So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương | Văn mẫu lớp 12

Liên hệ sông Đà và sông Hương tuyển chọn 4 gợi ý cách viết và 11 bài văn mẫu siêu hay gồm bài phân tích ngắn gọn, đầy đủ, bài làm của học sinh giỏi. Qua đó giúp cho các em học sinh lớp 12 có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng luyện Văn ngày một tốt hơn. Hi vọng tài liệu này sẽ là người bạn tốt đồng hành cùng bạn trong suốt quá trình học và ôn thi THPT Quốc gia sắp tới.

Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
1
Dàn ý So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
Dàn ý chi tiết s 1
I. M bài: Dn dt, gii thiu vn đ cn bàn lun.
Gii thiu tác gi Nguyễn Tuân và Người lái đò sông Đà
Gii thiu tác gi Hoàng Ph Ngc Tường và Ai đã đặt tên cho dòng sông
Gii thiu vấn đề ngh lun: v đẹp của sông Hương, sông Đà, về vic bo v
cnh quan thiên nhiên ca quê hương, đt nưc.
II. Thân bài:
1. Nét tương đồng ca 2 dòng sông:
a/ Sông Đà sông Hương đều được các tác gi miêu t như mt nhân vt tr tình
tính cách vi nhng v đẹp đặc trưng riêng biệt, th hin tình yêu thiên nhiên, tình yêu
quê hương, đất nưc.
b/ Sông Đà và sông Hương đều mang nét đẹp ca s hùng vĩ, dữ di.
V đẹp hùng của sông Đà được th hin qua s hung bo d di ca trên
nhiều phương diện khác nhau cnh trí d di, âm thanh ghê rợn, đá sông Đà như đang
bày trùng vi thch trn.
Khi chy giữa lòng Trường Sơn, sông Hương chảy d di ta 1 bản trường ca ca
rng già, ta cô gái Di-gan phóng khoáng và man di….
c/ Sông Đà và sông Hương đều có v đẹp thơ mộng và trnh:
Sông Đà: dáng sông mềm mi ta mái tóc tuôn dài tuôn dài, màu ớc thay đổi qua
tng mùa, v đẹp hoang sơ, cổ kính…
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
2
Sông Hương: với dòng chy dịu dàng đm say gia nhng dm dài chói li màu
đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Sông Hương còn mang vẻ đẹp của người con gái ng
màng ch người tình mong đợi đánh thức. còn được nđiệu slow tình cm
dành riêng cho Huế
d/ C 2 đều được miêu t qua ngòi bút tài hoa, uyên bác:
Tài hoa: 2 dòng sông đều được miêu t trên phương diện văn hóa, thẩm mĩ:
+ Sông Đà là nơi hi t 2 nét tiêu biểu, đặc trưng của thiên nhiên Tây Bc va hùng vĩ,
uy nghiêm, d di li va tr tình, thơ mng.
+ Sông ơng dòng sông ca âm nhc, ng sông của thơ ca, của lch s gn lin
vi những nét đặc sc v văn hóa, với v đẹp ca ngưi dân x Huế.
Uyên bác: c 2 c gi đều vn dụng cái nhìn đa ngành, vận dng kiến thc trên
nhiều lĩnh vực ngh thut đ khc họa hình tưng 2 dòng sông.
2. Nét độc đáo riêng trong từng hình tượng dòng sông:
a/ Sông Đà:
Trong đoạn trích, nhà văn tập trung đậm nét hung bo, d di của sông Đà ging
như 1 kẻ thù him đc và hung ác
-> Th hin rõ nht qua hình ảnh nưc d, gió dữ, đá dữ đặc biệt đá bày trùng vi thạch
trn chc lấy đi mạng sng của con ngưi. Sông Đà được cm nhn chính nét d
dội, phi thưng, khác l: tiếng thét của sông Đà như tiếng thét ca ngàn con trâu mng,
đá trên sông đà mỗi viên đều mang 1 khuôn mt hung bo, hiếu chiến…
Đặc bit, tác gi miêu t s hung bo của sông Đà để làm ni bt s tài hoa, tài trí
của người lái đò. Lúc này đây, sông Đà n1 chiến địa d di. mi lần vượt thác
ca người lái đò là mỗi ln ông phi chiến đấu vi thn sông, thần đá…
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
3
b/ Sông Hương:
Sông Hương được tô đậm nét đẹp tr tình, thơ mộng, gi cm n tính, luôn
mang dáng v của 1 người con gái xinh đẹp, mong manh tình yêu say đm. Khi
thưng ngun, nó là cô gái Di gan phóng khoáng, man di; khi cánh đồng Châu Hóa,
thiếu n ng màng; khi lại như người tài n đánh đàn giữa đêm khuya,
hay nàng Kiều tài hoa, đa tình lại chung tình, ngưi con gái du dàng của đất
nước.
Sông Hương đưc miêu t qua chiều sâu n hóa xứ Huế, nngưi m phù sa
bi đắp cho vùng đt giàu truyn thống văn hóa này từ bao đi nay.
Sông Hương được cm nhận qua lăng kính của tình yêu: thy trình của sông ơng
thy trình ý thc tìm v người tình mong đi. Khi chy gia Huế, sông ơng
mm hn đi như 1 tiếng vâng” không nói ra của tình yêu. Trước khi đổ ra ca bin,
sông ơng như người con gái dùng dng chia tay người yêu, th hin 1 ni nim
vương vấn vi 1 chút lẳng lơ kín đáo.
Thông qua hình tượng sông Hương mang nét đẹp n tính, nhà văn thể hiện nét đẹp
lãng mn, tr tình của đất tri x Huế
3. Trách nhim bn thân trong vic bo v cnh quan thiên nhiên của quê hương,
đất nước.
Hc sinh có th trình bày quan điểm cá nhân da trên nhng gi ý sau : Thế h tr cn
trách nhim bo v cảnh quan đất nước qua hành đng c th như: yêu quí, bảo v
môi trưng, qung bá thng cảnh…
III. Kết luận: Đánh giá chung về đóng góp của hai nhà văn
Qua v đẹp tương đng ca 2 dòng sông, ta bt gp s tương đồng độc đáo của 2
tâm hn tình yêu thiên nhiên tha thiết nim t hào vi v đẹp của non sông đất
nước Vit Nam.
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
4
Mỗi nhà văn đều có 1 phong cách ngh thuật độc đáo trong việc th hiện hình tượng
các dòng sông, giúp người đọc những cách nhìn phong phú, đa dng v v đẹp ca
quê hương, đất nưc mình.
Dàn ý chi tiết s 2
Với đề này hc sinh cn biết đặt hai hình tượng trong thế đối sánh để làm ni bt v
đẹp và s độc đáo không chỉ của hai hình tưng mà còn c hai phong cách ngh thut.
c 1: xác định những điểm chung (nét ơng đồng )ca s khám phá v đẹp hai
hình tượng Sông Đà, sông Hương trong hai tác phẩm ca hai tác gi.
+ Đim chung th nht v đề tài: Sông Đà Sông Hương nhng dòng sông ni
tiếng đã gắn sâu sc với con người Vit Nam. C hai con sông đều đưc khám phá
v đẹp tr tình và mnh m hoang sơ.
+ Đim chung th hai v th loi : c hai tác gi cùng viết tu bút v nhng ng
sông . Bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của HPNT thc s mt thiên tu bút-
mt áng văn xuôi t s tr tình.
+ Điểm chung th ba là nét phong cách n bn ca hai tác gi: C hai đều nhng
cây bút tài hoa, uyên bác. Hai tác gi đều huy động kiến thức địa lí, lch sử, văn hoá
sâu rộng, đều th hin cái tôi tr tình khi khám phá v đẹp ca nhng con sông quê
hương đất nước, kết đọng trong đó tình yêu x sở. Đó là s gp g ca nhng tâm hn
Vit, những tài năng tuỳ bút bc thy.
c 2: phân tách đối ng thành nhiu nh diện để so sánh, m ra nét riêng- s
khác bit .
T 2 bình din ln: ni dung- ngh thuật, n c vào đối tượng c th ta th phân
tách thành những phương din nh hơn. Muốn làm được điều này hc sinh phi huy
động kiến thc v luận văn học v tác phm - th loi. V hình ng các con sông
nên tách thành 4 bình din sau:
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
5
S khác bit:
1. Cm hng- điểm nhìn khám phá
2. V đẹp hình tượng
3. Ngh thut xây dựng hình tượng
4. Vai trò, ý nghĩa của hình tượng
d trin khai ý 2 khám phá v đẹp riêng ca hai dòng sông trong hai thiên tu bút
theo li đi sánh, ta có th đi vào nhng ý chính sau :
Trong Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân khai thác hai mt ni bt to nên hai v
đẹp hung bo tr tình của dòng sông, khám phá con sông đy tiềm năng cho s
phát trin của đất ớc.. Sông Đà hiện n đầy tính, c như một by thu quái
( hung bạo), lúc như mt c nhân( tr tình).
+ Sông Đà hung bạo t b sông, ghềnh đá, hút nước đến thác đá…
+ Sông Đà mang v đp tr tình thơ mng : t dáng sông, màu c cho ti khung
cnh ven bờ…
* Nếu như Sông Đà mt con sông- mt sinh thể, thì sông Hương lại được HPNT
như một người gái đp lúc gái Di gan phóng khoáng man dại, khi người
con gái kín đáo dịu dàng trong tình yêu, lúc người m phù sa ca một vùng văn hoá
x sở. Dòng Hương đã hiện lên vi nhiu v đẹp khác nhau trong trang bút kí- tu bút
ca HPNT.
+ V đẹp ca cnh sc thiên nhiên
+ V đẹp lch s
+ V đẹp văn hoá, thi ca
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
6
c 3: gii s ơng đồng nét khác biệt đồng thi khái quát phong cách ca
tng tác gi th hin qua hai bài kí.
Đây một yêu cu của đề bài. Hc sinh cn phải huy động kiến thc lun , kiến
thc v tác gia văn học để trình bày khái nim v phong cách, các phương din biu
hin c th trong phong cách ngh thut ca hai tác gi.
Đồng thời đây cũng phần gii ti sao li s tương đồng nét khác bit trong
cách khám phá th hiện hình ng hai dòng sông. Nguyên nhân do thời đại, bi cnh
văn hoá xã hội hầu như không có. Yếu t chính làm nên s độc đáo của hai hình tưng
Sông Đà, Sông Hương trong hai bài kí là phong cách nghệ thut ca 2 tác gi.
C hai đều những nvăn viết tu bút thành công. Tu bút Nguyn Tuân giàu cht
kí, cht truyn. Bút ca HPNT giàu cht tr tình- cht tu bút. Cùng phong cách
tài hoa uyên bác, nhưng Nguyễn Tuân tài hoa kiêu bc, HPNT tài hoa sâu lng.
Nguyễn Tuân đến với sông Đà như đến vi mt s th thách để bc l cái Tôi độc đáo
tài hoa, th hin cm hng mãnh liệt trước cái đẹp, cái khác thường phi thường thì HP
đến với sông Hương nmt s tương giao linh diu ca mt tâm hn Huế, gn
tha thiết vi dòng sông vi x Huế, vi chiều sâu văn hoá của đất quê hương. Nguyễn
Tuân là phù thu ngôn t, câu ch co dui nhp nhàng, giàu giá tr to hình, dng cnh
t người đặc sắc. HPNT giàu liên tưởng, tưởng tượng, lối văn đậm chất thơ, thiên về
th hin cm xúc suy ngm mang chiều sâu văn hoá.
Dàn ý chi tiết s 3
1. M bài
- Gii thiu tác gi Hoàng Ph Ngc Tường và Ai đã đặt tên cho dòng sông
- Gii thiu vấn đề ngh lun: v đẹp của sông Hương, sông Đà, và về vic bo v
cnh quan thiên nhiên ca quê hương, đt nưc.
2. Thân bài
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
7
* V đẹp sông Hương: Vẻ đẹp thiên nhiên của sông Hương
Sông Hương thượng lưu: dòng sông thưng nguồn như một “bản trường ca
ca rừng già”được như “cô gái Digan phóng khoáng man di, sông
Hương mang vẻ đẹp du dàng trí tu của người m phù sa => nơi khi ngun
sông Hương mang vẻ đẹp hoang di, đy cá tính.
Sông Hương trên hành trình tìm đến vi Huế:Sông Hương như người gái đẹp
ng màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa di, khi v xuôi như người
con gái tìm kiếm tình nhân đích thực.
Sông Hương giữa lòng thành ph Huế: nhìn bằng đôi mắt hi họa, sông Hương
những chi lưu của tạo thành đường nét hết sc tinh tế; sông như điệu
slow sâu lng, tr tình dành riêng cho Huế; sông Hương trong cái nhìn say đắm
ca nhà văn là một ngưi tình chung thy.
Sông Hương trưc khi t bit Huế: như nàng Kiều tr li tìm Kim Trọng để nói
mt li th trước lúc đi xa.
- Sông Hương – dòng sông ca lch s, thơ ca, âm nhạc
Lch s: Sông Hương như một bn hùng ca ghi du bao chiến công oanh lit
ca đt nưc
Sông ơng dòng sông thi ca, ngun cm hng bt tận cho c văn nghệ
sĩ, dòng sông chưa bao gi lp li mình trong cm hng của các nhà thơ.
- Ngh thut: Bút pháp giàu chất thơ, giàu hình nh, cm xúc, s dng nhiu ngh
thuật nhân hóa, so sánh, văn phong tao nhã, tinh tế, tài hoa..
* V đẹp sông Đà: Vẻ đẹp hung bo ca mt dòng sông duy nhất trên đất nước
chy v ng Bc.
Cảnh đá “dựng vách thành”, những đoạn đá chẹt lòng sông như cái yết hu
Đon mt ghnh Hát Loong: trong khung cnh mênh mông hàng cây s mt
thế gii đầy gió, đá giăng đến chân tri, bt tung trng xóa.
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
8
Những cái hút nưc sn sàng nhấn chìm và đập tan mi chiếc thuyn
Âm thanh của dòng thác luôn thay đổi: lúc thì oán trách n non, lúc khiêu khích
chế nhạo, lúc đột ngt gm thét..
Nhng trùng vi thch trn bày sn ra, hiểm để ăn chết con thuyền người
lái đò
- Nguyễn Tuân làm trang văn mình lung linh nh nhng v đẹp ông vay mượn
các b môn ngh thut làm nên hàng loạt so sánh, liên tưởng bt ng.
V đẹp tr tình, thơ mộng:
Dòng chy uốn lượn như mái tóc ngưi thiếu n “con sông Đà tuôn dài, tuôn
dài như một áng tóc tr tình, đầu tóc chân c n hin trong mây tri Tây Bc
bung n hoa ban, hoa go tháng hai cun cuộn khéo mèo đốt nương
xuân”
Cnh vt hai bên b hoang sơ nhuốm màu c tích, trù phú tràn tr nha sng
Ngh thut: vn dng kiến thc ca nhiu lĩnh vực khác nhau để xây dựng hình tượng
con sông; kết hp nhiu th pháp ngh thuật như nhân hóa, so sánh, liên ng; khám
phá con người phương diện tài hoa, ngh sĩ.
*Điểm tương đồng, khác bit:
Tương đồng:
C hai con sông đều được khám phá phương diện tr nh, thơ mộng hoang sơ.
Hai nhà văn đu s dng th loi tùy bút một áng n xuôi tr tình mang nhiu cm
hng sáng to tính nhân. Hoàng Ph Ngọc ng Nguyễn Tuân đu huy
động kiến thc t các b môn văn a, lịch sử, địa tài năng uyên bác ca mình
trong s dng ngôn ng.
Khác bit:
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
9
+ Hoàng Ph Ngọc ờng dòng sông Hương với hình tượng ngưi ph n khi thì
mang dáng dp ca gái Digan phóng khoáng man dại, khi thì nnàng thiếu n
ng mang, lúc lại như tài nữ đánh đàn lúc nửa đêm, rồi lúc như nàng Kiều thy
chung tìm v vi chàng Kim. Tác gi viết tùy bút v dòng sông t cm hng mt cuc
tìm kiếm có ý thc trong tình yêu
+ Nguyn Tuân cm nhn v đẹp của sông Đà hai mt hung bo tr tình, khám
phá con sông đy tiềm năng cho sự phát trin của đất nước. Sông Đà đẹp nét đẹp ca
một con người đầy tính: lúc như bầy thủy quái, lúc như một c nhân. Đặc bit,
Nguyn Tuân miêu t v đẹp hung bo của con sông đ làm ni bt s tài hoa, trí tu
ca con ngưi.
Lí gii s khác bit
Da trên s khác nhau trong hoàn cnh sáng tác, phong ch ngh thut ca tng n
văn: Tùy bút Nguyễn Tuân giàu cht kí, cht truyn. Bút ca Hoàng Ph Ngc
ng giàu cht tr tình - cht tu bút. Cùng phong cách tài hoa uyên bác, nhưng
Nguyn Tuân tài hoa kiêu bc, Hoàng Ph Ngc Tưng tài hoa sâu lng.
3. Kết bài
Hoàng Ph Ngọc Tường đến với sông Hương như một s tương giao linh diệu ca
mt tâm hn Huế, gn bó tha thiết vi dòng sông vi x Huế, vi chiều sâu văn hoá
ca đất quê hương thì Nguyễn Tuân đến với sông Đà như đến vi mt s th thách đ
bc l cái Tôi độc đáo tài hoa, thể hin cm hng mãnh lit trước cái đẹp, cái khác
thường phi thường.
Dàn ý s 4
1. M bài
Gii thiu tác gi Nguyn Tuân, Hoàng Ph Ngọc ng hai tác phẩm (Người lái
đò sông Đà và Ai đã đt tên cho dòng sông?).
2. Thân bài
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
10
a. Điểm ging nhau
Hai con sông đu có v đẹp hùng vĩ, dữ di.
Hai con sông đu mang v đẹp thơ mộng, tr tình.
b. Đim khác nhau
• Sông Đà
- V đẹp hung bo:
Cảnh vách đá hai bên sông dựng đứng như vách thành và quãng sông hp. Có quãng
con nai con h đã có lần vt t bên b này sang bên kia. Mt sông ch y ch lúc đúng
ng mi có mt tri.
Cnh quãng mt ghnh Hát Loóng: Dài hàng cây s nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô
gió, cun cun lung gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi n xuýt bt c người
lái đò sông Đà…
Cnh quãng ng Vát: Trên ng bng những cái hút c giống như cái
giếng bê tông th xuống dòng sông để chun b làm móng cu. Nước đây thởkêu
như cái cửa cng b sc... nhng cái giếngu nưc c ặc lên như vừa rót du sôi vào.
Nhiu thuyn bè g đi nghênh ngang ý nhng cái giếng hút c y lôi tt
xung.
- V đẹp thơ mộng, tr tình:
Khi t tàu bay nhìn xuống: Sông Đà “tuôn dài, tuôn dài như mt áng tóc tr tình... đt
nương xuân”. Sông Đà đi màu theo tng mùa một cách độc đáo: mùa xuân xanh
ngc bích, mùa thu đ.
Khi đi rừng u ngày bt ng gp li con sông: Nim vui hn ca tác gi khi bt
ng gặp sông Đà: “như thấy nắng giòn tan sau mưa dầm”, “nối lại chiêm bao đứt
quãng”, “như gặp li c nhân”. Sông Đà gợi cảm như một c nhân, v đẹp ntrò
chơi trẻ con tinh nghch, có v đẹp Đường thi.
Khi đi thuyền trên sông phía h lưu: Cảnh thiên nhiên thi vị, mơn mởn: trôi qua mt
nương ngô “nhú non”, con hươu thơ ngộ, bờ sông hoang dại như một b tin sử”.
Sông Đà như một “ngưi tình nhân chưa quen biết”.
Hình tượng sông đà vừa mang nét hung bo li va tr tình thơ mộng. Qua hình
ợng sông Đà đã thể hin tình cm ca Nguyn Tuân vi thiên nhiên Tây Bc.
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
11
• Sông Hương:
- V đẹp hùng vĩ, dữ di:
Sông Hương lúc thượng nguồn đưc miêu t chi tiết qua nhng hình nh so sánh,
nhân hóa: như một bản trưng ca ca rng già, như mt cô gái Di gan phóng khoáng
man dại, như người m phù sa ca mt nn văn hóa xứ s.
Trong cuc hành trình tìm kiếm người tình mong đợi, sông Hương dường như muốn
giấu đi vẻ hoang dại nơi rừng già của mình để thay đổi din mo, hoàn thin bn thân
hơn trước khi đến gp người yêu.
Sau khi ra khỏi vùng núi, sông Hương như nàng tiên được đánh thức, bng lên sc tr
và nim khao khát ca tui thanh xuân, un mình liên tc.
ngoi vi thành phố, sông Hương mang v đẹp c kính khi un mình qua những lăng
tm ca vua chúa.
- V đẹp thơ mộng tr tình:
Khi v gp thành ph Huế sông Hương vui tươi hẳn lên, tiếp tc un mình mm mi.
Sông Hương khi đi qua thành ph đã trôi đi chậm, tht chậm, cơ hồ ch còn là mt mt
h yên tĩnh.
Tác gi so sánh sông Hương như Điệu “slow tình cảm” dành cho Huế, trăm nghìn ánh
hoa đăng bồng bnh vào những đêm hi rm tháng by.
Sông Hương khi chy qua thành ph đẹp tr tình, thơ mộng, c kính, gần gũi, giản
dị, sinh động, có tâm hn và gn bó vi bn sc văn hóa Huế.
Sông ơng chia tay thành ph đầy luyến tiếc, vấn vương. Sực nh li một điều
chưa kịp nói, đột ngột đổi dòng, r ngoặt sang hướng đông - tây để gp li thành
ph ln cui góc th trấn Bao Vinh xưa cổ.
phải ra đi nhưng sông ơng luôn nh v thành ph ca nó, vn gi trn li
th ân tình thy chung vi x này.
3. Kết bài
Khái quát li giá tr ni dung, ngh thut hai tác phm.
Liên h sông Đà và sông Hương - Mu 1
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
12
Thiên nhiên muôn đi này vẫn là người bn thiết thân của các văn sĩ nói chung
những nhà văn Việt Nam nói riêng. Bi vy, hình nh thiên nhiên của non sông đất
nước đi vào những trang văn của các tác gi văn học thật đáng yêu đáng mến biết
nhường nào. Nhng dòng sông Việt Nam trong văn học cũng đưc nhìn nhận dưới v
đẹp thơ mộng và tr tình quyến rũ đến kì l. Ch qua hai tùy bút Ngưi lái đò sông Đà
(Nguyễn Tuân) và Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Ph Ngọc Tường) ta đã cảm
nhận được điều đó.
Diễn đạt v đẹp tr tình của sông Đà, Nguyễn Tuân đã dùng những trang văn đậm
chất thơ, lắng sâu xúc cm tr tình. Con sông Đà “tuôn dài như áng tóc tr tình…”
câu văn dài chất cha nim yêu say mê ca tác gi đối với sông Đà. Bin pháp so sánh
không ch gi chiu dài ca dòng sông n cm nhn v dáng hình, dòng chy ca
nó. Sông Đà trong một s vận động, chy trôi miên man, vô tận. Sông Đà hung dữ đã
được thay bng hình nh mt con sông mm mi, uốn lượn, được nh dung như mái
tóc của người thiếu n. Hình nh gi cm, duyên dáng, tình t, kh năng tạo ra
những trường liên tưởng rng lớn qua trí tưởng tượng sinh động ca nhà văn. Sông Đà
linh hn Tây Bắc, nước mây, đất trời như nối lin mt dải “đầu tóc, chân tóc n
hin trong mây tri Tây Bắc… cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân” Cảnh vt
thơ mộng huyn ảo. Câu văn xuôi va giàu cht to hình va thấm đưm chất thơ.
Nguyễn Tuân nhìn sông Đà ở nhiều góc độ, soi chiếu nó nhiều phương diện, để ri
phương diện nào cũng tìm ra những nét đẹp của nó, khi thì nhìn say a, khi lại xuyên
qua cnh vt, khi li bay tạt ngang sông Đà, khi nhìn từ trên xung, khi nhìn t dưới
lên…Sông Đà đưc cm nhận như một sinh th sng linh hn. Sắc nước sông Đà
có khi là màu xanh trong sut, rực sáng đến dim l, có khi là sắc đỏ đậm đặc đến bm
tím. Nhng hình nh ấy tác động mnh m vào giác quan của người đọc, to nhng
trường liên tưởng mà khi tiếp nhận, người đc luôn có cm giác bt ng, lí thú.
Sông Đà được nhìn như một c nhân, th hin mi tri âm, tri k ca tác gi vi con
sông. Đã là c nhân thì gần thương, xa nhớ, bi vy, nhng câu ch ca Nguyn Tuân
tràn đầy âu yếm, nâng niu, trân trng. Mi dòng, mi ch đều quyt cht tình yêu vi
con sông, th hiện sinh đng qua bin pháp nhân a. Những u văn lúc này giống
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
13
như những câu thơ tuyệt bút của đời Đường khi a, lng sâu trong màu sc c điển.
Sông Đà một c nhân nhưng gặp lại sông Đà, lúc nào thi nhân cũng cm thy ng
ngàng. V đẹp sông Đà luôn đem đến cho ngưi ta s say mê, ng ngàng, cun hút.
Mi ln gp li, nim say li càng lớn hơn. Dường như mt s liên h nào đó
giữa không gian đầy sc sng ca mảnh đất Dương Châu trong câu thơ ca Bch
vi không gian rc r của sông Đà. T ánh sáng ca dòng sông mà bt thành ánh nng
tháng ba Đường thi thì qu tài hoa. Tình tri k của người xưa như truyền nhng xúc
cm “đm đm, đm m” cho Nguyn Tuân gp lại sông Đà.
B sông Đà đưc miêu t bng những câu văn đm xúc cm hoài nim: “hoang dại…
c tích tuổi xưa”. Sông Đà đẹp v đp c nh, gần gũi, tha thiết. Cái hoang di ca
dòng sông được so sánh với nét hoang của b tin s, cái tr trung ca dòng sông
được so sánh vi ni nim hn nhiên ca c tích. Nguyn Tuân rt tài khi s dng
bin pháp so sánh. Lần so sánh nào cũng khiến ngưi ta ng ngàng, thán phc, say mê.
Câu văn đưa người đọc tr v vi mt thời quá vãng xa xưa, sông Đà đưc khoác lên
tm áo lung linh, huyn o, gi nên một nét đẹp yên bình, thơ mng, gần gũi thân
thiết.
Sông Đà giống như một phn lch s dân tc, hn thiêng của đất nước mang theo
khát vọng ngàn đời ca con người. Không phải đến Nguyn Tuân mi phát hin ra v
đẹp sông Đà nét đẹp của dòng ng ngàn đời vn thế. Những câu văn giúp ngưi
đọc cm nhn dòng chy ca thi gian lch s. Dòng sông t quá kh đến hin ti, trôi
chảy đến tương lai. Dòng chảy của sông Đà là dòng chy ca lch sử, đất nước. Nhng
câu văn đậm chất thơ, chứa chan xúc cm tr tình. Phải chăng chất thơ y chính
chất thơ “hoài cựu” (Nguyễn Đăng Mạnh) i nét bút tài hoa của người ngh sĩ.
Những câu văn đắm chìm trong quá kh ri li ng ngàng, git nh khi quay tr li
hin ti. Âm thanh ca tiếng còi xúp chính tín hiu ca cuc sng mi, th hin
những nét đẹp hiện đại. Gia bức tranh đầy chất thơ của đôi b sông Đà, giữa dòng
chảy êm đềm ca thời xưa cũ, không gian tĩnh lặng khôn cùng, nhà văn thèm nghe
thy mt tiếng còi sương. Đó không ch một âm thanh đơn thun còn âm
thanh ca ni niềm, ước mơ, khát vọng trong nhà văn. Khát vng v hình nh mt
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
14
ngày mai tươi sáng của vùng đất Tây Bắc đã được thp lên trong một âm điệu lc
quan, yêu đi. Ngòi bút ca Nguyn Tuân không ch làm ngưi ta kinh ngc bi s d
di của dòng sông mà còn làm người ta yêu thích bi cht tr tình ca dòng sông y.
Bằng trí tưởng tưng phong phú, bng bin pháp so sánh, n d đầy tài hoa, ngôn ng
điêu luyện, cách diễn đạt độc đáo, những câu văn giàu nhạc điệu, bút pháp hin thc
kết hp vi lãng mn, tr tình to v đẹp rc r, cun hút của sông Đà. đó tưởng
chng bao nhiêu vn sng, bao nhiêu kho kiến thc v văn học, lch sử, địa lí, quân s,
th thao… cùng tình yêu say đã giúp Nguyễn Tuân viết v một dòng sông Đà tht
s ấn tượng đẹp đẽ. Cũng giống mạch văn Nguyễn Tuân đã viết v sông Đà,
miêu t con sông dc theo dòng chy của nó, nhưng vi tính du dàng của người
con x Huế, cách viết ca Hoàng Ph Ngọc Tường v dòng ơng Giang li gi cho
người đọc mt cm giác khác, cm giác ca một cái gì đó dịu nh c len li miên man
ri t t thm vào hồn ngưi, làm tri dy mt cách trầm tĩnh cái tình yêu man,
say đắm đối với dòng sông mang nét đẹp văn hóa xứ sở. Sông Hương – con sông đã đi
vào thi ca vi v quyến rũ lạ k:
“Cầu cong như chiếc lược ngà
Sông dài mái tóc cung nga buông hờ”
i ngòi bút ca Hoàng Ph Ngc Tường sông Hương đã trở thành mt con ngưi,
mt người con gái đẹp có tâm hn, có cá tính, du dàng mt v sang trọng, đằm thm
mt v đẹp đầy văn hóa.
i con mt của ngưi ngh sĩ, dòng chảy của Hương Giang đưc miêu t tht hp
dn vi nhiu cách so sánh, nhng t ng đưc s dng rất đắc đa, giàu hình nh,
màu sc hình khi to nên một dòng ơng Giang thật đp, thật nên thơ như
một con người đầy xúc cm cha chan tình yêu vi c đô Huế giàu truyn thống văn
hóa. Gia núi rừng hùng vĩ của Trường Sơn, sông Hương đã là bản trưng ca ca rng
già… và cũng có lúc trở nên dịu dàng và say đắm gia nhng dm dài chói lọi màu đỏ
của hoa đỗ quyên rng, v đẹp của sông ơng nơi đi ngàn tht gn vi v d dn
cũng tht du dàng mt cách hoang di của sông Đà i ngòi bút tài hoa ca
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
15
Nguyễn Tuân “sông Đà hung bo và tr tình… sông Đà tuôn dài, tuôn dài như áng tóc
tr tình đầu tóc chân tóc n hin trong mây tri Tây Bc bung n hoa ban hoa go
tháng hai cun cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân (Nguyễn Tuân Ngưi lái
đò sông Đà). Cái d di của sông Hương nơi đại ngàn đã đưc tác gi chn la mt
hình nh so sánh tht sống động, gi cảm đầy màu sắc văn hóa sông Hương đã
sng mt na cuc đời mình như một gái Di-gan phóng khoáng man di. Rng
già đã hun đúc cho mt bản lĩnh gan dạ, mt tâm hn t do trong sáng”. i
lăng kính của ngưi ngh sĩ, sông ơng đã trở thành một con người, một con ngưi
con gái đầy đủ m hồn, tính cách, lòng yêu thương rừng già đã chế ng bản năng
của người con gái để “sông Hương nhanh chóng mang mt sắc đẹp du dàng và trí tu,
tr thành ngưi m phù sa ca một vùng văn hóa xứ sở”. Có thể thy ngay trang đầu
tiên dành cho sông ơng, tác gi đã sáng tạo mt lot hình ảnh độc đáo để gi t v
đẹp mang màu sc văn hóa của dòng sông. T đó tạo cảm giác sông Hương khi o
lòng thành ph đã thay đi mình, kim chế mình để phù hp vi v mộng mơ, thâm
trm c kính ca c đô. Sông Hương như người con gái đp ng màng được
đánh thức để hòa mình cùng Huế, nó duyên dáng vặn mình và bước đi chậm chp, tht
quý phái un mình theo những đưng cong tht mềm, như mt cuc tìm kiếm ý
thức… Bước chun b để dòng sông đi vào ng thành phố đã được tác gi miêu t rt
càng với mt cm xúc độ cao trào, mt lot hình ảnh so sánh được s dụng để
khc ha v đẹp ca dòng sông mt cách hoàn mĩ. Đến chân đồi Thiên M thì Hương
Giang cùng tiếng chuông chùa cùng vi s thâm trm uy nghiêm ca những lăng tẩm
ca vua chúa Nguyễn đã tạo cho sông Hương một v đẹp văn hóa đặc bit bt k
mt dòng sông nào ca Việt Nam đều không có được. V đẹp ấy đưc tác gi chn t
bng một câu văn dài như ngân lên trong hồn người đọc, to một dư âm, một n tượng
không th phai m trong tâm trí người đọc. Đó vẻ đẹp trm mc nht ca sông
Hương như triết lí, như cổ thi, kéo dài i đến lúc mặt c phng lng ca gp
tiếng chuông chùa Thiên M ngân nga t b bên kia gia nhng xóm làng trung du
bát ngát tiếng gà.
Nếu như Nguyễn Tuân đã tạo cho sông Đà v tr tình hung d để nhm mục đích
tôn vinh con người trong lao đng, Hoàng Cm to cho thi ca một dáng “nằm nghiêng
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
16
nghiêng trong kháng chiến trường kì” của ng sông Đuống để to nên hình nh q
hương yêu du trong những ngày đau thương thì Hoàng Phủ Ngọc ng li to cho
thi ca một dòng sông văn hóa. V đẹp của ơng Giang được to nên bi truyn
thng, bn sắc văn hóa ca x Huế, vi vùng ngoi ô Kim Long hay nhng khu nhà
vườn Dạ xanh mướt một màu thiên nhiên tràn đy sc sng, những khu vườn thơ
mng n cha trong lòng những con người phúc hu, nhng nếp sng c xưa với
nhng nét sinh hot tinh tế đầy văn hóa. cái điệu chy lng l như lưu luyến vn
vương của dòng Hương Giang đã to nên một môi trường tuyt vi cho nhng đêm ca
Huế, những đêm hội hoa đăng, những thú vui đố thơ, thả thơ trên những con thuyn
gia dòng sông. Mặt nước yên tĩnh như không trôi đã nâng niu góp phn gìn gi
nhng sinh hoạt văn hóa cổ truyn ca Huế, to v đẹp riêng thu hút quyến
khách thp phương. Điệu slow tình cm dành riêng cho Huế y tht hp cnh hp tình
vi nhng ngôi chùa c, những lăng tẩm uy nghi ca chn kinh thành xưa.
