buổi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp trải qua bao gian nan thử thách, khắc nghiệt nhưng sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Chủ đề:
Môn:

Ngữ Văn 12 822 tài liệu

Thông tin:
46 trang 2 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến và Đồng chí | Ngữ văn 12

So sánh Đồng chí và Tây Tiến chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp của những anh lính bộ đội cụ Hồ sống chiến đấu trong buổi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp trải qua bao gian nan thử thách, khắc nghiệt nhưng sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

32 16 lượt tải Tải xuống
Điểm giống và khác nhau trong bài Tây Tiến và Đồng chí
* Điểm giống:
- Tây Tiến và Đồng Chí cùng ra đời năm 1948.
- Hai tác giả Quang Dũng Chính Hữu đều cùng trong quân ngũ( nhà thơ quân
đội). Cả hai sáng tác cùng nói về vẻ đẹp của người chiến sĩ thời chống Pháp
* Điểm khác:
Người lính trong Tây Tiến.
a) Xuất thân: Từ đô thành, chiến sĩ Tây Tiến (trong đó có tác giả) số đông ra đi từ Hà
Nội thanh lịch. Họ những thanh niên có học. Và vì vậy họ mới có lúc “Đêm mơ Hà
Nội”.
b) Bối cảnh hoạt động: Người lính Tây Tiến hiện ra trong khung cảnh rừng núi miền
Tây Tổ quốc vừa hùng vĩ, vừa hiểm trở, hoang dại khác thường. Đó là những “Dốc
lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” , “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”; Đó
còn nơi “thác gầm thét, cọp trêu người” khiến cho khi cả “đoàn quân mỏi” trong
sương lấp, có lúc người lính “không bước nữa”…
c) Đặc điểm: Chiến binh Tây Tiến mang vẻ đẹp khác thường. Hình tượng các anh
nổi lên vừa hào hùng, dữ dội lại vừa hào hoa, mơ mộng.
- Hào hùng, dữ dội trong dáng vẻ ngoại hình: Cả đoàn binh “không mọc tóc”, “dữ oai
hùm” lại còn “mắt trừng nữa. Các anh trở nên khác lạ sau những cơn sốt rét rừng
ác liệt, sau những cuộc hành quân “vượt cồn mây”, “súng ngửi trời”. Đầu không còn
tóc, người xanh xao nhưng người lính vẫn rất oai phong, vẫn như mang cả hồn
thiêng của rừng thẳm.
- Hào hùng trong ý chí: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Các anh hiến dâng
tuổi thanh xuân cho đất nước không ngại ngần, tiếc nuối. Cái chết rình rập “rải
rác biên cương mồ viễn xứ” cũng không cản bước ra chiến trường giữ vững vùng
đất biên giới Việt Lào.
- Hào hùng ngay trong cái chết:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành..
- Người chiến về với đất trong hoàn cảnh thể nói là rất buồn. Theo tác giả cho
biết thì đồng đội ông ngã xuống, ngay manh chiếu bó thân cũng không có, nhưng sự
ra đi vĩnh viễn đó thật anh hùng. Con sông thay lời núi sông cất lên lời ai điếu
hùng tráng tiễn đưa người chiến sĩ.
- Hào hoa, mơ mộng ở tâm hồn, lãng mạn:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Tâm hồn phải hết sức hào hoa mới “gửi mộng qua biên giới” về dáng kiều
thơm.Người chiến đẹp trong giấc mơ đẹp, mơ dáng kiều diễm,thanh lịch,quyến rũ
của người phụ nữ thủ đô.Đối đầu với nhọc nhằn, chết chóc, anh vẫn không quên
một dáng hình thanh thú, toả hương. Chính dáng hình này tiếp sức cho anh bộ đội
đi tới.
Người lính trong Đồng chí:
a) Xuất thân: Đó là những người nông dân mặc áo lính. Các anh ra đi từ những làng
quê nghèo:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
b) Bối cảnh hoạt động: Các anh cầm súng chờ đợi giặc nơi rừng hoang sương muối.
Cảnh đây không nét hiểm trở,hoang vu như vùng núi người lính Tây tiến hiện
diện ( với dốc,thác,nước lũ,cọp trêu người…)
c) Đặc điểm: Người chiến sĩ dưới ngòi bút Chính Hữu mang vẻ đẹp bình dị. Các anh
hiện ra với dáng vẻ:
- Chất phác: Nhớ về quê hương,các anh nhớ về gian nhà trống ,nhớ về giếng nước
gốc đa rất đỗi quen thuộc. Còn người lính Tây Tiến nhớ quê hương nhớ “dáng
kiều thơm” có phần mĩ lệ, kiêu sa hơn.
- Lam lũ: Trang phục của chiến trong Đồng chí có phần thiếu thốn. Hình ảnh thực
của người nông dân mặc áo lính:
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày.
Như vậy bút pháp của Chính Hữu trong Đồng chí là bút pháp tả thực. Ông chú trọng
vẻ đẹp của tình đồng chí – những người chung quân ngũ,chung lý tưởng chiến đấu.
Còn Quang Dũng đã khái quát vẻ đẹp chung của người chiến Tây Tiến trên
đường hành quân và hoạt động ở vùng biên giới xa xăm, nhiều hiểm trở.
Nhìn chung lại, tuy hai hình tượng người lính này mang những vẻ đẹp khác nhau (
nông dân trí thức, địa bàn hoạt động quan hệ với nhân vật trữ tình….) nhưng
làm hoàn chỉnh bức chân dung anh bộ đội Cụ Hồ trong buổi đầu tiến hành cuộc
cách mạng kháng chiến chín năm chống Pháp.
Dàn ý so sánh người lính trong Tây Tiến và Đồng chí
1. Mở bài
- Giới thiệu sơ lược về văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975.
- Dẫn vào hình tượng người lính trong Tây Tiến và Đồng Chí.
2. Thân bài
a. Điểm chung:
Sáng tác năm 1948.
Bối cảnh chiến trường vùng Tây Bắc.
Tác giả đều là những người lính thực thụ bước ra từ chiến trường máu
lửa.
b. Hình tượng người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng:
* Xuất thân:
Những chàng trai đến từ thủ đô, hầu hết là học sinh sinh viên.
Mang vẻ hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn.
* Hoàn cảnh chiến đấu:
Chiến trường vùng biên giới Việt - Lào khắc nghiệt.
Cung đường hành quân rộng lớn, khúc khuỷu.
Điều kiện chiến đấu thiếu thốn, phải đối mặt với căn bệnh sốt rét kinh
hoàng.
Thường xuyên có người hy sinh vì bệnh tật và bom đạn.
* Vẻ hào hùng, dữ dội trong ngoại hình:
"Không mọc tóc", "quân xanh màu lá", hậu quả của bệnh sốt rét, nhưng vào thơ
Quang Dũng đã mang nét nghĩa chủ động, trở thành vẻ đẹp ngoại hình kỳ dị, trấn áp
kẻ thù.
* Vẻ hào hùng, bất khuất trong lý tưởng chiến đấu:
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh": Một lòng hy sinh cho Tổ quốc,
không tiếc thân mình.
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ...Áo bào thay chiếu anh về đất": Cái
chết hiên ngang, bất khuất, bi thương nhưng không hề bi lụy.
* Vẻ hào hoa, lãng mạn trong đời sống tâm hồn:
Say sưa điệu nhạc, nụ cười ánh mắt của những cô gái trẻ, vui mừng
nhảy múa trong những lúc tập kết về doanh trại.
"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm", khao khát tình yêu, hạnh phúc.
=> Tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, bay bổng, động lực để người lính trở nên mạnh
mẽ kiên cường trong chiến đấu.
c. Hình tượng người lính trong Đồng chí của Chính Hữu:
* Xuất thân:
- Người nông dân áo vải, đi từ làng quê nghèo khó.
* Điều kiện chiến đấu:
Vùng chiến trường Việt Bắc hoang sơ, khắc nghiệt.
Phải đối mặt với căn bệnh sốt rét rừng.
Thiếu thốn vật chất, cuộc chiến vô cùng gian khổ, khó khăn.
=> Miêu tả một cách chân thực, không mang màu sắc lãng mạn.
* Ngoại hình:
- Không mang vẻ dữ dội, thay vào đó hình tượng người lính nghèo nàn, khổ cực
"Áo anh rách vai, quần tôi vài mảnh vá/Miệng cười buốt giá chân không giày" =>
Vẻ đẹp đến từ sự chân chất giản dị.
* Vẻ đẹp tâm hồn:
- Thể hiện chủ yếu thông qua tình đồng chí gắn bó sâu sắc.
- Sự thông cảm lẫn nhau khi cùng chung hoàn cảnh, gắn sâu sắc, đồng cam
cộng khổ vượt qua những lúc ốm đau bệnh tật.
Đặc biệt là cùng kề vai nhau bước vào chiến trường máu lửa, thấu hiểu nỗi mất mát,
hy sinh trong chiến tranh.
- Tinh thần kiên cường bất khuất vượt qua mọi khó khăn gian khổ trong chiến đấu.
3. Kết bài
Nêu cảm nhận.
...................
So sánh Đồng Chí và Tây Tiến - Mẫu 1
thể nói Đồng chí của Chính Hữu và Tây Tiến của Quang Dũng là hai bài thơ hay
nhất viết về hình tượng người lính kháng chiến chống pháp. Với những nét khác biệt
về phong cách sáng tác, hai nhà thơ đã xây dựng nên hình tượng những người lính
vừa giản dị, đơn sơ, vừa lẫm liệt, kì vĩ.
Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã xây dựng thành công hình tượng người lính
chiến đấu. Họ nhanh chóng trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm
tin yêu hy vọng của cả dân tộc. Nếu như Chính Hữu viết về một người lính xuất
thân nông dân, ra đi từ làng quê nghèo với những nét vẽ chân thực trong Đồng Chí,
thì trong Tây Tiến Quang Dũng lại viết về người lính đến từ thủ đô với những nét vẽ
lãng mạn, bay bổng.
Cả Đồng chí Tây Tiến đều được sáng tác vào năm 1948, những năm đầu của
cuộc kháng chiến chống Pháp, với bối cảnh là khu chiến trường miền Tây Bắc khắc
nghiệt hoang sơ. Trước hoàn cảnh khó khăn của cuộc chiến cả Chính Hữu
Quang Dũng đều những cảm xúc về hình tượng người lính anh hùng, kiên định
vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, với vẻ đẹp mang khuynh hướng sử thi. Đặc biệt
với xuất thân người lính trực tiếp bước ra từ chiến trường đầy máu lửa thì
những vần thơ của hai tác giả khi nói về hình tượng người lính chiến lại càng trở
nên chân thực nét hơn cả. Chính điều đó đã khiến người lính trong Đồng chí
và cả Tây Tiến trở thành những tượng đài bất hủ trong nền văn học chiến tranh cách
mạng với những nét chung như trên và những nét riêng đặc sắc khác.
Cả hai bài thơ chúng ta đều thấy hiện lên những nét điển hình trong phong cách sử
dụng ngôn ngữ để làm nổi bật lên toàn bộ tác phẩm, những giá trị của các tác phẩm
này đều để cho nhân loại những đặc điểm điển hình mạnh mẽ nhất. Ngôn ngữ
trong hai tác phẩm này thể thấy sự khác nhau khi trong Tây Tiến ngôn ngữ
của hào hùng bi tráng mang nhiều màu sắc biểu tượng. Còn đối với bài thơ
Đồng Chí ngôn ngữ chất phác, mang giá trị về màu sắc đã làm nổi bật lên toàn
bộ tác phẩm với hai nghệ thuật có thể thấy nó hoàn toàn khác nhau, và mục đích có
thể thấy là giống nhau, nhưng trong biệt tài sử dụng ngôn ngữ của các nhân vật. Với
những nét điển hình đặc sắc, tạo nên những phong phú trong nghệ thuật của
tác giả đối với chính tác phẩm của mình. Những hình tượng nổi bật trong tác phẩm
hiện lên hoàn toàn sâu sắc mang màu sắc tươi tắn tạo nên những hình ảnh
giá trị có ý nghĩa nhất.