Sông Hương v đẹp riêng, đó vẻ đẹp đặc trưng nên thơ tr tình ca Huế bi
nó mang trong mình c mt nền văn hóa của quê hương xứ s. Những nét văn hóa đặc
sc nht Huế, theo tác giả, đều được sinh ra tn ti cùng v mặt c lng l ca
dòng sông, đó những đêm hội hoa đăng, những làn điệu ca Huế ngt ngào, nhng
khu vườn cây trái xanh tươi, những lăng tẩm uy nghiêm… thế mà sông Hương trở
thành “ngưi tài n đánh đàn lúc đêm khuya”, điu nhc dìu dặt, đằm thm ca ca
Huế ch th cm nhận được trong cái không gian tĩnh lặng ca mặt c sông
Hương về đêm. Cả câu Kiu hay nht ca Nguyn Du khi miêu t tiếng đàn của nàng
Kiều cũng được sinh ra t những ngày “Nguyễn Du lênh đênh trên quãng sông này
vi mt phiến trăng sầu”. Như vậy ng ơng đã mang trong mình cht nhc. Theo
cm nhn ca tác gi sông ơng không chỉ mang trong mình v đẹp văn a
còn môi trưng sn sinh ra Truyn Kiu nim t hào của văn hóa dân tộc “tôi đã
cm nhận ra cái âm hưởng sâu thm ca Huế trên mi trang truyn Kiu, thiên nhiên
ca mnh đất kinh xưa đã đ li một cái bóng mông lung nhưng rất d nhn ra trong
thơ Nguyễn Du”. ng Hương trong cm hng ca Hoàng Ph Ngọc Tường không
ch mang v đẹp thơ mộng ca mt vùng văn hóa truyn thng, không ch du dàng
mt v sơn thy hu tình còn một dòng sông anh hùng như bao dòng sông khác
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
17
của quê hương Việt Nam, sông mang trong mình bao điu n ca lch s. Nếu
nhng trang miêu t dòng chy ca dòng sông nhng trang tr nh nht thì nhng
trang nói v lch s là những trang đáng tựo nhất. Dòng sông “tươi trẻ và quyến rũ”,
lung linh sc màu trong nhng ngày thanh bình li tr thành người anh hùng sát cánh
cùng dân tộc đánh gic. Việt Nam đất c mạng lưới sông ngòi dày đc, mi
người Việt Nam đều đưc sinh ra ln lên bên một ng sông như lời bài hát:
“Trong ta, ai cũng có một dòng sông” hay lời thơ của một nhà thơ tr:
“Sinh ra đâu mà ai cũng anh hùng
Tt c tr li bên mt dòng sông
“Quê hương Việt Nam mườn mượt những cánh đồng
Mi con ngưi gn bó một dòng sông”
mt ngòi, mt con kênh nh danh hay dòng sông Hng ngầu đỏ phù sa,
dòng sông gn vi nhng chiến ng lch s ca dân tộc đều đã ngun cm
hng ít nht mt lần đi vào tác phẩm thi ca ca dân tộc. con sông Đà trong
“Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân, dòng sông Hương trong “Ai đã đặt tên cho
dòng sông” của Hoàng Ph Ngọc Tường đã có được vinh d mang trong mình v đẹp
thơ mộng tr tình tiêu biu cho nhng dòng sông Việt Nam trong văn học. Qua hai
thiên tùy bút, v đẹp tmng, tr tình ca nhng dòng sông Vit Nam hin lên va
chân thc vừa màng chng nhng th hin tài năng của các tác gi còn khng
định tình yêu thiết tha, sâu nng ca những nhà văn Việt Nam đối với non sông đất
nước.
So sánh sông Đà và sông Hương hay nhất - Mẫu 2
Viết v dòng sông, không ai dài hơi độc đáo như Nguyễn Tuân với con sông Đà
hung bo tr tình, thâm him bao dung. Hoàng Ph Ngọc tường cũng góp o
đề tài y mt hình ảnh con sông Hương hiền hòa và man di, du dàng mà cung nhit,
không m phần đặc sc. Trong dòng chy bt tận, người đc nhn thấy sông ơng
sông Đà có những điểm hợp lưu kì thú.
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
18
“Độc đáo” là những nét riêng bit, khác l đưc th hiện qua cách nhìn cũng như nghệ
thut miêu t của nhà văn. Hai bài Người lái đò sông Đà” “Ai đã đặt tên cho
dòng sông?” đã xây dựng được những hình ng dòng sông mang nhng nét độc đáo
đầy hp dn, thú v.
Trong đoạn trích “Người lái đò sông Đà”, Nguyn Tuân tập trung tô đậm nét hung bo,
d di của sông Đà, nh dung dòng sông ấy như kẻ thù hiểm độc và hung ác. Trưc
hết, nét hung bo y th thy qua din mạo khác thưng của dòng sông. Đó
cảnh “đá bờ sông dng đứng vách thành” “mt sông ch đúng lúc ng mi có mt
trời”, vách đá chen lòng sông như một cái “yết hầu” hay “có ch con nai con h có th
vt t b bên này sang b n kia”. Một nét đẹp thực hùng của b đã ven sông Đà!
Cùng với đó hình nh của sóng nước trên mt ghềnh Hát lóng“dài hàng cây s,
nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cun cun lung gió gùn ghè sut năm”.
Trong tùy bút “Sông Đà”, Nguyễn Tuân đã biệt tài miêu t gió đây để t gió
ông đã sử dng t ng cùng độc đáo “gùn ghè”. Ta tự hi sao c gi không dùng
ch“gầm ghè” lại phải “gùn ghè”? Đọc câu n tên ta cảm nhận được cái “gùn
ghè”ấy va mang sc thái “gầm ghè” vừa gợi được thời gian dài đắng đẵng to nên s
ám nh da diết, ám nh v hinh tượng con sông Đà đầy hung bo.
điều đặc bit khiến người đc không th b qua đó những cái hút nước sông Đà
đầy d dội: “Trên sông bỗng nhng cái hút nước, giống như cái giếng tông th
xuống sông để chun b làm móng cầu”. Xen lẫn vào đó có c nhng ấn tượng đáng sợ:
“Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ… Nhiều g rừng đi nghênh
ngang nhng cái giếng y lôi tut xuống… thuyền trng cây chuối ngược
ri vt biến đi”.
Nhà văn cho người đọc thêm một góc nhìn khi đặt mình vào v trí mt nhà quay phim
để thy hết cm giác v những hút nước d di ấy. Con ng Đà hung bạo bi nhng
thác nước d di khiến người ta s hãi khi nghe tiếng nưc t xa ri nhìn thấy khi đến
gn. T xa những âm thanh đc biệt: “Tiếng thác nước nghe nhưoán trách gì, ri
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
19
lại như van xin, như khiêu khích”. Khi đến gần “nó rống lên như mt nghìn con
trâu mộng đang lồng ln gia rng vu, rng na n la”.
Âm thanh đưc tái hin hết sc cung n cho thấy rõ “cái ngông” trong bút pháp ngh
thut của nhà văn, trong sở thích khám pnhng cm giác mạnh. Độc đáo hơn khi
sông Đà đưc miêu t vi v đẹp hung bo th hiện qua tâm địa. Đá sông Đà vốn do
thiên tạo nhưng con mắt ngh của Nguyn Tuân, còn biết bày thch thy trn.
Con ng Đà vn s vt tri bỗng thành binh tướng dũng nh, thành loài thủy
quái khng l. Qua s miêu t y của nhà n đã nổi bt lên s tài hoa, tài trí ca
người lái đò. Mỗi lần vượt thác ca ông mi ln ông phi chiến đấu mnh m vi
thn sông, thần đá.
Khác vi Nguyn Tuân, Hoàng Ph Ngọc Tường t chn cho nh lối chơi “độc
bạch”, thiên nhiều v tư duy hướng ni, lắng đọng suy để miêu t hình tượng sông
Hương. Chính thế, sông Hương được đm nét tr tình, thơ mộng, gi cm
n tính, luôn mang ng v ca một người con gái xinh đẹp, mong manh tình yêu
say đm.
“ở thưng nguồn sông Hương như một gái Di gan phóng khoáng man di…
rừng già đã hun đúc cho bản nh gan d, mt m hn t do phóng khoáng”.
Tác gi đã miêu tả sông Hương thưng ngun vi sc sng mãnh lit, hoang di
nhưng cũng dịu dàng, say đắm. Dòng sông đã được thi bng ngn gió tâm hn dt
dào, nhy cảm, liên ng t do, phong phú. Khi ra khi rng, sông Hương được thay
đổi tính cách “sông như chế ng được bn năng con gái để mang mt v đẹp du dàng
và trí tu, tr thành người m phù sa cho một vùng văn hóa x s”.
Sông ơng đã trở thành nim t hào ca Huế vy khi nhc v thông thưng
người ta hình dung đến gương mặt kinh thành đầy tr tình như Hoàng Phủ Ngc
ờng đã tìm tận v ngun cội để phát hin bn cht ca gái Di gan, s tính
mnh m, bản lĩnh, gan d vững vàng… Đó một phát hiện đấy thú v mt dòng
sông quen thuc. Miêu t sông Hương, nhà văn không nhìn nhận trong thế độc
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
20
lập đặt trong mi quan h gn cht ch vi kinh thành Huế. Dòng sông mang
linh hn và cảm xúc như một tình nhân trên hành trình tìm kiếm tình yêu đích thực.
Qua đoạn chảy xuôi tìm đường tr v thành phố, sông ơng đã t qua nhng gii
hn khc nghiệt để chng t tình yêu vi Huế. lng l, duyên dáng qua nhng
khúc chuyển mình đầy mm mại. “Nó kéo một nét thng thực yên tâm”, “nó un mt
cánh cung nh sang cn Hến như một tiếng vân không nói của tình yêu”.
Đã bao đêm sông Hương tình tự bên thành ph thân yêu của mình để rồi đến lúc
phi rời đi lại chng mun chia xa bn rn, quyến luyến. ng ơng gặp li
thành ph Huế góc th trấn Bao Vinh xưa c như để nói mt li th chung thy vi
mảnh đất c đô. Lời th y vang vng khp u vực sông Hương thành ging dân
gian, tm lòng ca người dân Châu Hóa a mãi chung tình với qhương, x s.
Mt cái nhìn ngh tài hoa, đa nh l ch riêng Hoàng Ph Ngọc Tường mi
có đưc!
th thy c hai nha nhà văn đều xut phát t ch ngi ca v đẹp thiên nhiên qua
hình ng dòng sông ni tiếng đã từng ngun cm hng ca ngh thut nói chung
và văn học nói riêng. Đó là lí do hai tác phẩm có tht nhiu nét tương đồng.
Trưc hết, sông Đà sông Hương đều được các tác gi miêu t như một nhân vt tr
tình tâm hn, tích cách vi nhng đặc trưng riêng biệt. Sông Đà vốn được biết đến
mt con sông d di lm thác nhiu ghnh nhưng i ngòi bút tài hoa, yêu thích
cái đp ca Nguyn Tuân, sông Đà hiện lên như kẻ thù s mt của con người. Đá sông
biết bày thch thy trn chiến đấu với người lái đò, biết s dụng binh pháp, mưu c
để lt đ nhng chiếc thuyền. Có khi sông Đà li được nhìn như ngưi con gái vi mái
tóc dài duyên dáng, yêu kiu.
Cùng với đó, sông Hương được Hoàng Ph Ngọc Tường khc họa như một người con
gái, người m phù sa, ngưi tình vi Huế. Sông ơng cùng với dòng chy ca
như những nét tâm trng không nói nên li trong tình yêu của ngưi con gái. Chính
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
21
vậy mà người đọc mỗi trang văn miêu tả thiên nhiên nhưng ta vn thy thấm đượm
hồn người sâu sc.
Không ch vy, c hai dòng sông đều được nhìn nhận, đánh giá hai phương diện đối
lp hung bo tr tình đ thy chúng nhng sinh th thng nht. Bên cnh v đẹp
hùng vĩ, dữ dội trước đó, sông Đà cũng mang những nét thơ mộng, tr tình đầy mi l.
Nhìn t trên cao xuống “con sông tuôn dài, tuôn dài như mt áng tóc tr tình, đầu tóc
chân tóc n hin trong mây tri Tây Bc bung n hoa ban hoa go tháng hai cun
cuộn khói Mèo đốt nương xuân”. Mảnh đt uốn lượn nơi đầu ngun Tây Bắc đã
gợi liên tưởng đến dáng hình ngưi thiếu n với mái tóc dài thướt tha. Màu nưc sông
Đà thay đổi theo mùa: “mùa xuân dòng xanh màu ngọc bích, mùa thu nước sông Đà lừ
l chín đ như da mặt người bầm đi vì rượu ba”.
Nhà văn đã cảm nhận sông Đà bằng c niềm yêu nước t hào dân tc. Cảnh đẹp
bên b sông trm mc c kính. Vi v đẹp thơ mộng, tr tình y, Nguyễn Tuân đã
khéo léo đặt cho con sông một cái tên đầy ý v “tình nhân chưa quen biết”.
Cũng như sông Đà, ng ơng trước khi mang v đẹp tr nh, lãng mạn, đã
cùng d di phía thưng ngun. Bt ngun t Trường Sơn hùng , nơi rừng già,
vc sâu, ghnh thác, cây ci rm rạp,… bởi vy giống như bao dòng sông khác chảy
qua đại ngàn, sông Hương có lưu tốc rt mnh. Tác gi cho rằng “nếu ch ngm khuôn
mt kinh thành s không hiu bn chất sông Hương, phần tâm hn sâu thm ca
bởi dòng sông đã tự giấu mình, đóng kín ca rừng…”. Nơi đu ngun ca dòng
chy, dòng sông ấy đã từng mt bản trưng ca ca rừng già trước khi v đến vùng
châu th êm đềm. Vy mi thấy được dù độc đáo nhưng sông Đà,ng Hương vn
điểm hợp lưu.
Một đặc điểm bit không th không k đến đó ngòi bút miêu t tài hoa, uyên bác
của hai nhà văn khi viết v hai dòng sông. C hai đều được miêu t trên phương diện
văn hóa, thẩm mĩ. Sông Đà nơi hi t hai nét đẹp tiêu biểu, đặc trưng của thiên
nhiên Tây Bc vừa hùng vĩ, dữ di va tr nh, nên thơ.
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
22
Còn sông Hương, đó còn dòng sông ca âm nhc, dòng sông ca thi ca, lch s gn
lin vi nhng nét đặc sc v văn hóa, vẻ đẹp của người dân x Huế. Người đọc còn
được thưởng thức chiêm ngưỡng cái đẹp trên nhiều lĩnh vực qua ngòi bút đầy uyên
bác của nhà văn. Từng khía cạnh được miêu t đều cho thy vn tri thc phong phú,
sâu sc. Tt c làm nên v đẹp ấn tượng đặc sc cho mi tác phm.
Vậy do đâu c hai hình tượng dòng sông li những điểm chung nét riêng
độc đáo y? Phải chăng bởi tấm lòng say mê trước v đẹp đất nước, t hào trước thng
cảnh non sông mà hai nhà văn đã thy hai dòng sông đó nhiều điểm chung như vy?
Cùng với đó, tính sáng to ca mỗi nhà văn đã khiến cho hai tác phm dù chung
đề tài nhưng vẫn mang những nét độc đáo hấp dn riêng không th trn ln. Mt ngh
lãng tử ham dịch, ưa cảm giác mnh; mt triết nhân lch lãm. H như vắt kit c
“bầu máu nóng”, đem cả tâm hồn tài năng của mình để viết nên những áng văn
chương còn mãi với muôn đời.
Cùng đổ ra bin lớn, cùng hòa nước vào đại dương mênh mông nhưng chc chn
người đọc s không th nào quên những hành trình riêng ng Đà, sông Hương đã
chy trong thế giới văn học. Chính những điểm gp g y càng làm ni bt nét riêng
độc đáo ca mỗi hình ng, mỗi nhà văn; nét độc đáo làm nên sức sng linh hn
cho tác phm.
So sánh sông Đà và sông Hương - Mẫu 3
Sông Đà hung bạo và tr tình, thâm hiểm nhưng bao dung. Sông Hương kia lại hin
hòa, dịu dàng nhưng cũng rất man di, cung nhit và không kém phn đặc sc.
Nhng hình nh y nghim nhiên hiện lên trong đầu chúng ta, công sc không nh
chc hn phi k đến Nguyn Tuân và Hoàng Ph Ngọc Tưng.
Hai con sông y mang nhng v đẹp khác nhau, cùng với ngòi bút điêu luyện ca hai
nhà văn lại càng tôn lên v độc đáo, riêng biệt, đầy hp dn và thú v. Phn so sánh hai
tác phẩm Người lái đò sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông dưới đây sẽ làm rõ
ràng hơn những điều y.
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
23
Trong đoạn trích “Người lái đò sông Đà”, con sông đưc Nguyn Tuân mô t như một
k thù hiểm độc và hung ác. K thù y có biết bao nhiêu là hung bạo: đá bờ sông dng
đứng vách ngăn thành, mặt sông ch đúng lúc ngọ mi mt tri,.... By nhiêu y
thôi cũng đủ để ởng tượng ra v đẹp thật hùng vĩ. Cùng với đó hình nh ca sóng
nước trên mt ghềnh Hát lóng“dài hàng cây số, ớc đá, đá sóng, sóng gió,
cun cun lung gió gùn ghè suốt năm”.
Bit tài miêu t gió ca tác gi còn đc bit hơn nữa khi s dng t ng cùng độc
đáo: “gùn ghè”. Mt t tht l, va mang cm giác mnh m ca “gm ghè”, nhưng li
va gi đưc s da diết, ám nh v hình tượng con sông Đà đy hung bo.
Đặt mình vào mt góc nhìn toàn cảnh, nhà văn còn gi gắm đến người đọc mt cm
giác ràng hơn tất thy v những cái hút nước d di y. Phải chăng tiếng “hung
bạo” của sông Đà là t nhng tiếng nước y mà ra?
Dù là xa hay gần, người ta cũng đu phi git mình s hãi:“Tiếng thác nước nghe như
oán trách gì, ri lại như van xin, như khiêu khích”. Khi đến gần “nó rống lên
như một nghìn con trâu mộng đang lồng ln gia rng vu, rng na n lửa”. Âm
thanh đưc tái hin hết sc cung n cho thấy “cái ngông” trong bút pháp ngh
thut của nhà văn, trong sở thích khám phá nhng cm giác mnh.
Thế nhng điểm đặc biệt và độc đáo nhất của sông Đà phi k đến s hung hãn qua
tâm địa. Vốn tưởng chng ch thiên nhiên tri, nhưng qua ngòi bút của Nguyn
Tuân, dòng sông li một binh tướng dũng mạnh, mt loài thy quái khng l
khiến ngưi ta phi khiếp s. biết y thch thy trn, biết đặt nhng vòng by,...
chẳng khác cách người ta bày binh b trận. Cũng chính sự hung hãn ấy đã hoàn
toàn làm ni bt lên s tài hoa, khéo léo tháo vát của người lái đò. Mi ln cm tay
lái là mi ln ông phi chiến đấu vi c thn sông, thần đá.
Vi nhng tâm s nh nhàng, sâu lắng mang duy ng ni, Hoàng Ph Ngc
ờng đã khắc ha một sông Hương khác hẳn sông Đà kia của Nguyn Tuân. Sông
Hương ở đây vừa tr tình, thơ mộng li vô cùng gi cm và n tính. Nhìn sông Hương,
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
24
người ta thấy được dáng v ca một người con gái xinh đẹp, mong manh đang mang
trái tim yêu thương say đm.
thưng nguồn, sông Hương được tác gi miêu t vi sc sng mãnh lit, hoang di:
“ở thưng nguồn sông Hương như một gái Di gan phóng khoáng man di…
rừng già đã hun đúc cho bản lĩnh gan dạ, mt tâm hn t do phóng khoáng”. .
Dòng sông đã được thi bng ngn gió tâm hn dt dào, nhy cảm, liên tưởng t do,
phong phú.
Thế nhưng chỉ vừa đi ra khỏi rừng, sông Hương kia lại đột ngột thay đổi tính cách.
chế ng được bản năng con gái đ mang mt v đẹp du dàng trí tu hơn. Người ta
như thấy được hình nh người m phù sa cho một vùng văn hóa xứ s trong đó.
Nhắc đến Huế thì chc chn phi nhắc đến ng Hương, vốn đã trở thành nim
t hào ca thành ph nên thơ y. Con sông kia bn cht gái Di-gan, tính,
mnh m, bản lĩnh ,đó một cái nhìn hoàn toàn khác và vô cùng thú v v biểu tưng
ca kinh thành Huế. Miêu t sông Hương, nhà văn không nhìn nhận trong thế
độc lập mà đặt trong mi quan h gn bó cht ch vi kinh thành Huế.
Sông Hương được miêu t như gái vượt qua muôn ngàn trc tr, mi gii hn khc
nghiệt để tìm đường v vi thành ph y yêu. lng l, duyên dáng qua
nhng khúc chuyển mình đầy mm mi. “Nó kéo một nét thng thực yên tâm”, “nó
un mt cánh cung nh sang cn Hến như một tiếng vâng không nói ca tình yêu”.
Người ta như mường tượng được trong đầu hình ảnhgái sông Hương” tình tự bên
Huế, để rồi đến lúc rời đi lại chng mun chia xa bn rn, quyến luyến. Sông
Hương gặp li thành ph Huế góc th trấn Bao Vinh xưa c như để nói mt li th
chung thy vi mảnh đất c đô. Lời th y vang vng khắp lưu vực sông Hương thành
ging dân gian, tm lòng của người dân Châu Hóa xưa mãi chung tình vi quê
hương, xứ s.
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
25
Cái nhìn đy nh t và lãng mn y, chc ch l những tài năng như Hoàng Ph
Ngạn Tường mới có đưc.
Đim chung ca hai tác phẩm này là chúng đều được ly cm hng t v đẹp lng ly
ca thiên nhiên. Hai con sông ni tiếng với hai góc nhìn khác nhau được người ta
t tht xao xuyến lòng người.
Chúng đều đưc nhìn nhận như hai nhân vật tr tình, tâm suy nghĩ riêng.
Đưc biết đến mt con sông d di lm thác nhiu ghềnh nhưng dưới ngòi bút tài
hoa ca Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như kẻ thù s mt của con người. Đá sông
biết bày thch thy trn chiến đấu với người lái đò, biết s dụng binh pháp, mưu c
để lt đ nhng chiếc thuyn.
Bên cạnh đó, người ta li nhìn thy hình ảnh người m phù sa, người tình ca Huế qua
li t sông Hương ca Hoàng Ph Ngạn Tường. Bao nhiêu li tâm tình của người
người con gái đang yêu, những ni bun hay c gin hờn vu cũng thật nên thơ.
Chính vậy người đọc mỗi trang văn miêu tả thiên nhiên nhưng ta vẫn thy
thm đưm hồn ngưi sâu sc.
Cũng như con người, c hai dòng sông đều được đánh giá dựa trên hai mặt đối lp tr
tình-hung bạo đ người ta th hình dung toàn din nht v chúng. Bên cnh v đẹp
hùng vĩ, dữ dội trước đó, sông Đà cũng mang những nét thơ mộng, tr tình đầy mi l.
Nhìn t trên cao xuống con sông tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc tr tình, đầu tóc
chân tóc n hin trong mây tri Tây Bc bung n hoa ban hoa go tháng hai cun
cuộn khói o đốt nương xuân. Hình nh y khiến người ta liên ởng đến dáng
hình người thiếu ny Bc yêu kiều, thướt tha.
Cũng như sông Đà, ng ơng trước khi mang v đẹp tr nh, lãng mạn, đã
cùng d di phía thưng ngun. Bt ngun t Trường Sơn hùng , nơi rừng già,
vc sâu, ghnh thác, cây ci rm rạp,… bởi vy giống như bao dòng sông khác chảy
qua đại ngàn, sông ơng u tốc rt mạnh. Nơi đầu ngun ca dòng chy, dòng
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
26
sông ấy đã từng mt bản trường ca ca rừng già trưc khi v đến vùng châu th êm
đềm. Vy mi thấy được độc đáo nhưng sông Đà, sông Hương vẫn điểm hp
lưu.
Một đặc điểm bit không th không k đến đó ngòi bút miêu t tài hoa, uyên bác
ca hai tác gi khi miêu t v dòng sông: chúng đều được nhìn nhận dưới phương din
văn hóa- thm mỹ. Sông Đà đi hin cho thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng
cũng rất tr tình; Còn sông Hương lại là hin thân của nét đc sc ca âm nhc, thi ca,
lch s và c con ngưi kinh thành Huế.
Mt ngh đầy lãng t rất thích “xê dịch” ưa thích cảm giác mnh. Mt triết nhân
lch lãm, yêu s lãng mn, tinh tế nh nhàng. Mỗi ngưi mang li cho ta cm giác
khác nhau v dòng sông kia, nhưng lại đều đem cả tâm hồn và tài năng của mình để
viết nên những áng n chương còn mãi với muôn đời. Điểm chung ln nht ca h
chc hn tấm lòng say trước v đẹp, t hào trưc thng cnh non sông t quc.
Phải chăng chính những điều này đã khiến cho h hoàn thành đưc nhng tác phm
xut sắc như vậy?
Cùng đổ ra bin lớn, cùng hòa nước vào đại dương mênh mông nhưng chc chn
người đọc s không th nào quên những hành trình riêng ng Đà, sông Hương đã
chy trong thế giới văn học. Chính những điểm gp g y càng làm ni bt nét riêng
độc đáo ca mỗi hình ng, mỗi nhà văn; nét độc đáo làm nên sức sng linh hn
cho tác phm.
So sánh sông Đà và sông Hương - Mẫu 4
Đề tài nhng dòng sông luôn tr đi trở li trong biết bao nhiêu trang thơ trang văn của
những người ngh sĩ. Nếu như con sông Hồng được miêu t trong t thơ Tràng Giang
ca Huy Cn thì mt ln na hình nh nhng dòng sông lại được Nguyên Tuân
Hoàng Ph Ngọc Tường chọn để làm nên hai tác phẩm đó Người lái đò sông Đà
Ai đã đặt tên cho dòng sông? Qua đó vẻ đẹp của hai con sông Đà sông Hương x
Huế được hin lên thật đẹp nên thơ. thể nói ngoài v đẹp hung bo rm r
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
27
như bản trường ca ca rng già ca hai dòng sông thì chúng ta còn thấy đưc v đẹp
tr tình đy thi v ca chúng.
Trưc hết nhng con sông Vit Nam hin lên qua v đẹp của sông Đà sông Hương
qua v đẹp v hình dáng. V đẹp ấy được bút pháp và tài ngh của hai nhà văn tài hoa
y th hin rt tinh tế và làm cho ngưi đọc liên tưởng đưc nhng hình nh hp dn.
Trưc hết hình ng sông Đà, với s tài hoa uyên bác của mình nhà văn Nguyn
Tuân đã mang đến trưc mt ta nhng v đẹp vô cùng đp ca con sông ch chy riêng
một hướng đó. Chính vẻ đẹp tr tình của đã làm đẹp hơn lấn át đi những v đẹp
hung bo kia. th nói v đẹp hung bo ca khiến cho ngưi ta khiếp s bao
nhiêu thì v đẹp tr tình này li khiến cho người đọc yêu nó, say cái đẹp ca by
nhiêu.
Sông Đà từ trên cao nhìn xung mang v đẹp ca một người thiếu n Tây Bc.
Nhìn t trên cao ấy sông Đà "tuôn dài tuôn dài như một áng tóc tr tình... đốt ơng
xuân". Phải chăng đó chính mái tóc của người thiếu n Tây Bắc đẹp như làn nước
vậy. Đặc bit t trên cao xuyên qua những đám mây y nhìn xung v đẹp y tht s
giống như mái tóc t của người con gái x Hoa Ban y. Không nhng thế mái
tóc y còn hiện lên đẹp hơn khi "Đầu tóc chân tóc n hin trên mây tri Tây Bc".
Hình ảnh mang đến cho ta mt s hp dẫn nên tl thưng. Con sông hung bo
vi nhng trn bày thch đá y, những thác nước d tn y gi đây lại hin hòa
như mái tóc của người con gái vy. Thế ri tác gi quan sát nhìn dòng sông cũng
ging c mt dây thng ngon nghèo nữa. Đó chính vẻ đẹp thướt tha kiu dim ca
sông Đà.
Không nhng thế sông Đà còn như một người c nhân lâu ngày gp li chc hin hòa
ri li bt ng cáu kỉnh lên đấy thôi. Tác gi v lên nhng hình nh của người c nhân
y, nó mang v đẹp như "vui như nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như ni li chiêm
bao đứt quãng". th thy vi bút pháp tài hoa của mình Nguyên Tuân đã mang đến
cho ngưi đc một ngưi c nhân đẹp.
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
28
Sông Đà còn tr tình khi t lòng sông nhìn sang hai bên bờ. Nhà n suốt đời đi tìm
cái đẹp ấy đã mang đến cho ta nhng hình nh con sông Đà thật hoang cổ nh.
Nhìn "b sông hoang như mt b tin s, hồn nhiên như nỗi nim thu xưa".
Không nhng thế b sông còn hin lên yên ng lng l như tờ. Dường như từ thi
nhà lí nhà Trn cũng yên lặng đến thế mà thôi. Nó còn hin lên vi v đẹp tươi tắn ca
những lá nương ngô mới nhú đầu mùa, c quanh đồi đang ra những nõn búp mi. Qua
đây ta thấy sông Đà hin lên thật hoang sơ c kính, cái v đẹp yt thi rất xa xưa
đến nay vn còn nguyên.
Đến con sông Hương của Hoàng Ph Ngọc Tường cũng mang đến cho chúng ta mt
nét đẹp ca không kém phần sông Đà. Sông Hương xứ Huế cũng những nét đp
hung bạo nhưng nhà thơ không nói đến quá nhiu tp trung vào v đẹp tr tình
của nó. Trước khi v đến thành ph thì dòng sông Hương cũng đã mt bn trường
ca ca rừng già, nó đi qua những bãi đỗ quyên đỏ rc.
Trưc hết v đẹp y giống như mt gái Di-gan phóng khoáng man di, du
dàng đằm thắm hơn bao giờ hết. không n bn trường ca ca rng già na
nó mang v đẹp ca s hiền lành đáng yêu. Không những thế còn mang v đẹp ca
người m phù sa nơi đây. Sông mang v nhng phù sa u m để mang đến cho
những cánh đồng Châu Hóa kia.
Tiếp theo v đẹp ca dòng sông Hương còn đưc th hin khi vào ngoi vi thành
phố. Nhìn sông Hương "như người gái đẹp ng màng giữa cánh đng Châu Hóa
đầy c dại". Sông Hương cũng giông sông Đà mang một nét đẹp của người con gái.
Thế nhưng ở đây sông ơng mang không đẹp như mái tóc người con gái đẹp bi
những đường cong quyến rũ. Để vào được đến thành ph sông Hương phải tri qua
không biết bao nhiêu đon gp khúc quanh co qua những đồi thiên M... chính
những đường gp khúc ấy nó đã tạo nên những đường cong đẹp đẽ cho sông Hương.
V đẹp th hai ca c hai con sông đó chính màu sc. Nhng sắc nước ấy đã mang
li những điều tuyt đp cho sông Vit Nam.
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
29
Với sông Đà thì sắc nước thay đổi theo mùa. Mùa xuân sắc nước sông Đà xanh u
xanh ngọc bích. Mùa thu ớc sông Đà "lừ l chín đỏ như mặt ca một người bầm đi
vì rượu ba" hay là tc giận ai điều gì. Sông Đà chưa bao giờ có màu đen như Pháp đã
lếu láo đặt tên nó trên bản đồ.
Còn sc nước sông Hương biến đổi theo ngày sớm xanh trưa vàng chiều tím. Đó
nhng màu sắc đi liền vi Huế. Chính v thế mà ngay c màu của sông cũng mang hồn
Huế.
Qua đây ta thy c hai nhà văn đều mang đến cho chúng ta nhng v đẹp ca hai con
sông y. Qua những u văn đầy tài hoa uyên bác ca Nguyn Tuân ta thấy được mt
v đẹp cùng tr tình của con sông Đà Tây Bắc, và cũng như thế chúng ta cũng biết
thêm những nét đp của con sông Hương qua bút pháp miêu tả tài tình ca Hoàng Ph
Ngọc Tường. Tóm li v đẹp ca nhng con sông y hay chính nhng v đẹp ca
nhng con sông Vit Nam
So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương - Mẫu 5
ớc ta được thiên nhiên ưu ái ban tng cho h thống sông ngòi y đặc. nhng
dòng sông “quê hương, yêu thương" đầy thơ mộng, k v đã trở thành ngun
cm hng bt tận cho các nhà văn, nhà thơ viết lên nhng tác phẩm văn học ngh
thut xut sc. Tiêu biểu tùy bút Người lái đò sông Đà’ của Nguyn Tuân bút
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” ca Hoàng Ph Ngọc ng. Thành công ca hai
tác phm trên chính vic xây dựng hình tượng hai con ng Đà giang Hương
giang. hai con sông này, bên cnh nhng nét khác bit, chúng còn nhng nét
tương đồng. Đây phải chăng sự gp g của hai nhà văn lớn khi cùng miêu t v các
con sông khác nhau trên mảnh đất Vit Nam.
Mặc sông Đà thuộc vùng núi Tây Bắc còn sông Hương thuộc v thành ph Huế
ch riêng ca Huế nhưng chúng vẫn có điểm chung dưới ngòi bút ca Nguyn Tuân
Hoàng Ph Ngọc Tường. Hai tác gi đã nhân hóa dòng sông yêu thương của mình
thành nhng sinh th sng tâm hn thuần túy nhưng lại mang v đẹp cnh quan
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
30
thiên nhiên tươi mới của đất nước. C sông Đà sông Hương đu mang tính cách,
đặc điểm, tâm hồn con người. Vách đá sông Đà thì được so sánh như b phận “yết
hầu” của con người, sông Đà thì mang trong mình tính cách hung bo ca mt k
chuyên đi đòi nợ d dn ác liệt “đòi nợ xuýt bt c người lái đò sông Đà nào tóm
được qua đây”. Đâu chỉ vy, Nguyễn Tuân đã cho thấy thác nước sông Đà giống
như linh hồn một con người cht cha đầy tâm trạng như “oán trách”, “van xin”,
“khiêu khích” “chế nhạo”không d dội như sông Đà nhưng sông Hương
cũng không kém phn mãnh liệt, được như “mt bản trường ca ca rng già”,
“rm r gia bóng cây đại ngàn”, “mãnh liệt qua ghềnh thác”, “cuộn xoáy như cơn lốc
vào đáy vực ẩn”. Sông Hương giống như người “con gái Di-gan phóng khoáng đầy
man di”.
Điểm tương đồng không ch dng li s d di, mnh m, mãnh lit hai con sông
còn cht tr tình thơ mộng. Với sông Đà, hin lên uốn lượn ging mái tóc
của người thiếu n kiu dim Tây Bc tr trung duyên dáng: Con sông Đà như
mt áng tóc tr tình, đu tóc, chân tóc n hin trong mây tri Tây Bc bung n hoa
ban hoa go tháng hai cun cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân” màu c
của sông Đà biến đổi theo mùa, “mùa xuân nước sông Đà xanh màu xanh Ngọc Bích”,
mùa thu nước sông Đà “lừ l chín đỏ như da mặt người bầm đi u bữa”. Đâu chỉ
vy, Nguyn Tuân còn gọi sông Đà với cái tên thân thương “cố nhân”, yêu
thương trân trọng đối với dòng sông đất nước. Cũng giống như sông Đà, sông
Hương mang trong mình chất tr tình bi nhng màu sắc khác nhau nhưng sông
Hương khác sông Đà, màu sc ca biến đổi theo ngay “sớm xanh, trưa vàng, chiều
tím”. Bên cạnh đó, sông Hương cũng đưc nhân hóa vi hình nh ca “người con gái
ng màng chờ người tình mong đợi đánh thức”, mang sắc đẹp “dịu dàng trí
tuệ” vi tâm hồn “tự do trong sáng”. Như vậy, ta th thy được s gp g ca
hai nhà văn khi miêu tả v đẹp ca những dòng sông quê ơng, chúng đều mang
dáng dp ca người con gái đẹp, tr trung, duyên dáng.
Qua đây ta th thấy được tài hoa, uyên bác của hai nhà văn khi miêu t kết hp
nhun nhuyn gia trí tu tr tình, gia ngh lun sc bén với suy đã được tng
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
31
hp t vn kiến thc phong phú v những lĩnh vực triết học, văn hóa, lch s, địa lý…
nhằm đưa ra những ch nghĩa xác đáng nhất, lay động lòng người nht. Thành công
ca vic khc ha hai con sông lớn đó điểm gp g gia hai tác gi xut phát t
tình yêu quê hương đất nước sâu sc ca không riêng Nguyn Tuân hay Hoàng Ph
Ngc Tưng mà là tt c những con người Vit Nam.
Bên cnh những nét tương đồng, sông Đà và sông Hương cũng có những nét đẹp riêng
thuc v chính mình, nét đp ch mi mt ng sông mi có. Với sông Đà,
Nguyễn Tuân đã tập trung bút lc o vic miêu t s hùng vĩ, hung bạo, d dn ca
sóng nước Đà giang. Nhà văn đã s dng nhng th pháp ngh thut, nhng câu t đắt
giá để thi tài vi to hóa. Miêu t cảnh đá bờ sông Đà dng vách thành, Nguyn Tuân
gợi ra độ cao, độ chênh vênh, độ him tr ca đá làm cho cnh tr nên lnh lo, âm u
đến rợn người khiến cho “mặt sông ch y ch lúc đúng ngọ mi mt trời”. Chưa
dng đó, hiểm tr của sông Đà còn thể hin ch “Vách đá thành cht lòng sông
Đà như một cái yết hầu”. Đây s so sánh biu hin một phong cách “ngông”, óc
quan sát tinh tế của nhà văn khi din t s thu hp ca dòng chảy. Chưa thỏa mãn,
Nguyn Tuân còn vn dng c xúc giác để m ni bt s hoang vng, âm u và lnh
lo của sông Đà “đi thuyền trên sông Đà vào mùa vẫn thy lạnh”. Tác giả đã
đem so sánh cái cảm giác y vi cm giác ca một người đứng ngõ nhìn lên mt
ngôi nhà cao tầng sáng điện nhưng tự nhiên tt phụt đèn điện.
Đến quãng mt ghềnh Hát Loóng, sóng sông Đà càng trở nên d di khng khiếp
mang âm hưởng nhanh, gp gáp, dn dập, được to nên t cách ngt nhp khẩn trương,
điệp t ng kết cấu câu văn trùng điệp giúp ta liên tưởng ti nhp chy nhanh, s
chuyn vn ca sóng to gió lớn “nước đá, đá sóng, sóng gió”. Những âm
thanh đó như muốn đe dọa, gây g, nhấn chìm con người, lúc nào cũng “đòi nợ xuýt
bt c người lái đò o tóm được qua đây. Cuối cùng, s hung bo của sông Đà phải
được nhc ti bởi đá sông Đà. Nó như một đội quân d dn, ác lit, nó d đủ mưu ma,
chưc qu, xo quyt, trong cuc chiến đấu với ông lái đò. bày thch trn, phc
kích, d con thuyền vào sâu đ ăn chết con thuyn, din mạo tngang bướng “mặt
hòn nào cũng ngỗ ngưc, cũng nhắn nhúm, méo mó…”.
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
32
Đối vi Nguyn Tuân, sông Đà không chỉ hung bo d tn còn một ngưi bn
tri âm, tri k, ông gi c nhân mang v đẹp chất thơ của Đường thi “Yên hoa
tam nguyệt Dương Châu”, đó còn vẻ đẹp c tích của người khách hi h du
thuyền trên sông Đà. Cảnh đôi bờ sông Đà n tĩnh, lng l, bình lng mang du tích
lch s cha ông đầy c kính, hoang sơ, hoang dại như một “bờ tin sử”. Sông Đà còn
mang v đẹp non tơ, mơn mởn, tràn đầy sc sng qua những động t “như lên”, “nõn
búp”,”ngốn” của nhng bãi bi ven sông. Qu mt bc chấm phá, sinh động làm
nên v đẹp không ch hùng tợn mà cũng đầy chất thơ.
Nếu như khi miêu t sông Đà, bút lực ca Nguyễn Tuân chú ý đến s hung bo, d
di thì Hoàng Ph Ngọc ng li dành hành trình tâm huyết của mình để miêu t
sông Hương đy chất thơ mộng tr tình. Nhưng nói như vậy không nghĩa sông
Hương không mang trong mình sự mãnh lit thượng lưu, vẫn được miêu t
vi v đp hùng tráng, d di. Tác gi đã miêu t sông Hương “mt bản trường ca ca
rng già, rm r giữa bóng cây đại ngàn, mãnh lit qua nhng ghnh thác, cun xoáy
như cơn lốc vào những đáy ẩn. Đó cách mà Hoàng Ph Ngọc ờng đã dùng thủ
pháp điệp cu trúc vi tt c những động t mạnh để to nên s hùng tráng, mnh m
ca con sông gia đại ngàn trường ca khác vi s hung bo, d di của sông Đà.
Ngoài ra, sông Hương thượng ngun tht s dịu dàng đắm say gia nhng dm
dài chói lọi màu đ của hoa đỗ quyên rng. Hơn nữa, Hoàng Ph Ngọc Tường li
mt s liên tưởng hết sc thú v độc đáo khi sông ơng như “cô gái Di-gan
phóng khoáng man dại”. Bằng mt s liên tưởng đó thì sông Hương được như
cô gái thích sng lang thang, yêu t do, ca hát, nhy múa và có v đẹp man di, quyến
rũ. Dòng sông y mang mt v đẹp du dàng trí tu đã trở thành một người m phù
sa ca một vùng văn hóa x s. Trong cm nhn của nhà văn, sông Hương như đng
sáng to cần được gi gìn và bo v. chính là khi ngun ca s bc cu không
gian văn hóa Huế.
Đến với sông ơng ngoi vi thành phố, được với: “người con gái đp nm
ng màng đợi người tình mong đợi đến đánh thức”. giống như một cuc hành
trình tìm tình nhân đích thực: “Sông Hương đã chuyển dòng mt cách liên tc, vòng
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
33
giữa khúc quanh đột ngt, un mình theo những đường cong tht mềm” với li dùng
ngôn t tài hoa lối hành văn uyển chuyn, giàu hình nh tác gi đã din t rt sinh
động hp dn từng đường đi lướt bước của sông ơng mỗi đường đi gắn lin
một địa danh khác nhau x Huế khiến người đọc cm nhận được hành trình
của sông Hương không đơn điệu, nhàm chán ngược lại, điều kiện để phô ra
những đường cong tuyệt của mình. Vi ngôn ng giàu cảm xúc, nhà văn đã khắc
họa dòng sông thơ mộng tr tình, biết làm mới mình, trang điểm cho nh trước
khi vào thành ph và ôm trn thành ph Huế tuyt đẹp và thơ mng.
Để đến khi vào được thành ph thì sông Hương lại khoác cho mình một cái áo: “mang
v đẹp trm mặc” khi chuyển nh ngày đêm qua các lăng tẩm ca các v vua
nép mình bên các gic ng nghìn năm ca vua chúa thi Nguyn. Dòng ng chính
dòng chy bn b qua mỗi năm tháng, kiên trì, ch đợi nhn th thách để đến được
với tình yêu đích thc ca nó. Bng bin pháp nhân hóa so sánh, ta thy sông
Hương vẻ đẹp của gái đang yêu rất tình t, e thn, ngại ngùng kín đáo. S
khác biệt người đọc th thy gia một sông Đà dòng chảy rt nhanh, mnh m
thì sông Hương trong lòng thành ph được như điệu “slow” nghĩa “chậm”.
Hoàng Ph Ngọc Tường đã rất tinh tế khi nhìn ra đặc trưng của sông ơng trong
lòng thành ph và đểm ni bật điều đó tác giả s dng nhiều so sánh và đặc bit nhà
văn đã lấy âm nhạc để miêu t s chy chậm, điệu chy lng lờ. Sông Hương hiện lên
như một người tài n đánh đàn lúc đêm khuya. Mt ln na chúng ta li thy tác gi
lấy người con gái đẹp ra để sông Hương nhưng điều đặc bit Hoàng Ph Ngc
ng li ly góc nhìn ca âm nhạc đ so sánh điều đó, phải chăng lẽ tác gi
mun gii thiu v một văn hoá phi vật th không th thiếu của ngưi Huế “nhã nhạc
cung đình Huế” vàchỉ tuyt vi nhất khi nó được biu din trong thuyn rng chy
dọc con sông Hương tmộng đầy tr tình. Một nét đẹp ch đến Huế bn mi
có th thưng thc điu tuyt vi và riêng biệt như vậy.
V địa lý, nếu sông Đà đổ v hướng bắc thì sông Hương phi chuyển mình để chy v
hướng đông giống vi hầu như tất c các con sông Việt Nam. Nhưng để gii
thích cho điu y, Hoàng Ph Ngọc ờng đã rt tế nh khi nói ng Hương “chuyn
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
34
mình” không l rời xa người tình ca mình (thành ph Huế), một cái đó còn vấn
vương, thm chí ta thy một chút nào đó ca s “lẳng lơ”, kín đáo”… Không chỉ
thun theo thy ch ca dòng chảy, ng Hương chính dòng sông ca âm nhc, ca
thơ ca, của lch s gn lin với văn hóa Huế, vi con ngưi Huế.
Bng nhng giọng văn miêu tả v sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp cn
miêu t dòng sông không gian thời gian khác nhau để phát hin s độc đáo,
mi l dòng sông x s này. T đấy thấy đưc tình yêu b bến đối vi sông
Hương, với x Huế đầy thơ mộng và tr tình Hoàng Ph Ngc Tưng.
T việc so sánh hình ợng sông Đà (Người lái đò sông Đà) với hình ng sông
Hương (Ai đã đặt tên cho dòng sông) hai nhà văn tài hoa uyên bác đã cho thy nhng
nét đặc trưng nổi bt nht hai con sông quê hương đất nước. Giúp cho người đọc
cái nhìn phong phú, đa chiều v v đẹp quê hương. Đng thi cho thấy tài năng am
hiểu văn hóa, nghệ thut cùng tình yêu, nim t hào đối vi dòng sông ca t quc.
So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương - Mẫu 6
Tác phẩm người lái đò sông Đà ca Nguyn Tuân bút đc sc, kết qu ca
chuyến thâm nhp thc tế vùng sông Đà 1958 - 1960 của nhà văn, in trong tp bút
Sông Đà. Cảm hng gn vi mảnh đất con ngưi Tây Bắc đã in đậm trong hình
ảnh người lái đò nghệ sĩ và con sông Đà vừa hùng vĩ vừa nên thơ.
Câu chuyn vượt sông Đà đã được nhà văn kể li bng tt c nim phn khi v sc
mạnh con ngưi chiến thng thiên nhiên, vi tt c kịch tính, cao trào đ tôn vinh
ngh thut chinh phục thác đá sông Đà. Con sông Đà dữ vi thần sông ớng đá bủa
giăng thế trn vây ly chiếc thuyền đơn độc được nhà văn miêu tả bng ngôn ng
phong phú ca tiu thuyết chương hồi như gợi cuc phá vây của mãnh tướng Triu T
Long xông vào trn quân Tào Tháo, bên cạnh đó nhà văn những dòng t chân
dung bng giọng văn rất hóm hnh của riêng mình : “Mặt hòn đá nào trông cũng ng
ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo hơn c cái mặt nước ch này...”. Cuộc đối
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
35
đầu giữa con người trên chiếc thuyền đơn độc với “boongke chìm pháo đài ni”
trong “cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn” có sức hp dẫn đặc bit.
l nhà văn đã hình dung ra không khí ca nhng hi vt truyn thng khi miêu t
các cuộc đấu sức, đấu trí đấu s nhanh nhn giữa người đá nước. Cuộc đấu
miếng, mưu, cuối cùng phn chiến thng thuc v con người, bi l “Ông đã thuộc
quy lut phc kích ca đá nơi ải nước him tr này”. Hình nh bình thường ca
người lao động, vt ln với sóng nước đã được Nguyn Tuân nâng lên ngang hàng
danh tướng "biết mình biết ta trăm trận trăm thắng". Nhưng điu tác gi đậm nét
hơn ông i đò chính cht ngh sĩ toát lên từ công việc đối mt vi hiểm nguy đã
tr thành bình thưng. Ngay sau khonh khc chiến thng sc mnh của thác đá, sóng
d, thì "sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước li thanh bình".
Đây mới chính ông lái đò mang đm nét Nguyễn Tuân. Con ngưi chiến đấu vi
sông Đà dữ cũng chỉ để mưu sinh, "ngày nào cũng giành lấy cái sng t tay nhng
cái thác", nên những con người này cũng yêu mến dòng sông đã cho họ nhng "cá anh
vũ, dầm xanh", nhng hầm hang "túa ra đy tràn ruộng". Sông Đà dữ thì
"din mo và tâm địa ca k thù s một", nhưng khi sông nưc thanh bình, v đẹp nên
thơ gợi cm ca dòng sông li hin v nguyên vn.
Nhà văn đã dành những trang viết thấm đẫm cht tr tình để miêu t v đẹp du dàng
ca dòng sông mang trong lòng nhng huyn s thu khai thiên lập địa ca cha ông.
"Con sông Đà tuôn i tuôn dài như một áng tóc tr tình, đu tóc chân tóc n hin
trong mây tri Tây Bc bung n hoa ban hoa go tháng hai cun cun khói núi
Mèo đốt nương xuân.", "Mùa xuân dòng xanh ngọc bích...", "mùa thu nước sông Đà
l l chín đ như da mt ngưi bầm đi vì rưu ba"...
Đó thời điểm cho u ch Nguyn Tuân lai láng chất thơ ca ngi v đẹp ca dòng
sông, bng cái nhìn tình cm ca một người t nhận sông Đà như mt "c nhân".
Không gian lắng đng trong v đẹp ca "b sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm
bướm sông Đà". Vẻ đẹp ấy như trang nghiêm trong mạch Đường thi c điển, va lng
đọng hoài vng v mt thu Trn Lê, va bâng khuâng cm giác v s sng ny
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
36
lộc đâm chồi : "Thuyn tôi trôi qua một ơng ngô nhú lên mấy ngô non đầu mùa.
tnh không một ng người. C gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn
hươu cúi đầu ngn p c gianh đẫm sương đêm. B sông hoang dại như mt b tin
s. B sông hồn nhiên như một ni nim c tích tuổi xưa".
Nhà văn đã để cho dòng cm xúc dào dt tht lên thành lời đi thoi im lng vi thiên
nhiên, b bãi ven sông, ờng như con ngưi mun hòa vào cùng cnh vật, để chiêm
ngưỡng v đẹp đầy sc cun t của dòng sông. Ngòi bút nhà n đến lúc này mi
tht s tung hoành trong s say sưa khám phá cội ngun, k v lch s dòng ng gn
vi cuc sống con ngưi Tây Bc, những người đã đón nhn nhng tng vt hào
phóng của sông Đà.
Cm xúc t thc ti ca Nguyễn Tuân còn khơi nguồn cho những mơ ước mang tính
d báo v tương lai, biến sc mnh ca dòng sông trái tính trái nết thành ngun thy
điện di dào. ràng, thc ti cuc sng mới đã giúp cho Nguyn Tuân nhng d
cm chính xác, nim tin vng chc vào những con người đang xây dựng mt chế
độ mới, đem lại sinh khí mi cho cuc sng sông Đà.
Với Người lái đò sông Đà này, Nguyễn Tuân đã ghi dấu n không trn ln ca mình
th loi tùy bút, bám sát hin thc, say khám phá nhng nét ấn tượng, nhng v
đẹp tim n t hin thực. Hơn thế na, tác phẩm còn đánh dấu s vng vàng trong
ng tình cm của nhà văn, sự nhy cm tinh tế ca mt tâm hn ngh yêu đt
nước, yêu con người lao động, yêu tin vào cách mạng, vào con đưng dân tộc đang
hướng ti. Tm lòng ấy, tài năng ấy ca Nguyn Tuân thật đáng trân trọng./.
Ai đã đặt tên cho dòng sông? một bút đặc sc, th hin phong cách tài hoa, uyên
bác, giàu chất thơ ca Hoàng Ph Ngc Tường. Bài đã ca ngợi dòng sông Hương
như một biểu tượng ca Huế.
V đẹp dòng sông Hương thưng ngun phóng khoáng man di. V đẹp dòng
sông đưc phát hin rất đa dạng. lúc tr tình êm , hiền hòa như “một thiếu n du
dàng, duyên dáng”; lúc phóng khoáng man dại, rm r mãnh liệt như mt
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
37
“bản trường ca ca rng già”. khi dịu dàng trí tu n“người m phù sa”; có
khi biến ảo “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”; hoặc khi thì vui tươi, khi thì như một
mt h yên tĩnh v.v...Tt c được miêu t bng mt tình cm thiết tha vi Huế
Sc sng mãnh lit, hoang di, dịu dàng, đắm say, như 'một bản trưng ca ca rng
già , rm r giữa bóng cây đại ngàn'. Khi chy qua miền địa hình him tr, sông
Hương mang vẻ đẹp d di: 'mãnh lit qua ghnh thác, cun xoắn như cơn lốc xoáy
vào đáy vc bí ẩn', nhưng cũng lúc lại 'dịu dàng, đắm say gia nhng dm dài chói
lọi màu đỏ của hoa đ quyên rng'.Gia lòng Trường Sơn, sông Hương như một 'cô
gái Di gan, phóng khoáng man di', bi rng già đã hun đúc cho một bản lĩnh
gan d , mt tâm hn t do và trong sáng.Ngh thut: so sánh, tu t, n d nhân hóa.
Sông Hương khi về đến ngoi vi thành ph
Sắc đẹp du dàng , trí tu , người m phù sa ca một vùng văn hóa ,x s', dòng sông
duy nht ch đi qua thành phố Huế. Vi vn hiu biết sâu sc v địa lí, văn hóa, lịch s,
tác gi miêu t dòng sông thật sinh động vi cm nhn mang nhiu khác bit.
Sông Hương như 'người con gái đẹp ng màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa
di (hình ảnh thơ mộng gợi liên tưởng c tích đến nàng công chúa ng trong rng),
Dòng sông hin lên với 'khúc quanh đột ngt, un mình theo những đường cong tht
mềm'.Lưu vực êm ả, thanh bình, vui tươi gia nhng bãi b xanh biếc , nhiu màu sc
trm mc, triết lí. Những lăng tẩm vi 'gic ng nghìn năm của vua chúa đưc phong
kín trong lòng nhng rng thông u tch nim kiêu hãnh âm u ca những lăng tm
lan ta khp c một vùng thượng lưu'.
Vi nhng quan sát tinh tế, ngôn ng giàu hình tượng, so sánh, n d , sông Hương
trong vang Trường Sơn, dòng sông mềm như tm la'. 'Những dãy đồi sng sng
như thành quách, với những đỉnh cao đột khi: Vng Cnh, Tam Thai, Lu Bo',
nhng ngọn đồi đã to ra nhng mng phn quang nhiu màu sc trên nn tri 'sm
xanh, trưa vàng, chiều tím' rt l và đặc trưng như người Hu tng nhn xét.
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
38
S thay đổi tính cách của người con gái sông Hương đưa ta đi t ngạc nhiên này đến
ngc nhiên khác, mt cô gái Di gan,man di và phóng khoáng đã tr nên du dàng, e l,
như 'người con gái đẹp được người nh mong đợi đến đánh thức', 'người m phù sa
ca c một vùng văn hóa xứ s'.
Thoảng đâu đó, h vang vng trong m thc Huế tiếng chuông chùa Thiên
M ngân nga, tiếng gà t xóm làng trung du bát ngát.
So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương - Mẫu 7
Viết v dòng sông, không ai dài hơi độc đáo như Nguyễn Tuân với con sông Đà
hung bo tr tình, thâm him bao dung. Hoàng Ph Ngọc tường cũng góp o
đề tài y mt hình ảnh con sông Hương hiền hòa và man di, du dàng mà cung nhit,
không m phần đặc sc. Trong dòng chy bt tận, người đc nhn thấy sông ơng
sông Đà có những điểm hợp lưu kì thú.
“Độc đáo” là những nét riêng bit, khác l đưc th hiện qua cách nhìn cũng như nghệ
thut miêu t của nhà văn. Hai bài Người lái đò sông Đà” “Ai đã đặt tên cho
dòng sông?” đã xây dựng được những hình ng dòng sông mang nhng nét độc đáo
đầy hp dn, thú v.
Trong đoạn trích “Người lái đò sông Đà”, Nguyn Tuân tập trung tô đậm nét hung bo,
d di của sông Đà, nh dung dòng sông ấy như kẻ thù hiểm độc và hung ác. Trưc
hết, nét hung bo y th thy qua din mạo khác thưng của dòng sông. Đó
cảnh “đá bờ sông dng đứng vách thành” “mt sông ch đúng lúc ng mi có mt
trời”, vách đá chen lòng sông như một cái “yết hầu” hay “có ch con nai con h có th
vt t b bên này sang b bên kia”. Một nét đp thật hùng ca b đá ven sông Đà!
Cùng với đó hình nh của sóng nước trên mt ghềnh Hát lóng“dài hàng cây s,
nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cun cun lung gió gùn ghè sut năm”.
Trong tùy bút “Sông Đà”, Nguyễn Tuân đã biệt tài miêu t gió đây để t gió
ông đã sử dng t ng cùng độc đáo “gùn ghè”. Ta tự hi sao c gi không dùng
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
39
ch“gầm ghè” lại phải “gùn ghè”? Đọc câu n tên ta cảm nhận được cái “gùn
ghè”ấy va mang sc thái “gầm ghè” vừa gợi được thời gian dài đằng đẵng to nên s
ám nh da diết, ám nh v hinh tượng con sông Đà đầy hung bo.
điều đặc bit khiến người đc không th b qua đó những cái hút nước sông Đà
đầy d dội: “Trên sông bỗng nhng cái hút nước, giống như cái giếng tông th
xuống sông để chun b làm móng cầu”. Xen lẫn vào đó có c nhng ấn tượng đáng sợ:
“Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ… Nhiều g rừng đi nghênh
ngang nhng cái giếng y lôi tut xuống… thuyền trng cây chuối ngược
ri vt biến đi”.
Nhà văn cho người đọc thêm một góc nhìn khi đặt mình vào v trí mt nhà quay phim
để thy hết cm giác v những hút nước d di ấy. Con ng Đà hung bạo bi nhng
thác nước d di khiến người ta s hãi khi nghe tiếng nưc t xa ri nhìn thấy khi đến
gn. T xa những âm thanh đc biệt: “Tiếng thác nước nghe nhưoán trách gì, ri
lại như van xin, như khiêu khích”. Khi đến gần “nó rống lên như mt nghìn con
trâu mộng đang lồng ln gia rng vu, rng na n la”.
Âm thanh đưc tái hin hết sc cung n cho thấy rõ “cái ngông” trong bút pháp ngh
thut của nhà văn, trong sở thích khám pnhng cm giác mạnh. Độc đáo hơn khi
sông Đà đưc miêu t vi v đẹp hung bo th hiện qua tâm địa. Đá sông Đà vốn do
thiên tạo nhưng con mắt ngh của Nguyn Tuân, còn biết bày thch thy trn.
Con ng Đà vn s vt tri bỗng thành binh tướng dũng nh, thành loài thủy
quái khng l. Qua s miêu t y của nhà n đã nổi bt lên s tài hoa, tài trí ca
người lái đò. Mỗi lần vượt thác ca ông mi ln ông phi chiến đấu mnh m vi
thn sông, thần đá.
Khác vi Nguyn Tuân, Hoàng Ph Ngọc Tường t chn cho nh lối chơi “độc
bạch”, thiên nhiều v tư duy hướng ni, lắng đọng suy để miêu t hình tượng sông
Hương. Chính thế, sông Hương được đm nét tr tình, thơ mộng, gi cm
n tính, luôn mang ng v ca một người con gái xinh đẹp, mong manh tình yêu
say đm.
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
40
“ở thưng nguồn sông Hương như một gái Di gan phóng khoáng man di…
rừng già đã hun đúc cho bản nh gan d, mt m hn t do phóng khoáng”.
Tác gi đã miêu tả sông Hương thưng ngun vi sc sng mãnh lit, hoang di
nhưng cũng dịu dàng, say đắm. Dòng sông đã được thi bng ngn gió tâm hn dt
dào, nhy cảm, liên ng t do, phong phú. Khi ra khi rng, sông Hương được thay
đổi tính cách “sông như chế ng được bn năng con gái để mang mt v đẹp du dàng
và trí tu, tr thành người m phù sa cho một vùng văn hóa x s”.
Sông ơng đã trở thành nim t hào ca Huế vy khi nhc v thông thưng
người ta hình dung đến gương mặt kinh thành đầy tr tình như Hoàng Phủ Ngc
ờng đã tìm tận v ngun cội để phát hin bn cht ca gái Di gan, s tính
mnh m, bản lĩnh, gan d vững vàng… Đó một phát hiện đấy thú v mt dòng
sông quen thuc. Miêu t sông Hương, nhà văn không nhìn nhận trong thế độc
lập đặt trong mi quan h gn cht ch vi kinh thành Huế. Dòng sông mang
linh hn và cảm xúc như một tình nhân trên hành trình tìm kiếm tình yêu đích thực.
Qua đoạn chảy xuôi tìm đường tr v thành phố, sông ơng đã t qua nhng gii
hn khc nghiệt để chng t tình yêu vi Huế. lng l, duyên dáng qua nhng
khúc chuyển mình đầy mm mại. “Nó kéo một nét thng thực yên tâm”, “nó un mt
cánh cung nh sang cn Hến như một tiếng vân không nói của tình yêu”.
Đã bao đêm sông Hương tình tự bên thành ph thân yêu của mình để rồi đến lúc
phi rời đi lại chng mun chia xa bn rn, quyến luyến. ng ơng gặp li
thành ph Huế góc th trấn Bao Vinh xưa c như để nói mt li th chung thy vi
mảnh đất c đô. Lời th y vang vng khp u vực sông Hương thành ging dân
gian, tm lòng ca người dân Châu Hóa a mãi chung tình với qhương, x s.
Mt cái nhìn ngh tài hoa, đa nh l ch riêng Hoàng Ph Ngọc Tường mi
có đưc!
th thy c hai nha nhà văn đều xut phát t ch ngi ca v đẹp thiên nhiên qua
hình ng dòng sông ni tiếng đã từng ngun cm hng ca ngh thut nói chung
và văn học nói riêng. Đó là lí do hai tác phẩm có tht nhiu nét tương đồng.
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
41
Trưc hết, sông Đà sông Hương đều được các tác gi miêu t như một nhân vt tr
tình tâm hn, tích cách vi nhng đặc trưng riêng biệt. Sông Đà vốn được biết đến
mt con sông d di lm thác nhiu ghnh nhưng i ngòi bút tài hoa, yêu thích
cái đp ca Nguyn Tuân, sông Đà hiện lên như kẻ thù s mt của con người. Đá sông
biết bày thch thy trn chiến đấu với người lái đò, biết s dụng binh pháp, mưu c
để lt đ nhng chiếc thuyền. Có khi sông Đà li được nhìn như ngưi con gái vi mái
tóc dài duyên dáng, yêu kiu.
Cùng với đó, sông Hương được Hoàng Ph Ngọc Tường khc họa như một người con
gái, người m phù sa, ngưi tình vi Huế. Sông ơng cùng với dòng chy ca
như những nét tâm trng không nói nên li trong tình yêu của ngưi con gái. Chính
vậy mà người đọc mỗi trang văn miêu tả thiên nhiên nhưng ta vn thy thấm đượm
hồn người sâu sc.
Không ch vy, c hai dòng sông đều được nhìn nhận, đánh giá hai phương diện đối
lp hung bo tr tình đ thy chúng nhng sinh th thng nht. Bên cnh v đẹp
hùng vĩ, dữ dội trước đó, sông Đà cũng mang những nét thơ mộng, tr tình đầy mi l.
Nhìn t trên cao xuống “con sông tuôn dài, tuôn dài như mt áng tóc tr tình, đầu tóc
chân tóc n hin trong mây tri Tây Bc bung n hoa ban hoa go tháng hai cun
cuộn khói Mèo đốt nương xuân”. Mảnh đt uốn lượn nơi đầu ngun Tây Bắc đã
gợi liên tưởng đến dáng hình ngưi thiếu n với mái tóc dài thướt tha. Màu nưc sông
Đà thay đổi theo mùa: “mùa xuân dòng xanh màu ngọc bích, mùa thu nước sông Đà lừ
l chín đ như da mặt người bầm đi vì rượu ba”.
Nhà văn đã cảm nhận sông Đà bằng c niềm yêu nước t hào dân tc. Cảnh đẹp
bên b sông trm mc c kính. Vi v đẹp thơ mộng, tr tình y, Nguyễn Tuân đã
khéo léo đặt cho con sông một cái tên đầy ý v “tình nhân chưa quen biết”.
Cũng như sông Đà, ng ơng trước khi mang v đẹp tr nh, lãng mạn, đã
cùng d di phía thưng ngun. Bt ngun t Trường Sơn hùng , nơi rừng già,
vc sâu, ghnh thác, cây ci rm rạp,… bởi vy giống như bao dòng sông khác chảy
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
42
qua đại ngàn, sông Hương có lưu tốc rt mnh. Tác gi cho rằng “nếu ch ngm khuôn
mt kinh thành s không hiu bn chất sông Hương, phần tâm hn sâu thm ca
bởi dòng sông đã tự giấu mình, đóng kín ca rừng…”. Nơi đu ngun ca dòng
chy, dòng sông ấy đã từng mt bản trưng ca ca rừng già trước khi v đến vùng
châu th êm đềm. Vy mi thấy được dù độc đáo nhưng sông Đà,ng Hương vn
điểm hợp lưu.
Một đặc điểm bit không th không k đến đó ngòi bút miêu t tài hoa, uyên bác
của hai nhà văn khi viết v hai dòng sông. C hai đều được miêu t trên phương diện
văn hóa, thẩm mĩ. Sông Đà nơi hi t hai nét đẹp tiêu biểu, đặc trưng của thiên
nhiên Tây Bc vừa hùng vĩ, dữ di va tr nh, nên thơ.
Còn sông Hương, đó còn dòng sông ca âm nhc, dòng sông ca thi ca, lch s gn
lin vi nhng nét đặc sc v văn hóa, vẻ đẹp của người dân x Huế. Người đọc còn
được thưởng thức chiêm ngưỡng cái đẹp trên nhiều lĩnh vực qua ngòi bút đầy uyên
bác của nhà văn. Từng khía cạnh được miêu t đều cho thy vn tri thc phong phú,
sâu sc. Tt c làm nên v đẹp ấn tượng đặc sc cho mi tác phm.
Vậy do đâu c hai hình tượng dòng sông li những điểm chung nét riêng
độc đáo y? Phải chăng bởi tấm lòng say mê trước v đẹp đất nước, t hào trước thng
cảnh non sông mà hai nhà văn đã thy hai dòng sông đó nhiều điểm chung như vy?
Cùng với đó, tính sáng to ca mỗi nhà văn đã khiến cho hai tác phm dù chung
đề tài nhưng vẫn mang những nét độc đáo hấp dn riêng không th trn ln. Mt ngh
lãng tử ham dịch, ưa cảm giác mnh; mt triết nhân lch lãm. H như vắt kit c
“bầu máu nóng”, đem cả tâm hồn tài năng của mình để viết nên những áng văn
chương còn mãi với muôn đời.
Cùng đổ ra bin lớn, cùng hòa nước vào đại dương mênh mông nhưng chc chn
người đọc s không th nào quên những hành trình riêng ng Đà, sông Hương đã
chy trong thế giới văn học. Chính những điểm gp g y càng làm ni bt nét riêng
độc đáo ca mỗi hình ng, mỗi nhà văn; nét độc đáo làm nên sức sng linh hn
cho tác phm.
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
43
So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương - Mẫu 8
H luôn tìm thấy trên quê hương những vùng núi non tuyệt đẹp, nhng di sn thiên
nhiên đáng đ con người trân trng, luyến lưu. sông nước chính mt trong
nhng cảnh thiên nhiên tươi đp y, dòng sông với dòng nước chy, vi lch s hình
thành cũng như những đặc điểm độc đáo về địa đã khơi gợi trong lòng các nhà văn
nhng cm xúc dt dào nht khiến h phi cm bút và sáng to ngh thuật. “Người lái
đò Sông Đà” Nguyn Tuân “Ai đã đặt n cho dòng sông?” Hoàng Ph Ngc
ờng được ra đời t chính s thôi thúc trước cái đẹp của các nhà văn. Tuy đưc sáng
tác nhng khong thời gian khác nhau nhưng c hai tác phẩm đều tái hin thành
công v đẹp tr tình, đm thm ca những dòng sông quê hương.
Viết v đề tài sông ớc đã nhiều bài thơ, bài văn rất thành công. Ta đã đưc
chiêm ngưỡng mt dòng sông mênh mông, hoang vng, bun man mác thấm đượm
ni nh nhà trong Tràng giang” của Huy Cn hay mt khung cảnh đìu hiu, cách biệt
của thiên nhiên ng c Kinh Bắc trong bài thơ “Bên kia sông Đuống” của Hoàng
Cm. Nếu những bài thơ trên chỉ điều kin, ch cái c để các nhà thơ bày tỏ lòng
mình thì đến với “Người lái đò sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” ngưi đc
mi cm nhận được nét v mt tác phm viết v dòng sông thc sự. Dưới ngòi bút
của các nhà văn hình ảnh dòng sông “độc bắc lưu” và hình nh dòng sông ca x Huế
mộng mơ hiện lên mang nhiều nét chung độc đáo.
C hai nhà văn đều khc họa hình tưng dòng sông vi v đẹp, dáng v phong phú, đa
dng nhiu khong thi gian, không gian,với điểm nhìn khác nhau. Dòng sông Đà
trước tiên được Nguyn Tuân lúc nhìn ngắm như một ngưi xa l, lúc lại như
mt c nhân thân thuc; khi ngắm nhìn sông Đà từ trên cao, khi li tiến đến cn
cảnh để nhn ra hơn vẻ đẹp ca nó. V thời gian, sông Đà được nhà văn chiêm
ngưỡng c bn mùa: xuân, hạ, thu, đông- mi mùa lại đem đến cho tác gi nhng
xúc cm, ấn tượng riêng. Qua đó nhà văn muốn đưa đến cho người đọc mt cái nhìn
đa dạng, toàn din v v đẹp của con ng yêu thương. Với dòng sông Hương, Hoàng
Ph Ngọc Tường cũng thể hin thành công v đẹp hoàn chnh v nhiu góc đ ca nó.
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
44
Nhà văn đã ghi lại được v đẹp phong phú của sông Hương lúc thượng lưu, ngoi
vi, gia lòng thành ph Huế. như vậy dường như vẫn chưa đ, ông còn mang
đến cho người đọc mt cái nhìn đầy đ n v sông Hương qua vẻ đẹp trong lch s,
cuộc đời thi ca. th nói, c hai nhà văn đã tái hiện thật độc đáo đa dạng v
đẹp ca dòng sông gn bó tha thiết vi mình qua nhiều phương din khác nhau. Chính
điều đó đã tạo nên sc hp dn, s lôi cuốn cho người đọc, để li trong h nhiu n
ợng đậm nét.