Sự khác biệt trong cách sử dụng ngôn ngữ tính chất biệt lập trong cách tạo hình
nhân vật đã làm sống động lên những giây phút hân hoan, biệt lập đối với cuộc
sống của nhân vật xuất hiện trong tác phẩm. Những ngôn ngữ tạo lên sự biệt lập về
ngôn ngữ để giá trị ý nghĩa mang ý nghĩa biểu trưng mạnh mẽ, tác phẩm của
Quang Dũng và Chính Hữu tạo nên những ý nghĩa biểu trưng về cuộc sống và giá trị
mang tầm ý nghĩa sâu sắc đối với toàn bộ tác phẩm.
Chính Hữu nhà thơ tiêu biểu, trưởng thành trong thời kháng chiến chống thực
dân Pháp lần hai. Với phong cách thơ nhỏ nhẹ, đằm thắm, trữ tình thiết tha, Chính
Hữu để lại rất nhiều những bài thơ hay, độc đáo cho nền văn học dân tộc. Bài thơ
được viết đầu năm 1948 những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp vô cùng
khó khăn gian khổ cả về vật chất lẫn tinh thần, đời sống kháng chiến. Tinh thần đoàn
kết thương yêu của đồng chí, đồng đội họ đã vượt qua để chiến đấu chiến thắng.
Chính Hữu viết “Đồng Chí” hướng ngòi bút vào chất hiện thực đời sống kháng chiến
khai thác cái đẹp trong cái giản dị chân thực, đời thường. Tình đồng chí đồng đội
thắm thiết sâu nặng của người lính cách mạng rất tự nhiên như vốn ngoài đời,
đúng với phẩm chất người lính cụ Hồ, giản dị mà anh hùng
Hình tượng người lính thơ Chính Hữu mang vẻ chân thực đến khắc nghiệt, và
nổi bật lên trên đó tình đồng chí gắn kết sâu nặng trong chiến đấu. Chính Hữu
không đề cập nhiều đến vẻ đẹp tâm hồn thay vào đó ông đi sâu hoàn cảnh
xuất thân hoàn cảnh chiến đấu đầy gian khổ của họ để làm nổi bật vẻ đẹp anh
hùng. Trước hết nói về xuất thân, Chính Hữu đồng đội đều những người con
của mảnh đất miền trung đầy nắng và gió. Anh bộ đội Cụ Hồ vốn là những nông dân
mặc áo lính mang trong mình lí tưởng cao đẹp. Vì sự sống còn của Tổ quốc, họ tạm
biệt bến nước sân đình, bãi mía nương dâu để ra đi chiến đấu. Ta hãy nghe lời tâm
sự của họ khi nói về quê hương mình:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Thành ngữ “nước mặn đồng chua”, gợi lên một miền đất nắng gió ven biển, đất đai
bị nhiễm phèn, nhiễm mặn, rất khó trồng trọt. Còn cụm từ “đất cày lên sỏi đá” lại gợi
lên trong lòng người đọc về một vùng đồi núi, trung du đất đai cằn cỗi, khó canh tác.
Đó xuất phát điểm về hoàn cảnh xuất thân cuộc sống của những chàng trai
nông dân chân lấm tay bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa, chỉ quen với tay cuốc, tay cày
sau lũy tre làng. Thế nhưng, khi tổ quốc lâm nguy, họ đã sẵn sàng gác lại tất cả
những gì quý giá nhất, thân thiết nhất nơi làng quê để ra đi chiến đấu:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”
Ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa… những hình ảnh giản dị, quen
thuộc mọi làng quê Việt Nam. lẽ lúc này người lính đang rất nhớ tới quê
hương, nơi gia đình, người thân, có ruộng nương, gian nhà, những tình cảm đẹp
đẽ của họ từ thuở ấu thơ đến lúc trưởng thành. Nhưng từ “mặc kệ” đã cho thấy sự
quyết tâm ra đi của những người lính; họ gửi lại quê hương, ruộng nương, gian nhà
cả những tình cảm buồn vui của thời thơ ấu cho người thân yêu để lên đường
cầm súng đánh giặc cứu nước. Tinh thần hi sinh mạnh mẽ ấy đã được nhà thơ
Thanh Thảo bộc bạch bằng lời thơ của mình:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ Quốc”.
Như vậy, câu thơ đã cho thấy được ý thức trách nhiệm công dân cao độ của người
lính đối với dân tộc khi tổ quốc lâm nguy. Điều đó cho thấy lòng yêu nước mạnh mẽ,
sâu sắc của họ. Hình ảnh “giếng nước gốc đa” là một hình ảnh rất giàu sức gợi, đây
vừa nhân hóa, lại vừa hoán dụ biểu trưng cho quê hương, người thân nơi hậu
phương luôn luôn dõi theo và nhớ nhung người lính da diết. Câu thơ nói quê hương
nhớ người lính thực ra người lính đang nhớ nhà. Nỗi nhớ hai chiều nên càng
da diết, khôn nguôi. Nhưng chính nỗi nhớ quê hương ấy, lại động lực mạnh mẽ,
thôi thúc tiếp bước cho họ vươn lên mạnh mẽ, trưởng thành, sự nghiệp
chung lớn lao của đất nước, dân tộc. Những người lính nông dân áo vải ấy đã trải
qua biết bao nhiêu gian lao, thiếu thốn tột cùng, những cơn sốt rét run người hành
hạ, trang phục phong phanh giữa mùa đông buốt giá:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.”
Hình ảnh: “ớn lạnh, sốt run người, ướt mồ hôi” những biểu hiện cụ thể để nói về
căn bệnh sốt rét rừng rất nguy hiểm khi trong chiến tranh không hề có đủ thuộc
men để chạy chữa. thế các anh – những người lính anh hùng dũng cảm phải cắn
răng chịu đựng, tự lực, tự cường vượt qua gian khổ. Đây một hình ảnh xuất
phát từ cái nhìn chân thực của người lính trong chiến tranh. Và căn bệnh sốt rét này
không phải chỉ xuất hiện trong thơ Chính Hữu trong rất nhiều các bài thơ của
các nhà thơ kháng cũng đã từng nhắc tới. Trong bài thơ
“Tây Tiến” của Quang Dũng, nhà thơ cũng đã viết:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.”
Hay trong bài “Dấu chân qua trảng cỏ” của Thanh Thảo, ông cũng từng có câu thơ:
“Những người sốt rét đương cơn
Dấu chân bầm xuống đường trơn ướt nhòe.”
Căn bệnh sốt rét – nỗi ám ảnh kinh hoàng của người lính trong chiến tranh, đã hành
hạ họ, khiến họ tiều tụy xanh xao, màu da vàng vọt, tóc thì rụng hết… Vì thế lúc này,
chỉ tình yêu thương, sự đùm bọc lẫn nhau của những người lính là thuốc bổ tinh
thần, giúp họ cùng nhau cộng hưởng, sẻ chia mà vươn lên chiến thắng chính mình.
Không dùng lại đó, người lính còn phải đối diện với cả sự thiếu thốn, khó khăn về
vật chất: “áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày”. Nhưng trong hoàn cảnh
ấy, những người lính vệ quốc, họ đã chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau bằng những hành
động chân thành: “Miệng cười buốt giá”, “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Chính
nụ cười đã xoá tan đi cái lạnh lẽo của đêm đông giá rét. Họ đùa vui trong gian khổ
thiếu thốn. Cùng động viên nhau qua ánh mắt nụ cười. đó chỉ là nụ cười gượng
gạo trong “buốt giá” nhưng vẫn chứa chan tình cảm, cho thấy được sự lạc quan
mạnh mẽ của họ trong cuộc sống chiến đấu. Còn hành động “tay nắm lấy bàn tay” là
một cử chỉ rất cảm động và cần thiết vào lúc này. Họ đã truyền cho nhau hơi ấm của
tình thương, cùng dắt tay nhau tiến lên phía trước, mục tiêu tưởng cách mạng
lớn lao: hòa bình dân tộc. lẽ, tình yêu thương nhau đã lấp đầy khoảng
trống, làm dịu vơi đi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương. Tất cả những cử chỉ ánh mắt, nụ
cười, nắm tay ấy đã giúp họ thêm động lực để vượt qua khó khăn, thử thách.
Điều ấy đã làm cho tình đồng chí thêm keo sơn, gắn hóa thành sức mạnh
đoàn kết trong suốt cuộc kháng chiến trường kì. Hình ảnh người lính tình đồng
chí của họ đã kết tinh, tỏa sáng trong đoạn thơ cuối của bài thơ:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
Ba câu thơ cuối vừa giàu chất hiện thực, lại vừa đậm đà chất lãng mạn bay bổng,
vừa gợi tả bức tranh không gian toàn cảnh của núi rừng, lại vừa đặc tả tình cảm ấm
áp của những người lính trong chiến tranh. Đây biểu hiện cao đẹp nhất của tình
đồng chí, đồng đội. Đó khoảng thời gian “đêm nay” rất cụ thể với khung cảnh
“rừng hoang sương muối” hiu quạnh, lạnh lẽo khắc nghiệt. Tuy nhiên, người
lính vẫn đứng cạnh bên nhau để “chờ giặc tới”. Động từ “chờ” cho thấy được tư thế
chủ động hết sức đề cao cảnh giác của người lính trong khi làm nhiệm vụ. Nghệ
thuật tương phản đối lập được tạo ra rất cân đối giữa một bên không gian núi
rừng lạnh lẽo, hoang vu, vắng lặng; với một bên thế chủ động mạnh mẽ như
lấn át cả không gian toàn cảnh của người lính. Chính sức mạnh của tình đồng chí
đã làm cho người lính vượt lên trên hiện thực khắc nghiệt đó. Các từ gần nghĩa
“cạnh bên” cho thấy sức mạnh của tinh thần đoàn kết, gắn luôn nhau của
những người lính. Trên cao là ánh trăng treo lơ lửng trên bầu trời, dưới cái nhìn lãng
mạn hóa của Chính Hữu, ánh trăng như đang treo ở đầu mũi súng. Và “Trăng” theo
đó như trở thành người bạn vừa chứng minh cho tình cảm đồng chí keo sơn của
người lính, vừa soi sáng và sưởi ấm cho không gian của rừng đêm sương muối lạnh
lẽo bên trên. Hình ảnh “súng trăng” được đặt cạnh bên nhau khiến người đọc
nhiều liên tưởng: giữa thực tại mộng; chiến tranh hòa bình; chiến sĩ – thi sĩ.
Sự đan cài giữa hiện thực lãng mạn ấy vừa cho thấy được hiện thực chiến tranh
khó khăn, vất vả; lại vừa toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính: họ vừa là chiến sĩ
lại vừa thi sĩ, họ cầm súng chiến đấu để bảo vệ quê hương, đem lại nền độc lập ,
tự do cho Tổ Quốc thân yêu. thể nói, ba câu thơ cuối một bức tranh đẹp, như
một bức tượng đài sừng sững của hình ảnh người lính cách mạng với tình đồng chí
thiêng liêng, sâu sắc. Chính tình cảm đồng chí đã làm nên vẻ đẹp tâm hồn người
chiến sĩ.
Bài thơ “Đồng chí” là một bài thơ hay, độc đáo viết về người lính cụ Hồ. Qua bài thơ,
người đọc thấy được vẻ đẹp tình đồng chí, đồng đội sâu sắc, cao cả, thiêng liêng
của người lính cách mạng. Có thể nói, bài thơ là một bức tượng đài người nông dân
mặc áo lính rất đẹp, tráng lệ, hào hùng của thời kì đầu kháng Pháp.
Khác với người lính trong bài thơ Đồng chí, những người lính trong bài thơ Tây Tiến
xuất thân những chàng trai của đất Hà thành. Chiến sĩ Tây Tiến phần lớn là thanh
niên, học sinh sinh viên Nội. Họ những người biết đến chiến trường khắc
nghiệt, nguy hiểm thiếu thốn kể từ khi đi lính. Bài thơ Tây Tiến kỉ niệm, hoài
niệm của tác giả thay cho lời muốn nói của những người chiến kiên cường
đồng thời lời của đồng bào dân tộc ta. Hình tượng người lính Tây Tiến trong bài
thơ mang những nét phẩm chất đặc trưng của người lính trong thời kháng chiến
chống Pháp.
những người lính Tây Tiến, luôn có một vẻ đẹp hào hoa, nó xuất phát từ tinh thần
của những con người học, những người được tiếp xúc với nền giáo dục mới, và
được sống nơi phồn hoa đô hội. Nói chính xác thì họ được xem là những phần tử
tiểu sản trí thức, với tưởng phóng khoáng, đặc biệt họ lại là những thanh niên
tuổi còn trẻ, đang còn phơi phới giấc mộng xuân, nên việc về một “dáng kiều
thơm” chuyện rất đỗi thường tình. Đặc biệt trước cái hoàn cảnh chiến đấu khắc
nghiệt, với những cơn sốt rét rừng kinh hoàng, với những cung đường hành quân
khúc khuỷu, chập chùng thì những niềm vui nho nhỏ khi nghĩ về cố hương, khi nghĩ
về những thứ lãng mạn lại chính động lực to lớn để họ thêm sức mạnh chiến
đấu. Về bối cảnh chiến đấu, Tây Tiến có phần khác Đồng chí ở chỗ, đoàn quân Tây
Tiến được thành lập năm 1947 để phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới vùng
Tây Bắc đánh tiêu hao lực lượng địch. Thế nên địa bàn hoạt động của binh đoàn
cùng rộng trải dài khắp vùng Tây Bắc, sang cả Sầm Nưa của Lào, rồi vòng về
miền tây Thanh Hóa. Chính bởi địa bàn hoạt động rộng lớn, nên hoàn cảnh những
năm đầu của cuộc kháng chiến cùng khắc nghiệt, giữa một vùng rừng thiêng
nước độc, người lính Tây Tiến luôn phải đối mặt với nhiều nguy hiểm khó khăn
cận kề. Nào là:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
rồi “Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”. những lúc hành quân trong sương
muối buốt lạnh, người sau chỉ thấy lưng người đằng trước cũng đôi lần khiến người
lính mệt mỏi, ngao ngán nhưng nhiên không thế họ buông xuôi. Đặc biệt,
không trận chiến nào không sự hy sinh mất mát, những năm đầu kháng
chiến, tất cả quân nhu yếu phẩm đặc biệt là thuốc men đều vô cùng khan hiếm. Thế
nên những cơn sốt rét rừng đã trở thành ác mộng của người lính chiến, họ không
chết bom đạn giặc thù chết bệnh tật hành hạ. Hình ảnh “Anh bạn dãi dầu
không bước nữa/Gục lên súng bỏ quên đời”, đọc cứ tưởng người lính nằm
ngủ trên súng mũ, nhưng hóa ra đó là một cái chết, một cái chết nhẹ tựa lông hồng,
chết bên tưởng họ vẫn theo đuổi, vẫn ôm trọn súng vào lòng, chết không
nuối tiếc.
Người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp rất lạ rất đặc trưng, sự kết hợp của sự
hào hùng, bất khuất kiên cường với lại sự lãng mạn hào hoa đến từ sâu trong
tâm hồn những con người trẻ tuổi. Chính sự giao hòa giữa hai yếu tố cương, nhu ấy
đã đem đến một hình tượng người lính rất thật, rất độc đáo và sâu sắc là bức tường
thành của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trước tiên nói về sự hào hùng, dữ dội
trong dáng vẻ, ngoại hình, người lính Tây Tiến không một dáng vẻ sạch sẽ, cao
to thay vào đó những người lính với cái đầu “không mọc tóc”, với “quân xanh
màu lá”. Một màu da xanh xám căn bệnh sốt rét hành hạ quá lâu, kèm theo đó là
thiếu máu khiến tóc rụng bằng sạch. điều kiện hành quân gian khổ, không được
ăn ngủ đủ giấc, vì chiến trường căng thẳng và ác liệt nên người lính chiến mới có bộ
dạng tiêu điều, xơ xác như vậy.
Thế nhưng trong cái bộ dạng kỳ dị ấy lại là sự dữ dội và oai hùng mà theo như cách
nói của Quang Dũng là họ cố tình “không mọc tóc” để bản thân càng thêm ghê gớm,
làn da xanh tái kết hợp với màu quân trang lại sự ngụy trang hoàn hảo nhất, kết
hợp với cái đầu không tóc cho ra đời một đội quân “dữ oai hùm” giữa chốn rừng
thiêng nước độc, để kẻ thù thấy thêm phần e ngại. Không chỉ vậy, thông qua
ngoại hình kỳ dị của người lính Tây Tiến, ta lại càng thấu hiểu hơn những hy sinh,
mất mát cùng với tinh thần chiến đấu kiên cường, vượt qua mọi gian khổ khó khăn,
bởi cái họ đối mặt không chỉ đơn giản bom đạn giặc thù, còn là điều kiện
chiến đấu cùng khắc nghiệt, lằn ranh sinh tử trở nên cùng mong manh và họ
buộc phải trở nên cứng rắn mạnh mẽ để vượt qua, đề hoàn thành tưởng cách
mạng. Bên cạnh vẻ hào hùng, dữ dội trong ngoại hình, thì nổi bật nhất ở người lính
Tây Tiến chính ý chí chiến đấu, lý tưởng cách mạng mang đậm khuynh hướng sử
thi.
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Vẫn biết rằng ra đi không hẹn ngày trở lại, thế nhưng người lính chiến vẫn chưa
từng ý nghĩa lùi bước. Họ sẵn sàng hiến dâng cho Tổ quốc tuổi thanh xuân tươi
đẹp nhất cuộc đời, tuổi hai mươi mấy lứa tuổi con người ta nhiều nỗi băn
khoăn trăn trở nhất, còn đối với các anh thì chỉ một nỗi buồn duy nhất ấy Tổ
quốc chưa yên. Thế nên chiến trường trở thành nơi các anh hướng đến, lòng các
anh chỉ ngập tràn một lý tưởng cách mạng, cái chết dẫu là sợ hãi nhưng đứng trước
Tổ quốc yêu thương đang vẫy gọi, thì dường như không còn quan trọng nữa.
Mảnh đất này đã sinh ra nuôi lớn các anh, thế nên các anh phải nghĩa vụ
phụng sự bảo vệ bằng bất cứ giá nào, kể cả phải hy sinh tính mạng, các anh
cũng chẳng hề nuối tiếc. Với phong cách thơ của Quang Dũng thì hình tượng người
lính chiến với sự hy sinh, mất mát đau thương, nhưng không hề bi lụy, thay vào đó
là cảm xúc bi tráng, hào hùng. Với những vần thơ rất hay, rất trang trọng:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành“.
Nét đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến làm tỏa sáng vẻ đẹp tưởng của giới trẻ
thời kháng chiến. Công cuộc bảo vệ đất nước dài đằng đẵng khó khăn biết
mấy, hòa bình đánh đổi bằng mồ hôi xương máu và muôn vàn sự hy sinh. Đã có biết
bao người lính trẻ đã ngã xuống giữa đất trời Tây Bắc. Thân xác các anh nằm lại nơi
biên cương “viễn xứ”. Thế nhưng họ vẫn hùng dũng kiên cường cầm súng bảo vệ tổ
quốc “chẳng tiếc đời xanh”. Cho đến khi ngã xuống, thân xác họ chỉ chiếc
chiếu quý như chiếc “áo bào”, chôn “rải rác”. Những cái chết ấy vừa bi thương vừa
tráng lệ, để đời sau cảm phục biết bao trước sự hy sinh bất khuất của những người
lính Tây Tiến anh hùng.
Câu thơ tựa như cảnh xông pha trận mạc rồi hy sinh của các tráng sĩ thời cổ đại, với
vẻ đẹp kiêu hùng, anh dũng cùng. Quang Dũng một người lính xuất sắc, cũng
người may mắn sống sót sau những trận chiến ác liệt những trận sốt rét rừng
khủng khiếp. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc ông phải chứng kiến cảnh hàng loạt
đồng đội ngã xuống trên đất mẹ cả trên đất khách, điều kiện thiếu thốn đến mức
manh chiếu thay cũng không đủ. Đau xót thế nhưng bước vào thơ Quang
Dũng, với tinh thần lãng mạn lạc quan, ông không để sự bi thương chi phối quá
mức, thay vào đó cái chết của người lính chiến lại được tác giả đưa vào thơ với vẻ
oanh liệt, anh hùng bất tử. Cái chết để cả núi sông phải gầm lên “khúc độc hành”
tiễn đưa thay cho kèn, trống tầm thường.
Hình tượng người lính trong thơ Quang Dũng quên đi những nét hào hoa, lãng
mạn thì quả một thiếu sót lớn, không hoàn chỉnh. Bên cạnh những lúc hành
quân khắc khổ, những trận chiến ác liệt, những đợt rét buốt của sương muối, của
bệt tật thì người lính cũng có những lúc được thả lỏng. Đó là những lúc:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Người lính thể hiện tinh thần yêu đời, yêu cuộc sống khi say nhảy múa quanh
đống lửa, say ánh mắt nụ cười của những gái trẻ, say cả điệu nhạc rộn
ràng, vui tươi. Đó chính bản chất tâm hồn của người lính Tây Tiến, những con
người đã từ bỏ áo trắng, mực xanh lên đường ra chiến tuyến nhưng chưa bao giờ
từ bỏ cái tâm hồn bay bổng, đầy mơ mộng. Và nó cũng chính là tuổi trẻ, một tuổi trẻ
những khát khao về tình yêu, sự ham vui, ưa sôi động để làm giàu cho cuộc
sống. Chính những điều ấy đã nuôi dưỡng một tâm hồn kiên cường và mạnh mẽ khi
chiến đấu, tiếp sức cho người lính những lúc tưởng chừng quá mệt mỏi và gục ngã.
Không chỉ trong những giây phút nghỉ ngơi, đặt doanh trại cả trong những lúc
chiến đấu, hành quân, người lính chiến cũng trong mình tâm hồn lãng mạn, hào
hoa.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Những đêm không ngủ chờ giặc trên đất khách, lòng người chiến trẻ tuổi lại
hướng về quê hương yêu dấu, nơi thủ đô ấy gia đình, bạn bè, trường lớp và
cả những “dáng kiều thơm”. Cũng cần nhắc lại rằng, trước đây cũng chỉ hai
câu thơ phần quá lãng mạn nghiêng về tình cảm nhân này một thời
gian dài Tây Tiến bị xa lánh, bị lập. Nhưng từ sau năm 1986, với những đổi mới
trong chủ trương chính sách của nhà nước về văn hóa nghệ thuật, thì Tây Tiến đã
được trả về với đúng vị trí xứng đáng được. hai câu thơ trên cũng trở
thành điểm nhấn quan trọng của cả bài thơ, phản ánh rất chân thực đời sống tinh
thần, tâm tình cảm của người lính trong chiến đấu. Họ còn trẻ, họ có quyền được
mưu cầu hạnh phúc, những gái mang áo dài, với dáng vẻ yêu kiều, nền
chính ước của họ. Các anh hy sinh tuổi trẻ, hy sinh mạng sống để lên lên
đường đi chiến đấu trước hết vì lý tưởng cách mạng, vì Tổ quốc, nhưng bao hàm
trong đó còn vì lợi ích cá nhân, vì bảo vệ hạnh phúc của riêng họ nữa. Chung quy
lại, sự kết hợp giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trong Tây Tiến của
Quang Dũng đã dựng lên một tượng đài người lính chiến bất hủ, mang vẻ đẹp của
thời đại và sống mãi trong trái tim người đọc.