Để có đưc tác phẩm hay như vậy, để làm ni bật đưc v đẹp tr tình của hình tượng
dòng sông đó, tất c đều phi tri qua ngòi bút tài hoa, uyên bác của các nhà văn.
mỗi nhà văn lại cách diễn đạt cm nhn riêng, song h li bt gặp, đồng điệu
tâm hn trong s kh năng quan sát tinh tế thông qua nhng liên tưởng, so sánh đầy
tính to hình, biu cm. V đẹp của dòng sông cũng thế càng đậm nét hơn, n
ợng hơn. Cả hai con sông đều được như những ngưi con gái tr trung mang
trong mình nhng v đẹp trong sáng, tinh khôi Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như
mt áng c tr tình; đu tóc, chân tóc n hin trong y tri Tây Bc bung n hoa
ban hoa gạo tháng hai; “người gái đp nm ng màng giữa cánh đồng Châu Hóa
đầy hoa di”… Bằng vn hiu biết phong phú, bng s liên tưởng, tưởng tượng độc
đáo các nhà văn đã vẽ lên bc tranh thiên nhiên miền sông nước vi v đẹp tr tình
đằm thm to nên ấn tưng mnh m trong tâm hồn người đc đng thi làm sng dy
trong h tình cm yêu thương, niềm t hào vi v đp của quê hương, x s, ca T
quc.
Bên cnh những nét chung độc đáo, vẻ đẹp tr tình ca hai con sông còn mang nhng
nét riêng vô cùng đặc sắc. Đầu tiên là v đẹp của dòng sông Đà. Con Sông Đà hùng vĩ
dài trên năm trăm cây số , nơi thượng ngun mang mt v đẹp hào hùng thách
thc, vậy vượt qua đoạn thượng ngun dòng sông hoàn toàn mang b mt khác:
thơ mộng, tr tình, thanh bình, yên ; ging như một thiếu n xinh đẹp trút b
cái v “đỏng đảnh” để tr v vi v đẹp du dàng lãng mn ca mình- mt nét tính
khác của Sông Đà được Nguyễn Tuân dùng ngòi bút tài hoa để miêu t mang đậm
cht ch nh. Và cũng giống như con Sông Đà khi hung bạo, được con ngưi luôn
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
45
khát khao tìm kiếm cái đẹp kia miêu t nhiu góc độ. Lúc thì nhà văn nhìn con sông
t trên tàu bay, t trên cao, lúc lại nhìn qua đám mây mùa xuân, khi nhìn qua đám
mây mùa thu, khi tác gi cm nhn dòng sông bng ni nh ca c nhân, gp thì
vui mng, xa thì nh nhung. Cũng khi bằng đôi mắt lch s, ca hi c, ca quá
kh, điểm nhìn, con Sông Đà lại mt v đẹp khác nhau. Khát khao tìm đến
mt cái v đẹp mới hoàn mĩ cùng bn tính ca mt ngưi ngh luôn mong muốn tìm
kiếm s mi l độc đáo đã khiến cho dòng Sông Đà trở nên sinh động đóng đinh”
vào trong ng người đọc. Con sông đầy ghnh thác tung bt trng xóa nhìn t trên
xung ngoằn ngoèo như mt cái dây thng. Ri lúc nó li ging như một thiếu n
l nói đúng hơn một tiên n giáng trn khiến cho người ta phi mn:
Sông Đà tuôn dài tuôn dài như mt áng tóc tr tình, đầu tóc, chân tóc n hin trong
mây tri Tây Bc bung n hoa ban hoa go tháng hai cun cun khói núi Mèo
đốt nương xuân”.
Cũng giống như rất nhiu những câu văn sau đó nữa, câu văn ngân vang lên như mt
bài thơ, dòng sông gi đây trở nên tht hiền lành, như một nét v đẹp điểm cho
bc tranh ca núi rng Tây Bc. Và v đẹp của Sông Đà không bao gi nhàm chán.
mi thời điểm khác nhau ngưi ta li thấy ng Đà trong một dáng v, hình hài khác
nhau: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích ch ớc Sông Đà không xanh màu xanh canh
hến của Sông m Sông Lô. Mùa thu ớc sông Đà lừ l chín đỏ như da mặt mt
người bầm đi u ba, l l i u đỏ gin d một người bt mãn, bc bi
mỗi độ thu về…” Dường như ở con sông Đà không có chỗ cho những cái sơ sài, tất c
đều phi là tuyt đnh.
Không gian lắng đọng trong v đẹp của “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chun chuồn bươm
bướm sông Đà”. Nguyễn Tuân đã gi lên v đẹp của sông Đà bng hai t “gi cảm”.
qu thc ,v đẹp thơ mộng ca dòng sông khiến cho người ngon cnh gp li
cảm giác “đằm đằm m ấm”, gợi biết bao thi v. Trong v đẹp của Sông Đà, họ phát
hiện ra đẹp như một bức tranh đường thi v cảnh “Yêu hoa tam nguyệt ơng
Châu “của Bch. V đẹp như trang nghiêm trong mạch c Đưng thi, va lng
đọng v mt thi Lí, Trn, Lê va bâng khuâng cm giác v s sống đâm chồi ny lc:
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
46
“Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông đây lặng tờ. Hình như từ thời đời
Trần đời Lê, quãng sông này cũng lng t đến thế thôi . Thuyn tôi trôi qua mt
nương ngô nhú lên mấy ngô non đầu a. tnh không một bóng người. C
gianh đồi núi đang ra nhưng nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngn búp c gianh đẫm
sương đêm. Bờ sông hoang dại như một b tin s. B sông hn nhiên như một ni
nim c tích tuổi xưa”. Vừa vượt qua ghnh thác Sông Đà, ai nghĩ Sông Đà limt
quãng sông lng t đến vy ? y thế điều đó lại đang hiện hữu. Đến quãng ng
này, Sông Đà như một dòng sông vt qua thời gian, như mt chng nhân im lặng đang
âm thầm đóng góp vẻ đẹp của mình cho đất trời. Nhà văn đã để cho dòng cm xúc dào
dt tht lên thành lời đi thoi vi thiên nhiên,b bãi ven sông. ờng như con ngưi
mun hoà mình cùng cnh vật để chiêm ngưng v đẹp đầy sc cun hút ca dòng
sông. B sông lúc này như biến thành mt b c tích. Giữa con người thiên nhiên
có mt mi chan hoà, giao cảm đồng điệu tuyt vời: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu
nhung khi áng c ơng ,chăm chăm nhìn tôi l l trôi trên một mũi đò. Hươu vnh
tai, nhìn tôi không chp mắt như hỏi tôi bng cái nói riêng ca con vật lành: “Hỡi
ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thy mt tiếng còi sương?”. Đàn
dm xanh quy vt lên mt sông ,bng trắng như bạc rơi thoi. Tiếngđập nước sông
đuổi mất đàn hươu vụt biến”. Cuộc đối thoi tưởng tượng của nhà văn khiến cho thiên
nhiên hin hình vi tt c v hoang sơ của nó, dường như nằm ngoài nhng biến động,
âm thanh ca cuc sống con người. l nơi đây chỉ thiên nhiên làm ch v đẹp
của chính mình con người ch đóng vai trò một “ông khách” thưởng ngon cái
đẹp. Giữa con ngưi thiên nhiên có mt mi quan h hòa hp, thân thin. Mi
chuyển động dường như đu c gắng để không làm ảnh ởng đến cái dòng chảy tĩnh
lặng như thời tin s y. Quá kh hin tại đan xen khẳng định v đẹp bt biến theo
thi gian.
Ngòi bút ngôn ng ca Nguyễn Tuân tràn đầy âu yếm nâng niu. Mi câu ch
đều quyn cht tình yêu vi con sông th hiện sinh đng qua bin pháp nhân hóa. Màu
sc hình nh hiện lên đẹp như một bức tranh. Nhà văn đã khiến cho bc tranh y
mang mt v đẹp hoàn hảo, độc đáo đầy ấn tượng. Có dòng sông, có nưc sông, có
cnh vt hai bên b sông nhưng đó phải con sông như một áng tóc tr tình, b sông
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
47
như một b tin s, nmt ni nim c ch ngày xưa. Sông Đà đẹp ! đó điều
không th ph nhận. Nhưng với Nguyn Tuân dòng sông mang mt v đẹp hoàn mĩ.
Nó không ch đơn gin là mt dòng sông chy tràn qua núi rng Tây Bc mà tr thành
mt sinh th sống động, mt linh hn tinh tế nhy cảm. Dòng sông Đà hùng vĩ,
him tr k thù, là thách thc, mt k “hng năm đời đời kiếp kiếp làm mình làm
my với con người” ; vượt qua đoạn thượng nguồn đã trở thành mt c nhân.
khi trước cảnh: “Dải Sông Đà bọt nước lênh đênh- Bao nhiêu cnh bấy nhiêu tình”
Sông Đà trở thành “người tình nhân chưa quen biết”… C thế, bng ngòi bút tài hoa
ca mình, Nguyn Tuân dn dắt người đọc chiếm lĩnh vẻ đẹp ca con sông bng tt c
nim say mê, nh yêu với sông núi, giang san. Nhà văn đã hát lên nhng li ngi ca
say sưa về v đẹp tr tình tuyt vi của Sông Đà như mt khúc ca hùng tráng, ngp
tràn yêu thương đi vi một vùng thiên nhiên tươi đẹp ca đt nưc.
Đến vi dòng sông ca x Huế thơ mộng, như một “hướng dn viên du lịch” tài năng
Hoàng Ph Ngọc Tường đã đem đến cho người đọc mt cái nhìn cùng toàn din
nhưng không kém phần hp dn v v đẹp tr tình của sông Hương. thưng ngun
sông Hương mang vẻ đẹp huyn bí, chng phi ngẫu nhiên nhà văn li gi dòng sông
như một “bản trường ca ca rừng già”. i khơi ngun ca dòng chy, gn lin vi
đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, con sông toát lên vẻ đẹp ca mt sc sng mãnh lit,
va hùng vĩ, va tr tình như một bản trưng ca bt tn ca thiên nhiên.
Tại nơi rừng đại ngàn sông Hương “như mt cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”
đây một liên tưởng thú v độc đáo. Với hình ảnh so sánh này, nhà văn đã khắc
vào tâm trí người đọc mt ấn tượng mnh m v v đẹp hoang dại nhưng cũng rt tình
t ca con sông. Không nhng thế tác gi n nhân hóa dòng sông khiến hin lên
như một con người tính, tâm hồn “rừng già đã hun đúc cho mt bản lĩnh gan
d, mt tâm hn t do trong sáng”. Ra khỏi rừng già, sông Hương tr thành mt
“ngưi m phù sa” của một vùng văn hóa xứ s. không ch giúp người đọc
thêm mt góc nhìn, mt s hiu biết v v đẹp hùng vĩ, man dại, đầy chất thơ của
sông Hương còn mang đến mt cái nhìn sâu sắc hơn muốn ghi công: sông Hương
như một đấng sáng to đã góp phần to nên, gìn gi bo tồn văn hóa của mt vùng
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
48
thiên nhiên, x sở. Sông Hương chính mt khi ngun, mt s bắt đầu ca mt
không gian văn hóa- văn hóa Huế.
Khi ngoi vi thành ph Huế nhà văn đã cảm nhận “sông Hương như một người gái
đẹp nm ng màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” được người tình mong
đợi đến đánh thức. T đây thủy trình ca con sông khi nó bắt đu v xuôi tựa như một
cuc tìm kiếm có ý thc trong mt câu chuyn tình yêu lãng mn, nhum màu c tích.
Dòng sông lúc này mang mt dáng vóc mới đy khát khao lãng mạn “ sông Hương
đã chuyển dòng mt cách liên tc, vòng giữa khúc quanh đột ngt, un mình theo
những đường cong tht mềm”. Hành trình đến với “người tình mong đợi” của “người
gái đẹp” khá gian truân nhiu th thách khi phải vượt qua mt loạt chướng ngi
vt :đin Hòn Chén, vp Ngc Trản, đất bãi Nguyt Biều, Lương Quán… nhưng chính
trong quá trình y lại hội khoe tt c v đẹp ca mình- v đẹp gi cm vi
những đưng cong tuyệt mĩ. Hoàng Phủ Ngc Tường còn thấy được dòng sông này
mt v đẹp khác na sâu lắng hơn, ẩn hơn đó vẻ trm mặc như triết , như cổ
thi của sông Hương đi giữa thiên nhiên. ng Hương cũng chuyển mình ngày đêm
bên những lăng tẩm thành quách ca vua chúa thi Nguyn, con sông hin hòa
ngoi vi thành ph Huế như đang nép mình bên giấc ng nghìn m của nhng vua
chúa phong kín trong lòng.
Đến khi sông Hương đổ vào thành ph tương lai của nó, đã kéo một nét thng
thực yên tâm theo ng tây nam-đông bắc…, đã thấy chiếc cu trng ca thành
ph in ngn trên nn tri, nh nhn như vành trăng non”. Nvăn đã dành cho sông
Hương một tình cm trìu mến, thân thương. Có như vy, ông mới liên tưng trng thái
sông Hương uốn một cánh cũng rất nh sang cn Hến như một tiếng “vâng” không nói
ra của tình yêu. Đôi mt sâu sc của nhà văn đã nhìn ra mi quan h bin chng gia
dòng sông Hương mm mi với con người x Huế. Sông Hương dịu dàng, duyên dáng
như đã góp phần hình thành nên tính cách nết na, ý nh của ngưi con gái c đô.Với
một trình đ văn hoá uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh vẻ đẹp ca sông
Hương với nhiu dòng sông ni tiếng thế giới như sông Xen của Pari, sông Đa-nuýp
ca Bu-đa-pét, sông Nê-va của Nga,… Từ đó ông đã tôn vinh v đẹp độc đáo của
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
49
dòng sông Hương vào buổi đêm về, “vẫn lp lòe trong đêm sương, những ánh la
thuyn chài ca mt linh hồn xưa cũ không mt thành ph hiện đại nào còn
nhìn thấy được”. Nhà văn quý điu chy lng l của sông Hương qua thành Huế. Ông
cho rằng “Đây là điệu slow tình cm dành riêng cho Huế, th cm nhận đưc bng
th giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bng bnh vào những đêm hội rm tháng by…
chao nh trên mt nước như những vấn vương của mt ni lòng.”
th nói rng Hoàng Ph Ngọc Tường chính một nhà văn hoá Huế thc s, ông
không ch nhìn sông Hương trôi trong hin ti, ngày ngày mang phù sa ngun
nước ngt trao tặng cho những cánh đồng Châu Hóa, cho cuc sống người dân
x Huế; ông n nhìn sông Hương như khởi ngun cho nhng giá tr tinh thn
lch sử. Sông Hương trong quá khứ qua các triều đại phong kiến vàng son, đã từng
mang cái tên Linh giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh lit bo v biên gii
phía nam T quốc nước Đại Việt. đã từng v vang soi bóng kinh thành Phú Xuân
ca anh hùng Nguyn Hu, rồi nó đi suốt qua hai cuc kháng chiến chng Pháp và M
góp phn làm nên nhng chiến công ly lng vang di c thế giới như lời đại ng
Nguyên Giáp đã phát biểu: “Lịch s Đảng đã ghi bằng nét son tên ca thành ph
Huế, thành ph tuy nh nhưng đã cống hiến rt xứng đáng cho Tổ quc”.
T hin thc kiêu hùng ca Huế, mà Hoàng Ph Ngọc Tường cho rằng: “Sông Hương
dòng sông ca thi gian ngân vang, ca s thi viết dưới màu c xanh biếc”. Mặt
khác, sông Hương cũng là cội ngun ca thi ca ngh thut. Có biết bao văn nhân, thi
đã từng rung động với dòng sông Hương như Nguyễn Du, Cao Quát, Tản Đà, Tố
Hữu. Nhà văn đã tin rằng “có một dòng sông thi ca v sông Hương tôi hy vọng đã
nhn xét mt cách công bng v khi nói rng dòng sông y không bao gi lp li
mình trong cm hng ca các ngh sĩ”. Cao Quát đã từng nhìn sông Hương
tht lên rằng: “Trường giang như kiếm lập thanh thiên”.Thu Bồn nhìn dòng nước lng
l của sông Hương mà bâng khuâng
“Con sông dùng dằng con sông không chy
Sông chy vào lòng nên Huế rất sâu”
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
50
vi Nguyn Trng Tạo, Hương Giang lãng đãng một bu khí quyn huyn thoi
thi ca giúp nhà thơ thăng hoa nhng vần thơ mê đắm:
“Con sông đám cưới Huyn Trân
B quên di la phù vân trên ngun
Hèn chi thơm tho ni bun
Nim riêng nhuộm tím hoàng hôn đến gi
Con sông na thc nửa mơ
Na mong Lí Bch, na ch Khuất Nguyên”
Qua nhng trang tài hoa ca Hoàng Ph Ngọc Tường sông ơng hiện ra vi
nhng v đp du dàng, tinh tế, góp phn làm cho Huế tr nên mt bức tranh sơn thu
hữu tình. Hơn thế, sông Hương còn dòng sông lch s, văn hoá, thơ ca, nghệ thut.
Nó đã là mt phần trong đời sng tâm linh của người Huế trm mc, sâu sc.
Cùng v đẹp tr tình, cùng được th hiện qua ngòi bút tài hoa, uyên bác nhưng
sông Đà, Nguyễn Tuân ch yếu th hin v đp hoang di ca thiên nhiên nhm tha
mãn thú ham dịch, còn sông Hương li tp trung tái hin v đẹp văn hóa giàu chất
tr tình của ng Hương giang. Sông Đà đưc miêu t t góc nhìn địa n sông
Hương lại được nhìn trên phương diện văn a, lịch s.Tt c điều đó đã to nên mt
ấn tượng độc đáo riêng của mi tác gi trong tâm hn bạn đọc; đồng thời mang đến
cho h mt cái nhìn mi mẻ, đa dạng v v đẹp ca thiên nhiên T quc.
Qua hai tác phẩm “Người lái đò Sông Đà”- Nguyễn Tuân “Ai đã đt tên cho dòng
sông?”- Hoàng Ph Ngọc Tường, ta th cm nhn tht nét v đẹp tr tình đầy
thơ mộng, hp dn của hai con sông quê hương. không chỉ mang nét đp ca thiên
nhiên còn mang nhiu giá tr văn hóa, địa lý, lch s độc đáo. Qua đó thể hin
v đẹp đa dạng, phong phú ca cnh sắc quê hương, bộc l tình yêu thiết tha, gn
vi đt Vit của các nhà văn.
So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương - Mẫu 9
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
51
T xưa đến nay thiên nhiên luôn là mt ngun cm hng vô tn với các nhà thơ, nhà
văn làm đề tài sáng tác. Nếu như những thi nhân, văn nhân trung đại hưng tâm hn
mình vi mây, hoa, tuyết, nguyt, cm, kì, thi, tu- nhng thú vui tao nhã đời thì
nhng tác gi hiện đại li hưng ngòi bút ca mình v cnh sc thiên nhiên ca đt
nước, của con người trong thời đại đi mi.
H luôn tìm thấy trên quê hương có những vùng núi non tuyt đp, nhng di sn thiên
nhiên đáng để con ngưi trân trng, luyến lưu. Và sông nưc chính là mt trong
nhng cảnh thiên nhiên tươi đẹp y, dòng sông với dòng nước chy, vi lch s hình
thành cũng như nhng đặc đim đc đáo v địa lý đã khơi gợi trong lòng các nhà văn
nhng cm xúc dt dào nht khiến h phi cm bút và sáng to ngh thut. “Ngưi lái
đò Sông Đà” –Nguyễn Tuân và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” Hoàng Ph Ngc
ờng được ra đi t chính s thôi thúc trước cái đẹp của các nhà văn. Tuy được sáng
tác nhng khong thi gian khác nhau nhưng c hai tác phẩm đều tái hin thành
công v đẹp tr tình, đm thm ca những dòng sông quê hương.
Viết v đề tài sông nưc đã có nhiều bài thơ, bài văn rất thành công. Ta đã được
chiêm ngưng mt dòng sông mênh mông, hoang vng, bun man mác thm đưm
ni nh nhà trong “ Tràng giang” của Huy Cn hay mt khung cảnh đìu hiu, cách biệt
ca thiên nhiên sông nưc Kinh Bắc trong bài thơ “Bên kia sông Đuống” của Hoàng
Cm. Nếu những bài thơ trên chỉ là điều kin, ch là cái c để các nhà thơ bày t lòng
mình thì đến với “Ngưi lái đò sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” người đọc
mi cm nhận được rõ nét v mt tác phm viết v dòng sông thc sự. Dưi ngòi bút
ca các nhà văn hình nh dòng sông “độc bắc lưu” và hình ảnh dòng sông ca x Huế
mộng mơ hiện lên mang nhiều nét chung độc đáo.
C hai nhà văn đều khc ha hình tưng dòng sông vi v đẹp, dáng v phong phú, đa
dng nhiu khong thi gian, không gian,với điểm nhìn khác nhau. Dòng sông Đà
trưc tiên đưc Nguyn Tuân có lúc nhìn ngắm như một ngưi xa l, có lúc lại như
mt c nhân thân thuc; có khi ngắm nhìn sông Đà từ trên cao , khi li tiến đến cn
cảnh để nhận ra rõ hơn vẻ đẹp ca nó. V thời gian, sông Đà được nhà văn chiêm
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
52
ngưỡng c bn mùa: xuân, hạ, thu, đông- mi mùa lại đem đến cho tác gi nhng
xúc cm, ấn tượng riêng. Qua đó nhà văn muốn đưa đến cho ngưi đc mt cái nhìn
đa dạng, toàn din v v đẹp của con sông yêu thương. Với dòng sông Hương , Hoàng
Ph Ngọc Tường cũng thể hin thành công v đẹp hoàn chnh v nhiều góc độ ca nó.
Nhà văn đã ghi lại đưc v đẹp phong phú ca sông Hương lúc thượng lưu, ở ngoi
vi, gia lòng thành ph Huế. Và như vậy dường như vẫn chưa đủ, ông còn mang
đến cho người đọc một cái nhìn đầy đủ hơn về sông Hương qua vẻ đẹp trong lch s,
cuc đi và thi ca. Có th nói, c hai nhà văn đã tái hiện tht độc đáo và đa dạng v
đẹp ca dòng sông gn bó tha thiết vi mình qua nhiều phương din khác nhau. Chính
điều đó đã tạo nên sc hp dn, s lôi cuốn cho người đọc, để li trong h nhiu n
ợng đậm nét.
Để có đưc tác phẩm hay như vậy, để làm ni bt đưc v đẹp tr tình ca hình tưng
dòng sông đó, tất c đều phi tri qua ngòi bút tài hoa, uyên bác của các nhà văn.
mi nhà văn li có cách diễn đạt và cm nhn riêng, song h li bt gp, đồng điệu
tâm hn trong s kh năng quan sát tinh tế thông qua những liên tưởng, so sánh đầy
tính to hình, biu cm. V đẹp của dòng sông cũng vì thế mà càng đậm nét hơn, n
ợng hơn. Cả hai con sông đều được ví như những người con gái tr trung mang
trong mình nhng v đẹp trong sáng, tinh khôi “ Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như
mt áng tóc tr tình; đu tóc, chân tóc n hin trong mây tri Tây Bc bung n hoa
ban hoa gạo tháng hai” ; “người gái đẹp nm ng mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa
đầy hoa dại”… Bằng vn hiu biết phong phú, bng s liên tưng, tưởng tượng độc
đáo các nhà văn đã vẽ lên bc tranh thiên nhiên miền sông nước vi v đẹp tr tình
đằm thm to nên n tượng mnh m trong tâm hồn người đọc đng thi làm sng dy
trong h tình cảm yêu thương, niềm t hào vi v đẹp của quê hương, xứ s, ca T
quc.
Bên cnh những nét chung độc đáo, vẻ đẹp tr tình ca hai con sông còn mang nhng
nét riêng vô cùng đặc sắc. Đầu tiên là v đẹp của dòng sông Đà. Con Sông Đà hùng vĩ
dài trên năm trăm cây số , nơi thượng ngun mang mt v đẹp hào hùng thách
thc, vậy vượt qua đoạn thượng ngun dòng sông hoàn toàn mang b mt khác:
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
53
thơ mộng, tr tình, thanh bình, yên ; ging như một thiếu n xinh đẹp trút b
cái v “đỏng đảnh” để tr v vi v đẹp du dàng lãng mn ca mình- mt nét tính
khác của Sông Đà được Nguyễn Tuân dùng ngòi bút tài hoa để miêu t mang đậm
cht ch nh. Và cũng giống như con Sông Đà khi hung bạo, được con ngưi luôn
khát khao tìm kiếm cái đẹp kia miêu t nhiu góc độ. Lúc thì nhà văn nhìn con sông
t trên tàu bay, t trên cao, lúc lại nhìn qua đám mây mùa xuân, khi nhìn qua đám
mây mùa thu, khi tác gi cm nhn dòng sông bng ni nh ca c nhân, gp thì
vui mng, xa thì nh nhung. Cũng khi bằng đôi mắt lch s, ca hi c, ca quá
kh, điểm nhìn, con Sông Đà lại mt v đẹp khác nhau. Khát khao tìm đến
mt cái v đẹp mới hoàn mĩ cùng bn tính ca mt ngưi ngh luôn mong muốn tìm
kiếm s mi l độc đáo đã khiến cho dòng Sông Đà trở nên sinh động đóng đinh”
vào trong ng người đọc. Con sông đầy ghnh thác tung bt trng xóa nhìn t trên
xung ngoằn ngoèo như mt cái dây thng. Ri lúc nó li ging như một thiếu n
l nói đúng hơn một tiên n giáng trn khiến cho người ta phi mn:
Sông Đà tuôn dài tuôn dài như mt áng tóc tr tình, đầu tóc, chân tóc n hin trong
mây tri Tây Bc bung n hoa ban hoa go tháng hai cun cun khói núi Mèo
đốt nương xuân”.
Cũng giống như rất nhiu những câu văn sau đó nữa, câu văn ngân vang lên như mt
bài thơ, dòng sông gi đây trở nên tht hiền lành, như một nét v đẹp điểm cho
bc tranh ca núi rng Tây Bc. Và v đẹp của Sông Đà không bao gi nhàm chán.
mi thời điểm khác nhau ngưi ta li thấy ng Đà trong một dáng v, hình hài khác
nhau: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích ch ớc Sông Đà không xanh màu xanh canh
hến của Sông m Sông Lô. Mùa thu ớc sông Đà lừ l chín đỏ như da mặt mt
người bầm đi u ba, l l i u đỏ gin d một người bt mãn, bc bi
mỗi độ thu về…” Dường như ở con sông Đà không có chỗ cho những cái sơ sài, tất c
đều phi là tuyt đnh.
Không gian lắng đọng trong v đẹp của “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chun chuồn bươm
bướm sông Đà”. Nguyễn Tuân đã gi lên v đẹp của sông Đà bng hai t “gi cảm”.
qu thc ,v đẹp thơ mộng ca dòng sông khiến cho người ngon cnh gp li
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
54
cảm giác “đằm đằm m ấm”, gợi biết bao thi v. Trong v đẹp của Sông Đà, họ phát
hiện ra đẹp như một bức tranh đường thi v cảnh “Yêu hoa tam nguyệt ơng
Châu “của Bch. V đẹp như trang nghiêm trong mạch c Đưng thi, va lng
đọng v mt thi Lí, Trn, Lê va bâng khuâng cm giác v s sống đâm chồi ny lc:
“Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông đây lặng tờ. Hình như từ thời đời
Trần đời Lê, quãng sông này cũng lng t đến thế thôi . Thuyn tôi trôi qua mt
nương ngô nhú lên mấy ngô non đầu a. tnh không một bóng người. C
gianh đồi núi đang ra nhưng nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngn búp c gianh đẫm
sương đêm. Bờ sông hoang dại như một b tin s. B sông hn nhiên như một ni
nim c tích tuổi xưa”. Vừa vượt qua ghnh thác Sông Đà, ai nghĩ Sông Đà limt
quãng sông lng t đến vy? y thế mà điều đó lại đang hiện hữu. Đến quãng sông này,
Sông Đà như một dòng sông vt qua thời gian, như mt chng nhân im lặng đang âm
thầm đóng góp vẻ đẹp của mình cho đất tri. Nhà văn đã để cho dòng cm xúc dào dt
tht lên thành lời đối thoi vi thiên nhiên,b bãi ven sông. Dường như con người
mun hoà mình cùng cnh vật để chiêm ngưng v đẹp đầy sc cun hút ca dòng
sông. B sông lúc này như biến thành mt b c tích. Giữa con người thiên nhiên
có mt mi chan hoà, giao cảm đồng điệu tuyt vời: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu
nhung khi áng c ơng ,chăm chăm nhìn tôi l l trôi trên một mũi đò. Hươu vnh
tai, nhìn tôi không chp mắt như hỏi tôi bng cái nói riêng ca con vật lành: “Hỡi
ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thy mt tiếng còi sương?”. Đàn
dm xanh quy vt lên mt sông ,bng trắng như bạc rơi thoi. Tiếngđập nước sông
đuổi mất đàn hươu vụt biến”. Cuộc đối thoi tưởng tượng của nhà văn khiến cho thiên
nhiên hin hình vi tt c v hoang sơ của nó, dường như nằm ngoài nhng biến động,
âm thanh ca cuc sống con người. l nơi đây chỉ thiên nhiên làm ch v đẹp
của chính mình con người ch đóng vai trò một “ông khách” thưởng ngon cái
đẹp. Giữa con ngưi thiên nhiên có mt mi quan h hòa hp, thân thin. Mi
chuyển động dường như đu c gắng để không làm ảnh ởng đến cái dòng chảy tĩnh
lặng như thời tin s y. Quá kh hin tại đan xen khẳng định v đẹp bt biến theo
thi gian.
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
55
Ngòi bút ngôn ng ca Nguyễn Tuân tràn đầy âu yếm nâng niu. Mi câu ch
đều quyn cht tình yêu vi con sông th hiện sinh đng qua bin pháp nhân hóa. Màu
sc hình nh hiện lên đẹp như một bức tranh. Nhà văn đã khiến cho bc tranh y
mang mt v đẹp hoàn hảo, độc đáo đầy ấn tượng. Có dòng sông, có nưc sông, có
cnh vt hai bên b sông nhưng đó phải con sông như một áng tóc tr tình, b sông
như một b tin s, nmt ni nim c ch ngày xưa. Sông Đà đẹp ! đó điều
không th ph nhận. Nhưng với Nguyn Tuân dòng sông mang mt v đẹp hoàn mĩ.
Nó không ch đơn gin là mt dòng sông chy tràn qua núi rng Tây Bc mà tr thành
mt sinh th sống động, mt linh hn tinh tế nhy cảm. Dòng sông Đà hùng vĩ,
him tr k thù, là thách thc, mt k “hng năm đời đời kiếp kiếp làm mình làm
my với con người” ; vượt qua đoạn thượng nguồn đã trở thành mt c nhân.
khi trước cảnh: “Dải Sông Đà bọt nước lênh đênh- Bao nhiêu cnh bấy nhiêu tình”
Sông Đà trở thành “người tình nhân chưa quen biết”… C thế, bng ngòi bút tài hoa
ca mình, Nguyn Tuân dn dắt người đọc chiếm lĩnh vẻ đẹp ca con sông bng tt c
nim say mê, nh yêu với sông núi, giang san. Nhà văn đã hát lên nhng li ngi ca
say sưa về v đẹp tr tình tuyt vi của Sông Đà như mt khúc ca hùng tráng, ngp
tràn yêu thương đi vi một vùng thiên nhiên tươi đẹp ca đt nưc.
Đến vi dòng sông ca x Huế thơ mộng, như một “hướng dn viên du lịch” tài năng
Hoàng Ph Ngọc Tường đã đem đến cho người đọc mt cái nhìn cùng toàn din
nhưng không kém phần hp dn v v đẹp tr tình của sông Hương. thưng ngun
sông Hương mang vẻ đẹp huyn bí, chng phi ngẫu nhiên nhà văn li gi dòng sông
như một “bản trường ca ca rừng già”. i khơi ngun ca dòng chy, gn lin vi
đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, con sông toát lên vẻ đẹp ca mt sc sng mãnh lit,
va hùng vĩ, va tr tình như một bản trưng ca bt tn ca thiên nhiên.
Tại nơi rừng đại ngàn sông Hương “như mt cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”
đây một liên tưởng thú v độc đáo. Với hình ảnh so sánh này, nhà văn đã khắc
vào tâm trí người đọc mt ấn tượng mnh m v v đẹp hoang dại nhưng cũng rt tình
t ca con sông. Không nhng thế tác gi n nhân hóa dòng sông khiến hin lên
như một con người tính, tâm hồn “rừng già đã hun đúc cho mt bản lĩnh gan
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
56
d, mt tâm hn t do trong sáng”. Ra khỏi rừng già, sông Hương tr thành mt
“ngưi m phù sa” của một vùng văn hóa xứ s. không ch giúp người đọc
thêm mt góc nhìn, mt s hiu biết v v đẹp hùng vĩ, man dại, đầy chất thơ của
sông Hương còn mang đến mt cái nhìn sâu sắc hơn muốn ghi công: sông Hương
như một đấng sáng to đã góp phần to nên, gìn gi bo tồn văn hóa của mt vùng
thiên nhiên, x sở. Sông Hương chính mt khi ngun, mt s bắt đầu ca mt
không gian văn hóa- văn hóa Huế.
Khi ngoi vi thành ph Huế nhà văn đã cảm nhận “sông Hương như một người gái
đẹp nm ng màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” được người tình mong
đợi đến đánh thức. T đây thủy trình ca con sông khi nó bắt đu v xuôi tựa như một
cuc tìm kiếm có ý thc trong mt câu chuyn tình yêu lãng mn, nhum màu c tích.
Dòng sông lúc này mang mt dáng vóc mới đy khát khao lãng mạn “ sông Hương
đã chuyển dòng mt cách liên tc, vòng giữa khúc quanh đột ngt, un mình theo
những đường cong tht mềm”. Hành trình đến với “người tình mong đợi” của “người
gái đẹp” khá gian truân nhiu th thách khi phải vượt qua mt loạt chướng ngi
vt :đin Hòn Chén, vp Ngc Trản, đất bãi Nguyt Biều, Lương Quán… nhưng chính
trong quá trình y lại hội khoe tt c v đẹp ca mình- v đẹp gi cm vi
những đưng cong tuyệt mĩ. Hoàng Phủ Ngc Tường còn thấy được dòng sông này
mt v đẹp khác na sâu lắng hơn, ẩn hơn đó vẻ trm mặc như triết , như cổ
thi của sông Hương đi giữa thiên nhiên. ng Hương cũng chuyển mình ngày đêm
bên những lăng tẩm thành quách ca vua chúa thi Nguyn, con sông hin hòa
ngoi vi thành ph Huế như đang nép mình bên giấc ng nghìn m của nhng vua
chúa phong kín trong lòng.
Đến khi sông Hương đổ vào thành ph tương lai của nó, đã kéo một nét thng
thực yên tâm theo ng tây nam-đông bắc…, đã thấy chiếc cu trng ca thành
ph in ngn trên nn tri, nh nhn như vành trăng non”. Nvăn đã dành cho sông
Hương một tình cm trìu mến, thân thương. Có như vy, ông mới liên tưng trng thái
sông Hương uốn một cánh cũng rất nh sang cn Hến như một tiếng “vâng” không nói
ra của tình yêu. Đôi mt sâu sc của nhà văn đã nhìn ra mi quan h bin chng gia
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
57
dòng sông Hương mm mi với con người x Huế. Sông Hương dịu dàng, duyên dáng
như đã góp phần hình thành nên tính cách nết na, ý nh của ngưi con gái c đô.Với
một trình đ văn hoá uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh vẻ đẹp ca sông
Hương với nhiu dòng sông ni tiếng thế giới như sông Xen của Pari, sông Đa-nuýp
ca Bu-đa-pét, sông Nê-va của Nga,… Từ đó ông đã tôn vinh v đẹp độc đáo của
dòng sông Hương vào buổi đêm về, “vẫn lp lòe trong đêm sương, những ánh la
thuyn chài ca mt linh hồn xưa cũ không mt thành ph hiện đại nào còn
nhìn thấy được”. Nhà văn quý điu chy lng l của sông Hương qua thành Huế. Ông
cho rằng “Đây là điệu slow tình cm dành riêng cho Huế, th cm nhận đưc bng
th giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bng bnh vào những đêm hội rm tháng by…
chao nh trên mt nước như những vấn vương của mt ni lòng.”