Để làm nổi bật hình tượng người lính Tây Tiến với vẻ đẹp độc đáo và mới lạ tác giả
đã tận dụng tối đa sức biểu đạt của phép tương phản giữa hoàn cảnh chiến đấu với
thái độ, thế phẩm chất người lính. Bên cạnh đó việc sử dụng từ chỉ địa danh
đã gợi tả vùng đất xa xôi, gợi kỉ niệm về một thời chiến đấu gian khổ. Ngoài ra còn
rất nhiều những từ láy tượng hình đậm vẻ đẹp người lính, phép điệp từ, điệp vần
hình ảnh nhân hoá. Trong bài thơ “Tây Tiến” Quang Dũng đã những tái hiện
đầy tinh tế về vẻ đẹp của hình tượng người lính, những câu thơ nói về người lính
vừa lãng mạn, vừa đậm chất sử thi mang âm điệu hào hùng rắn rỏi. Nhờ đó mà hình
tượng người lính Tây Tiến hiện lên trong lòng người đọc trở nên đẹp tưởng, vừa
hào hùng, hào hoa lại đậm chất bi tráng.
Đối với mỗi hình ảnh người lính trong hai bài thơ ta đều thể nhận thấy được
những vẻ đẹp riêng biệt, một bên sự hào hùng lãng mạn, một bên sự kiên
cường, thực tế. Tất cả những vẻ đẹp riêng ấy đã tổng hòa lại, làm nên hình tượng
người bộ đội cụ Hồ anh dũng, bất tử trong lòng độc giả trong lòng của toàn dân
tộc Việt Nam mãi về sau. Năm tháng đã sẽ trôi qua nhưng những bài thơ viết về
người lính trong giai đoạn lịch sử oanh liệt này vẫn còn mãi trong nền văn học dân
tộc, trong lòng người dân Việt, mãi mãi là niềm tự hào của mỗi người dân Việt Nam.
Liên hệ Tây Tiến và Đồng Chí - Mẫu 2
Nghĩ về thơ, Soren Kierkegaard - một triết gia người Đan Mạch từng băn khoăn: “Thi
gì? Một con người bất hạnh giấu nỗi đau khổ sâu sắc trong tim, nhưng đôi môi
đẹp tới mức khi tiếng thở dài tiếng khóc đi qua, chúng nghe như âm nhạc du
dương… người ta xúm lại quanh thi bảo: “Hãy hát tiếp đi” - hay nói theo
cách khác, 'Mong những nỗi đau khổ mới hành hạ tâm hồn anh nhưng đôi môi anh
vẫn đẹp đẽ như trước, bởi tiếng khóc sẽ chỉ làm chúng tôi hoảng sợ, nhưng âm
nhạc thì lại rất hay.” Người ta thơ một thứ thanh âm đẹp đẽ thật hay, dẫu
rằng ấy chính tiếng vang của một tâm hồn đang đầy cảm xúc. Đến với “Đồng
chí” của Chính Hữu “Tây Tiến” của Quang Dũng, ta như được thả hồn mình vào
trải nghiệm và dòng cảm xúc đã căng, đã đầy của những nhà thơ chiến sĩ. Cùng viết
về một đề tài song “Đồng chí” của Chính Hữu và “Tây Tiến” trong tâm tưởng Quang
Dũng lại có những điểm tương đồng và khác biệt.
Quang Dũng Chính Hữu đều thế hệ các nhà thơ mặc áo lính, đều bước ra từ
chiến trường khốc liệt nên hình tượng người lính xuất hiện trong trang thơ của hai
ông trở nên chân thực và rõ nét hơn. Đó là hình ảnh người lính “Sốt run người vừng
trán ướt mồ hôi”. Trên cuộc hành quân gian khổ của mình, anh bộ đội Cụ Hồ bị
những cơn sốt hành hạ. cũng chính những thử thách gian khổ của thời chiến ấy
đã làm cho những người lính ngày càng trở nên gần nhau hơn. Rồi đến một lúc nào
đó họ chợt nhận ra, những người đồng đội khi bên nhau giống nhau từ hình thức
đến nội tâm; sự khắc nghiệt của hoàn cảnh sống đôi khi đẩy người ta đến những
tình huống không ngờ. Trong trang thơ của Quang Dũng cũng viết về đồng đội, và ở
đó, những trận sốt rét ác tính đã khiến cho các chiến của ta rụng hết những mái
tóc xanh “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”.
Cả hai tác phẩm đều cùng ra đời năm 1948, đây là thời kì đầu của cuộc kháng chiến
chống Pháp. Người lính phải chiến đấu trong điều kiện vật chất thô sơ, thiếu thốn,
hoàn cảnh khó khăn, gian khổ. Tuy nhiên họ đã vượt lên trên hoàn cảnh đó tỏa
sáng với những phẩm chất tốt đẹp: lòng yêu nước, tinh thần ra đi vì nghĩa lớn, ý chí
quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, thế hiên ngang, chủ động, tâm hồn lạc quan,
lãng mạn và yêu đời.
Một tác phẩm văn chương thành công tác phẩm ghi lại dấu ấn riêng trong lòng
bạn đọc. vậy bên cạnh những điểm tương đồng, ta vẫn thấy những nét độc
đáo, mang đậm dấu ấn cá nhân của hai nhà văn. Nét riêng biệt thứ nhất chúng ta có
thể thấy hai tác phẩm chính chủ đề tác phẩm. Điểm khác biệt thứ nhất chủ
đề. Với “Đồng chí”, Chính Hữu đã khắc họa lên hình tượng người chiến sĩ bộ đội cụ
Hồ với tình cảm keo sơn gắn bó và ý chí vượt qua khó khăn. Trải dài cả bài thơ, tình
cảm đồng chí đồng đội được thể hiện sâu sắc mãnh liệt. Tình đồng chí của
những người lính dựa trên sự chia sẻ cảnh ngộ và lý tưởng chiến đấu được thể hiện
bình dị nhưng sâu sắc trong mọi tình huống. Họ thân tình gọi nhau một tiếng “Đồng
chí!”. Từ “đồng chí” lại được tách thành một câu riêng, một đoạn riêng. Với cấu trúc
thơ khác thường ấy, tác giả làm nổi bật ý thơ. như một nốt nhấn của bản nhạc,
bật lên âm hưởng gây xúc động lòng người. “Đồng chí” tiếng nói thiêng liêng,
một sự cảm kích về nhiều đổi thay kì lạ trong quan hệ tình cảm.
Chủ đề của “Tây Tiến” lại khác hẳn, Quang Dũng đã thể hiện tình cảm sâu nặng của
nhà thơ với đơn vị Tây Tiến, với cảnh vật và con người Tây Bắc một thời gắn bó qua
đó khắc họa hình tượng người lính bi tráng. Người lính dần dần hiện ra từ nỗi nhớ
“chơi vơi” dành cho Tây Bắc. Thiên nhiên hùng hiện lên trong ức của người
chiến vệ quốc. Nhà thơ xứ Đoài mây trắng xúc động với những kỉ niệm về những
người lính Tây Tiến, về đoàn quân Tây Tiến khó có thể xóa nhòa trong tâm trí.
Điểm khác biệt thứ hai đó hoàn cảnh xuất thân của người lính trong hai bài thơ.
Người lính trong sáng tác của Quang Dũng thuộc tầng lớp trí thức, tinh hoa của dân
tộc. Họ học sinh, sinh viên đang còn ngồi trên ghế nhà trường nhưng đã “gác bút
nghiên, mặc áo lính” lên đường chiến đấu để giành lại độc lập dân tộc.
Nếu “Tây Tiến” quan niệm người anh hùng theo lý tưởng thẩm mĩ cao đẹp thì “Đồng
chí” đậm nét hiện thực bình dị, sự lam lũ, chất phác của người nông dân chân
chất hiền lành.
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.”
Bức tranh về người lính Vệ quốc được phác họa bằng chất liệu cuộc sống đồng
quê, trên nền “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá” của những người có cùng
cảnh ngộ, từ những vùng nông thôn khác nhau trên nhiều miền đất nước có chung
cảnh nghèo. Những người nông dân đồng cảnh nên đồng tâm trong lực chọn mục
đích cống hiến, chiến đấu. Những người nông dân từ các vùng quê nghèo khác
nhau đã vượt lên số phận, vượt lên cảnh ngộ, trên tầm khốn khó bước vào cuộc
chiến toàn dân tộc.
Hoàn cảnh xuất thân khác nhau nên hình tượng người lính cũng được xây dựng với
vẻ đẹp riêng. Nhà thơ Quang Dũng miêu tả người lính Tây Tiến với vẻ đẹp ngoại
hình, mặc dù họ có vẻ ốm đau nhưng không bao giờ yếu đuối:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Đoạn thơ ghi lại một cách chân thật, hào hùng cái khốc liệt dữ dội của chiến tranh,
của một dân tộc quật khởi đứng lên dùng giáo mác, gậy tầm vông chống lại sắt thép
quân thù. Hình tượng thơ được đặt trong thế tương phản đối lập để khẳng định chí
khí hiên ngang, anh hùng, những tâm hồn với bao mộng tuyệt đẹp. "Đoàn binh
không mọc tóc", "quân xanh màu lá", vẻ tiều tụy, ốm đau bệnh sốt rét rừng,
nhưng thế cùng oai phong lẫm liệt: "dữ oai hùm". Bằng ánh mắt trừng, họ
truyền đạt tinh thần căm thù đối với kẻ thù, thậm chí cả khi ngủ, họ gửi đi những
giấc mơ về chiến thắng ở biên giới.
Binh đoàn Tây Tiến xuất thân từ học sinh, sinh viên của 36 phố phường, nơi ngàn
năm văn hiến nên họ luôn mang trong mình sự hào hoa, lãng mạn.
“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Người lính bắt đầu cuộc hành trình với niềm tin mãnh liệt về tình yêu quê hương, hy
sinh niềm hạnh phúc nhân để đổi lấy hạnh phúc cho đất nước. Trong hành trang
lên đường chiến đấu của người lính Tây Tiến những giấc đẹp về người con
gái Thành thanh lịch. xoa dịu đi bao nhiêu khó khăn, vất vả. Đó cũng
những giây phút, khoảnh khắc yên bình, lãng mạn rất đáng quý trên chặng đường
hành quân qua mưa bom lửa đạn; giây phút làm ấm lòng người lính xa nhà cùng
với sức mạnh lòng căm thù.
Người lính mang trong mình sự trẻ trung khỏe khoắn, hào hoa, thanh lịch. Ở họ vừa
cháy bỏng tưởng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” vừa mang trong mình nét lãng
mạn mộng mơ. Nét độc đáo này của người lính Tây Tiến đã thực sự làm hồn thơ
Quang Dũng rung động.
Không xuất hiện với chân dung dị “không mọc tóc”, “dữ oai hùm” như trong thơ
Quang Dũng, những chiến nông dân của Chính Hữu thể hiện vẻ đẹp mộc mạc,
hồn hậu với những bộ quần áo rách rưới:
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau, tay nắm lấy bàn tay”
Người lính đầu thời kháng chiến chống Pháp phải trải qua bao khó khăn gian khổ
về mặt sở vật chất. khí còn thô sơ, dân ta còn đói nghèo, Các anh mặc trên
người bộ áo quần được chắp vá. Trong làn sương sớm, họ đứng gần nhau, chân
không che đôi giày, miệng cười buốt giá trong bóng tối. Họ hiện lên không chỉ đơn
giản còn ấm áp bởi tình đồng chí. rét buốt hay quần áo rách, nhưng đó
chính là lý do tình đồng chí trở nên đặc biệt hơn.
Nỗi nhớ của người lính đó là xóm làng thân thuộc, là mái đình, cây đa cổ kính:
| 1/46

Preview text:

Điểm giống và khác nhau trong bài Tây Tiến và Đồng chí * Điểm giống:
- Tây Tiến và Đồng Chí cùng ra đời năm 1948.
- Hai tác giả Quang Dũng và Chính Hữu đều cùng trong quân ngũ( nhà thơ quân
đội). Cả hai sáng tác cùng nói về vẻ đẹp của người chiến sĩ thời chống Pháp * Điểm khác:
Người lính trong Tây Tiến.
a) Xuất thân: Từ đô thành, chiến sĩ Tây Tiến (trong đó có tác giả) số đông ra đi từ Hà
Nội thanh lịch. Họ là những thanh niên có học. Và vì vậy họ mới có lúc “Đêm mơ Hà Nội”.
b) Bối cảnh hoạt động: Người lính Tây Tiến hiện ra trong khung cảnh rừng núi miền
Tây Tổ quốc vừa hùng vĩ, vừa hiểm trở, hoang dại khác thường. Đó là những “Dốc
lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” , “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”; Đó là
còn nơi “thác gầm thét, cọp trêu người” khiến cho có khi cả “đoàn quân mỏi” trong
sương lấp, có lúc người lính “không bước nữa”…
c) Đặc điểm: Chiến binh Tây Tiến mang vẻ đẹp khác thường. Hình tượng các anh
nổi lên vừa hào hùng, dữ dội lại vừa hào hoa, mơ mộng.
- Hào hùng, dữ dội trong dáng vẻ ngoại hình: Cả đoàn binh “không mọc tóc”, “dữ oai
hùm” lại còn “mắt trừng “ nữa. Các anh trở nên khác lạ sau những cơn sốt rét rừng
ác liệt, sau những cuộc hành quân “vượt cồn mây”, “súng ngửi trời”. Đầu không còn
tóc, người xanh xao nhưng người lính vẫn rất oai phong, vẫn như mang cả hồn thiêng của rừng thẳm.
- Hào hùng trong ý chí: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Các anh hiến dâng
tuổi thanh xuân cho đất nước không ngại ngần, tiếc nuối. Cái chết rình rập và “rải
rác biên cương mồ viễn xứ” cũng không cản bước ra chiến trường giữ vững vùng
đất biên giới Việt Lào.
- Hào hùng ngay trong cái chết:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành..
- Người chiến sĩ về với đất trong hoàn cảnh có thể nói là rất buồn. Theo tác giả cho
biết thì đồng đội ông ngã xuống, ngay manh chiếu bó thân cũng không có, nhưng sự
ra đi vĩnh viễn đó thật anh hùng. Con sông Mã thay lời núi sông cất lên lời ai điếu
hùng tráng tiễn đưa người chiến sĩ.
- Hào hoa, mơ mộng ở tâm hồn, lãng mạn:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Tâm hồn phải hết sức hào hoa mới “gửi mộng qua biên giới” và mơ về dáng kiều
thơm.Người chiến sĩ đẹp trong giấc mơ đẹp, mơ dáng kiều diễm,thanh lịch,quyến rũ
của người phụ nữ thủ đô.Đối đầu với nhọc nhằn, chết chóc, anh vẫn không quên
một dáng hình thanh thú, toả hương. Chính dáng hình này tiếp sức cho anh bộ đội đi tới.
Người lính trong Đồng chí:
a) Xuất thân: Đó là những người nông dân mặc áo lính. Các anh ra đi từ những làng quê nghèo:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
b) Bối cảnh hoạt động: Các anh cầm súng chờ đợi giặc nơi rừng hoang sương muối.
Cảnh ở đây không rõ nét hiểm trở,hoang vu như vùng núi người lính Tây tiến hiện
diện ( với dốc,thác,nước lũ,cọp trêu người…)
c) Đặc điểm: Người chiến sĩ dưới ngòi bút Chính Hữu mang vẻ đẹp bình dị. Các anh hiện ra với dáng vẻ:
- Chất phác: Nhớ về quê hương,các anh nhớ về gian nhà trống ,nhớ về giếng nước
gốc đa rất đỗi quen thuộc. Còn người lính Tây Tiến nhớ quê hương là nhớ “dáng
kiều thơm” có phần mĩ lệ, kiêu sa hơn.
- Lam lũ: Trang phục của chiến sĩ trong Đồng chí có phần thiếu thốn. Hình ảnh thực
của người nông dân mặc áo lính: Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá Chân không giày.
Như vậy bút pháp của Chính Hữu trong Đồng chí là bút pháp tả thực. Ông chú trọng
vẻ đẹp của tình đồng chí – những người chung quân ngũ,chung lý tưởng chiến đấu.
Còn Quang Dũng đã khái quát vẻ đẹp chung của người chiến sĩ Tây Tiến trên
đường hành quân và hoạt động ở vùng biên giới xa xăm, nhiều hiểm trở.
Nhìn chung lại, tuy hai hình tượng người lính này mang những vẻ đẹp khác nhau (
nông dân và trí thức, địa bàn hoạt động và quan hệ với nhân vật trữ tình….) nhưng
làm hoàn chỉnh bức chân dung anh bộ đội Cụ Hồ trong buổi đầu tiến hành cuộc
cách mạng kháng chiến chín năm chống Pháp.
Dàn ý so sánh người lính trong Tây Tiến và Đồng chí 1. Mở bài
- Giới thiệu sơ lược về văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975.
- Dẫn vào hình tượng người lính trong Tây Tiến và Đồng Chí. 2. Thân bài
a. Điểm chung: ● Sáng tác năm 1948.
● Bối cảnh chiến trường vùng Tây Bắc.
● Tác giả đều là những người lính thực thụ bước ra từ chiến trường máu lửa.
b. Hình tượng người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng: * Xuất thân:
● Những chàng trai đến từ thủ đô, hầu hết là học sinh sinh viên.
● Mang vẻ hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn. * Hoàn cảnh chiến đấu:
● Chiến trường vùng biên giới Việt - Lào khắc nghiệt.
● Cung đường hành quân rộng lớn, khúc khuỷu.
● Điều kiện chiến đấu thiếu thốn, phải đối mặt với căn bệnh sốt rét kinh hoàng.
● Thường xuyên có người hy sinh vì bệnh tật và bom đạn.
* Vẻ hào hùng, dữ dội trong ngoại hình:
"Không mọc tóc", "quân xanh màu lá", hậu quả của bệnh sốt rét, nhưng vào thơ
Quang Dũng đã mang nét nghĩa chủ động, trở thành vẻ đẹp ngoại hình kỳ dị, trấn áp kẻ thù.
* Vẻ hào hùng, bất khuất trong lý tưởng chiến đấu:
● "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh": Một lòng hy sinh cho Tổ quốc, không tiếc thân mình.
● "Rải rác biên cương mồ viễn xứ...Áo bào thay chiếu anh về đất": Cái
chết hiên ngang, bất khuất, bi thương nhưng không hề bi lụy.
* Vẻ hào hoa, lãng mạn trong đời sống tâm hồn:
● Say sưa điệu nhạc, nụ cười ánh mắt của những cô gái trẻ, vui mừng
nhảy múa trong những lúc tập kết về doanh trại.
● "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm", khao khát tình yêu, hạnh phúc.
=> Tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, bay bổng, là động lực để người lính trở nên mạnh
mẽ kiên cường trong chiến đấu.
c. Hình tượng người lính trong Đồng chí của Chính Hữu: * Xuất thân:
- Người nông dân áo vải, đi từ làng quê nghèo khó.
* Điều kiện chiến đấu:
● Vùng chiến trường Việt Bắc hoang sơ, khắc nghiệt.
● Phải đối mặt với căn bệnh sốt rét rừng.
● Thiếu thốn vật chất, cuộc chiến vô cùng gian khổ, khó khăn.
=> Miêu tả một cách chân thực, không mang màu sắc lãng mạn. * Ngoại hình:
- Không mang vẻ dữ dội, thay vào đó là hình tượng người lính nghèo nàn, khổ cực
"Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá/Miệng cười buốt giá chân không giày" =>
Vẻ đẹp đến từ sự chân chất giản dị. * Vẻ đẹp tâm hồn:
- Thể hiện chủ yếu thông qua tình đồng chí gắn bó sâu sắc.
- Sự thông cảm lẫn nhau khi cùng có chung hoàn cảnh, gắn bó sâu sắc, đồng cam
cộng khổ vượt qua những lúc ốm đau bệnh tật.
Đặc biệt là cùng kề vai nhau bước vào chiến trường máu lửa, thấu hiểu nỗi mất mát, hy sinh trong chiến tranh.
- Tinh thần kiên cường bất khuất vượt qua mọi khó khăn gian khổ trong chiến đấu. 3. Kết bài Nêu cảm nhận. ...................
So sánh Đồng Chí và Tây Tiến - Mẫu 1
Có thể nói Đồng chí của Chính Hữu và Tây Tiến của Quang Dũng là hai bài thơ hay
nhất viết về hình tượng người lính kháng chiến chống pháp. Với những nét khác biệt
về phong cách sáng tác, hai nhà thơ đã xây dựng nên hình tượng những người lính
vừa giản dị, đơn sơ, vừa lẫm liệt, kì vĩ.
Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã xây dựng thành công hình tượng người lính
chiến đấu. Họ nhanh chóng trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm
tin yêu và hy vọng của cả dân tộc. Nếu như Chính Hữu viết về một người lính xuất
thân nông dân, ra đi từ làng quê nghèo với những nét vẽ chân thực trong Đồng Chí,
thì trong Tây Tiến Quang Dũng lại viết về người lính đến từ thủ đô với những nét vẽ lãng mạn, bay bổng.
Cả Đồng chí và Tây Tiến đều được sáng tác vào năm 1948, những năm đầu của
cuộc kháng chiến chống Pháp, với bối cảnh là khu chiến trường miền Tây Bắc khắc
nghiệt và hoang sơ. Trước hoàn cảnh khó khăn của cuộc chiến cả Chính Hữu và
Quang Dũng đều có những cảm xúc về hình tượng người lính anh hùng, kiên định
vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, với vẻ đẹp mang khuynh hướng sử thi. Đặc biệt
với xuất thân là người lính trực tiếp bước ra từ chiến trường đầy máu và lửa thì
những vần thơ của hai tác giả khi nói về hình tượng người lính chiến lại càng trở
nên chân thực và rõ nét hơn cả. Chính điều đó đã khiến người lính trong Đồng chí
và cả Tây Tiến trở thành những tượng đài bất hủ trong nền văn học chiến tranh cách
mạng với những nét chung như trên và những nét riêng đặc sắc khác.
Cả hai bài thơ chúng ta đều thấy hiện lên những nét điển hình trong phong cách sử
dụng ngôn ngữ để làm nổi bật lên toàn bộ tác phẩm, những giá trị của các tác phẩm
này đều để cho nhân loại những đặc điểm điển hình và mạnh mẽ nhất. Ngôn ngữ
trong hai tác phẩm này có thể thấy có sự khác nhau khi trong Tây Tiến ngôn ngữ
của nó hào hùng bi tráng và mang nhiều màu sắc biểu tượng. Còn đối với bài thơ
Đồng Chí ngôn ngữ chất phác, và mang giá trị về màu sắc đã làm nổi bật lên toàn
bộ tác phẩm với hai nghệ thuật có thể thấy nó hoàn toàn khác nhau, và mục đích có
thể thấy là giống nhau, nhưng trong biệt tài sử dụng ngôn ngữ của các nhân vật. Với
những nét điển hình và đặc sắc, nó tạo nên những phong phú trong nghệ thuật của
tác giả đối với chính tác phẩm của mình. Những hình tượng nổi bật trong tác phẩm
hiện lên hoàn toàn sâu sắc và mang màu sắc tươi tắn tạo nên những hình ảnh và
giá trị có ý nghĩa nhất.
Sự khác biệt trong cách sử dụng ngôn ngữ và tính chất biệt lập trong cách tạo hình
nhân vật đã làm sống động lên những giây phút hân hoan, và biệt lập đối với cuộc
sống của nhân vật xuất hiện trong tác phẩm. Những ngôn ngữ tạo lên sự biệt lập về
ngôn ngữ để có giá trị ý nghĩa và mang ý nghĩa biểu trưng mạnh mẽ, tác phẩm của
Quang Dũng và Chính Hữu tạo nên những ý nghĩa biểu trưng về cuộc sống và giá trị
mang tầm ý nghĩa sâu sắc đối với toàn bộ tác phẩm.