Có th nói rng Hoàng Ph Ngọc Tưng chính là một nhà văn hoá Huế thc s, ông
không ch nhìn sông Hương trôi ở trong hin ti, ngày ngày mang phù sa và ngun
nước ngt trao tặng vô tư cho những cánh đồng Châu Hóa, cho cuc sống ngưi dân
x Huế; mà ông còn nhìn sông Hương như là khởi ngun cho nhng giá tr tinh thn
lch sử.Sông Hương trong quá khứ qua các triu đại phong kiến vàng son, nó đã từng
mang cái tên Linh giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh lit bo v biên gii
phía nam T quốc nưc Đi Việt. Nó đã từng v vang soi bóng kinh thành Phú Xuân
ca anh hùng Nguyn Hu, rồi nó đi suốt qua hai cuc kháng chiến chng Pháp và M
góp phn làm nên nhng chiến công ly lng vang di c thế giới như lời đi tưng
Võ Nguyên Giáp đã phát biểu: “Lịch s Đảng đã ghi bằng nét son tên ca thành ph
Huế, thành ph tuy nh nhưng đã cống hiến rt xứng đáng cho Tổ quc”.
T hin thc kiêu hùng ca Huế, mà Hoàng Ph Ngc Tưng cho rằng: “Sông Hương
là dòng sông ca thi gian ngân vang, ca s thi viết dưi màu c lá xanh biếc”. Mặt
khác, sông Hương cũng là cội ngun ca thi ca ngh thut. Có biết bao văn nhân, thi sĩ
đã từng rung động với dòng sông Hương như Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Tản Đà, Tố
Hữu. Nhà văn đã tin rằng “có một dòng sông thi ca v sông Hương và tôi hy vọng đã
nhn xét mt cách công bng v nó khi nói rng dòng sông y không bao gi lp li
mình trong cm hng ca các ngh sĩ”. Cao Bá Quát đã tng nhìn sông Hương mà
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
58
tht lên rằng: “Trường giang như kiếm lập thanh thiên”.Thu Bồn nhìn dòng nước lng
l của sông Hương mà bâng khuâng:
“Con sông dùng dằng con sông không chy
Sông chy vào lòng nên Huế rất sâu”
Và vi Nguyn Trng Tạo, Hương Giang lãng đãng một bu khí quyn huyn thoi
thi ca giúp nhà thơ thăng hoa nhng vần thơ mê đắm:
“Con sông đám cưới Huyn Trân
B quên di la phù vân trên ngun
Hèn chi thơm tho ni bun
Nim riêng nhuộm tím hoàng hôn đến gi
Con sông na thc nửa mơ
Na mong Lí Bch, na ch Khuất Nguyên”
Qua nhng trang kí tài hoa ca Hoàng Ph Ngc Tường sông Hương hiện ra vi
nhng v đẹp du dàng, tinh tế, góp phn làm cho Huế tr nên mt bc tranh sơn thu
hữu tình. Hơn thế, sông Hương còn là dòng sông lịch sử, văn hoá, thơ ca, ngh thut.
Nó đã là mt phần trong đời sng tâm linh của người Huế trm mc, sâu sc.
Cùng là v đẹp tr tình, cùng được th hiện qua ngòi bút tài hoa, uyên bác nhưng
sông Đà, Nguyn Tuân ch yếu th hin v đẹp hoang di ca thiên nhiên nhm tha
mãn thú ham xê dịch, còn sông Hương li tp trung tái hin v đẹp văn hóa giàu chất
tr tình của dòng Hương giang. Sông Đà đưc miêu t t góc nhìn địa lý còn sông
Hương lại được nhìn trên phương diện văn hóa, lịch s.Tt c điều đó đã tạo nên mt
ấn tượng độc đáo riêng của mi tác gi trong tâm hn bạn đọc; đng thời mang đến
cho h mt cái nhìn mi mẻ, đa dạng v v đẹp ca thiên nhiên T quc.
Qua hai tác phẩm “Người lái đò Sông Đà”- Nguyễn Tuân và “Ai đã đt tên cho dòng
sông?”- Hoàng Ph Ngc Tưng, ta có th cm nhn tht rõ nét v đẹp tr tình đy
thơ mộng, hp dn của hai con sông quê hương. Nó không ch mang nét đẹp ca thiên
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
59
nhiên mà nó còn mang nhiu giá tr văn hóa, địa lý, lch s độc đáo. Qua đó thể hin
v đẹp đa dạng, phong phú ca cnh sắc quê hương, bộc l tình yêu thiết tha, gn bó
vi đt Vit của các nhà văn.
So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương - Mẫu 10
T xa xưa, cuộc sng ca con ngưi luôn có s gn bó mt thiết vi vn vt ca t
nhiên. Cùng vi vầng trăng và bầu tri, c cây và hoa lá… dòng sông cũng là một
trong những “ngưi bạn” gần gũi và nghĩa tình với nhân sinh. Bi thế mà dòng sông
đã không ít lần tr thành hình ảnh được biết bao văn nhân, thi sĩ gửi gm nhng tâm
tư, nỗi nim ca mình. Vi Nguyn Tuân và Hoàng Ph Ngc Tưng, ni nim và
tâm tư ấy được bc l thông qua v đẹp tr tình của sông Đà và sông Hương trong hai
tác phẩm “Người lái đò sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Cùng tìm hiu,
phân tích và so sánh v đẹp tr tình ca sông Đà và sông Hương qua bài viết sau.
Trong tùy bút Người lái đò Sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng con sông như
mt nhân vt có tính cách, rt c th và sinh động. Trưc khi so sánh v đẹp tr tình
ca sông Đà và sông Hương, ta cn tìm hiu và phân tích v đẹp tr tình của sông Đà.
i li gii thiu ca Nguyễn Tuân, dòng sông Đà hiện lên vi hình nh ca mt
dòng sông hung bo, thế nhưng đằng sau dáng v hung bo y li là dáng v ca mt
dòng sông tr tình. Ban đầu, dòng sông được miêu t bi s hp thành ca nhng
khúc sông, b đá dựng vách thành, nhng quãng sông, lòng sông tht hẹp như yết hu,
thác nưc d di.
T trên cao, nó không khác gì “cái dây thng ngoằn ngoèo” với“từng nét sông ra trên
đại dương đá lờ l bóng mây” và hay “làm mình làm mẩy với con người”. Thế
dòng sông ấy đã có lúc thật du dàng thp thoáng hình nh ca một người thiếu n
dim kiều khi “con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc tr tình, đầu tóc, chân
tóc n hin trong mây tri Tây Bc bung n hoa ban hoa go tháng hai và cun cun
mùi khói núi Mèo đốt nương xuân”.
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
60
Đó là s liên tưng bt ng và táo bo gi v đẹp nên thơ, huyền o ca dòng sông.
Chính cái v mm mi, tr tình và quyến rũ ấy đang ôm ấp trong mình cái “chất
Nguyễn Tuân”. Với thiên nhiên Tây Bc, ông dành cho nó mt tình cm thiết tha còn
xét v tài năng người ngh sĩ trong nghệ thut miêu tả, ông chính là ngưi đi trưng
tài tình khi ch huy được c mt đi quân ngôn t hùng hu ca mình.
V đẹp tr tình của sông Đà còn phản quang qua màu nước ca nó. Cùng trên mt
dòng sông nhưng đã có biết bao sc màu biến đổi diu kì vào nhng thi đim khác
nhau. Nếu “mùa xuân dòng xanh ngọc bích”, thì vào mùa thu “nước sông Đà lừ l
chín đ như da mặt mt ngưi bầm đi vì rượu ba”.
Tác gi qu thật đã có sự cm nhn hết sc tinh tế và độc đáo khi miêu t màu sc ca
dòng sông. Nhng màu sc ca dòng sông ấy có được là nh vào s quy chiếu, liên
ng ca tác gi lên nhng s vt và nhng hình nh. Nếu sc xanh đưc cm nhn
qua v đẹp ca làn mây ngọt ngào tràn đầy sc sống thì ánh đỏ khiến người đc d
hình dung đến s mnh ca con sông khi phi on mình ch nặng phù sa để đắp bi
cho bãi bin xanh tt.
Thế nên Sông Đà không thể nào là một dòng sông đen như “thực dân Pháp đã đè nga
con sông ta ra đ mc Tây vào mà gi bng mt cái tên Tây láo lếu” mà là dòng sông
xinh đẹp, sinh động bi nhng màu sắc tươi tắn y.
Không ch th hin s tr tình, thơ mng hình dáng, màu sc mà quang cnh hai bên
b sông Đà cũng góp phần to nên những nét đẹp ấy. Trước cnh chun chuồn, bươm
bướm rp rn trên b bãi sông Đà, tác giả đã ghi lại cm giác ca mình bng mt
von đầy thin cảm: “Chao ôi, trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa
dm, vui như ni li chiêm bao b đứt quãng”.
Nim vui khi hin diện trước b bãi Sông Đà ấy hẳn đã bắt ngun cho s hình thành
ca mi quan h thin tình gia c nhân và ngh sĩ. Dù tâm tính ngưi c nhân y
biến đổi khó lường nhưng tác giả vn cm thấy “đằm đm m ấm” bi không khí thân
thương, gần gũi của quang cảnh nơi đây. Không chỉ vy, nét hoang di bi s lng t
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
61
ca quãng sông, cách đàn hươu ngn ngn c gianh đẫm sương đêm và cả tiếng c
đập nước sông như gọi con người v vi ni nim c tích tuổi xưa…
So sánh v đẹp tr tình của sông Đà và sông Hương, ta không thể quên phân tích hình
ợng sông Hương trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông ca Hoàng Ph Ngc
ng.
V đẹp của sông Hương lại đưc gi nên t chính trong cuc hành trình tìm kiếm tình
yêu ca nó. Mc dù nơi khởi nguồn, sông Hương tựa như:
“mt bản trường ca ca rng già, rm r gia bóng cây đại ngàn, mãnh lit qua nhng
ghnh thác, cuộc xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn” dẫu có lúc “trở nên du
dàng và say đắm gia nhng dm dài chói li màu đỏ của hoa đ quyên rng”.
Nhưng nó vẫn không th giấu đi nét phóng khoáng và man dại như mt cô gái Di-gan
ca mình. Thế mà, khi va ra khi rừng, sông Hương bỗng chốc đã thay hình đổi dng
để “mang mt sc đp du dàng và trí tuệ” và “trở thành ngưi m phù sa ca mt
vùng văn hóa xứ s”.
Đến ngoi vi thành phố, dòng sông là “người gái đẹp nm ng mơ màng giữa cánh
đồng Châu Hóa đầy hoa di” đ được người tình mong đợi đến đánh thức. Vì đưc
đánh thức nên bao nhiêu sc sống như ngời lên trong cách “chuyển dòng liên tc”,
“vòng giữa khúc quanh đt ngột” và “uốn mình theo những đưng cong tht mm”
của Hương giang.
Khi trôi giữa hai dãy đi sng sững như thành quách, dòng sông mềm như lụa vi
màu nưc phn quang, lung linh, quyến rũ “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Lúc qua
bao lăng tẩm, đền đài vi s u tch, kiêu hãnh âm u ca rừng thông, sông Hương lại
khoác lên v trm mặc “như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mt nưc phng
lng ca nó gp tiếng chuông ca chùa Thiên M ngân nga tn b bên kia, gia nhng
xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”.
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
62
Sau đó, sông Hương đã uốn mt cánh cung rt nh làm cho dòng sông như mm hn
đi như một tiếng “vâng không nói ra của tình yêu”, nó vui hn lên khi v trong gia
lòng thành ph. Tác gi đã liên tưởng đến điệu nhc tr tình, thiết tha dành cho Huế
trưc dòng chy trôi chm, thc chm ca dòng sông. Bao nhiêu nét hoang di, rm r
trưc kia đã hóa thành kín đáo, du dàng bi dòng chy ta mt điu slow sâu lng,
nhp nhàng. Trong s liên tưởng ca tác giả, sông Hương còn thp thoáng trong hình
nh ca một người tài n đánh đàn lúc đêm khuya đang chất cha rt nhiu tâm s
trong lòng.
Trưc khi giã bit thành ph Huế, sông Hương giống như người tình du dàng, chung
thy không mun ri Huế nên “rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gp li thành ph
Huế ln cui”. Tác gi đã ý nghị gi đy là ni niềm vương vấn và c mt chút kín
đáo của tình yêu. S kín đáo ấy gi đến hình nh nàng Kiều trong đêm tình tự tr li
tìm Kim Trọng để nói mt li th. Tóm li, v đẹp của sông Hương trong thủy trình
ca nó đưc cm nhn và miêu t bng tình cm tha thiết vi Huế, bng vốn văn hóa
phong phú và bằng cái nhìn mê đắm, tài hoa ca tác gi.
Sông Hương là dòng sông của văn hóa thi ca. Toàn bộ nn âm nhc c điển ca Huế
đã sinh thành trên mặt nước ca dòng sông này. Chính vì thế, sông Hương có một vai
trò quan trng trong vic bi đắp và làm phong phú đời sng tâm hn ca con ngưi
đất kinh k.
Không ch vậy, sông Hương còn là nguồn cm hng bt tận cho các văn nghệ sĩ.
Trong cách cm nhn tinh tế ca Tản Đà, nó hiện lên vi hình ảnh “dòng sông trắng
lá cây xanh”, vi khí phách mnh m của Cao Bá Quát, sông Hương “như kiếm dng
tri xanh”. Bên cạnh đó, sông Hương còn thấp thoáng trong bóng chiu bng lng ca
hồn thơ Bà Huyện Thanh Quan và phút chc phc sinh mnh m qua vần thơ ca T
Hu:
“Hương giang ơi dòng sông êm
Qua tim ta vẫn ngày đêm tự tình”
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
63
“Dòng sông ai đã đt tên
Để người đi nhớ Huế không quên”
“Con sông dùng dằng con sông không chy
Sông chy vào lòng nên Huế rất sâu”
Tên gọi sông Hương qua câu chuyện huyn thoi cùng vi cách đặt nhan đề đã gợi lên
nhiều ý nghĩa. Tích cũ kể vic nhân dân hai bên b sông vì cm mến con sông xinh
đẹp nên đã nấu nước ca trăm loài hoa đ xuống dòng sông để làn nước được thơm
mãi đã cho thy v trí ca dòng Hương giang trong lòng mi ngưi quan trọng đến
nhường nào. Cách s dng câu hi tu t “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã th hin s
tha thiết trong tình cm ca tác gi dành cho dòng sông vì chẳng hay ai đặt tên mà li
hay đến thế, tr tình đến thế.
V đẹp tr tình của sông Đà và sông Hương có những điểm tương đồng đáng chú ý.
Trưc nht, v đẹp của hai con sông đã được khai phá trên các phương diện địa lí, văn
hóa, điện ảnh… và thông qua cách khai phá ấy, người đc có th cm nhận được s
tài hoa trong văn phong ca hai tác gi Nguyn Tuân và Hoàng Ph Ngc Tưng.
V đẹp tr tình của sông Đà và sông Hương càng được th hin c thể, sinh động thì
ta li càng cm nhận được trong đó tình cm, say mê, yêu mến và t hào ca tác gi v
cnh sc thiên nhiên ca đt nưc. Cui cùng mc đích ca s th hiện đó của Nguyn
Tuân và Hoàng Ph Ngc Tưng chc hn là mun mọi người cũng nên biết trân
trng và gi gìn nhng nét đẹp vn quý ca t nhiên to vt.
Nét khác bit v đẹp tr tình của sông Đà và sông Hương có lẽ đưc th hin rõ
ràng nht khi hai tác gi đã miêu tả nhng n tượng ca các dòng sông bng nhng tài
năng nghệ thut ca riêng mình.
Khi viết v v đẹp tr tình của sông Đà, Nguyễn Tuân đã làm nổi bt s tr tình bên
cnh nét tính cách khác là s hung bo ca dòng sông thông qua bin pháp ngh thut
nhân hóa. Còn vi Hoàng Ph Ngc Tường, nhà văn lại đc bit thành công khi s
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
64
dng biện pháp so sánh và liên tưởng để khai thác v đẹp của dòng Hương giang.
Cách viết ca tác gi không ch đơn thuần cho người đc cm nhận được là nét tr
tình gn vi thy trình, thi ca và tên gi của nó mà còn giúp ta hình dung được nhng
giá tr ca dòng sông v mt lch sử, văn hóa.
Sông Đà hiện lên trên trang viết ca Nguyn Tuân vi những nét đẹp quý giá đã góp
phn làm cho hình nh ca người lao động thêm ni bt. Trên cái nn ca bc tranh
thiên nhiên vi đim nhn là dòng sông, s hin din của người lái đò là minh chng
ni bật cho “thứ vàng mười” ca vùng cao Tây Bc.
Vi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, sông Hương đã được Hoàng Ph Ngc Tưng
hết li ngi ca và đó cũng chính là li ngi ca mà ông dành cho x Huế. Thông qua s
ca ngi ấy, nhà văn cũng muốn bày t gi gm tình yêu quê hương, đt nưc ca
mình.
Như vậy, khi tìm hiu s khác bit trong v đẹp tr tình của sông Đà và sông Hương,
ta thy hình nh hai dòng sông mang phong cách riêng của hai nhà văn đã thể hin
nhng tình cm rất đáng quý ở họ. Đó không chỉ là tình yêu dành riêng cho dòng sông
ch nng những tâm tư, nỗi nim ca những người ngh mà suy rộng hơn còn là
tình yêu nng nàn dành cho x sở, quê hương… Chính vì tình yêu đó, họ có th biến
nhng hình nh rt đi gần gũi, bình dị thành thành điểm nhn rất thơ mộng, tr tình
trong bc tranh thiên nhiên ca đất nước.
So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương - Mẫu 11
Nguyn Tuân từng nói: “Ký ca Hoàng Ph Ngọc Tường” rt nhiu ánh la. Tht
tình, cái ánh la nng m, mãnh lit y thi vào tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng
sông?” đã làm say đm biết bao hồn người. Cm nhn v đẹp dòng sông trong đoạn:
“Trong những dòng sông…Kim Phụng” trong tác phẩm, nhà văn gợi ta liên tưởng đến
v đẹp dòng sông Đà trong đoạn: “Hùng của sông Đà…n xuýt” của Nguyn Tuân
để t đó có cơ hội khám phá ra đim chungnét riêng ấn tượng trong v đẹp ca hai
dòng sông.
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
65
Bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã đ lại trong lòng người đọc bao thế h
những vang cùng đẹp đẽ v một dòng sông quê hương thân thương, một tâm
hn ngh đắm say ngh thuật. Trong đoạn: “Trong những dòng sông…chân núi
Kim Phụng”, nhà văn đã phác ha rt chân thc v đẹp riêng vn có ca dòng sông x
Huế mộng mơ. ng Hương cho mình mt v trí địa cùng độc đáo: một dòng
sông đẹp như những dòng sông khác trên thế giới nhưng lại ch thuc v mt thành
ph duy nht. Dòng ng thy chung son sc y chng chịu chia nước chia lòng vi
bt k mt thành ph nào. V thế của dòng sông được nhà văn người đọc xác định
bi giá tr ca lòng chung thy chí tình. Tiếp đến, với ngòi bút văn chương đc sc,
nhà văn đã phác ha nên mt bản trường ca rng già bng ngôn t ngh thut. Câu
văn dài, nhịp n nhanh kết hp cùng t láy, động t đã gợi liên ởng đến hình nh
hùng vĩ nhưng cũng rất đỗi thơ mộng tr tình của sông Hương. Sông Hương lúc này là
mt bn hòa ca mi m gi nhiều rung động, đắm say v mt bản trường ca, mt
khúc tình ca tha thiết, dt dào.
Những câu văn tiếp theo, sông Hương được như gái Di gan phóng khoáng
man di vi bản lĩnh gan dạ bn tính t do, trong ng. Cũng lúc, dòng sông y
được xem như người m phù sa ca mt vùng văn hóa x s, một đấng sinh thành đã
vun đắp, bi t nét đẹp văn hóa của mt min Huế thơ. Những câu văn cuối đoạn,
Hoàng Ph Ngọc Tường nhìn sông Hương mang một khuôn mt kinh thành tâm
hn sâu thẳm như kín đáo gửi mt lời đề ngh v cách nhìn mi m v con sông: nhìn
thu bn tâm thm sâu của đng thi cách nhìn cách th hiện đó còn bc l tâm
tình ca mt chàng trai trong hành trình khám phá và chinh phc tâm hn, trái tim mt
người con gái trí tu, tài hoa, tr trung, mê đắm.
Viết v sông Đà trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân cũng khắc ha
hình tượng sông Đà mang v đẹp hùng vĩ, ta thể bt gp v đẹp đó trong đoạn văn:
“Hùng của sông Đà…đòi nợ xuýt”. Trong đoạn văn này, nhà n tập trung khc
ha hai hình ảnh: vách đá và ghềnh Hát Loóng với nét đẹp rt riêng và ấn tượng. Hình
ng vách thành hiện lên đầy nét to hình, gợi ra vách đá đồ s, kiên c hệt như dáng
v đầy mt ca thành quách c kính xưa. Ghềnh Hát Loong dài hàng ngàn cây s,
Văn mẫu lp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
66
“nước đá, đá sóng…”. Câu văn dài này đã tạo ra nhịp văn nhanh, kết hp vi
điệp t cùng động t mạnh và phép nhân hóa đã khc ha đm nét s d di đến hung
bo ca ghềnh đá. Hơn nữa, còn giúp nhà văn biến nước, đá, sóng gió sông Đà
tr thành một lũ cuồng quân cùng nhau hp sc to khúc cung ca.
Cùng viết v những ng sông tươi đẹp của quê ơng đất nước, hai nhà văn đưa dẫn
liên tưởng người đọc đến s so nh điểm chung cũng như nét riêng trong v đẹp ca
hai dòng sông. Nói v điểm giống nhau, hai cây bút tài hoa trong hai đoạn trích đều
miêu t dòng sông khúc thượng nguồn để t đó giúp người đọc cm nhận được s
hùng của thiên nhiên đt tri ca hai con sông. Bên cạnh nét chung, điểm riêng
ca hai dòng sông đon trích này sc v hùng được th hin khác nhau. Nếu
như Nguyễn Tuân th hin s hùng vĩ của sông Đà v hung bo, dung mo và tâm
địa ca mt loài thy quái, một “kẻ thù s một” thì dưới ngòi bút Hoàng Ph Ngc
ng, dáng v hùng vĩ của dòng sông Hương lại đưc gợi nên như một khúc tình ca,
một địa ch của văn hóa, tâm hồn của quê hương xứ sở. Điểm chung cũng như nét
riêng trong v đẹp ca hai dòng sông hai đoạn trích này đã góp phần đem đến s
thành công cho tác phm, góp s đa dạng cho kho tàng tùy bút, bút viết v nhng
dòng sông qhương đồng thi khẳng định s quan sát t m, tinh tế cũng như sự tài
hoa trong ngòi bút ngh thut của hai nhà văn.
Nét đẹp dòng sông ơng trong đoạn văn đã phần nào giúp người đọc hiểu được s
tinh tế trong cách nhìn, s tài hoa trong cách th hiện cái đẹp ca cây bút Hoàng Ph
Ngọc Tường. Liên h đến v đẹp của dòng sông Đà bút lực Nguyễn Tuân, điểm
chung nét riêng trong v đẹp hai dòng sông khiến ta càng thêm ấn tượng yêu
mến hai tác phm và hai tác gi tài năng này.
| 1/66

Preview text:

Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
Dàn ý So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
Dàn ý chi tiết số 1
I. Mở bài: Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề cần bàn luận.
– Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và Người lái đò sông Đà
– Giới thiệu tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường và Ai đã đặt tên cho dòng sông
– Giới thiệu vấn đề nghị luận: vẻ đẹp của sông Hương, sông Đà, và về việc bảo vệ
cảnh quan thiên nhiên của quê hương, đất nước. II. Thân bài:
1. Nét tương đồng của 2 dòng sông:
a/ Sông Đà và sông Hương đều được các tác giả miêu tả như một nhân vật trữ tình có
tính cách với những vẻ đẹp đặc trưng riêng biệt, thể hiện tình yêu thiên nhiên, tình yêu quê hương, đất nước.
b/ Sông Đà và sông Hương đều mang nét đẹp của sự hùng vĩ, dữ dội.
– Vẻ đẹp hùng vĩ của sông Đà được thể hiện qua sự hung bạo và dữ dội của nó trên
nhiều phương diện khác nhau cảnh trí dữ dội, âm thanh ghê rợn, đá sông Đà như đang
bày trùng vi thạch trận.
– Khi chảy giữa lòng Trường Sơn, sông Hương chảy dữ dội tựa 1 bản trường ca của
rừng già, tựa cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại….
c/ Sông Đà và sông Hương đều có vẻ đẹp thơ mộng và trữ tình:
– Sông Đà: dáng sông mềm mại tựa mái tóc tuôn dài tuôn dài, màu nước thay đổi qua
từng mùa, vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính… 1
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
– Sông Hương: với dòng chảy dịu dàng và đắm say giữa những dặm dài chói lọi màu
đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Sông Hương còn mang vẻ đẹp của người con gái ngủ mơ
màng chờ người tình mong đợi đánh thức. Nó còn được ví như điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế…
d/ Cả 2 đều được miêu tả qua ngòi bút tài hoa, uyên bác:
– Tài hoa: 2 dòng sông đều được miêu tả trên phương diện văn hóa, thẩm mĩ:
+ Sông Đà là nơi hội tụ 2 nét tiêu biểu, đặc trưng của thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ,
uy nghiêm, dữ dội lại vừa trữ tình, thơ mộng.
+ Sông Hương là dòng sông của âm nhạc, dòng sông của thơ ca, của lịch sử gắn liền
với những nét đặc sắc về văn hóa, với vẻ đẹp của người dân xứ Huế.
– Uyên bác: cả 2 tác giả đều vận dụng cái nhìn đa ngành, vận dụng kiến thức trên
nhiều lĩnh vực nghệ thuật để khắc họa hình tượng 2 dòng sông.
2. Nét độc đáo riêng trong từng hình tượng dòng sông: a/ Sông Đà:
– Trong đoạn trích, nhà văn tập trung tô đậm nét hung bạo, dữ dội của sông Đà giống
như 1 kẻ thù hiểm độc và hung ác
-> Thể hiện rõ nhất qua hình ảnh nước dữ, gió dữ, đá dữ đặc biệt đá bày trùng vi thạch
trận chực lấy đi mạng sống của con người. – Sông Đà được cảm nhận ở chính nét dữ
dội, phi thường, khác lạ: tiếng thét của sông Đà như tiếng thét của ngàn con trâu mộng,
đá trên sông đà mỗi viên đều mang 1 khuôn mặt hung bạo, hiếu chiến…
– Đặc biệt, tác giả miêu tả sự hung bạo của sông Đà để làm nổi bật sự tài hoa, tài trí
của người lái đò. Lúc này đây, sông Đà như 1 chiến địa dữ dội. Và mỗi lần vượt thác
của người lái đò là mỗi lần ông phải chiến đấu với thần sông, thần đá… 2
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương b/ Sông Hương:
– Sông Hương được tô đậm ở nét đẹp trữ tình, thơ mộng, gợi cảm và nữ tính, luôn
mang dáng vẻ của 1 người con gái xinh đẹp, mong manh có tình yêu say đắm. Khi ở
thượng nguồn, nó là cô gái Di gan phóng khoáng, man dại; khi ở cánh đồng Châu Hóa,
nó là cô thiếu nữ ngủ mơ màng; khi lại như người tài nữ đánh đàn giữa đêm khuya,
hay là nàng Kiều tài hoa, đa tình mà lại chung tình, là người con gái dịu dàng của đất nước.
– Sông Hương được miêu tả qua chiều sâu văn hóa xứ Huế, nó như người mẹ phù sa
bồi đắp cho vùng đất giàu truyền thống văn hóa này từ bao đời nay.
– Sông Hương được cảm nhận qua lăng kính của tình yêu: thủy trình của sông Hương
là thủy trình có ý thức tìm về người tình mong đợi. Khi chảy giữa Huế, sông Hương
mềm hẳn đi như 1 tiếng ” vâng” không nói ra của tình yêu. Trước khi đổ ra cửa biển,
sông Hương như người con gái dùng dằng chia tay người yêu, thể hiện 1 nỗi niềm
vương vấn với 1 chút lẳng lơ kín đáo.
– Thông qua hình tượng sông Hương mang nét đẹp nữ tính, nhà văn thể hiện nét đẹp
lãng mạn, trữ tình của đất trời xứ Huế
3. Trách nhiệm bản thân trong việc bảo vệ cảnh quan thiên nhiên của quê hương, đất nước.
Học sinh có thể trình bày quan điểm cá nhân dựa trên những gợi ý sau : Thế hệ trẻ cần
có trách nhiệm bảo vệ cảnh quan đất nước qua hành động cụ thể như: yêu quí, bảo vệ
môi trường, quảng bá thắng cảnh…
III. Kết luận: Đánh giá chung về đóng góp của hai nhà văn
– Qua vẻ đẹp tương đồng của 2 dòng sông, ta bắt gặp sự tương đồng độc đáo của 2
tâm hồn có tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm tự hào với vẻ đẹp của non sông đất nước Việt Nam. 3
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
– Mỗi nhà văn đều có 1 phong cách nghệ thuật độc đáo trong việc thể hiện hình tượng
các dòng sông, giúp người đọc có những cách nhìn phong phú, đa dạng về vẻ đẹp của
quê hương, đất nước mình.
Dàn ý chi tiết số 2
Với đề này học sinh cần biết đặt hai hình tượng trong thế đối sánh để làm nổi bật vẻ
đẹp và sự độc đáo không chỉ của hai hình tượng mà còn cả hai phong cách nghệ thuật.
Bước 1: xác định những điểm chung (nét tương đồng )của sự khám phá vẻ đẹp hai
hình tượng Sông Đà, sông Hương trong hai tác phẩm của hai tác giả.
+ Điểm chung thứ nhất về đề tài: Sông Đà và Sông Hương là những dòng sông nổi
tiếng đã gắn bó sâu sắc với con người Việt Nam. Cả hai con sông đều được khám phá
ở vẻ đẹp trữ tình và mạnh mẽ hoang sơ.
+ Điểm chung thứ hai về thể loại : cả hai tác giả cùng viết tuỳ bút về những dòng
sông . Bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của HPNT thực sự là một thiên tuỳ bút-
một áng văn xuôi tự sự trữ tình.
+ Điểm chung thứ ba là nét phong cách căn bản của hai tác giả: Cả hai đều là những
cây bút tài hoa, uyên bác. Hai tác giả đều huy động kiến thức địa lí, lịch sử, văn hoá
sâu rộng, đều thể hiện cái tôi trữ tình khi khám phá vẻ đẹp của những con sông quê
hương đất nước, kết đọng trong đó tình yêu xứ sở. Đó là sự gặp gỡ của những tâm hồn
Việt, những tài năng tuỳ bút bậc thầy.
Bước 2: phân tách đối tượng thành nhiều bình diện để so sánh, tìm ra nét riêng- sự khác biệt .
Từ 2 bình diện lớn: nội dung- nghệ thuật, căn cứ vào đối tượng cụ thể ta có thể phân
tách thành những phương diện nhỏ hơn. Muốn làm được điều này học sinh phải huy
động kiến thức về lí luận văn học về tác phẩm - thể loại. Về hình tượng các con sông
nên tách thành 4 bình diện sau: 4
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương Sự khác biệt:
1. Cảm hứng- điểm nhìn khám phá 2. Vẻ đẹp hình tượng
3. Nghệ thuật xây dựng hình tượng
4. Vai trò, ý nghĩa của hình tượng
Ví dụ triển khai ý 2 khám phá vẻ đẹp riêng của hai dòng sông trong hai thiên tuỳ bút
theo lối đối sánh, ta có thể đi vào những ý chính sau :
Trong Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân khai thác hai mặt nổi bật tạo nên hai vẻ
đẹp hung bạo và trữ tình của dòng sông, khám phá con sông đầy tiềm năng cho sự
phát triển của đất nước.. Sông Đà hiện lên đầy cá tính, lúc như một bầy thuỷ quái
( hung bạo), lúc như một cố nhân( trữ tình).
+ Sông Đà hung bạo từ bờ sông, ghềnh đá, hút nước đến thác đá…
+ Sông Đà mang vẻ đẹp trữ tình thơ mộng : từ dáng sông, màu nước cho tới khung cảnh ven bờ…
* Nếu như Sông Đà là một con sông- một sinh thể, thì sông Hương lại được HPNT ví
như một người gái đẹp – lúc là cô gái Di gan phóng khoáng và man dại, khi là người
con gái kín đáo dịu dàng trong tình yêu, lúc là người mẹ phù sa của một vùng văn hoá
xứ sở. Dòng Hương đã hiện lên với nhiều vẻ đẹp khác nhau trong trang bút kí- tuỳ bút của HPNT.
+ Vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên + Vẻ đẹp lịch sử
+ Vẻ đẹp văn hoá, thi ca 5
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
Bước 3: Lí giải sự tương đồng và nét khác biệt đồng thời khái quát phong cách của
từng tác giả thể hiện qua hai bài kí.
Đây là một yêu cầu của đề bài. Học sinh cần phải huy động kiến thức lí luận , kiến
thức về tác gia văn học để trình bày khái niệm về phong cách, các phương diện biểu
hiện cụ thể trong phong cách nghệ thuật của hai tác giả.
Đồng thời đây cũng là phần lí giải tại sao lại có sự tương đồng và nét khác biệt trong
cách khám phá thể hiện hình tượng hai dòng sông. Nguyên nhân do thời đại, bối cảnh
văn hoá xã hội hầu như không có. Yếu tố chính làm nên sự độc đáo của hai hình tượng
Sông Đà, Sông Hương trong hai bài kí là phong cách nghệ thuật của 2 tác giả.
Cả hai đều là những nhà văn viết tuỳ bút thành công. Tuỳ bút Nguyễn Tuân giàu chất
kí, chất truyện. Bút kí của HPNT giàu chất trữ tình- chất tuỳ bút. Cùng có phong cách
tài hoa uyên bác, nhưng Nguyễn Tuân tài hoa kiêu bạc, HPNT tài hoa sâu lắng.
Nguyễn Tuân đến với sông Đà như đến với một sự thử thách để bộc lộ cái Tôi độc đáo
tài hoa, thể hiện cảm hứng mãnh liệt trước cái đẹp, cái khác thường phi thường thì HP
đến với sông Hương như một sự tương giao linh diệu của một tâm hồn Huế, gắn bó
tha thiết với dòng sông với xứ Huế, với chiều sâu văn hoá của đất quê hương. Nguyễn
Tuân là phù thuỷ ngôn từ, câu chữ co duỗi nhịp nhàng, giàu giá trị tạo hình, dựng cảnh
tả người đặc sắc. HPNT giàu liên tưởng, tưởng tượng, lối văn đậm chất thơ, thiên về
thể hiện cảm xúc suy ngẫm mang chiều sâu văn hoá.