Chính Hữu là nhà thơ tiêu biểu, trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống thực
dân Pháp lần hai. Với phong cách thơ nhỏ nhẹ, đằm thắm, trữ tình thiết tha, Chính
Hữu để lại rất nhiều những bài thơ hay, độc đáo cho nền văn học dân tộc. Bài thơ
được viết đầu năm 1948 những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp vô cùng
khó khăn gian khổ cả về vật chất lẫn tinh thần, đời sống kháng chiến. Tinh thần đoàn
kết thương yêu của đồng chí, đồng đội họ đã vượt qua để chiến đấu chiến thắng.
Chính Hữu viết “Đồng Chí” hướng ngòi bút vào chất hiện thực đời sống kháng chiến
khai thác cái đẹp trong cái giản dị chân thực, đời thường. Tình đồng chí đồng đội
thắm thiết sâu nặng của người lính cách mạng rất tự nhiên như vốn có ngoài đời,
đúng với phẩm chất người lính cụ Hồ, giản dị mà anh hùng
Hình tượng người lính ở thơ Chính Hữu nó mang vẻ chân thực đến khắc nghiệt, và
nổi bật lên trên đó là tình đồng chí gắn kết sâu nặng trong chiến đấu. Chính Hữu
không đề cập nhiều đến vẻ đẹp tâm hồn mà thay vào đó ông đi sâu và hoàn cảnh
xuất thân và hoàn cảnh chiến đấu đầy gian khổ của họ để làm nổi bật vẻ đẹp anh
hùng. Trước hết nói về xuất thân, Chính Hữu và đồng đội đều là những người con
của mảnh đất miền trung đầy nắng và gió. Anh bộ đội Cụ Hồ vốn là những nông dân
mặc áo lính mang trong mình lí tưởng cao đẹp. Vì sự sống còn của Tổ quốc, họ tạm
biệt bến nước sân đình, bãi mía nương dâu để ra đi chiến đấu. Ta hãy nghe lời tâm
sự của họ khi nói về quê hương mình:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Thành ngữ “nước mặn đồng chua”, gợi lên một miền đất nắng gió ven biển, đất đai
bị nhiễm phèn, nhiễm mặn, rất khó trồng trọt. Còn cụm từ “đất cày lên sỏi đá” lại gợi
lên trong lòng người đọc về một vùng đồi núi, trung du đất đai cằn cỗi, khó canh tác.
Đó là xuất phát điểm về hoàn cảnh xuất thân và cuộc sống của những chàng trai
nông dân chân lấm tay bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa, chỉ quen với tay cuốc, tay cày
sau lũy tre làng. Thế nhưng, khi tổ quốc lâm nguy, họ đã sẵn sàng gác lại tất cả
những gì quý giá nhất, thân thiết nhất nơi làng quê để ra đi chiến đấu:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”
Ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa… là những hình ảnh giản dị, quen
thuộc ở mọi làng quê Việt Nam. Có lẽ lúc này người lính đang rất nhớ tới quê
hương, nơi có gia đình, người thân, có ruộng nương, gian nhà, những tình cảm đẹp
đẽ của họ từ thuở ấu thơ đến lúc trưởng thành. Nhưng từ “mặc kệ” đã cho thấy sự
quyết tâm ra đi của những người lính; họ gửi lại quê hương, ruộng nương, gian nhà
và cả những tình cảm buồn vui của thời thơ ấu cho người thân yêu để lên đường
cầm súng đánh giặc cứu nước. Tinh thần hi sinh mạnh mẽ ấy đã được nhà thơ
Thanh Thảo bộc bạch bằng lời thơ của mình:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ Quốc”.
Như vậy, câu thơ đã cho thấy được ý thức trách nhiệm công dân cao độ của người
lính đối với dân tộc khi tổ quốc lâm nguy. Điều đó cho thấy lòng yêu nước mạnh mẽ,
sâu sắc của họ. Hình ảnh “giếng nước gốc đa” là một hình ảnh rất giàu sức gợi, đây
vừa là nhân hóa, lại vừa là hoán dụ biểu trưng cho quê hương, người thân nơi hậu
phương luôn luôn dõi theo và nhớ nhung người lính da diết. Câu thơ nói quê hương
nhớ người lính mà thực ra là người lính đang nhớ nhà. Nỗi nhớ hai chiều nên càng
da diết, khôn nguôi. Nhưng chính nỗi nhớ quê hương ấy, lại là động lực mạnh mẽ,
thôi thúc và tiếp bước cho họ vươn lên mà mạnh mẽ, trưởng thành, vì sự nghiệp
chung lớn lao của đất nước, dân tộc. Những người lính nông dân áo vải ấy đã trải
qua biết bao nhiêu gian lao, thiếu thốn tột cùng, những cơn sốt rét run người hành
hạ, trang phục phong phanh giữa mùa đông buốt giá:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.”
Hình ảnh: “ớn lạnh, sốt run người, ướt mồ hôi” là những biểu hiện cụ thể để nói về
căn bệnh sốt rét rừng rất nguy hiểm khi mà trong chiến tranh không hề có đủ thuộc
men để chạy chữa. Vì thế các anh – những người lính anh hùng dũng cảm phải cắn
răng chịu đựng, tự lực, tự cường mà vượt qua gian khổ. Đây là một hình ảnh xuất
phát từ cái nhìn chân thực của người lính trong chiến tranh. Và căn bệnh sốt rét này
không phải chỉ xuất hiện trong thơ Chính Hữu mà trong rất nhiều các bài thơ của
các nhà thơ kháng cũng đã từng nhắc tới. Trong bài thơ
“Tây Tiến” của Quang Dũng, nhà thơ cũng đã viết:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.”
Hay trong bài “Dấu chân qua trảng cỏ” của Thanh Thảo, ông cũng từng có câu thơ:
“Những người sốt rét đương cơn
Dấu chân bầm xuống đường trơn ướt nhòe.”
Căn bệnh sốt rét – nỗi ám ảnh kinh hoàng của người lính trong chiến tranh, đã hành
hạ họ, khiến họ tiều tụy xanh xao, màu da vàng vọt, tóc thì rụng hết… Vì thế lúc này,
chỉ có tình yêu thương, sự đùm bọc lẫn nhau của những người lính là thuốc bổ tinh
thần, giúp họ cùng nhau cộng hưởng, sẻ chia mà vươn lên chiến thắng chính mình.
Không dùng lại ở đó, người lính còn phải đối diện với cả sự thiếu thốn, khó khăn về
vật chất: “áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày”. Nhưng trong hoàn cảnh
ấy, những người lính vệ quốc, họ đã chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau bằng những hành
động chân thành: “Miệng cười buốt giá”, “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Chính
nụ cười đã xoá tan đi cái lạnh lẽo của đêm đông giá rét. Họ đùa vui trong gian khổ
thiếu thốn. Cùng động viên nhau qua ánh mắt nụ cười. Dù đó chỉ là nụ cười gượng
gạo trong “buốt giá” nhưng vẫn chứa chan tình cảm, cho thấy được sự lạc quan
mạnh mẽ của họ trong cuộc sống chiến đấu. Còn hành động “tay nắm lấy bàn tay” là
một cử chỉ rất cảm động và cần thiết vào lúc này. Họ đã truyền cho nhau hơi ấm của
tình thương, cùng dắt tay nhau tiến lên phía trước, vì mục tiêu lí tưởng cách mạng
lớn lao: vì hòa bình dân tộc. Và có lẽ, tình yêu thương nhau đã lấp đầy khoảng
trống, làm dịu vơi đi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương. Tất cả những cử chỉ ánh mắt, nụ
cười, nắm tay ấy đã giúp họ có thêm động lực để vượt qua khó khăn, thử thách.
Điều ấy đã làm cho tình đồng chí thêm keo sơn, gắn bó và hóa thành sức mạnh
đoàn kết trong suốt cuộc kháng chiến trường kì. Hình ảnh người lính và tình đồng
chí của họ đã kết tinh, tỏa sáng trong đoạn thơ cuối của bài thơ:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
Ba câu thơ cuối vừa giàu chất hiện thực, lại vừa đậm đà chất lãng mạn bay bổng,
vừa gợi tả bức tranh không gian toàn cảnh của núi rừng, lại vừa đặc tả tình cảm ấm
áp của những người lính trong chiến tranh. Đây là biểu hiện cao đẹp nhất của tình
đồng chí, đồng đội. Đó là khoảng thời gian “đêm nay” rất cụ thể với khung cảnh
“rừng hoang – sương muối” hiu quạnh, lạnh lẽo và khắc nghiệt. Tuy nhiên, người
lính vẫn đứng cạnh bên nhau để “chờ giặc tới”. Động từ “chờ” cho thấy được tư thế
chủ động và hết sức đề cao cảnh giác của người lính trong khi làm nhiệm vụ. Nghệ
thuật tương phản đối lập được tạo ra rất cân đối giữa một bên là không gian núi
rừng lạnh lẽo, hoang vu, vắng lặng; với một bên là tư thế chủ động mạnh mẽ như
lấn át cả không gian toàn cảnh của người lính. Chính sức mạnh của tình đồng chí
đã làm cho người lính vượt lên trên hiện thực khắc nghiệt đó. Các từ gần nghĩa
“cạnh – bên” cho thấy sức mạnh của tinh thần đoàn kết, gắn bó luôn có nhau của
những người lính. Trên cao là ánh trăng treo lơ lửng trên bầu trời, dưới cái nhìn lãng
mạn hóa của Chính Hữu, ánh trăng như đang treo ở đầu mũi súng. Và “Trăng” theo
đó như trở thành người bạn vừa chứng minh cho tình cảm đồng chí keo sơn của
người lính, vừa soi sáng và sưởi ấm cho không gian của rừng đêm sương muối lạnh
lẽo bên trên. Hình ảnh “súng – trăng” được đặt cạnh bên nhau khiến người đọc có
nhiều liên tưởng: giữa thực tại – mơ mộng; chiến tranh – hòa bình; chiến sĩ – thi sĩ.
Sự đan cài giữa hiện thực và lãng mạn ấy vừa cho thấy được hiện thực chiến tranh
khó khăn, vất vả; lại vừa toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính: họ vừa là chiến sĩ
lại vừa là thi sĩ, họ cầm súng chiến đấu để bảo vệ quê hương, đem lại nền độc lập ,
tự do cho Tổ Quốc thân yêu. Có thể nói, ba câu thơ cuối một bức tranh đẹp, như
một bức tượng đài sừng sững của hình ảnh người lính cách mạng với tình đồng chí
thiêng liêng, sâu sắc. Chính tình cảm đồng chí đã làm nên vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ.
Bài thơ “Đồng chí” là một bài thơ hay, độc đáo viết về người lính cụ Hồ. Qua bài thơ,
người đọc thấy được vẻ đẹp tình đồng chí, đồng đội sâu sắc, cao cả, thiêng liêng
của người lính cách mạng. Có thể nói, bài thơ là một bức tượng đài người nông dân
mặc áo lính rất đẹp, tráng lệ, hào hùng của thời kì đầu kháng Pháp.
Khác với người lính trong bài thơ Đồng chí, những người lính trong bài thơ Tây Tiến
xuất thân là những chàng trai của đất Hà thành. Chiến sĩ Tây Tiến phần lớn là thanh
niên, học sinh sinh viên Hà Nội. Họ là những người biết đến chiến trường khắc
nghiệt, nguy hiểm và thiếu thốn kể từ khi đi lính. Bài thơ Tây Tiến là kỉ niệm, hoài
niệm của tác giả thay cho lời muốn nói của những người chiến sĩ kiên cường và
đồng thời là lời của đồng bào dân tộc ta. Hình tượng người lính Tây Tiến trong bài
thơ mang những nét phẩm chất đặc trưng của người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Ở những người lính Tây Tiến, luôn có một vẻ đẹp hào hoa, nó xuất phát từ tinh thần
của những con người có học, những người được tiếp xúc với nền giáo dục mới, và
được sống ở nơi phồn hoa đô hội. Nói chính xác thì họ được xem là những phần tử
tiểu tư sản trí thức, với tư tưởng phóng khoáng, đặc biệt họ lại là những thanh niên
tuổi còn trẻ, đang còn phơi phới giấc mộng xuân, nên việc mơ về một “dáng kiều
thơm” là chuyện rất đỗi thường tình. Đặc biệt trước cái hoàn cảnh chiến đấu khắc
nghiệt, với những cơn sốt rét rừng kinh hoàng, với những cung đường hành quân
khúc khuỷu, chập chùng thì những niềm vui nho nhỏ khi nghĩ về cố hương, khi nghĩ
về những thứ lãng mạn lại chính là động lực to lớn để họ có thêm sức mạnh chiến
đấu. Về bối cảnh chiến đấu, Tây Tiến có phần khác Đồng chí ở chỗ, đoàn quân Tây
Tiến được thành lập năm 1947 để phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới vùng
Tây Bắc và đánh tiêu hao lực lượng địch. Thế nên địa bàn hoạt động của binh đoàn
vô cùng rộng trải dài khắp vùng Tây Bắc, sang cả Sầm Nưa của Lào, rồi vòng về
miền tây Thanh Hóa. Chính bởi địa bàn hoạt động rộng lớn, nên hoàn cảnh những
năm đầu của cuộc kháng chiến vô cùng khắc nghiệt, giữa một vùng rừng thiêng
nước độc, người lính Tây Tiến luôn phải đối mặt với nhiều nguy hiểm và khó khăn cận kề. Nào là:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
rồi “Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”. Có những lúc hành quân trong sương
muối buốt lạnh, người sau chỉ thấy lưng người đằng trước cũng đôi lần khiến người
lính mệt mỏi, ngao ngán nhưng dĩ nhiên không vì thế mà họ buông xuôi. Đặc biệt,
không trận chiến nào mà không có sự hy sinh mất mát, những năm đầu kháng
chiến, tất cả quân nhu yếu phẩm đặc biệt là thuốc men đều vô cùng khan hiếm. Thế
nên những cơn sốt rét rừng đã trở thành ác mộng của người lính chiến, họ không
chết vì bom đạn giặc thù mà chết vì bệnh tật hành hạ. Hình ảnh “Anh bạn dãi dầu
không bước nữa/Gục lên súng mũ bỏ quên đời”, đọc sơ cứ tưởng người lính nằm
ngủ trên súng mũ, nhưng hóa ra đó là một cái chết, một cái chết nhẹ tựa lông hồng,
chết bên lý tưởng mà họ vẫn theo đuổi, vẫn ôm trọn súng mũ vào lòng, chết không nuối tiếc.
Người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp rất lạ và rất đặc trưng, nó là sự kết hợp của sự
hào hùng, bất khuất kiên cường với lại sự lãng mạn và hào hoa đến từ sâu trong
tâm hồn những con người trẻ tuổi. Chính sự giao hòa giữa hai yếu tố cương, nhu ấy
đã đem đến một hình tượng người lính rất thật, rất độc đáo và sâu sắc là bức tường
thành của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trước tiên nói về sự hào hùng, dữ dội
trong dáng vẻ, ngoại hình, người lính Tây Tiến không có một dáng vẻ sạch sẽ, cao
to mà thay vào đó là những người lính với cái đầu “không mọc tóc”, với “quân xanh
màu lá”. Một màu da xanh xám vì căn bệnh sốt rét hành hạ quá lâu, kèm theo đó là
thiếu máu khiến tóc rụng bằng sạch. Vì điều kiện hành quân gian khổ, không được
ăn ngủ đủ giấc, vì chiến trường căng thẳng và ác liệt nên người lính chiến mới có bộ
dạng tiêu điều, xơ xác như vậy.
Thế nhưng trong cái bộ dạng kỳ dị ấy lại là sự dữ dội và oai hùng mà theo như cách
nói của Quang Dũng là họ cố tình “không mọc tóc” để bản thân càng thêm ghê gớm,
làn da xanh tái kết hợp với màu quân trang lại là sự ngụy trang hoàn hảo nhất, kết
hợp với cái đầu không tóc cho ra đời một đội quân “dữ oai hùm” giữa chốn rừng
thiêng nước độc, để kẻ thù thấy mà thêm phần e ngại. Không chỉ vậy, thông qua
ngoại hình kỳ dị của người lính Tây Tiến, ta lại càng thấu hiểu hơn những hy sinh,
mất mát cùng với tinh thần chiến đấu kiên cường, vượt qua mọi gian khổ khó khăn,
bởi cái mà họ đối mặt không chỉ đơn giản là bom đạn giặc thù, mà còn là điều kiện
chiến đấu vô cùng khắc nghiệt, lằn ranh sinh tử trở nên vô cùng mong manh và họ
buộc phải trở nên cứng rắn mạnh mẽ để vượt qua, đề hoàn thành lý tưởng cách
mạng. Bên cạnh vẻ hào hùng, dữ dội trong ngoại hình, thì nổi bật nhất ở người lính
Tây Tiến chính là ý chí chiến đấu, lý tưởng cách mạng mang đậm khuynh hướng sử thi.
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Vẫn biết rằng ra đi là không hẹn ngày trở lại, thế nhưng người lính chiến vẫn chưa
từng có ý nghĩa lùi bước. Họ sẵn sàng hiến dâng cho Tổ quốc tuổi thanh xuân tươi
đẹp nhất cuộc đời, tuổi hai mươi mấy là lứa tuổi mà con người ta có nhiều nỗi băn
khoăn trăn trở nhất, còn đối với các anh thì chỉ có một nỗi buồn duy nhất ấy là Tổ
quốc chưa yên. Thế nên chiến trường trở thành nơi các anh hướng đến, lòng các
anh chỉ ngập tràn một lý tưởng cách mạng, cái chết dẫu là sợ hãi nhưng đứng trước
Tổ quốc yêu thương đang vẫy gọi, thì nó dường như không còn quan trọng nữa.
Mảnh đất này đã sinh ra và nuôi lớn các anh, thế nên các anh phải có nghĩa vụ
phụng sự và bảo vệ nó bằng bất cứ giá nào, kể cả phải hy sinh tính mạng, các anh
cũng chẳng hề nuối tiếc. Với phong cách thơ của Quang Dũng thì hình tượng người
lính chiến với sự hy sinh, mất mát đau thương, nhưng không hề bi lụy, thay vào đó
là cảm xúc bi tráng, hào hùng. Với những vần thơ rất hay, rất trang trọng:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành“.
Nét đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến làm tỏa sáng vẻ đẹp lí tưởng của giới trẻ
thời kì kháng chiến. Công cuộc bảo vệ đất nước dài đằng đẵng và khó khăn biết
mấy, hòa bình đánh đổi bằng mồ hôi xương máu và muôn vàn sự hy sinh. Đã có biết
bao người lính trẻ đã ngã xuống giữa đất trời Tây Bắc. Thân xác các anh nằm lại nơi
biên cương “viễn xứ”. Thế nhưng họ vẫn hùng dũng kiên cường cầm súng bảo vệ tổ
quốc mà “chẳng tiếc đời xanh”. Cho đến khi ngã xuống, thân xác họ chỉ có chiếc
chiếu quý như chiếc “áo bào”, chôn “rải rác”. Những cái chết ấy vừa bi thương vừa
tráng lệ, để đời sau cảm phục biết bao trước sự hy sinh bất khuất của những người lính Tây Tiến anh hùng.
Câu thơ tựa như cảnh xông pha trận mạc rồi hy sinh của các tráng sĩ thời cổ đại, với
vẻ đẹp kiêu hùng, anh dũng vô cùng. Quang Dũng là một người lính xuất sắc, cũng
là người may mắn sống sót sau những trận chiến ác liệt và những trận sốt rét rừng
khủng khiếp. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc ông phải chứng kiến cảnh hàng loạt
đồng đội ngã xuống trên đất mẹ và cả trên đất khách, điều kiện thiếu thốn đến mức
manh chiếu bó thay cũng không có đủ. Đau xót là thế nhưng bước vào thơ Quang
Dũng, với tinh thần lãng mạn và lạc quan, ông không để sự bi thương chi phối quá
mức, thay vào đó cái chết của người lính chiến lại được tác giả đưa vào thơ với vẻ
oanh liệt, anh hùng bất tử. Cái chết để cả núi sông phải gầm lên “khúc độc hành”
tiễn đưa thay cho kèn, trống tầm thường.
Hình tượng người lính trong thơ Quang Dũng mà quên đi những nét hào hoa, lãng
mạn thì quả là một thiếu sót lớn, và không hoàn chỉnh. Bên cạnh những lúc hành
quân khắc khổ, những trận chiến ác liệt, những đợt rét buốt của sương muối, của
bệt tật thì người lính cũng có những lúc được thả lỏng. Đó là những lúc:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Người lính thể hiện tinh thần yêu đời, yêu cuộc sống khi say mê nhảy múa quanh
đống lửa, say mê ánh mắt nụ cười của những cô gái trẻ, say mê cả điệu nhạc rộn
ràng, vui tươi. Đó chính là bản chất tâm hồn của người lính Tây Tiến, những con
người đã từ bỏ áo trắng, mực xanh lên đường ra chiến tuyến nhưng chưa bao giờ
từ bỏ cái tâm hồn bay bổng, đầy mơ mộng. Và nó cũng chính là tuổi trẻ, một tuổi trẻ
có những khát khao về tình yêu, sự ham vui, ưa sôi động để làm giàu cho cuộc
sống. Chính những điều ấy đã nuôi dưỡng một tâm hồn kiên cường và mạnh mẽ khi
chiến đấu, tiếp sức cho người lính những lúc tưởng chừng quá mệt mỏi và gục ngã.
Không chỉ trong những giây phút nghỉ ngơi, đặt doanh trại mà cả trong những lúc
chiến đấu, hành quân, người lính chiến cũng trong mình tâm hồn lãng mạn, hào hoa.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Những đêm không ngủ chờ giặc trên đất khách, lòng người chiến sĩ trẻ tuổi lại
hướng về quê hương yêu dấu, nơi thủ đô ấy có gia đình, có bạn bè, trường lớp và
có cả những “dáng kiều thơm”. Cũng cần nhắc lại rằng, trước đây cũng chỉ vì hai
câu thơ có phần quá lãng mạn và nghiêng về tình cảm cá nhân này mà một thời
gian dài Tây Tiến bị xa lánh, bị cô lập. Nhưng từ sau năm 1986, với những đổi mới
trong chủ trương chính sách của nhà nước về văn hóa nghệ thuật, thì Tây Tiến đã
được trả về với đúng vị trí mà nó xứng đáng có được. Và hai câu thơ trên cũng trở
thành điểm nhấn quan trọng của cả bài thơ, phản ánh rất chân thực đời sống tinh
thần, tâm tư tình cảm của người lính trong chiến đấu. Họ còn trẻ, họ có quyền được
mưu cầu hạnh phúc, và những cô gái mang áo dài, với dáng vẻ yêu kiều, nền nã
chính là mơ ước của họ. Các anh hy sinh tuổi trẻ, hy sinh mạng sống để lên lên
đường đi chiến đấu trước hết là vì lý tưởng cách mạng, vì Tổ quốc, nhưng bao hàm
trong đó còn là vì lợi ích cá nhân, vì bảo vệ hạnh phúc của riêng họ nữa. Chung quy
lại, sự kết hợp giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trong Tây Tiến của
Quang Dũng đã dựng lên một tượng đài người lính chiến bất hủ, mang vẻ đẹp của
thời đại và sống mãi trong trái tim người đọc.