Dàn ý chi tiết số 3 1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường và Ai đã đặt tên cho dòng sông
- Giới thiệu vấn đề nghị luận: vẻ đẹp của sông Hương, sông Đà, và về việc bảo vệ
cảnh quan thiên nhiên của quê hương, đất nước. 2. Thân bài 6
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
* Vẻ đẹp sông Hương: Vẻ đẹp thiên nhiên của sông Hương
• Sông Hương ở thượng lưu: dòng sông ở thượng nguồn như một “bản trường ca
của rừng già”được ví như “cô gái Digan phóng khoáng và man dại, sông
Hương mang vẻ đẹp dịu dàng trí tuệ của người mẹ phù sa => nơi khởi nguồn
sông Hương mang vẻ đẹp hoang dại, đầy cá tính.
• Sông Hương trên hành trình tìm đến với Huế:Sông Hương như người gái đẹp
ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, khi về xuôi nó như người
con gái tìm kiếm tình nhân đích thực.
• Sông Hương giữa lòng thành phố Huế: nhìn bằng đôi mắt hội họa, sông Hương
và những chi lưu của nó tạo thành đường nét hết sức tinh tế; sông như điệu
slow sâu lắng, trữ tình dành riêng cho Huế; sông Hương trong cái nhìn say đắm
của nhà văn là một người tình chung thủy.
• Sông Hương trước khi từ biệt Huế: như nàng Kiều trở lại tìm Kim Trọng để nói
một lời thề trước lúc đi xa.
- Sông Hương – dòng sông của lịch sử, thơ ca, âm nhạc
• Lịch sử: Sông Hương như một bản hùng ca ghi dấu bao chiến công oanh liệt của đất nước
• Sông Hương là dòng sông thi ca, là nguồn cảm hứng bất tận cho các văn nghệ
sĩ, dòng sông chưa bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nhà thơ.
- Nghệ thuật: Bút pháp giàu chất thơ, giàu hình ảnh, cảm xúc, sử dụng nhiều nghệ
thuật nhân hóa, so sánh, văn phong tao nhã, tinh tế, tài hoa..
* Vẻ đẹp sông Đà: Vẻ đẹp hung bạo của một dòng sông duy nhất trên đất nước
chảy về hướng Bắc.
• Cảnh đá “dựng vách thành”, những đoạn đá chẹt lòng sông như cái yết hầu
• Đoạn mặt ghềnh Hát Loong: trong khung cảnh mênh mông hàng cây số là một
thế giới đầy gió, đá giăng đến chân trời, bọt tung trắng xóa. 7
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
• Những cái hút nước sẵn sàng nhấn chìm và đập tan mọi chiếc thuyền
• Âm thanh của dòng thác luôn thay đổi: lúc thì oán trách nỉ non, lúc khiêu khích
chế nhạo, lúc đột ngột gầm thét..
• Những trùng vi thạch trận bày sẵn ra, bí hiểm để ăn chết con thuyền và người lái đò
- Nguyễn Tuân làm trang văn mình lung linh nhờ những vẻ đẹp mà ông vay mượn ở
các bộ môn nghệ thuật làm nên hàng loạt so sánh, liên tưởng bất ngờ.
Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng:
• Dòng chảy uốn lượn như mái tóc người thiếu nữ “con sông Đà tuôn dài, tuôn
dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc
bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuộn cuộn mù khéo mèo đốt nương xuân”
• Cảnh vật hai bên bờ hoang sơ nhuốm màu cổ tích, trù phú tràn trề nhựa sống
Nghệ thuật: vận dụng kiến thức của nhiều lĩnh vực khác nhau để xây dựng hình tượng
con sông; kết hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật như nhân hóa, so sánh, liên tưởng; khám
phá con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
*Điểm tương đồng, khác biệt: Tương đồng:
Cả hai con sông đều được khám phá ở phương diện trữ tình, thơ mộng và hoang sơ.
Hai nhà văn đều sử dụng thể loại tùy bút một áng văn xuôi trữ tình mang nhiều cảm
hứng sáng tạo và tính cá nhân. Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Tuân đều huy
động kiến thức từ các bộ môn văn hóa, lịch sử, địa lý và tài năng uyên bác của mình
trong sử dụng ngôn ngữ. Khác biệt: 8
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
+ Hoàng Phủ Ngọc Tường ví dòng sông Hương với hình tượng người phụ nữ khi thì
mang dáng dấp của cô gái Digan phóng khoáng và man dại, khi thì như nàng thiếu nữ
ngủ mơ mang, lúc lại như tài nữ đánh đàn lúc nửa đêm, rồi có lúc như nàng Kiều thủy
chung tìm về với chàng Kim. Tác giả viết tùy bút về dòng sông từ cảm hứng một cuộc
tìm kiếm có ý thức trong tình yêu
+ Nguyễn Tuân cảm nhận vẻ đẹp của sông Đà ở hai mặt hung bạo và trữ tình, khám
phá con sông đầy tiềm năng cho sự phát triển của đất nước. Sông Đà đẹp nét đẹp của
một con người đầy cá tính: lúc như bầy thủy quái, lúc như một cố nhân. Đặc biệt,
Nguyễn Tuân miêu tả vẻ đẹp hung bạo của con sông để làm nổi bật sự tài hoa, trí tuệ của con người.
Lí giải sự khác biệt
Dựa trên sự khác nhau trong hoàn cảnh sáng tác, phong cách nghệ thuật của từng nhà
văn: Tùy bút Nguyễn Tuân giàu chất kí, chất truyện. Bút kí của Hoàng Phủ Ngọc
Tường giàu chất trữ tình - chất tuỳ bút. Cùng có phong cách tài hoa uyên bác, nhưng
Nguyễn Tuân tài hoa kiêu bạc, Hoàng Phủ Ngọc Tường tài hoa sâu lắng. 3. Kết bài
Hoàng Phủ Ngọc Tường đến với sông Hương như một sự tương giao linh diệu của
một tâm hồn Huế, gắn bó tha thiết với dòng sông với xứ Huế, với chiều sâu văn hoá
của đất quê hương thì Nguyễn Tuân đến với sông Đà như đến với một sự thử thách để
bộc lộ cái Tôi độc đáo tài hoa, thể hiện cảm hứng mãnh liệt trước cái đẹp, cái khác thường phi thường. Dàn ý số 4 1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường và hai tác phẩm (Người lái
đò sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông?). 2. Thân bài 9
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
a. Điểm giống nhau
Hai con sông đều có vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội.
Hai con sông đều mang vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình. b. Điểm khác nhau • Sông Đà - Vẻ đẹp hung bạo:
Cảnh vách đá hai bên sông dựng đứng như vách thành và ở quãng sông hẹp. Có quãng
con nai con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia. Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.
Cảnh ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng: Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô
gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà…
Cảnh ở quãng Tà Mường Vát: Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái
giếng bê tông thả xuống dòng sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu
như cái cửa cống bị sặc... những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.
Nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống.
- Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình:
Khi từ tàu bay nhìn xuống: Sông Đà “tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình... đốt
nương xuân”. Sông Đà đổi màu theo từng mùa một cách độc đáo: mùa xuân xanh ngọc bích, mùa thu đỏ.
Khi đi rừng lâu ngày bất ngờ gặp lại con sông: Niềm vui vô hạn của tác giả khi bất
ngờ gặp sông Đà: “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm”, “nối lại chiêm bao đứt
quãng”, “như gặp lại cố nhân”. Sông Đà gợi cảm như một cố nhân, có vẻ đẹp như trò
chơi trẻ con tinh nghịch, có vẻ đẹp Đường thi.
Khi đi thuyền trên sông phía hạ lưu: Cảnh thiên nhiên thi vị, mơn mởn: trôi qua một
nương ngô “nhú lá non”, con hươu thơ ngộ, “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”.
Sông Đà như một “người tình nhân chưa quen biết”.
→ Hình tượng sông đà vừa mang nét hung bạo lại vừa trữ tình thơ mộng. Qua hình
tượng sông Đà đã thể hiện tình cảm của Nguyễn Tuân với thiên nhiên Tây Bắc. 10
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương • Sông Hương:
- Vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội:
Sông Hương lúc ở thượng nguồn được miêu tả chi tiết qua những hình ảnh so sánh,
nhân hóa: như một bản trường ca của rừng già, như một cô gái Di – gan phóng khoáng
man dại, như người mẹ phù sa của một nền văn hóa xứ sở.
Trong cuộc hành trình tìm kiếm người tình mong đợi, sông Hương dường như muốn
giấu đi vẻ hoang dại nơi rừng già của mình để thay đổi diện mạo, hoàn thiện bản thân
hơn trước khi đến gặp người yêu.
Sau khi ra khỏi vùng núi, sông Hương như nàng tiên được đánh thức, bừng lên sức trẻ
và niềm khao khát của tuổi thanh xuân, uốn mình liên tục.
Ở ngoại vi thành phố, sông Hương mang vẻ đẹp cổ kính khi uốn mình qua những lăng tẩm của vua chúa.
- Vẻ đẹp thơ mộng trữ tình:
Khi về gặp thành phố Huế sông Hương vui tươi hẳn lên, tiếp tục uốn mình mềm mại.
Sông Hương khi đi qua thành phố đã trôi đi chậm, thật chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh.
Tác giả so sánh sông Hương như Điệu “slow tình cảm” dành cho Huế, trăm nghìn ánh
hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy.
→ Sông Hương khi chảy qua thành phố đẹp trữ tình, thơ mộng, cổ kính, gần gũi, giản
dị, sinh động, có tâm hồn và gắn bó với bản sắc văn hóa Huế.
Sông Hương chia tay thành phố đầy luyến tiếc, vấn vương. Sực nhớ lại một điều gì
chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông - tây để gặp lại thành
phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ.
→ Dù phải ra đi nhưng sông Hương luôn nhớ về thành phố của nó, vẫn giữ trọn lời
thề ân tình thủy chung với xứ này. 3. Kết bài
Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật hai tác phẩm.
Liên hệ sông Đà và sông Hương - Mẫu 1 11
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
Thiên nhiên muôn đời này vẫn là người bạn thiết thân của các văn sĩ nói chung và
những nhà văn Việt Nam nói riêng. Bởi vậy, hình ảnh thiên nhiên của non sông đất
nước đi vào những trang văn của các tác giả văn học thật đáng yêu đáng mến biết
nhường nào. Những dòng sông Việt Nam trong văn học cũng được nhìn nhận dưới vẻ
đẹp thơ mộng và trữ tình quyến rũ đến kì lạ. Chỉ qua hai tùy bút Người lái đò sông Đà
(Nguyễn Tuân) và Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) ta đã cảm nhận được điều đó.
Diễn đạt vẻ đẹp trữ tình của sông Đà, Nguyễn Tuân đã dùng những trang văn đậm
chất thơ, lắng sâu xúc cảm trữ tình. Con sông Đà “tuôn dài như áng tóc trữ tình…”
câu văn dài chất chứa niềm yêu say mê của tác giả đối với sông Đà. Biện pháp so sánh
không chỉ gợi chiều dài của dòng sông mà còn cảm nhận về dáng hình, dòng chảy của
nó. Sông Đà trong một sự vận động, chảy trôi miên man, vô tận. Sông Đà hung dữ đã
được thay bằng hình ảnh một con sông mềm mại, uốn lượn, được hình dung như mái
tóc của người thiếu nữ. Hình ảnh gợi cảm, duyên dáng, tình tứ, có khả năng tạo ra
những trường liên tưởng rộng lớn qua trí tưởng tượng sinh động của nhà văn. Sông Đà
là linh hồn Tây Bắc, nước mây, đất trời như nối liền một dải “đầu tóc, chân tóc ẩn
hiện trong mây trời Tây Bắc… cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân” Cảnh vật
thơ mộng và huyền ảo. Câu văn xuôi vừa giàu chất tạo hình vừa thấm đượm chất thơ.
Nguyễn Tuân nhìn sông Đà ở nhiều góc độ, soi chiếu nó ở nhiều phương diện, để rồi ở
phương diện nào cũng tìm ra những nét đẹp của nó, khi thì nhìn say sưa, khi lại xuyên
qua cảnh vật, khi lại bay tạt ngang sông Đà, khi nhìn từ trên xuống, khi nhìn từ dưới
lên…Sông Đà được cảm nhận như một sinh thể sống có linh hồn. Sắc nước sông Đà
có khi là màu xanh trong suốt, rực sáng đến diễm lệ, có khi là sắc đỏ đậm đặc đến bầm
tím. Những hình ảnh ấy tác động mạnh mẽ vào giác quan của người đọc, tạo những
trường liên tưởng mà khi tiếp nhận, người đọc luôn có cảm giác bất ngờ, lí thú.
Sông Đà được nhìn như một cố nhân, thể hiện mối tri âm, tri kỉ của tác giả với con
sông. Đã là cố nhân thì gần thương, xa nhớ, bởi vậy, những câu chữ của Nguyễn Tuân
tràn đầy âu yếm, nâng niu, trân trọng. Mỗi dòng, mỗi chữ đều quyệt chặt tình yêu với
con sông, thể hiện sinh động qua biện pháp nhân hóa. Những câu văn lúc này giống 12
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
như những câu thơ tuyệt bút của đời Đường khi xưa, lắng sâu trong màu sắc cổ điển.
Sông Đà là một cố nhân nhưng gặp lại sông Đà, lúc nào thi nhân cũng cảm thấy ngỡ
ngàng. Vẻ đẹp sông Đà luôn đem đến cho người ta sự say mê, ngỡ ngàng, cuốn hút.
Mỗi lần gặp lại, niềm say mê lại càng lớn hơn. Dường như có một sự liên hệ nào đó
giữa không gian đầy sức sống của mảnh đất Dương Châu trong câu thơ của Lí Bạch
với không gian rực rỡ của sông Đà. Từ ánh sáng của dòng sông mà bắt thành ánh nắng
tháng ba Đường thi thì quả là tài hoa. Tình tri kỉ của người xưa như truyền những xúc
cảm “đằm đằm, đầm ấm” cho Nguyễn Tuân gặp lại sông Đà.
Bờ sông Đà được miêu tả bằng những câu văn đậm xúc cảm hoài niệm: “hoang dại…
cổ tích tuổi xưa”. Sông Đà đẹp vẻ đẹp cổ kính, gần gũi, tha thiết. Cái hoang dại của
dòng sông được so sánh với nét hoang sơ của bờ tiền sử, cái trẻ trung của dòng sông
được so sánh với nỗi niềm hồn nhiên của cổ tích. Nguyễn Tuân rất có tài khi sử dụng
biện pháp so sánh. Lần so sánh nào cũng khiến người ta ngỡ ngàng, thán phục, say mê.
Câu văn đưa người đọc trở về với một thời quá vãng xa xưa, sông Đà được khoác lên
tấm áo lung linh, huyền ảo, gợi nên một nét đẹp yên bình, thơ mộng, gần gũi và thân thiết.
Sông Đà giống như một phần lịch sử dân tộc, là hồn thiêng của đất nước mang theo
khát vọng ngàn đời của con người. Không phải đến Nguyễn Tuân mới phát hiện ra vẻ
đẹp sông Đà mà nét đẹp của dòng sông ngàn đời vẫn thế. Những câu văn giúp người
đọc cảm nhận dòng chảy của thời gian lịch sử. Dòng sông từ quá khứ đến hiện tại, trôi
chảy đến tương lai. Dòng chảy của sông Đà là dòng chảy của lịch sử, đất nước. Những
câu văn đậm chất thơ, chứa chan xúc cảm trữ tình. Phải chăng chất thơ ấy chính là
chất thơ “hoài cựu” (Nguyễn Đăng Mạnh) dưới nét bút tài hoa của người nghệ sĩ.
Những câu văn đắm chìm trong quá khứ rồi lại ngỡ ngàng, giật mình khi quay trở lại
hiện tại. Âm thanh của tiếng còi xúp lê chính là tín hiệu của cuộc sống mới, thể hiện
những nét đẹp hiện đại. Giữa bức tranh đầy chất thơ của đôi bờ sông Đà, giữa dòng
chảy êm đềm của thời xưa cũ, không gian tĩnh lặng khôn cùng, nhà văn thèm nghe
thấy một tiếng còi sương. Đó không chỉ là một âm thanh đơn thuần mà còn là âm
thanh của nỗi niềm, ước mơ, khát vọng trong nhà văn. Khát vọng về hình ảnh một 13
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
ngày mai tươi sáng của vùng đất Tây Bắc đã được thắp lên trong một âm điệu lạc
quan, yêu đời. Ngòi bút của Nguyễn Tuân không chỉ làm người ta kinh ngạc bởi sự dữ
dội của dòng sông mà còn làm người ta yêu thích bởi chất trữ tình của dòng sông ấy.
Bằng trí tưởng tượng phong phú, bằng biện pháp so sánh, ẩn dụ đầy tài hoa, ngôn ngữ
điêu luyện, cách diễn đạt độc đáo, những câu văn giàu nhạc điệu, bút pháp hiện thực
kết hợp với lãng mạn, trữ tình tạo vẻ đẹp rực rỡ, cuốn hút của sông Đà. Ở đó tưởng
chừng bao nhiêu vốn sống, bao nhiêu kho kiến thức về văn học, lịch sử, địa lí, quân sự,
thể thao… cùng tình yêu say mê đã giúp Nguyễn Tuân viết về một dòng sông Đà thật
sự ấn tượng và đẹp đẽ. Cũng giống mạch văn mà Nguyễn Tuân đã viết về sông Đà,
miêu tả con sông dọc theo dòng chảy của nó, nhưng với cá tính dịu dàng của người
con xứ Huế, cách viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng Hương Giang lại gợi cho
người đọc một cảm giác khác, cảm giác của một cái gì đó dịu nhẹ cứ len lỏi miên man
rồi từ từ thấm vào hồn người, làm trỗi dậy một cách trầm tĩnh cái tình yêu mê man,
say đắm đối với dòng sông mang nét đẹp văn hóa xứ sở. Sông Hương – con sông đã đi
vào thi ca với vẻ quyến rũ lạ kỳ:
“Cầu cong như chiếc lược ngà
Sông dài mái tóc cung nga buông hờ”
Dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường sông Hương đã trở thành một con người,
một người con gái đẹp có tâm hồn, có cá tính, dịu dàng một vẻ sang trọng, đằm thắm
một vẻ đẹp đầy văn hóa.
Dưới con mắt của người nghệ sĩ, dòng chảy của Hương Giang được miêu tả thật hấp
dẫn với nhiều cách so sánh, những từ ngữ được sử dụng rất đắc địa, giàu hình ảnh,
màu sắc và hình khối tạo nên một dòng Hương Giang thật đẹp, thật nên thơ và như
một con người đầy xúc cảm chứa chan tình yêu với cố đô Huế giàu truyền thống văn
hóa. Giữa núi rừng hùng vĩ của Trường Sơn, sông Hương đã là bản trường ca của rừng
già… và cũng có lúc trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ
của hoa đỗ quyên rừng, vẻ đẹp của sông Hương nơi đại ngàn thật gần với vẻ dữ dằn
mà cũng thật dịu dàng một cách hoang dại của sông Đà dưới ngòi bút tài hoa của 14
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
Nguyễn Tuân “sông Đà hung bạo và trữ tình… sông Đà tuôn dài, tuôn dài như áng tóc
trữ tình mà đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo
tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân (Nguyễn Tuân – Người lái
đò sông Đà). Cái dữ dội của sông Hương nơi đại ngàn đã được tác giả chọn lựa một
hình ảnh so sánh thật sống động, gợi cảm và đầy màu sắc văn hóa sông Hương đã
sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại. Rừng
già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Dưới
lăng kính của người nghệ sĩ, sông Hương đã trở thành một con người, một con người
con gái có đầy đủ tâm hồn, tính cách, lòng yêu thương rừng già đã chế ngự bản năng
của người con gái để “sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ,
trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Có thể thấy ngay ở trang đầu
tiên dành cho sông Hương, tác giả đã sáng tạo một loạt hình ảnh độc đáo để gợi tả vẻ
đẹp mang màu sắc văn hóa của dòng sông. Từ đó tạo cảm giác sông Hương khi vào
lòng thành phố đã thay đổi mình, kiềm chế mình để phù hợp với vẻ mộng mơ, thâm
trầm và cổ kính của cố đô. Sông Hương như người con gái đẹp ngủ mơ màng được
đánh thức để hòa mình cùng Huế, nó duyên dáng vặn mình và bước đi chậm chạp, thật
quý phái uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý
thức… Bước chuẩn bị để dòng sông đi vào lòng thành phố đã được tác giả miêu tả rất
kĩ càng với một cảm xúc ở độ cao trào, một loạt hình ảnh so sánh được sử dụng để
khắc họa vẻ đẹp của dòng sông một cách hoàn mĩ. Đến chân đồi Thiên Mụ thì Hương
Giang cùng tiếng chuông chùa cùng với sự thâm trầm uy nghiêm của những lăng tẩm
của vua chúa Nguyễn đã tạo cho sông Hương một vẻ đẹp văn hóa đặc biệt mà bất kể
một dòng sông nào của Việt Nam đều không có được. Vẻ đẹp ấy được tác giả chọn tả
bằng một câu văn dài như ngân lên trong hồn người đọc, tạo một dư âm, một ấn tượng
không thể phai mờ trong tâm trí người đọc. Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông
Hương như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp
tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga từ bờ bên kia giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà.
Nếu như Nguyễn Tuân đã tạo cho sông Đà vẻ trữ tình và hung dữ để nhằm mục đích
tôn vinh con người trong lao động, Hoàng Cầm tạo cho thi ca một dáng “nằm nghiêng 15
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
nghiêng trong kháng chiến trường kì” của dòng sông Đuống để tạo nên hình ảnh quê
hương yêu dấu trong những ngày đau thương thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại tạo cho
thi ca một dòng sông văn hóa. Vẻ đẹp của Hương Giang được tạo nên bởi truyền
thống, bản sắc văn hóa của xứ Huế, với vùng ngoại ô Kim Long hay những khu nhà
vườn Vĩ Dạ xanh mướt một màu thiên nhiên tràn đầy sức sống, những khu vườn thơ
mộng ẩn chứa trong lòng nó những con người phúc hậu, những nếp sống cổ xưa với
những nét sinh hoạt tinh tế đầy văn hóa. Và cái điệu chảy lững lờ như lưu luyến vấn
vương của dòng Hương Giang đã tạo nên một môi trường tuyệt vời cho những đêm ca
Huế, những đêm hội hoa đăng, những thú vui đố thơ, thả thơ trên những con thuyền
giữa dòng sông. Mặt nước yên tĩnh như không trôi đã nâng niu góp phần gìn giữ
những sinh hoạt văn hóa cổ truyền của Huế, tạo vẻ đẹp riêng thu hút và quyến rũ
khách thập phương. Điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế ấy thật hợp cảnh hợp tình
với những ngôi chùa cổ, những lăng tẩm uy nghi của chốn kinh thành xưa.
Sông Hương có vẻ đẹp riêng, đó là vẻ đẹp đặc trưng nên thơ và trữ tình của Huế bởi
nó mang trong mình cả một nền văn hóa của quê hương xứ sở. Những nét văn hóa đặc
sắc nhất ở Huế, theo tác giả, đều được sinh ra và tồn tại cùng vẻ mặt nước lặng lờ của
dòng sông, đó là những đêm hội hoa đăng, những làn điệu ca Huế ngọt ngào, những
khu vườn cây trái xanh tươi, những lăng tẩm uy nghiêm… Vì thế mà sông Hương trở
thành “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, điệu nhạc dìu dặt, đằm thắm của ca
Huế chỉ có thể cảm nhận được trong cái không gian tĩnh lặng của mặt nước sông
Hương về đêm. Cả câu Kiều hay nhất của Nguyễn Du khi miêu tả tiếng đàn của nàng
Kiều cũng được sinh ra từ những ngày “Nguyễn Du lênh đênh trên quãng sông này
với một phiến trăng sầu”. Như vậy sông Hương đã mang trong mình chất nhạc. Theo
cảm nhận của tác giả sông Hương không chỉ mang trong mình vẻ đẹp văn hóa mà nó
còn là môi trường sản sinh ra Truyện Kiều – niềm tự hào của văn hóa dân tộc “tôi đã
cảm nhận ra cái âm hưởng sâu thẳm của Huế trên mỗi trang truyện Kiều, thiên nhiên
của mảnh đất kinh xưa đã để lại một cái bóng mông lung nhưng rất dễ nhận ra trong
thơ Nguyễn Du”. Sông Hương trong cảm hứng của Hoàng Phủ Ngọc Tường không
chỉ mang vẻ đẹp thơ mộng của một vùng văn hóa truyền thống, không chỉ dịu dàng
một vẻ sơn thủy hữu tình mà còn là một dòng sông anh hùng như bao dòng sông khác 16
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
của quê hương Việt Nam, sông mang trong mình bao điều bí ẩn của lịch sử. Nếu
những trang miêu tả dòng chảy của dòng sông là những trang trữ tình nhất thì những
trang nói về lịch sử là những trang đáng tự hào nhất. Dòng sông “tươi trẻ và quyến rũ”,
lung linh sắc màu trong những ngày thanh bình lại trở thành người anh hùng sát cánh
cùng dân tộc đánh giặc. Việt Nam là đất nước có mạng lưới sông ngòi dày đặc, mỗi
người Việt Nam đều được sinh ra và lớn lên bên một dòng sông như lời bài hát:
“Trong ta, ai cũng có một dòng sông” hay lời thơ của một nhà thơ trẻ:
“Sinh ra ở đâu mà ai cũng anh hùng
Tất cả trả lời bên một dòng sông
“Quê hương Việt Nam mườn mượt những cánh đồng
Mỗi con người gắn bó một dòng sông”
Dù là một ngòi, một con kênh nhỏ vô danh hay là dòng sông Hồng ngầu đỏ phù sa,
dòng sông Lô gắn bó với những chiến công lịch sử của dân tộc đều đã là nguồn cảm
hứng và ít nhất một lần đi vào tác phẩm thi ca của dân tộc. Và con sông Đà trong
“Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân, dòng sông Hương trong “Ai đã đặt tên cho
dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có được vinh dự mang trong mình vẻ đẹp
thơ mộng trữ tình tiêu biểu cho những dòng sông Việt Nam trong văn học. Qua hai
thiên tùy bút, vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của những dòng sông Việt Nam hiện lên vừa
chân thực vừa mơ màng chẳng những thể hiện tài năng của các tác giả mà còn khẳng
định tình yêu thiết tha, sâu nặng của những nhà văn Việt Nam đối với non sông đất nước.
So sánh sông Đà và sông Hương hay nhất - Mẫu 2
Viết về dòng sông, không ai dài hơi và độc đáo như Nguyễn Tuân với con sông Đà
hung bạo và trữ tình, thâm hiểm mà bao dung. Hoàng Phủ Ngọc tường cũng góp vào
đề tài ấy một hình ảnh con sông Hương hiền hòa và man dại, dịu dàng mà cuồng nhiệt,
không kém phần đặc sắc. Trong dòng chảy bất tận, người đọc nhận thấy sông Hương
sông Đà có những điểm hợp lưu kì thú. 17
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
“Độc đáo” là những nét riêng biệt, khác lạ được thể hiện qua cách nhìn cũng như nghệ
thuật miêu tả của nhà văn. Hai bài kí “Người lái đò sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho
dòng sông?” đã xây dựng được những hình tượng dòng sông mang những nét độc đáo
đầy hấp dẫn, thú vị.
Trong đoạn trích “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân tập trung tô đậm nét hung bạo,
dữ dội của sông Đà, hình dung dòng sông ấy như kẻ thù hiểm độc và hung ác. Trước
hết, nét hung bạo ấy có thể thấy rõ qua diện mạo khác thường của dòng sông. Đó là
cảnh “đá bờ sông dựng đứng vách thành” mà “mặt sông chỉ đúng lúc ngọ mới có mặt
trời”, vách đá chen lòng sông như một cái “yết hầu” hay “có chỗ con nai con hổ có thể
vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia”. Một nét đẹp thực hùng vĩ của bờ đã ven sông Đà!
Cùng với đó là hình ảnh của sóng nước trên mặt ghềnh Hát lóng“dài hàng cây số,
nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”.
Trong tùy bút “Sông Đà”, Nguyễn Tuân đã có biệt tài miêu tả gió và ở đây để tả gió
ông đã sử dụng từ ngữ vô cùng độc đáo “gùn ghè”. Ta tự hỏi sao tác giả không dùng
chữ“gầm ghè” mà lại phải là “gùn ghè”? Đọc câu văn tên ta cảm nhận được cái “gùn
ghè”ấy vừa mang sắc thái “gầm ghè” vừa gợi được thời gian dài đắng đẵng tạo nên sự
ám ảnh da diết, ám ảnh về hinh tượng con sông Đà đầy hung bạo.
Và điều đặc biệt khiến người đọc không thể bỏ qua đó là những cái hút nước sông Đà
đầy dữ dội: “Trên sông bỗng có những cái hút nước, giống như cái giếng bê tông thả
xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”. Xen lẫn vào đó có cả những ấn tượng đáng sợ:
“Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ… Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh
ngang vô lí là những cái giếng ấy nó lôi tuột xuống… thuyền trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi”.
Nhà văn cho người đọc thêm một góc nhìn khi đặt mình vào vị trí một nhà quay phim
để thấy hết cảm giác về những hút nước dữ dội ấy. Con sông Đà hung bạo bởi những
thác nước dữ dội khiến người ta sợ hãi khi nghe tiếng nước từ xa rồi nhìn thấy khi đến
gần. Từ xa là những âm thanh đặc biệt: “Tiếng thác nước nghe như là oán trách gì, rồi 18
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
lại như là van xin, như là khiêu khích”. Khi đến gần “nó rống lên như một nghìn con
trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng nứa nổ lửa”.
Âm thanh được tái hiện hết sức cuồng nộ cho thấy rõ “cái ngông” trong bút pháp nghệ
thuật của nhà văn, trong sở thích khám phá những cảm giác mạnh. Độc đáo hơn khi
sông Đà được miêu tả với vẻ đẹp hung bạo thể hiện qua tâm địa. Đá sông Đà vốn do
thiên tạo nhưng con mắt nghệ sĩ của Nguyễn Tuân, nó còn biết bày thạch thủy trận.
Con sông Đà vốn là sự vật vô tri bỗng thành binh tướng dũng mãnh, thành loài thủy
quái khổng lồ. Qua sự miêu tả ấy của nhà văn đã là nổi bật lên sự tài hoa, tài trí của
người lái đò. Mỗi lần vượt thác của ông là mỗi lần ông phải chiến đấu mạnh mẽ với thần sông, thần đá.
Khác với Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường tự chọn cho mình lối chơi “độc
bạch”, thiên nhiều về tư duy hướng nội, lắng đọng suy tư để miêu tả hình tượng sông
Hương. Chính vì thế, sông Hương được tô đậm ở nét trữ tình, thơ mộng, gợi cảm và
nữ tính, luôn mang dáng vẻ của một người con gái xinh đẹp, mong manh có tình yêu say đắm.
“ở thượng nguồn sông Hương như một cô gái Di gan phóng khoáng và man dại…
rừng già đã hun đúc cho nó bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và phóng khoáng”.
Tác giả đã miêu tả sông Hương ở thượng nguồn với sức sống mãnh liệt, hoang dại
nhưng cũng dịu dàng, say đắm. Dòng sông đã được thổi bằng ngọn gió tâm hồn dạt
dào, nhạy cảm, liên tưởng tự do, phong phú. Khi ra khỏi rừng, sông Hương được thay
đổi tính cách “sông như chế ngự được bản năng con gái để mang một vẻ đẹp dịu dàng
và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa cho một vùng văn hóa xứ sở”.
Sông Hương đã trở thành niềm tự hào của Huế vì vậy khi nhắc về nó thông thường
người ta hình dung đến gương mặt kinh thành đầy trữ tình như Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã tìm tận về nguồn cội để phát hiện bản chất của cô gái Di – gan, sự cá tính
mạnh mẽ, bản lĩnh, gan dạ vững vàng… Đó là một phát hiện đấy lí thú về một dòng
sông quen thuộc. Miêu tả sông Hương, nhà văn không nhìn nhận nó trong tư thế độc 19
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
lập mà đặt trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với kinh thành Huế. Dòng sông mang
linh hồn và cảm xúc như một tình nhân trên hành trình tìm kiếm tình yêu đích thực.
Qua đoạn chảy xuôi tìm đường trở về thành phố, sông Hương đã vượt qua những giới
hạn khắc nghiệt để chứng tỏ tình yêu với Huế. Nó lặng lờ, duyên dáng qua những
khúc chuyển mình đầy mềm mại. “Nó kéo một nét thẳng thực yên tâm”, “nó uốn một
cánh cung nhẹ sang cồn Hến như một tiếng vân không nói của tình yêu”.
Đã có bao đêm sông Hương tình tự bên thành phố thân yêu của mình để rồi đến lúc
phải rời đi nó lại chẳng muốn chia xa mà bịn rịn, quyến luyến. Sông Hương gặp lại
thành phố Huế ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ như để nói một lời thề chung thủy với
mảnh đất cố đô. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân
gian, là tấm lòng của người dân Châu Hóa xưa mãi chung tình với quê hương, xứ sở.
Một cái nhìn nghệ sĩ tài hoa, đa tình mà có lẽ chỉ riêng Hoàng Phủ Ngọc Tường mới có được!
Có thể thấy cả hai nha nhà văn đều xuất phát từ chỗ ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên qua
hình tượng dòng sông nổi tiếng đã từng là nguồn cảm hứng của nghệ thuật nói chung
và văn học nói riêng. Đó là lí do hai tác phẩm có thật nhiều nét tương đồng.
Trước hết, sông Đà và sông Hương đều được các tác giả miêu tả như một nhân vật trữ
tình có tâm hồn, tích cách với những đặc trưng riêng biệt. Sông Đà vốn được biết đến
là một con sông dữ dội lắm thác nhiều ghềnh nhưng dưới ngòi bút tài hoa, yêu thích
cái đẹp của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như kẻ thù số một của con người. Đá sông
biết bày thạch thủy trận chiến đấu với người lái đò, biết sử dụng binh pháp, mưu lược
để lật đổ những chiếc thuyền. Có khi sông Đà lại được nhìn như người con gái với mái
tóc dài duyên dáng, yêu kiều.
Cùng với đó, sông Hương được Hoàng Phủ Ngọc Tường khắc họa như một người con
gái, người mẹ phù sa, người tình với Huế. Sông Hương cùng với dòng chảy của nó
như những nét tâm trạng không nói nên lời trong tình yêu của người con gái. Chính vì 20
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
vậy mà người đọc mỗi trang văn dù miêu tả thiên nhiên nhưng ta vẫn thấy thấm đượm hồn người sâu sắc.
Không chỉ vậy, cả hai dòng sông đều được nhìn nhận, đánh giá ở hai phương diện đối
lập hung bạo – trữ tình để thấy chúng là những sinh thể thống nhất. Bên cạnh vẻ đẹp
hùng vĩ, dữ dội trước đó, sông Đà cũng mang những nét thơ mộng, trữ tình đầy mới lạ.
Nhìn từ trên cao xuống “con sông tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc
chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn
cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân”. Mảnh đất uốn lượn nơi đầu nguồn Tây Bắc đã
gợi liên tưởng đến dáng hình người thiếu nữ với mái tóc dài thướt tha. Màu nước sông
Đà thay đổi theo mùa: “mùa xuân dòng xanh màu ngọc bích, mùa thu nước sông Đà lừ
lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”.
Nhà văn đã cảm nhận sông Đà bằng cả niềm yêu nước và tự hào dân tộc. Cảnh đẹp
bên bờ sông trầm mặc và cổ kính. Với vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình ấy, Nguyễn Tuân đã
khéo léo đặt cho con sông một cái tên đầy ý vị “tình nhân chưa quen biết”.
Cũng như sông Đà, sông Hương trước khi mang vẻ đẹp trữ tình, lãng mạn, nó đã vô
cùng dữ dội ở phía thượng nguồn. Bắt nguồn từ Trường Sơn hùng vĩ, nơi có rừng già,
vực sâu, ghềnh thác, cây cối rậm rạp,… bởi vậy giống như bao dòng sông khác chảy
qua đại ngàn, sông Hương có lưu tốc rất mạnh. Tác giả cho rằng “nếu chỉ ngắm khuôn
mặt kinh thành sẽ không hiểu bản chất sông Hương, phần tâm hồn sâu thẳm của nó
bởi dòng sông đã tự giấu mình, đóng kín ở cửa rừng…”. Nơi đầu nguồn của dòng
chảy, dòng sông ấy đã từng là một bản trường ca của rừng già trước khi về đến vùng
châu thổ êm đềm. Vậy mới thấy được dù độc đáo nhưng sông Đà, sông Hương vẫn có điểm hợp lưu.
Một đặc điểm biệt không thể không kể đến đó là ngòi bút miêu tả tài hoa, uyên bác
của hai nhà văn khi viết về hai dòng sông. Cả hai đều được miêu tả trên phương diện
văn hóa, thẩm mĩ. Sông Đà là nơi hội tụ hai nét đẹp tiêu biểu, đặc trưng của thiên
nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, dữ dội vừa trữ tình, nên thơ. 21
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
Còn sông Hương, đó còn là dòng sông của âm nhạc, dòng sông của thi ca, lịch sử gắn
liền với những nét đặc sắc về văn hóa, vẻ đẹp của người dân xứ Huế. Người đọc còn
được thưởng thức và chiêm ngưỡng cái đẹp trên nhiều lĩnh vực qua ngòi bút đầy uyên
bác của nhà văn. Từng khía cạnh được miêu tả đều cho thấy vốn tri thức phong phú,
sâu sắc. Tất cả làm nên vẻ đẹp ấn tượng đặc sắc cho mỗi tác phẩm.
Vậy do đâu mà ở cả hai hình tượng dòng sông lại có những điểm chung và nét riêng
độc đáo ấy? Phải chăng bởi tấm lòng say mê trước vẻ đẹp đất nước, tự hào trước thắng
cảnh non sông mà hai nhà văn đã thấy ở hai dòng sông đó nhiều điểm chung như vậy?
Cùng với đó, cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn đã khiến cho hai tác phẩm dù có chung
đề tài nhưng vẫn mang những nét độc đáo hấp dẫn riêng không thể trộn lẫn. Một nghệ
sĩ lãng tử ham xô dịch, ưa cảm giác mạnh; một triết nhân lịch lãm. Họ như vắt kiệt cả
“bầu máu nóng”, đem cả tâm hồn và tài năng của mình để viết nên những áng văn
chương còn mãi với muôn đời.
Cùng đổ ra biển lớn, cùng hòa nước vào đại dương mênh mông nhưng chắc chắn
người đọc sẽ không thể nào quên những hành trình riêng mà sông Đà, sông Hương đã
chảy trong thế giới văn học. Chính những điểm gặp gỡ ấy càng làm nổi bật nét riêng
độc đáo của mỗi hình tượng, mỗi nhà văn; nét độc đáo làm nên sức sống và linh hồn cho tác phẩm.
So sánh sông Đà và sông Hương - Mẫu 3
Sông Đà hung bạo và trữ tình, thâm hiểm nhưng bao dung. Sông Hương kia lại hiền
hòa, dịu dàng nhưng cũng rất man dại, cuồng nhiệt và không kém phần đặc sắc.
Những hình ảnh ấy nghiễm nhiên hiện lên trong đầu chúng ta, công sức không nhỏ
chắc hẳn phải kể đến Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Hai con sông ấy mang những vẻ đẹp khác nhau, cùng với ngòi bút điêu luyện của hai
nhà văn lại càng tôn lên vẻ độc đáo, riêng biệt, đầy hấp dẫn và thú vị. Phần so sánh hai
tác phẩm Người lái đò sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông dưới đây sẽ làm rõ
ràng hơn những điều ấy. 22
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
Trong đoạn trích “Người lái đò sông Đà”, con sông được Nguyễn Tuân mô tả như một
kẻ thù hiểm độc và hung ác. Kẻ thù ấy có biết bao nhiêu là hung bạo: đá bờ sông dựng
đứng vách ngăn thành, mặt sông chỉ có đúng lúc ngọ mới có mặt trời,.... Bấy nhiêu ấy
thôi cũng đủ để tưởng tượng ra vẻ đẹp thật hùng vĩ. Cùng với đó là hình ảnh của sóng
nước trên mặt ghềnh Hát lóng“dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió,
cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”.
Biệt tài miêu tả gió của tác giả còn đặc biệt ở hơn nữa khi sử dụng từ ngữ vô cùng độc
đáo: “gùn ghè”. Một từ thật lạ, vừa mang cảm giác mạnh mẽ của “gầm ghè”, nhưng lại
vừa gợi được sự da diết, ám ảnh về hình tượng con sông Đà đầy hung bạo.
Đặt mình vào một góc nhìn toàn cảnh, nhà văn còn gửi gắm đến người đọc một cảm
giác rõ ràng hơn tất thảy về những cái hút nước dữ dội ấy. Phải chăng tiếng “hung
bạo” của sông Đà là từ những tiếng nước ấy mà ra?
Dù là xa hay gần, người ta cũng đều phải giật mình sợ hãi:“Tiếng thác nước nghe như
là oán trách gì, rồi lại như là van xin, như là khiêu khích”. Khi đến gần “nó rống lên
như một nghìn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng nứa nổ lửa”. Âm
thanh được tái hiện hết sức cuồng nộ cho thấy rõ “cái ngông” trong bút pháp nghệ
thuật của nhà văn, trong sở thích khám phá những cảm giác mạnh.
Thế những điểm đặc biệt và độc đáo nhất của sông Đà phải kể đến là sự hung hãn qua
tâm địa. Vốn tưởng chừng chỉ là thiên nhiên vô tri, nhưng qua ngòi bút của Nguyễn
Tuân, dòng sông lại là một binh tướng dũng mạnh, là một loài thủy quái khổng lồ
khiến người ta phải khiếp sợ. Nó biết bày thạch thủy trận, biết đặt những vòng bẫy,...
chẳng khác gì cách người ta bày binh bố trận. Cũng chính sự hung hãn ấy đã hoàn
toàn làm nổi bật lên sự tài hoa, khéo léo và tháo vát của người lái đò. Mỗi lần cầm tay
lái là mỗi lần ông phải chiến đấu với cả thần sông, thần đá.
Với những tâm sự nhẹ nhàng, sâu lắng và mang tư duy hướng nội, Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã khắc họa một sông Hương khác hẳn sông Đà kia của Nguyễn Tuân. Sông
Hương ở đây vừa trữ tình, thơ mộng lại vô cùng gợi cảm và nữ tính. Nhìn sông Hương, 23
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
người ta thấy được dáng vẻ của một người con gái xinh đẹp, mong manh đang mang
trái tim yêu thương say đắm.
Ở thượng nguồn, sông Hương được tác giả miêu tả với sức sống mãnh liệt, hoang dại:
“ở thượng nguồn sông Hương như một cô gái Di gan phóng khoáng và man dại…
rừng già đã hun đúc cho nó bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và phóng khoáng”. .
Dòng sông đã được thổi bằng ngọn gió tâm hồn dạt dào, nhạy cảm, liên tưởng tự do, phong phú.
Thế nhưng chỉ vừa đi ra khỏi rừng, sông Hương kia lại đột ngột thay đổi tính cách. Nó
chế ngự được bản năng con gái để mang một vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ hơn. Người ta
như thấy được hình ảnh người mẹ phù sa cho một vùng văn hóa xứ sở trong đó.
Nhắc đến Huế thì chắc chắn phải nhắc đến sông Hương, vì nó vốn đã trở thành niềm
tự hào của thành phố nên thơ này. Con sông kia có bản chất là cô gái Di-gan, cá tính,
mạnh mẹ, bản lĩnh ,đó là một cái nhìn hoàn toàn khác và vô cùng thú vị về biểu tượng
của kinh thành Huế. Miêu tả sông Hương, nhà văn không nhìn nhận nó trong tư thế
độc lập mà đặt trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với kinh thành Huế.
Sông Hương được miêu tả như cô gái vượt qua muôn ngàn trắc trở, mọi giới hạn khắc
nghiệt để tìm đường về với thành phố mà cô ấy yêu. Nó lặng lờ, duyên dáng qua
những khúc chuyển mình đầy mềm mại. “Nó kéo một nét thẳng thực yên tâm”, “nó
uốn một cánh cung nhẹ sang cồn Hến như một tiếng vâng không nói của tình yêu”.
Người ta như mường tượng được trong đầu hình ảnh cô gái “sông Hương” tình tự bên
Huế, để rồi đến lúc rời đi lại chẳng muốn chia xa mà bịn rịn, quyến luyến. Sông
Hương gặp lại thành phố Huế ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ như để nói một lời thề
chung thủy với mảnh đất cố đô. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành
giọng hò dân gian, là tấm lòng của người dân Châu Hóa xưa mãi chung tình với quê hương, xứ sở. 24
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
Cái nhìn đầy tình tứ và lãng mạn ấy, chắc chỉ có lẽ những tài năng như Hoàng Phủ
Ngạn Tường mới có được.
Điểm chung của hai tác phẩm này là chúng đều được lấy cảm hứng từ vẻ đẹp lộng lẫy
của thiên nhiên. Hai con sông nổi tiếng với hai góc nhìn khác nhau được người ta mô
tả thật xao xuyến lòng người.
Chúng đều được nhìn nhận như hai nhân vật trữ tình, có tâm tư và suy nghĩ riêng.
Được biết đến là một con sông dữ dội lắm thác nhiều ghềnh nhưng dưới ngòi bút tài
hoa của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như kẻ thù số một của con người. Đá sông
biết bày thạch thủy trận chiến đấu với người lái đò, biết sử dụng binh pháp, mưu lược
để lật đổ những chiếc thuyền.
Bên cạnh đó, người ta lại nhìn thấy hình ảnh người mẹ phù sa, người tình của Huế qua
lời mô tả sông Hương của Hoàng Phủ Ngạn Tường. Bao nhiêu lời tâm tình của người
người con gái đang yêu, những nỗi buồn hay cả giận hờn vu vơ cũng thật nên thơ.
Chính vì vậy mà người đọc mỗi trang văn dù miêu tả thiên nhiên nhưng ta vẫn thấy
thấm đượm hồn người sâu sắc.
Cũng như con người, cả hai dòng sông đều được đánh giá dựa trên hai mặt đối lập trữ
tình-hung bạo để người ta có thể hình dung toàn diện nhất về chúng. Bên cạnh vẻ đẹp
hùng vĩ, dữ dội trước đó, sông Đà cũng mang những nét thơ mộng, trữ tình đầy mới lạ.
Nhìn từ trên cao xuống con sông tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc
chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn
cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân. Hình ảnh ấy khiến người ta liên tưởng đến dáng
hình người thiếu nữ Tây Bắc yêu kiều, thướt tha.
Cũng như sông Đà, sông Hương trước khi mang vẻ đẹp trữ tình, lãng mạn, nó đã vô
cùng dữ dội ở phía thượng nguồn. Bắt nguồn từ Trường Sơn hùng vĩ, nơi có rừng già,
vực sâu, ghềnh thác, cây cối rậm rạp,… bởi vậy giống như bao dòng sông khác chảy
qua đại ngàn, sông Hương có lưu tốc rất mạnh. Nơi đầu nguồn của dòng chảy, dòng 25
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
sông ấy đã từng là một bản trường ca của rừng già trước khi về đến vùng châu thổ êm
đềm. Vậy mới thấy được dù độc đáo nhưng sông Đà, sông Hương vẫn có điểm hợp lưu.
Một đặc điểm biệt không thể không kể đến đó là ngòi bút miêu tả tài hoa, uyên bác
của hai tác giả khi miêu tả về dòng sông: chúng đều được nhìn nhận dưới phương diện
văn hóa- thẩm mỹ. Sông Đà đại hiện cho thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng
cũng rất trữ tình; Còn sông Hương lại là hiện thân của nét đặc sắc của âm nhạc, thi ca,
lịch sử và cả con người kinh thành Huế.
Một nghệ sĩ đầy lãng tử rất thích “xê dịch” và ưa thích cảm giác mạnh. Một triết nhân
lịch lãm, yêu sự lãng mạn, tinh tế và nhẹ nhàng. Mỗi người mang lại cho ta cảm giác
khác nhau về dòng sông kia, nhưng lại đều đem cả tâm hồn và tài năng của mình để
viết nên những áng văn chương còn mãi với muôn đời. Điểm chung lớn nhất của họ
chắc hẳn là tấm lòng say mê trước vẻ đẹp, tự hào trước thắng cảnh non sông tổ quốc.
Phải chăng chính những điều này đã khiến cho họ hoàn thành được những tác phẩm xuất sắc như vậy?
Cùng đổ ra biển lớn, cùng hòa nước vào đại dương mênh mông nhưng chắc chắn
người đọc sẽ không thể nào quên những hành trình riêng mà sông Đà, sông Hương đã
chảy trong thế giới văn học. Chính những điểm gặp gỡ ấy càng làm nổi bật nét riêng
độc đáo của mỗi hình tượng, mỗi nhà văn; nét độc đáo làm nên sức sống và linh hồn cho tác phẩm.
So sánh sông Đà và sông Hương - Mẫu 4
Đề tài những dòng sông luôn trở đi trở lại trong biết bao nhiêu trang thơ trang văn của
những người nghệ sĩ. Nếu như con sông Hồng được miêu tả trong tứ thơ Tràng Giang
của Huy Cận thì một lần nữa hình ảnh những dòng sông lại được Nguyên Tuân và
Hoàng Phủ Ngọc Tường chọn để làm nên hai tác phẩm đó là Người lái đò sông Đà và
Ai đã đặt tên cho dòng sông? Qua đó vẻ đẹp của hai con sông Đà và sông Hương xứ
Huế được hiện lên thật đẹp và nên thơ. Có thể nói ngoài vẻ đẹp hung bạo và rậm rộ 26
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
như bản trường ca của rừng già của hai dòng sông thì chúng ta còn thấy được vẻ đẹp
trữ tình đầy thi vị của chúng.
Trước hết những con sông Việt Nam hiện lên qua vẻ đẹp của sông Đà và sông Hương
qua vẻ đẹp về hình dáng. Vẻ đẹp ấy được bút pháp và tài nghệ của hai nhà văn tài hoa
ấy thể hiện rất tinh tế và làm cho người đọc liên tưởng được những hình ảnh hấp dẫn.
Trước hết là hình dáng sông Đà, với sự tài hoa uyên bác của mình nhà văn Nguyễn
Tuân đã mang đến trước mắt ta những vẻ đẹp vô cùng đẹp của con sông chỉ chảy riêng
một hướng đó. Chính vẻ đẹp trữ tình của nó đã làm đẹp hơn và lấn át đi những vẻ đẹp
hung bạo kia. Có thể nói vẻ đẹp hung bạo của nó khiến cho người ta khiếp sợ bao
nhiêu thì vẻ đẹp trữ tình này lại khiến cho người đọc yêu nó, say cái đẹp của nó bấy nhiêu.
Sông Đà từ trên cao nhìn xuống nó mang vẻ đẹp của một người thiếu nữ Tây Bắc.
Nhìn từ trên cao ấy sông Đà "tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình... đốt nương
xuân". Phải chăng đó chính là mái tóc của người thiếu nữ Tây Bắc đẹp như làn nước
vậy. Đặc biệt từ trên cao xuyên qua những đám mây ấy nhìn xuống vẻ đẹp ấy thật sự
giống như mái tóc mượt mà của người con gái xứ Hoa Ban ấy. Không những thế mái
tóc ấy còn hiện lên đẹp hơn khi "Đầu tóc chân tóc ẩn hiện trên mây trời Tây Bắc".
Hình ảnh mang đến cho ta một sự hấp dẫn và nên thơ lạ thường. Con sông hung bạo
với những trận bày thạch đá ấy, những thác nước dữ tợn ấy mà giờ đây lại hiền hòa
như mái tóc của người con gái vậy. Thế rồi tác giả quan sát kĩ nhìn dòng sông cũng
giống cả một dây thừng ngoằn nghèo nữa. Đó chính là vẻ đẹp thướt tha kiều diễm của sông Đà.
Không những thế sông Đà còn như một người cố nhân lâu ngày gặp lại chốc hiền hòa
rồi lại bất ngờ cáu kỉnh lên đấy thôi. Tác giả vẽ lên những hình ảnh của người cố nhân
ấy, nó mang vẻ đẹp như "vui như nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm
bao đứt quãng". Có thể thấy với bút pháp tài hoa của mình Nguyên Tuân đã mang đến
cho người đọc một người cố nhân đẹp. 27
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
Sông Đà còn trữ tình khi từ lòng sông nhìn sang hai bên bờ. Nhà văn suốt đời đi tìm
cái đẹp ấy đã mang đến cho ta những hình ảnh con sông Đà thật hoang sơ cổ kính.
Nhìn "bờ sông hoang sơ như một bờ tiền sử, hồn nhiên như nỗi niềm thuở xưa".
Không những thế mà bờ sông còn hiện lên yên ắng lặng lẽ như tờ. Dường như từ thời
nhà lí nhà Trần cũng yên lặng đến thế mà thôi. Nó còn hiện lên với vẻ đẹp tươi tắn của
những lá nương ngô mới nhú đầu mùa, cỏ quanh đồi đang ra những nõn búp mới. Qua
đây ta thấy sông Đà hiện lên thật hoang sơ cổ kính, cái vẻ đẹp ấy có từ thời rất xa xưa
đến nay vẫn còn nguyên.
Đến con sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng mang đến cho chúng ta một
nét đẹp của nó không kém phần sông Đà. Sông Hương xứ Huế cũng có những nét đẹp
hung bạo nhưng nhà thơ không nói đến nó quá nhiều mà tập trung vào vẻ đẹp trữ tình
của nó. Trước khi về đến thành phố thì dòng sông Hương cũng đã là một bản trường
ca của rừng già, nó đi qua những bãi đỗ quyên đỏ rực.
Trước hết vẻ đẹp ấy giống như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại, nó dịu
dàng đằm thắm hơn bao giờ hết. Nó không còn là bản trường ca của rừng già nữa mà
nó mang vẻ đẹp của sụ hiền lành đáng yêu. Không những thế nó còn mang vẻ đẹp của
người mẹ phù sa nơi đây. Sông mang về những phù sa màu mỡ để mang đến cho
những cánh đồng Châu Hóa kia.
Tiếp theo vẻ đẹp của dòng sông Hương còn được thể hiện khi nó vào ngoại vi thành
phố. Nhìn sông Hương "như người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa
đầy cỏ dại". Sông Hương cũng giông sông Đà mang một nét đẹp của người con gái.
Thế nhưng ở đây sông Hương mang không đẹp như mái tóc người con gái mà đẹp bởi
những đường cong quyến rũ. Để vào được đến thành phố sông Hương phải trải qua
không biết bao nhiêu đoạn gấp khúc quanh co qua những đồi thiên Mụ... Và chính
những đường gấp khúc ấy nó đã tạo nên những đường cong đẹp đẽ cho sông Hương.
Vẻ đẹp thứ hai của cả hai con sông đó chính là màu sắc. Những sắc nước ấy đã mang
lại những điều tuyệt đẹp cho sông Việt Nam. 28
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
Với sông Đà thì sắc nước thay đổi theo mùa. Mùa xuân sắc nước sông Đà xanh màu
xanh ngọc bích. Mùa thu nước sông Đà "lừ lừ chín đỏ như mặt của một người bầm đi
vì rượu bữa" hay là tức giận ai điều gì. Sông Đà chưa bao giờ có màu đen như Pháp đã
lếu láo đặt tên nó trên bản đồ.
Còn sắc nước sông Hương biến đổi theo ngày sớm xanh trưa vàng chiều tím. Đó là
những màu sắc đi liền với Huế. Chính vị thế mà ngay cả màu của sông cũng mang hồn Huế.
Qua đây ta thấy cả hai nhà văn đều mang đến cho chúng ta những vẻ đẹp của hai con
sông ấy. Qua những câu văn đầy tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân ta thấy được một
vẻ đẹp vô cùng trữ tình của con sông Đà Tây Bắc, và cũng như thế chúng ta cũng biết
thêm những nét đẹp của con sông Hương qua bút pháp miêu tả tài tình của Hoàng Phủ
Ngọc Tường. Tóm lại vẻ đẹp của những con sông ấy hay chính là những vẻ đẹp của những con sông Việt Nam
So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương - Mẫu 5
Nước ta được thiên nhiên ưu ái ban tặng cho hệ thống sông ngòi dày đặc. Có những
dòng sông “quê hương, yêu thương" đầy thơ mộng, kỳ vỹ và nó đã trở thành nguồn
cảm hứng bất tận cho các nhà văn, nhà thơ viết lên những tác phẩm văn học nghệ
thuật xuất sắc. Tiêu biểu là tùy bút “Người lái đò sông Đà’ của Nguyễn Tuân và bút
ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Thành công của hai
tác phẩm trên chính là việc xây dựng hình tượng hai con sông là Đà giang và Hương
giang. Ở hai con sông này, bên cạnh những nét khác biệt, chúng còn có những nét
tương đồng. Đây phải chăng là sự gặp gỡ của hai nhà văn lớn khi cùng miêu tả về các
con sông khác nhau trên mảnh đất Việt Nam.
Mặc dù sông Đà thuộc vùng núi Tây Bắc còn sông Hương thuộc về thành phố Huế và
chỉ riêng của Huế nhưng chúng vẫn có điểm chung dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân và
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hai tác giả đã nhân hóa dòng sông yêu thương của mình
thành những sinh thể sống có tâm hồn thuần túy nhưng lại mang vẻ đẹp cảnh quan 29
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
thiên nhiên tươi mới của đất nước. Cả sông Đà và sông Hương đều mang tính cách,
đặc điểm, tâm hồn con người. Vách đá sông Đà thì được so sánh như bộ phận “yết
hầu” của con người, sông Đà thì mang trong mình tính cách hung bạo của một kẻ
chuyên đi đòi nợ dữ dằn và ác liệt “đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm
được qua đây”. Đâu chỉ có vậy, Nguyễn Tuân đã cho thấy thác nước sông Đà giống
như linh hồn một con người chất chứa đầy tâm trạng như “oán trách”, “van xin”,
“khiêu khích” và “chế nhạo”… Dù không dữ dội như sông Đà nhưng sông Hương
cũng không kém phần mãnh liệt, nó được ví như “một bản trường ca của rừng già”,
“rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, “mãnh liệt qua ghềnh thác”, “cuộn xoáy như cơn lốc
vào đáy vực bí ẩn”. Sông Hương giống như người “con gái Di-gan phóng khoáng đầy man dại”.
Điểm tương đồng không chỉ dừng lại ở sự dữ dội, mạnh mẽ, mãnh liệt ở hai con sông
mà nó còn ở chất trữ tình thơ mộng. Với sông Đà, nó hiện lên uốn lượn giống mái tóc
của người thiếu nữ kiều diễm Tây Bắc trẻ trung và duyên dáng: “Con sông Đà như
một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa
ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân” và màu nước
của sông Đà biến đổi theo mùa, “mùa xuân nước sông Đà xanh màu xanh Ngọc Bích”,
mùa thu nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”. Đâu chỉ
có vậy, Nguyễn Tuân còn gọi sông Đà với cái tên thân thương là “cố nhân”, yêu
thương và trân trọng đối với dòng sông đất nước. Cũng giống như sông Đà, sông
Hương mang trong mình chất trữ tình bởi những màu sắc khác nhau nhưng sông
Hương khác sông Đà, màu sắc của nó biến đổi theo ngay “sớm xanh, trưa vàng, chiều
tím”. Bên cạnh đó, sông Hương cũng được nhân hóa với hình ảnh của “người con gái
ngủ mơ màng chờ người tình mong đợi đánh thức”, mang sắc đẹp “dịu dàng và trí
tuệ” với tâm hồn “tự do và trong sáng”. Như vậy, ta có thể thấy được sự gặp gỡ của
hai nhà văn khi miêu tả vẻ đẹp của những dòng sông quê hương, chúng đều mang
dáng dấp của người con gái đẹp, trẻ trung, duyên dáng.
Qua đây ta có thể thấy được tài hoa, uyên bác của hai nhà văn khi miêu tả kết hợp
nhuần nhuyễn giữa trí tuệ và trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đã được tổng 30
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
hợp từ vốn kiến thức phong phú về những lĩnh vực triết học, văn hóa, lịch sử, địa lý…
nhằm đưa ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, lay động lòng người nhất. Thành công
của việc khắc họa hai con sông lớn đó và điểm gặp gỡ giữa hai tác giả xuất phát từ
tình yêu quê hương đất nước sâu sắc của không riêng Nguyễn Tuân hay Hoàng Phủ
Ngọc Tường mà là tất cả những con người Việt Nam.
Bên cạnh những nét tương đồng, sông Đà và sông Hương cũng có những nét đẹp riêng
thuộc về chính mình, nét đẹp mà chỉ mỗi một dòng sông mới có. Với sông Đà,
Nguyễn Tuân đã tập trung bút lực vào việc miêu tả sự hùng vĩ, hung bạo, dữ dằn của
sóng nước Đà giang. Nhà văn đã sử dụng những thủ pháp nghệ thuật, những câu từ đắt
giá để thi tài với tạo hóa. Miêu tả cảnh đá bờ sông Đà dựng vách thành, Nguyễn Tuân
gợi ra độ cao, độ chênh vênh, độ hiểm trở của đá làm cho cảnh trở nên lạnh lẽo, âm u
đến rợn người khiến cho “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. Chưa
dừng ở đó, hiểm trở của sông Đà còn thể hiện ở chỗ “Vách đá thành chẹt lòng sông
Đà như một cái yết hầu”. Đây là sự so sánh biểu hiện một phong cách “ngông”, óc
quan sát tinh tế của nhà văn khi diễn tả sự thu hẹp của dòng chảy. Chưa thỏa mãn,
Nguyễn Tuân còn vận dụng cả xúc giác để làm nổi bật sự hoang vắng, âm u và lạnh
lẽo của sông Đà “đi thuyền trên sông Đà vào mùa hè mà vẫn thấy lạnh”. Tác giả đã
đem so sánh cái cảm giác ấy với cảm giác của một người đứng ở hè ngõ nhìn lên một
ngôi nhà cao tầng sáng điện nhưng tự nhiên tắt phụt đèn điện.
Đến quãng mặt ghềnh Hát Loóng, sóng sông Đà càng trở nên dữ dội khủng khiếp
mang âm hưởng nhanh, gấp gáp, dồn dập, được tạo nên từ cách ngắt nhịp khẩn trương,
điệp từ ngữ và kết cấu câu văn trùng điệp giúp ta liên tưởng tới nhịp chảy nhanh, sự
chuyển vận của sóng to gió lớn “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Những âm
thanh đó như muốn đe dọa, gây gổ, nhấn chìm con người, lúc nào cũng “đòi nợ xuýt
bất cứ người lái đò nào tóm được qua đây. Cuối cùng, sự hung bạo của sông Đà phải
được nhắc tới bởi đá sông Đà. Nó như một đội quân dữ dằn, ác liệt, nó dở đủ mưu ma,
chước quỷ, xảo quyệt, trong cuộc chiến đấu với ông lái đò. Nó bày thạch trận, phục
kích, dụ con thuyền vào sâu để ăn chết con thuyền, diện mạo thì ngang bướng “mặt
hòn nào cũng ngỗ ngược, cũng nhắn nhúm, méo mó…”. 31
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
Đối với Nguyễn Tuân, sông Đà không chỉ hung bạo dữ tợn mà còn là một người bạn
tri âm, tri kỷ, mà ông gọi là cố nhân mang vẻ đẹp chất thơ của Đường thi “Yên hoa
tam nguyệt há Dương Châu”, đó còn là vẻ đẹp cổ tích của người khách hải hồ du
thuyền trên sông Đà. Cảnh đôi bờ sông Đà yên tĩnh, lặng lờ, bình lặng mang dấu tích
lịch sử cha ông đầy cổ kính, hoang sơ, hoang dại như một “bờ tiền sử”. Sông Đà còn
mang vẻ đẹp non tơ, mơn mởn, tràn đầy sức sống qua những động từ “như lên”, “nõn
búp”,”ngốn” của những bãi bồi ven sông. Quả là một bức chấm phá, sinh động làm
nên vẻ đẹp không chỉ hùng tợn mà cũng đầy chất thơ.
Nếu như khi miêu tả sông Đà, bút lực của Nguyễn Tuân chú ý đến sự hung bạo, dữ
dội thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại dành hành trình tâm huyết của mình để miêu tả
sông Hương đầy chất thơ mộng và trữ tình. Nhưng nói như vậy không có nghĩa sông
Hương không mang trong mình sự mãnh liệt mà ở thượng lưu, nó vẫn được miêu tả
với vẻ đẹp hùng tráng, dữ dội. Tác giả đã miêu tả sông Hương “một bản trường ca của
rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy
như cơn lốc vào những đáy bí ẩn. Đó là cách mà Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dùng thủ
pháp điệp cấu trúc với tất cả những động từ mạnh để tạo nên sự hùng tráng, mạnh mẽ
của con sông giữa đại ngàn trường ca khác với sự hung bạo, dữ dội của sông Đà.
Ngoài ra, sông Hương ở thượng nguồn thật sự là dịu dàng đắm say giữa những dặm
dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Hơn nữa, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại có
một sự liên tưởng hết sức thú vị và độc đáo khi ví sông Hương như “cô gái Di-gan
phóng khoáng và man dại”. Bằng một sự liên tưởng đó thì sông Hương được ví như
cô gái thích sống lang thang, yêu tự do, ca hát, nhảy múa và có vẻ đẹp man dại, quyến
rũ. Dòng sông ấy mang một vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ đã trở thành một người mẹ phù
sa của một vùng văn hóa xứ sở. Trong cảm nhận của nhà văn, sông Hương như đấng
sáng tạo cần được giữ gìn và bảo vệ. Và nó chính là khởi nguồn của sự bắc cầu không gian văn hóa Huế.
Đến với sông Hương ở ngoại vi thành phố, nó được ví với: “người con gái đẹp nằm
ngủ mơ màng đợi người tình mong đợi đến đánh thức”. Nó giống như một cuộc hành
trình tìm tình nhân đích thực: “Sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng 32
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm” với lối dùng
ngôn từ tài hoa và lối hành văn uyển chuyển, giàu hình ảnh tác giả đã diễn tả rất sinh
động hấp dẫn từng đường đi lướt bước của sông Hương và mỗi đường đi là gắn liền
một địa danh khác nhau ở xứ Huế và nó khiến người đọc cảm nhận được hành trình
của sông Hương không đơn điệu, nhàm chán ngược lại, nó là điều kiện để phô ra
những đường cong tuyệt mĩ của mình. Với ngôn ngữ giàu cảm xúc, nhà văn đã khắc
họa dòng sông thơ mộng và trữ tình, biết làm mới mình, trang điểm cho mình trước
khi vào thành phố và ôm trọn thành phố Huế tuyệt đẹp và thơ mộng.
Để đến khi vào được thành phố thì sông Hương lại khoác cho mình một cái áo: “mang
vẻ đẹp trầm mặc” khi nó chuyển mình ngày đêm qua các lăng tẩm của các vị vua và
nép mình bên các giấc ngủ nghìn năm của vua chúa thời Nguyễn. Dòng sông chính là
dòng chảy bền bỉ qua mỗi năm tháng, kiên trì, chờ đợi và nhận thử thách để đến được
với tình yêu đích thực của nó. Bằng biện pháp nhân hóa và so sánh, ta thấy sông
Hương có vẻ đẹp của cô gái đang yêu rất tình tứ, e thẹn, ngại ngùng và kín đáo. Sự
khác biệt mà người đọc có thể thấy giữa một sông Đà dòng chảy rất nhanh, mạnh mẽ
thì sông Hương trong lòng thành phố được ví như điệu “slow” nghĩa là “chậm”.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã rất tinh tế khi nhìn ra đặc trưng của sông Hương trong
lòng thành phố và để làm nổi bật điều đó tác giả sử dụng nhiều so sánh và đặc biệt nhà
văn đã lấy âm nhạc để miêu tả sự chảy chậm, điệu chảy lững lờ. Sông Hương hiện lên
như một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Một lần nữa chúng ta lại thấy tác giả
lấy người con gái đẹp ra để ví sông Hương nhưng điều đặc biệt là Hoàng Phủ Ngọc
Tường lại lấy góc nhìn của âm nhạc để so sánh điều đó, và phải chăng có lẽ tác giả
muốn giới thiệu về một văn hoá phi vật thể không thể thiếu của người Huế “nhã nhạc
cung đình Huế” và nó chỉ tuyệt vời nhất khi nó được biểu diễn trong thuyền rồng chạy
dọc con sông Hương thơ mộng và đầy trữ tình. Một nét đẹp chỉ có đến Huế bạn mới
có thể thưởng thức điều tuyệt vời và riêng biệt như vậy.
Về địa lý, nếu sông Đà đổ về hướng bắc thì sông Hương phải chuyển mình để chảy về
hướng đông và giống với hầu như tất cả các con sông ở Việt Nam. Nhưng để giải
thích cho điều ấy, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã rất tế nhị khi nói sông Hương “chuyển 33
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
mình” vì không lỡ rời xa người tình của mình (thành phố Huế), một cái gì đó còn vấn
vương, thậm chí ta thấy một chút nào đó của sự “lẳng lơ”, “kín đáo”… Không chỉ
thuận theo thủy chỉ của dòng chảy, sông Hương chính là dòng sông của âm nhạc, của
thơ ca, của lịch sử gắn liền với văn hóa Huế, với con người Huế.
Bằng những giọng văn miêu tả về sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp cận
và miêu tả dòng sông ở không gian và thời gian khác nhau để phát hiện sự độc đáo,
mới lạ ở dòng sông xứ sở này. Từ đấy thấy được tình yêu vô bờ bến đối với sông
Hương, với xứ Huế đầy thơ mộng và trữ tình ở Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Từ việc so sánh hình tượng sông Đà (Người lái đò sông Đà) với hình tượng sông
Hương (Ai đã đặt tên cho dòng sông) hai nhà văn tài hoa uyên bác đã cho thấy những
nét đặc trưng nổi bật nhất ở hai con sông quê hương đất nước. Giúp cho người đọc có
cái nhìn phong phú, đa chiều về vẻ đẹp quê hương. Đồng thời cho thấy tài năng am
hiểu văn hóa, nghệ thuật cùng tình yêu, niềm tự hào đối với dòng sông của tổ quốc.
So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương - Mẫu 6
Tác phẩm người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là bút ký đặc sắc, kết quả của
chuyến thâm nhập thực tế vùng sông Đà 1958 - 1960 của nhà văn, in trong tập bút ký
Sông Đà. Cảm hứng gắn bó với mảnh đất và con người Tây Bắc đã in đậm trong hình
ảnh người lái đò nghệ sĩ và con sông Đà vừa hùng vĩ vừa nên thơ.
Câu chuyện vượt sông Đà đã được nhà văn kể lại bằng tất cả niềm phấn khởi về sức
mạnh con người chiến thắng thiên nhiên, với tất cả kịch tính, cao trào để tôn vinh
nghệ thuật chinh phục thác đá sông Đà. Con sông Đà dữ với thần sông tướng đá bủa
giăng thế trận vây lấy chiếc thuyền đơn độc được nhà văn miêu tả bằng ngôn ngữ
phong phú của tiểu thuyết chương hồi như gợi cuộc phá vây của mãnh tướng Triệu Tử
Long xông vào trận quân Tào Tháo, bên cạnh đó nhà văn có những dòng mô tả chân
dung bằng giọng văn rất hóm hỉnh của riêng mình : “Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ
ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này...”. Cuộc đối 34
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
đầu giữa con người trên chiếc thuyền đơn độc với “boongke chìm và pháo đài nổi”
trong “cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn” có sức hấp dẫn đặc biệt.
Có lẽ nhà văn đã hình dung ra không khí của những hội vật truyền thống khi miêu tả
các cuộc đấu sức, đấu trí và đấu sự nhanh nhẹn giữa người và đá nước. Cuộc đấu có
miếng, có mưu, cuối cùng phần chiến thắng thuộc về con người, bởi lẽ “Ông đã thuộc
quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Hình ảnh bình thường của
người lao động, vật lộn với sóng nước đã được Nguyễn Tuân nâng lên ngang hàng
danh tướng "biết mình biết ta trăm trận trăm thắng". Nhưng điều tác giả tô đậm nét
hơn ở ông lái đò chính là chất nghệ sĩ toát lên từ công việc đối mặt với hiểm nguy đã
trở thành bình thường. Ngay sau khoảnh khắc chiến thắng sức mạnh của thác đá, sóng
dữ, thì "sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình".
Đây mới chính là ông lái đò mang đậm nét Nguyễn Tuân. Con người chiến đấu với
sông Đà dữ cũng chỉ là để mưu sinh, "ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những
cái thác", nên những con người này cũng yêu mến dòng sông đã cho họ những "cá anh
vũ, cá dầm xanh", những hầm cá hang cá "túa ra đầy tràn ruộng". Sông Đà dữ thì có
"diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một", nhưng khi sông nước thanh bình, vẻ đẹp nên
thơ gợi cảm của dòng sông lại hiện về nguyên vẹn.
Nhà văn đã dành những trang viết thấm đẫm chất trữ tình để miêu tả vẻ đẹp dịu dàng
của dòng sông mang trong lòng những huyền sử thuở khai thiên lập địa của cha ông.
"Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi
Mèo đốt nương xuân.", "Mùa xuân dòng xanh ngọc bích...", "mùa thu nước sông Đà
lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa"...
Đó là thời điểm cho câu chữ Nguyễn Tuân lai láng chất thơ ca ngợi vẻ đẹp của dòng
sông, bằng cái nhìn và tình cảm của một người tự nhận sông Đà như một "cố nhân".
Không gian lắng đọng trong vẻ đẹp của "bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm
bướm sông Đà". Vẻ đẹp ấy như trang nghiêm trong mạch Đường thi cổ điển, vừa lắng
đọng hoài vọng về một thuở Lý Trần Lê, vừa bâng khuâng cảm giác về sự sống nảy 35
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
lộc đâm chồi : "Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa.
Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn
hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền
sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa".
Nhà văn đã để cho dòng cảm xúc dào dạt thốt lên thành lời đối thoại im lặng với thiên
nhiên, bờ bãi ven sông, dường như con người muốn hòa vào cùng cảnh vật, để chiêm
ngưỡng vẻ đẹp đầy sức cuốn hút của dòng sông. Ngòi bút nhà văn đến lúc này mới
thật sự tung hoành trong sự say sưa khám phá cội nguồn, kể về lịch sử dòng sông gắn
với cuộc sống và con người Tây Bắc, những người đã đón nhận những tặng vật hào phóng của sông Đà.
Cảm xúc từ thực tại của Nguyễn Tuân còn khơi nguồn cho những mơ ước mang tính
dự báo về tương lai, biến sức mạnh của dòng sông trái tính trái nết thành nguồn thủy
điện dồi dào. Rõ ràng, thực tại cuộc sống mới đã giúp cho Nguyễn Tuân có những dự
cảm chính xác, có niềm tin vững chắc vào những con người đang xây dựng một chế
độ mới, đem lại sinh khí mới cho cuộc sống ở sông Đà.
Với Người lái đò sông Đà này, Nguyễn Tuân đã ghi dấu ấn không trộn lẫn của mình ở
thể loại tùy bút, bám sát hiện thực, say mê khám phá những nét ấn tượng, những vẻ
đẹp tiềm ẩn từ hiện thực. Hơn thế nữa, tác phẩm còn đánh dấu sự vững vàng trong tư
tưởng tình cảm của nhà văn, sự nhạy cảm tinh tế của một tâm hồn nghệ sĩ yêu đất
nước, yêu con người lao động, yêu và tin vào cách mạng, vào con đường dân tộc đang
hướng tới. Tấm lòng ấy, tài năng ấy của Nguyễn Tuân thật đáng trân trọng./.
Ai đã đặt tên cho dòng sông? là một bút kí đặc sắc, thể hiện phong cách tài hoa, uyên
bác, giàu chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bài kí đã ca ngợi dòng sông Hương
như một biểu tượng của Huế.
Vẻ đẹp dòng sông Hương ở thượng nguồn phóng khoáng và man dại. Vẻ đẹp dòng
sông được phát hiện rất đa dạng. Có lúc trữ tình êm ả, hiền hòa như “một thiếu nữ dịu
dàng, duyên dáng”; có lúc phóng khoáng và man dại, rầm rộ và mãnh liệt như một 36
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
“bản trường ca của rừng già”. Có khi dịu dàng và trí tuệ như “người mẹ phù sa”; có
khi biến ảo “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”; hoặc khi thì vui tươi, khi thì như một
mặt hồ yên tĩnh v.v...Tất cả được miêu tả bằng một tình cảm thiết tha với Huế
Sức sống mãnh liệt, hoang dại, dịu dàng, đắm say, như 'một bản trường ca của rừng
già , rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn'. Khi chảy qua miền địa hình hiểm trở, sông
Hương mang vẻ đẹp dữ dội: 'mãnh liệt qua ghềnh thác, cuộn xoắn như cơn lốc xoáy
vào đáy vực bí ẩn', nhưng cũng có lúc lại 'dịu dàng, đắm say giữa những dặm dài chói
lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng'.Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương như một 'cô
gái Di gan, phóng khoáng và man dại', bởi rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh
gan dạ , một tâm hồn tự do và trong sáng.Nghệ thuật: so sánh, tu từ, ẩn dụ và nhân hóa.
Sông Hương khi về đến ngoại vi thành phố
Sắc đẹp dịu dàng , trí tuệ , người mẹ phù sa của một vùng văn hóa ,xứ sở', dòng sông
duy nhất chỉ đi qua thành phố Huế. Với vốn hiểu biết sâu sắc về địa lí, văn hóa, lịch sử,
tác giả miêu tả dòng sông thật sinh động với cảm nhận mang nhiều khác biệt.
Sông Hương như 'người con gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa
dại (hình ảnh thơ mộng gợi liên tưởng cổ tích đến nàng công chúa ngủ trong rừng),
Dòng sông hiện lên với 'khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật
mềm'.Lưu vực êm ả, thanh bình, vui tươi giữa những bãi bờ xanh biếc , nhiều màu sắc
trầm mặc, triết lí. Những lăng tẩm với 'giấc ngủ nghìn năm của vua chúa được phong
kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm
lan tỏa khắp cả một vùng thượng lưu'.
Với những quan sát tinh tế, ngôn ngữ giàu hình tượng, so sánh, ẩn dụ , sông Hương
trong dư vang Trường Sơn, dòng sông mềm như tấm lụa'. 'Những dãy đồi sừng sững
như thành quách, với những đỉnh cao đột khởi: Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo',
những ngọn đồi đã tạo ra những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời 'sớm
xanh, trưa vàng, chiều tím' rất lạ và đặc trưng như người Huề từng nhận xét. 37
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
Sự thay đổi tính cách của người con gái sông Hương đưa ta đi từ ngạc nhiên này đến
ngạc nhiên khác, một cô gái Di gan,man dại và phóng khoáng đã trở nên dịu dàng, e lệ,
như 'người con gái đẹp được người tình mong đợi đến đánh thức', 'người mẹ phù sa
của cả một vùng văn hóa xứ sở'.
Thoảng đâu đó, mơ hồ mà vang vọng trong tâm thức Huế là tiếng chuông chùa Thiên
Mụ ngân nga, tiếng gà từ xóm làng trung du bát ngát.
So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương - Mẫu 7
Viết về dòng sông, không ai dài hơi và độc đáo như Nguyễn Tuân với con sông Đà
hung bạo và trữ tình, thâm hiểm mà bao dung. Hoàng Phủ Ngọc tường cũng góp vào
đề tài ấy một hình ảnh con sông Hương hiền hòa và man dại, dịu dàng mà cuồng nhiệt,
không kém phần đặc sắc. Trong dòng chảy bất tận, người đọc nhận thấy sông Hương
sông Đà có những điểm hợp lưu kì thú.
“Độc đáo” là những nét riêng biệt, khác lạ được thể hiện qua cách nhìn cũng như nghệ
thuật miêu tả của nhà văn. Hai bài kí “Người lái đò sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho
dòng sông?” đã xây dựng được những hình tượng dòng sông mang những nét độc đáo
đầy hấp dẫn, thú vị.
Trong đoạn trích “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân tập trung tô đậm nét hung bạo,
dữ dội của sông Đà, hình dung dòng sông ấy như kẻ thù hiểm độc và hung ác. Trước
hết, nét hung bạo ấy có thể thấy rõ qua diện mạo khác thường của dòng sông. Đó là
cảnh “đá bờ sông dựng đứng vách thành” mà “mặt sông chỉ đúng lúc ngọ mới có mặt
trời”, vách đá chen lòng sông như một cái “yết hầu” hay “có chỗ con nai con hổ có thể
vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia”. Một nét đẹp thật hùng vĩ của bờ đá ven sông Đà!
Cùng với đó là hình ảnh của sóng nước trên mặt ghềnh Hát lóng“dài hàng cây số,
nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”.
Trong tùy bút “Sông Đà”, Nguyễn Tuân đã có biệt tài miêu tả gió và ở đây để tả gió
ông đã sử dụng từ ngữ vô cùng độc đáo “gùn ghè”. Ta tự hỏi sao tác giả không dùng 38
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
chữ“gầm ghè” mà lại phải là “gùn ghè”? Đọc câu văn tên ta cảm nhận được cái “gùn
ghè”ấy vừa mang sắc thái “gầm ghè” vừa gợi được thời gian dài đằng đẵng tạo nên sự
ám ảnh da diết, ám ảnh về hinh tượng con sông Đà đầy hung bạo.
Và điều đặc biệt khiến người đọc không thể bỏ qua đó là những cái hút nước sông Đà
đầy dữ dội: “Trên sông bỗng có những cái hút nước, giống như cái giếng bê tông thả
xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”. Xen lẫn vào đó có cả những ấn tượng đáng sợ:
“Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ… Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh
ngang vô lý là những cái giếng ấy nó lôi tuột xuống… thuyền trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi”.
Nhà văn cho người đọc thêm một góc nhìn khi đặt mình vào vị trí một nhà quay phim
để thấy hết cảm giác về những hút nước dữ dội ấy. Con sông Đà hung bạo bởi những
thác nước dữ dội khiến người ta sợ hãi khi nghe tiếng nước từ xa rồi nhìn thấy khi đến
gần. Từ xa là những âm thanh đặc biệt: “Tiếng thác nước nghe như là oán trách gì, rồi
lại như là van xin, như là khiêu khích”. Khi đến gần “nó rống lên như một nghìn con
trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng nứa nổ lửa”.
Âm thanh được tái hiện hết sức cuồng nộ cho thấy rõ “cái ngông” trong bút pháp nghệ
thuật của nhà văn, trong sở thích khám phá những cảm giác mạnh. Độc đáo hơn khi
sông Đà được miêu tả với vẻ đẹp hung bạo thể hiện qua tâm địa. Đá sông Đà vốn do
thiên tạo nhưng con mắt nghệ sĩ của Nguyễn Tuân, nó còn biết bày thạch thủy trận.
Con sông Đà vốn là sự vật vô tri bỗng thành binh tướng dũng mãnh, thành loài thủy
quái khổng lồ. Qua sự miêu tả ấy của nhà văn đã là nổi bật lên sự tài hoa, tài trí của
người lái đò. Mỗi lần vượt thác của ông là mỗi lần ông phải chiến đấu mạnh mẽ với thần sông, thần đá.
Khác với Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường tự chọn cho mình lối chơi “độc
bạch”, thiên nhiều về tư duy hướng nội, lắng đọng suy tư để miêu tả hình tượng sông
Hương. Chính vì thế, sông Hương được tô đậm ở nét trữ tình, thơ mộng, gợi cảm và
nữ tính, luôn mang dáng vẻ của một người con gái xinh đẹp, mong manh có tình yêu say đắm. 39
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
“ở thượng nguồn sông Hương như một cô gái Di gan phóng khoáng và man dại…
rừng già đã hun đúc cho nó bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và phóng khoáng”.
Tác giả đã miêu tả sông Hương ở thượng nguồn với sức sống mãnh liệt, hoang dại
nhưng cũng dịu dàng, say đắm. Dòng sông đã được thổi bằng ngọn gió tâm hồn dạt
dào, nhạy cảm, liên tưởng tự do, phong phú. Khi ra khỏi rừng, sông Hương được thay
đổi tính cách “sông như chế ngự được bản năng con gái để mang một vẻ đẹp dịu dàng
và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa cho một vùng văn hóa xứ sở”.
Sông Hương đã trở thành niềm tự hào của Huế vì vậy khi nhắc về nó thông thường
người ta hình dung đến gương mặt kinh thành đầy trữ tình như Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã tìm tận về nguồn cội để phát hiện bản chất của cô gái Di – gan, sự cá tính
mạnh mẽ, bản lĩnh, gan dạ vững vàng… Đó là một phát hiện đấy lí thú về một dòng
sông quen thuộc. Miêu tả sông Hương, nhà văn không nhìn nhận nó trong tư thế độc
lập mà đặt trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với kinh thành Huế. Dòng sông mang
linh hồn và cảm xúc như một tình nhân trên hành trình tìm kiếm tình yêu đích thực.
Qua đoạn chảy xuôi tìm đường trở về thành phố, sông Hương đã vượt qua những giới
hạn khắc nghiệt để chứng tỏ tình yêu với Huế. Nó lặng lờ, duyên dáng qua những
khúc chuyển mình đầy mềm mại. “Nó kéo một nét thẳng thực yên tâm”, “nó uốn một
cánh cung nhẹ sang cồn Hến như một tiếng vân không nói của tình yêu”.
Đã có bao đêm sông Hương tình tự bên thành phố thân yêu của mình để rồi đến lúc
phải rời đi nó lại chẳng muốn chia xa mà bịn rịn, quyến luyến. Sông Hương gặp lại
thành phố Huế ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ như để nói một lời thề chung thủy với
mảnh đất cố đô. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân
gian, là tấm lòng của người dân Châu Hóa xưa mãi chung tình với quê hương, xứ sở.
Một cái nhìn nghệ sĩ tài hoa, đa tình mà có lẽ chỉ riêng Hoàng Phủ Ngọc Tường mới có được!
Có thể thấy cả hai nha nhà văn đều xuất phát từ chỗ ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên qua
hình tượng dòng sông nổi tiếng đã từng là nguồn cảm hứng của nghệ thuật nói chung
và văn học nói riêng. Đó là lí do hai tác phẩm có thật nhiều nét tương đồng. 40
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
Trước hết, sông Đà và sông Hương đều được các tác giả miêu tả như một nhân vật trữ
tình có tâm hồn, tích cách với những đặc trưng riêng biệt. Sông Đà vốn được biết đến
là một con sông dữ dội lắm thác nhiều ghềnh nhưng dưới ngòi bút tài hoa, yêu thích
cái đẹp của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như kẻ thù số một của con người. Đá sông
biết bày thạch thủy trận chiến đấu với người lái đò, biết sử dụng binh pháp, mưu lược
để lật đổ những chiếc thuyền. Có khi sông Đà lại được nhìn như người con gái với mái
tóc dài duyên dáng, yêu kiều.
Cùng với đó, sông Hương được Hoàng Phủ Ngọc Tường khắc họa như một người con
gái, người mẹ phù sa, người tình với Huế. Sông Hương cùng với dòng chảy của nó
như những nét tâm trạng không nói nên lời trong tình yêu của người con gái. Chính vì
vậy mà người đọc mỗi trang văn dù miêu tả thiên nhiên nhưng ta vẫn thấy thấm đượm hồn người sâu sắc.
Không chỉ vậy, cả hai dòng sông đều được nhìn nhận, đánh giá ở hai phương diện đối
lập hung bạo – trữ tình để thấy chúng là những sinh thể thống nhất. Bên cạnh vẻ đẹp
hùng vĩ, dữ dội trước đó, sông Đà cũng mang những nét thơ mộng, trữ tình đầy mới lạ.
Nhìn từ trên cao xuống “con sông tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc
chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn
cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân”. Mảnh đất uốn lượn nơi đầu nguồn Tây Bắc đã
gợi liên tưởng đến dáng hình người thiếu nữ với mái tóc dài thướt tha. Màu nước sông
Đà thay đổi theo mùa: “mùa xuân dòng xanh màu ngọc bích, mùa thu nước sông Đà lừ
lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”.
Nhà văn đã cảm nhận sông Đà bằng cả niềm yêu nước và tự hào dân tộc. Cảnh đẹp
bên bờ sông trầm mặc và cổ kính. Với vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình ấy, Nguyễn Tuân đã
khéo léo đặt cho con sông một cái tên đầy ý vị “tình nhân chưa quen biết”.
Cũng như sông Đà, sông Hương trước khi mang vẻ đẹp trữ tình, lãng mạn, nó đã vô
cùng dữ dội ở phía thượng nguồn. Bắt nguồn từ Trường Sơn hùng vĩ, nơi có rừng già,
vực sâu, ghềnh thác, cây cối rậm rạp,… bởi vậy giống như bao dòng sông khác chảy 41
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
qua đại ngàn, sông Hương có lưu tốc rất mạnh. Tác giả cho rằng “nếu chỉ ngắm khuôn
mặt kinh thành sẽ không hiểu bản chất sông Hương, phần tâm hồn sâu thẳm của nó
bởi dòng sông đã tự giấu mình, đóng kín ở cửa rừng…”. Nơi đầu nguồn của dòng
chảy, dòng sông ấy đã từng là một bản trường ca của rừng già trước khi về đến vùng
châu thổ êm đềm. Vậy mới thấy được dù độc đáo nhưng sông Đà, sông Hương vẫn có điểm hợp lưu.
Một đặc điểm biệt không thể không kể đến đó là ngòi bút miêu tả tài hoa, uyên bác
của hai nhà văn khi viết về hai dòng sông. Cả hai đều được miêu tả trên phương diện
văn hóa, thẩm mĩ. Sông Đà là nơi hội tụ hai nét đẹp tiêu biểu, đặc trưng của thiên
nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, dữ dội vừa trữ tình, nên thơ.
Còn sông Hương, đó còn là dòng sông của âm nhạc, dòng sông của thi ca, lịch sử gắn
liền với những nét đặc sắc về văn hóa, vẻ đẹp của người dân xứ Huế. Người đọc còn
được thưởng thức và chiêm ngưỡng cái đẹp trên nhiều lĩnh vực qua ngòi bút đầy uyên
bác của nhà văn. Từng khía cạnh được miêu tả đều cho thấy vốn tri thức phong phú,
sâu sắc. Tất cả làm nên vẻ đẹp ấn tượng đặc sắc cho mỗi tác phẩm.
Vậy do đâu mà ở cả hai hình tượng dòng sông lại có những điểm chung và nét riêng
độc đáo ấy? Phải chăng bởi tấm lòng say mê trước vẻ đẹp đất nước, tự hào trước thắng
cảnh non sông mà hai nhà văn đã thấy ở hai dòng sông đó nhiều điểm chung như vậy?
Cùng với đó, cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn đã khiến cho hai tác phẩm dù có chung
đề tài nhưng vẫn mang những nét độc đáo hấp dẫn riêng không thể trộn lẫn. Một nghệ
sĩ lãng tử ham xô dịch, ưa cảm giác mạnh; một triết nhân lịch lãm. Họ như vắt kiệt cả
“bầu máu nóng”, đem cả tâm hồn và tài năng của mình để viết nên những áng văn
chương còn mãi với muôn đời.
Cùng đổ ra biển lớn, cùng hòa nước vào đại dương mênh mông nhưng chắc chắn
người đọc sẽ không thể nào quên những hành trình riêng mà sông Đà, sông Hương đã
chảy trong thế giới văn học. Chính những điểm gặp gỡ ấy càng làm nổi bật nét riêng
độc đáo của mỗi hình tượng, mỗi nhà văn; nét độc đáo làm nên sức sống và linh hồn cho tác phẩm. 42
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương - Mẫu 8
Họ luôn tìm thấy trên quê hương có những vùng núi non tuyệt đẹp, những di sản thiên
nhiên đáng để con người trân trọng, luyến lưu. Và sông nước chính là một trong
những cảnh thiên nhiên tươi đẹp ấy, dòng sông với dòng nước chảy, với lịch sử hình
thành cũng như những đặc điểm độc đáo về địa lý đã khơi gợi trong lòng các nhà văn
những cảm xúc dạt dào nhất khiến họ phải cầm bút và sáng tạo nghệ thuật. “Người lái
đò Sông Đà” –Nguyễn Tuân và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” – Hoàng Phủ Ngọc
Tường được ra đời từ chính sự thôi thúc trước cái đẹp của các nhà văn. Tuy được sáng
tác ở những khoảng thời gian khác nhau nhưng ở cả hai tác phẩm đều tái hiện thành
công vẻ đẹp trữ tình, đằm thắm của những dòng sông quê hương.
Viết về đề tài sông nước đã có nhiều bài thơ, bài văn rất thành công. Ta đã được
chiêm ngưỡng một dòng sông mênh mông, hoang vắng, buồn man mác thấm đượm
nỗi nhớ nhà trong “ Tràng giang” của Huy Cận hay một khung cảnh đìu hiu, cách biệt
của thiên nhiên sông nước Kinh Bắc trong bài thơ “Bên kia sông Đuống” của Hoàng
Cầm. Nếu những bài thơ trên chỉ là điều kiện, chỉ là cái cớ để các nhà thơ bày tỏ lòng
mình thì đến với “Người lái đò sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” người đọc
mới cảm nhận được rõ nét về một tác phẩm viết về dòng sông thực sự. Dưới ngòi bút
của các nhà văn hình ảnh dòng sông “độc bắc lưu” và hình ảnh dòng sông của xứ Huế
mộng mơ hiện lên mang nhiều nét chung độc đáo.
Cả hai nhà văn đều khắc họa hình tượng dòng sông với vẻ đẹp, dáng vẻ phong phú, đa
dạng ở nhiều khoảng thời gian, không gian,với điểm nhìn khác nhau. Dòng sông Đà
trước tiên được Nguyễn Tuân có lúc nhìn ngắm như một người xa lạ, có lúc lại như
một cố nhân thân thuộc; có khi ngắm nhìn sông Đà từ trên cao, khi lại tiến đến cận
cảnh để nhận ra rõ hơn vẻ đẹp của nó. Về thời gian, sông Đà được nhà văn chiêm
ngưỡng ở cả bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông- mỗi mùa lại đem đến cho tác giả những
xúc cảm, ấn tượng riêng. Qua đó nhà văn muốn đưa đến cho người đọc một cái nhìn
đa dạng, toàn diện về vẻ đẹp của con sông yêu thương. Với dòng sông Hương, Hoàng
Phủ Ngọc Tường cũng thể hiện thành công vẻ đẹp hoàn chỉnh về nhiều góc độ của nó. 43
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
Nhà văn đã ghi lại được vẻ đẹp phong phú của sông Hương lúc ở thượng lưu, ở ngoại
vi, ở giữa lòng thành phố Huế. Và như vậy dường như vẫn chưa đủ, ông còn mang
đến cho người đọc một cái nhìn đầy đủ hơn về sông Hương qua vẻ đẹp trong lịch sử,
cuộc đời và thi ca. Có thể nói, cả hai nhà văn đã tái hiện thật độc đáo và đa dạng vẻ
đẹp của dòng sông gắn bó tha thiết với mình qua nhiều phương diện khác nhau. Chính
điều đó đã tạo nên sức hấp dẫn, sự lôi cuốn cho người đọc, để lại trong họ nhiều ấn tượng đậm nét.
Để có được tác phẩm hay như vậy, để làm nổi bật được vẻ đẹp trữ tình của hình tượng
dòng sông đó, tất cả đều phải trải qua ngòi bút tài hoa, uyên bác của các nhà văn. Ở
mỗi nhà văn lại có cách diễn đạt và cảm nhận riêng, song họ lại bắt gặp, đồng điệu
tâm hồn trong sự khả năng quan sát tinh tế thông qua những liên tưởng, so sánh đầy
tính tạo hình, biểu cảm. Vẻ đẹp của dòng sông cũng vì thế mà càng đậm nét hơn, ấn
tượng hơn. Cả hai con sông đều được ví như những người con gái trẻ trung mang
trong mình những vẻ đẹp trong sáng, tinh khôi “ Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như
một áng tóc trữ tình; đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa
ban hoa gạo tháng hai” ; “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa
đầy hoa dại”… Bằng vốn hiểu biết phong phú, bằng sự liên tưởng, tưởng tượng độc
đáo các nhà văn đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên miền sông nước với vẻ đẹp trữ tình
đằm thắm tạo nên ấn tượng mạnh mẽ trong tâm hồn người đọc đồng thời làm sống dậy
trong họ tình cảm yêu thương, niềm tự hào với vẻ đẹp của quê hương, xứ sở, của Tổ quốc.
Bên cạnh những nét chung độc đáo, vẻ đẹp trữ tình của hai con sông còn mang những
nét riêng vô cùng đặc sắc. Đầu tiên là vẻ đẹp của dòng sông Đà. Con Sông Đà hùng vĩ
dài trên năm trăm cây số ,ở nơi thượng nguồn nó mang một vẻ đẹp hào hùng và thách
thức, vậy mà vượt qua đoạn thượng nguồn dòng sông hoàn toàn mang bộ mặt khác:
thơ mộng, trữ tình, thanh bình, yên ả; nó giống như một cô thiếu nữ xinh đẹp trút bỏ
cái vẻ “đỏng đảnh” để trở về với vẻ đẹp dịu dàng lãng mạn của mình- một nét tính
khác của Sông Đà được Nguyễn Tuân dùng ngòi bút tài hoa để miêu tả mang đậm
chất chữ tình. Và cũng giống như con Sông Đà khi hung bạo, nó được con người luôn 44
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
khát khao tìm kiếm cái đẹp kia miêu tả ở nhiều góc độ. Lúc thì nhà văn nhìn con sông
từ trên tàu bay, từ trên cao, có lúc lại nhìn qua đám mây mùa xuân, khi nhìn qua đám
mây mùa thu, có khi tác giả cảm nhận dòng sông bằng nỗi nhớ của cố nhân, gặp thì
vui mừng, xa thì nhớ nhung. Cũng có khi bằng đôi mắt lịch sử, của hồi ức, của quá
khứ, và ở điểm nhìn, con Sông Đà lại có một vẻ đẹp khác nhau. Khát khao tìm đến
một cái vẻ đẹp mới hoàn mĩ cùng bản tính của một người nghệ sĩ luôn mong muốn tìm
kiếm sự mới lạ độc đáo đã khiến cho dòng Sông Đà trở nên sinh động “ đóng đinh”
vào trong lòng người đọc. Con sông đầy ghềnh thác tung bọt trắng xóa nhìn từ trên
xuống ngoằn ngoèo như một cái dây thừng. Rồi có lúc nó lại giống như một thiếu nữ
mà có lẽ nói đúng hơn là một tiên nữ giáng trần khiến cho người ta phải mê mẩn:
“ Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.
Cũng giống như rất nhiều những câu văn sau đó nữa, câu văn ngân vang lên như một
bài thơ, dòng sông giờ đây trở nên thật hiền lành, nó như một nét vẽ đẹp tô điểm cho
bức tranh của núi rừng Tây Bắc. Và vẻ đẹp của Sông Đà không bao giờ nhàm chán. Ở
mỗi thời điểm khác nhau người ta lại thấy Sông Đà trong một dáng vẻ, hình hài khác
nhau: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh
hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một
người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bực bội gì
mỗi độ thu về…” Dường như ở con sông Đà không có chỗ cho những cái sơ sài, tất cả
đều phải là tuyệt đỉnh.
Không gian lắng đọng trong vẻ đẹp của “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm
bướm sông Đà”. Nguyễn Tuân đã gợi lên vẻ đẹp của sông Đà bằng hai từ “gợi cảm”.
Và quả thực ,vẻ đẹp thơ mộng của dòng sông khiến cho người ngoạn cảnh gặp lại có
cảm giác “đằm đằm ấm ấm”, gợi biết bao thi vị. Trong vẻ đẹp của Sông Đà, họ phát
hiện ra nó đẹp như một bức tranh đường thi vẽ cảnh “Yêu hoa tam nguyệt há Dương
Châu “của Lý Bạch. Vẻ đẹp như trang nghiêm trong mạch cổ Đường thi, vừa lắng
đọng về một thời Lí, Trần, Lê vừa bâng khuâng cảm giác về sự sống đâm chồi nảy lộc: 45
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
“Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ thời Lí đời
Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi . Thuyền tôi trôi qua một
nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ
gianh đồi núi đang ra nhưng nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm
sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi
niềm cổ tích tuổi xưa”. Vừa vượt qua ghềnh thác Sông Đà, ai nghĩ Sông Đà lại có một
quãng sông lặng tờ đến vậy ? ấy thế mà điều đó lại đang hiện hữu. Đến quãng sông
này, Sông Đà như một dòng sông vắt qua thời gian, như một chứng nhân im lặng đang
âm thầm đóng góp vẻ đẹp của mình cho đất trời. Nhà văn đã để cho dòng cảm xúc dào
dạt thốt lên thành lời đối thoại với thiên nhiên,bờ bãi ven sông. Dường như con người
muốn hoà mình cùng cảnh vật để chiêm ngưỡng vẻ đẹp đầy sức cuốn hút của dòng
sông. Bờ sông lúc này như biến thành một bờ cổ tích. Giữa con người và thiên nhiên
có một mối chan hoà, giao cảm và đồng điệu tuyệt vời: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu
nhung khỏi áng cỏ sương ,chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh
tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái nói riêng của con vật lành: “Hỡi
ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá
dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông ,bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông
đuổi mất đàn hươu vụt biến”. Cuộc đối thoại tưởng tượng của nhà văn khiến cho thiên
nhiên hiện hình với tất cả vẻ hoang sơ của nó, dường như nằm ngoài những biến động,
âm thanh của cuộc sống con người. Có lẽ ở nơi đây chỉ có thiên nhiên làm chủ vẻ đẹp
của chính mình và con người chỉ đóng vai trò là một “ông khách” thưởng ngoạn cái
đẹp. Giữa con người và thiên nhiên có một mối quan hệ hòa hợp, thân thiện. Mọi
chuyển động dường như đều cố gắng để không làm ảnh hưởng đến cái dòng chảy tĩnh
lặng như thời tiền sử ấy. Quá khứ và hiện tại đan xen khẳng định vẻ đẹp bất biến theo thời gian.
Ngòi bút và ngôn ngữ của Nguyễn Tuân tràn đầy âu yếm và nâng niu. Mỗi câu chữ
đều quyện chặt tình yêu với con sông thể hiện sinh động qua biện pháp nhân hóa. Màu
sắc và hình ảnh hiện lên đẹp như một bức tranh. Nhà văn đã khiến cho bức tranh ấy
mang một vẻ đẹp hoàn hảo, độc đáo và đầy ấn tượng. Có dòng sông, có nước sông, có
cảnh vật hai bên bờ sông nhưng đó phải là con sông như một áng tóc trữ tình, bờ sông 46
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
như một bờ tiền sử, như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa. Sông Đà đẹp ! đó là điều
không thể phủ nhận. Nhưng với Nguyễn Tuân dòng sông mang một vẻ đẹp hoàn mĩ.
Nó không chỉ đơn giản là một dòng sông chảy tràn qua núi rừng Tây Bắc mà trở thành
một sinh thể sống động, một linh hồn tinh tế và nhạy cảm. Dòng sông Đà hùng vĩ,
hiểm trở là kẻ thù, là thách thức, là một kẻ “hằng năm đời đời kiếp kiếp làm mình làm
mẩy với con người” ; vượt qua đoạn thượng nguồn nó đã trở thành một cố nhân. Và
khi trước cảnh: “Dải Sông Đà bọt nước lênh đênh- Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”
Sông Đà trở thành “người tình nhân chưa quen biết”… Cứ thế, bằng ngòi bút tài hoa
của mình, Nguyễn Tuân dẫn dắt người đọc chiếm lĩnh vẻ đẹp của con sông bằng tất cả
niềm say mê, tình yêu với sông núi, giang san. Nhà văn đã hát lên những lời ngợi ca
say sưa về vẻ đẹp trữ tình tuyệt vời của Sông Đà như một khúc ca hùng tráng, ngập
tràn yêu thương đối với một vùng thiên nhiên tươi đẹp của đất nước.
Đến với dòng sông của xứ Huế thơ mộng, như một “hướng dẫn viên du lịch” tài năng
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến cho người đọc một cái nhìn vô cùng toàn diện
nhưng không kém phần hấp dẫn về vẻ đẹp trữ tình của sông Hương. Ở thượng nguồn
sông Hương mang vẻ đẹp huyền bí, chẳng phải ngẫu nhiên nhà văn lại gọi dòng sông
như một “bản trường ca của rừng già”. Ở nơi khơi nguồn của dòng chảy, gắn liền với
đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, con sông toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt,
vừa hùng vĩ, vừa trữ tình như một bản trường ca bất tận của thiên nhiên.
Tại nơi rừng đại ngàn sông Hương “như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”
đây là một liên tưởng thú vị và độc đáo. Với hình ảnh so sánh này, nhà văn đã khắc
vào tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh mẽ về vẻ đẹp hoang dại nhưng cũng rất tình
tứ của con sông. Không những thế tác giả còn nhân hóa dòng sông khiến nó hiện lên
như một con người có cá tính, tâm hồn “rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan
dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Ra khỏi rừng già, sông Hương trở thành một
“người mẹ phù sa” của một vùng văn hóa xứ sở. Nó không chỉ giúp người đọc có
thêm một góc nhìn, một sự hiểu biết về vẻ đẹp hùng vĩ, man dại, đầy chất thơ của
sông Hương mà còn mang đến một cái nhìn sâu sắc hơn muốn ghi công: sông Hương
như một đấng sáng tạo đã góp phần tạo nên, gìn giữ và bảo tồn văn hóa của một vùng 47
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
thiên nhiên, xứ sở. Sông Hương chính là một khởi nguồn, một sự bắt đầu