Để làm nổi bật hình tượng người lính Tây Tiến với vẻ đẹp độc đáo và mới lạ tác giả
đã tận dụng tối đa sức biểu đạt của phép tương phản giữa hoàn cảnh chiến đấu với
thái độ, tư thế và phẩm chất người lính. Bên cạnh đó việc sử dụng từ chỉ địa danh
đã gợi tả vùng đất xa xôi, gợi kỉ niệm về một thời chiến đấu gian khổ. Ngoài ra còn
rất nhiều những từ láy tượng hình tô đậm vẻ đẹp người lính, phép điệp từ, điệp vần
và hình ảnh nhân hoá. Trong bài thơ “Tây Tiến” Quang Dũng đã có những tái hiện
đầy tinh tế về vẻ đẹp của hình tượng người lính, những câu thơ nói về người lính
vừa lãng mạn, vừa đậm chất sử thi mang âm điệu hào hùng rắn rỏi. Nhờ đó mà hình
tượng người lính Tây Tiến hiện lên trong lòng người đọc trở nên đẹp lí tưởng, vừa
hào hùng, hào hoa lại đậm chất bi tráng.
Đối với mỗi hình ảnh người lính trong hai bài thơ ta đều có thể nhận thấy được
những vẻ đẹp riêng biệt, một bên là sự hào hùng lãng mạn, một bên là sự kiên
cường, thực tế. Tất cả những vẻ đẹp riêng ấy đã tổng hòa lại, làm nên hình tượng
người bộ đội cụ Hồ anh dũng, bất tử trong lòng độc giả và trong lòng của toàn dân
tộc Việt Nam mãi về sau. Năm tháng đã và sẽ trôi qua nhưng những bài thơ viết về
người lính trong giai đoạn lịch sử oanh liệt này vẫn còn mãi trong nền văn học dân
tộc, trong lòng người dân Việt, mãi mãi là niềm tự hào của mỗi người dân Việt Nam.
Liên hệ Tây Tiến và Đồng Chí - Mẫu 2
Nghĩ về thơ, Soren Kierkegaard - một triết gia người Đan Mạch từng băn khoăn: “Thi
sĩ là gì? Một con người bất hạnh giấu nỗi đau khổ sâu sắc trong tim, nhưng đôi môi
đẹp tới mức khi tiếng thở dài và tiếng khóc đi qua, chúng nghe như âm nhạc du
dương… Và người ta xúm lại quanh thi sĩ và bảo: “Hãy hát tiếp đi” - hay nói theo
cách khác, 'Mong những nỗi đau khổ mới hành hạ tâm hồn anh nhưng đôi môi anh
vẫn đẹp đẽ như trước, bởi tiếng khóc sẽ chỉ làm chúng tôi hoảng sợ, nhưng âm
nhạc thì lại rất hay.” Người ta ví thơ là một thứ thanh âm đẹp đẽ và thật hay, dẫu
rằng ấy chính là tiếng vang của một tâm hồn đang ứ đầy cảm xúc. Đến với “Đồng
chí” của Chính Hữu và “Tây Tiến” của Quang Dũng, ta như được thả hồn mình vào
trải nghiệm và dòng cảm xúc đã căng, đã đầy của những nhà thơ chiến sĩ. Cùng viết
về một đề tài song “Đồng chí” của Chính Hữu và “Tây Tiến” trong tâm tưởng Quang
Dũng lại có những điểm tương đồng và khác biệt.
Quang Dũng và Chính Hữu đều là thế hệ các nhà thơ mặc áo lính, đều bước ra từ
chiến trường khốc liệt nên hình tượng người lính xuất hiện trong trang thơ của hai
ông trở nên chân thực và rõ nét hơn. Đó là hình ảnh người lính “Sốt run người vừng
trán ướt mồ hôi”. Trên cuộc hành quân gian khổ của mình, anh bộ đội Cụ Hồ bị
những cơn sốt hành hạ. Và cũng chính những thử thách gian khổ của thời chiến ấy
đã làm cho những người lính ngày càng trở nên gần nhau hơn. Rồi đến một lúc nào
đó họ chợt nhận ra, những người đồng đội khi ở bên nhau giống nhau từ hình thức
đến nội tâm; sự khắc nghiệt của hoàn cảnh sống đôi khi đẩy người ta đến những
tình huống không ngờ. Trong trang thơ của Quang Dũng cũng viết về đồng đội, và ở
đó, những trận sốt rét ác tính đã khiến cho các chiến sĩ của ta rụng hết những mái
tóc xanh “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”.
Cả hai tác phẩm đều cùng ra đời năm 1948, đây là thời kì đầu của cuộc kháng chiến
chống Pháp. Người lính phải chiến đấu trong điều kiện vật chất thô sơ, thiếu thốn,
hoàn cảnh khó khăn, gian khổ. Tuy nhiên họ đã vượt lên trên hoàn cảnh đó và tỏa
sáng với những phẩm chất tốt đẹp: lòng yêu nước, tinh thần ra đi vì nghĩa lớn, ý chí
quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, tư thế hiên ngang, chủ động, tâm hồn lạc quan, lãng mạn và yêu đời.
Một tác phẩm văn chương thành công là tác phẩm ghi lại dấu ấn riêng trong lòng
bạn đọc. Vì vậy mà bên cạnh những điểm tương đồng, ta vẫn thấy những nét độc
đáo, mang đậm dấu ấn cá nhân của hai nhà văn. Nét riêng biệt thứ nhất chúng ta có
thể thấy ở hai tác phẩm chính là chủ đề tác phẩm. Điểm khác biệt thứ nhất là chủ
đề. Với “Đồng chí”, Chính Hữu đã khắc họa lên hình tượng người chiến sĩ bộ đội cụ
Hồ với tình cảm keo sơn gắn bó và ý chí vượt qua khó khăn. Trải dài cả bài thơ, tình
cảm đồng chí đồng đội được thể hiện sâu sắc và mãnh liệt. Tình đồng chí của
những người lính dựa trên sự chia sẻ cảnh ngộ và lý tưởng chiến đấu được thể hiện
bình dị nhưng sâu sắc trong mọi tình huống. Họ thân tình gọi nhau một tiếng “Đồng
chí!”. Từ “đồng chí” lại được tách thành một câu riêng, một đoạn riêng. Với cấu trúc
thơ khác thường ấy, tác giả làm nổi bật ý thơ. Nó như một nốt nhấn của bản nhạc,
bật lên âm hưởng gây xúc động lòng người. “Đồng chí” là tiếng nói thiêng liêng, là
một sự cảm kích về nhiều đổi thay kì lạ trong quan hệ tình cảm.
Chủ đề của “Tây Tiến” lại khác hẳn, Quang Dũng đã thể hiện tình cảm sâu nặng của
nhà thơ với đơn vị Tây Tiến, với cảnh vật và con người Tây Bắc một thời gắn bó qua
đó khắc họa hình tượng người lính bi tráng. Người lính dần dần hiện ra từ nỗi nhớ
“chơi vơi” dành cho Tây Bắc. Thiên nhiên hùng vĩ hiện lên trong kí ức của người
chiến sĩ vệ quốc. Nhà thơ xứ Đoài mây trắng xúc động với những kỉ niệm về những
người lính Tây Tiến, về đoàn quân Tây Tiến khó có thể xóa nhòa trong tâm trí.
Điểm khác biệt thứ hai đó là hoàn cảnh xuất thân của người lính trong hai bài thơ.
Người lính trong sáng tác của Quang Dũng thuộc tầng lớp trí thức, tinh hoa của dân
tộc. Họ là học sinh, sinh viên đang còn ngồi trên ghế nhà trường nhưng đã “gác bút
nghiên, mặc áo lính” lên đường chiến đấu để giành lại độc lập dân tộc.
Nếu “Tây Tiến” quan niệm người anh hùng theo lý tưởng thẩm mĩ cao đẹp thì “Đồng
chí” tô đậm nét hiện thực bình dị, sự lam lũ, chất phác của người nông dân chân chất hiền lành.
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.”
Bức tranh về người lính Vệ quốc được phác họa bằng chất liệu cuộc sống đồng
quê, trên nền “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá” của những người có cùng
cảnh ngộ, từ những vùng nông thôn khác nhau trên nhiều miền đất nước có chung
cảnh nghèo. Những người nông dân đồng cảnh nên đồng tâm trong lực chọn mục
đích cống hiến, chiến đấu. Những người nông dân từ các vùng quê nghèo khác
nhau đã vượt lên số phận, vượt lên cảnh ngộ, ở trên tầm khốn khó bước vào cuộc chiến toàn dân tộc.
Hoàn cảnh xuất thân khác nhau nên hình tượng người lính cũng được xây dựng với
vẻ đẹp riêng. Nhà thơ Quang Dũng miêu tả người lính Tây Tiến với vẻ đẹp ngoại
hình, mặc dù họ có vẻ ốm đau nhưng không bao giờ yếu đuối:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Đoạn thơ ghi lại một cách chân thật, hào hùng cái khốc liệt dữ dội của chiến tranh,
của một dân tộc quật khởi đứng lên dùng giáo mác, gậy tầm vông chống lại sắt thép
quân thù. Hình tượng thơ được đặt trong thế tương phản đối lập để khẳng định chí
khí hiên ngang, anh hùng, những tâm hồn với bao mộng mơ tuyệt đẹp. "Đoàn binh
không mọc tóc", "quân xanh màu lá", có vẻ tiều tụy, ốm đau vì bệnh sốt rét rừng,
nhưng tư thế vô cùng oai phong lẫm liệt: "dữ oai hùm". Bằng ánh mắt trừng, họ
truyền đạt tinh thần căm thù đối với kẻ thù, thậm chí cả khi ngủ, họ gửi đi những
giấc mơ về chiến thắng ở biên giới.
Binh đoàn Tây Tiến xuất thân từ học sinh, sinh viên của 36 phố phường, nơi ngàn
năm văn hiến nên họ luôn mang trong mình sự hào hoa, lãng mạn.
“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Người lính bắt đầu cuộc hành trình với niềm tin mãnh liệt về tình yêu quê hương, hy
sinh niềm hạnh phúc cá nhân để đổi lấy hạnh phúc cho đất nước. Trong hành trang
lên đường chiến đấu của người lính Tây Tiến có những giấc mơ đẹp về người con
gái Hà Thành thanh lịch. Nó xoa dịu đi bao nhiêu khó khăn, vất vả. Đó cũng là
những giây phút, khoảnh khắc yên bình, lãng mạn rất đáng quý trên chặng đường
hành quân qua mưa bom lửa đạn; là giây phút làm ấm lòng người lính xa nhà cùng
với sức mạnh lòng căm thù.
Người lính mang trong mình sự trẻ trung khỏe khoắn, hào hoa, thanh lịch. Ở họ vừa
cháy bỏng lí tưởng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” vừa mang trong mình nét lãng
mạn mộng mơ. Nét độc đáo này của người lính Tây Tiến đã thực sự làm hồn thơ Quang Dũng rung động.
Không xuất hiện với chân dung kì dị “không mọc tóc”, “dữ oai hùm” như trong thơ
Quang Dũng, những chiến sĩ nông dân của Chính Hữu thể hiện vẻ đẹp mộc mạc,
hồn hậu với những bộ quần áo rách rưới: “Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá Chân không giày
Thương nhau, tay nắm lấy bàn tay”
Người lính đầu thời kì kháng chiến chống Pháp phải trải qua bao khó khăn gian khổ
về mặt cơ sở vật chất. Vũ khí còn thô sơ, dân ta còn đói nghèo, Các anh mặc trên
người bộ áo quần được chắp vá. Trong làn sương sớm, họ đứng gần nhau, chân
không che đôi giày, miệng cười buốt giá trong bóng tối. Họ hiện lên không chỉ đơn
giản mà còn ấm áp bởi tình đồng chí. Dù là rét buốt hay quần áo rách, nhưng đó
chính là lý do tình đồng chí trở nên đặc biệt hơn.
Nỗi nhớ của người lính đó là xóm làng thân thuộc, là mái đình, cây đa cổ kính: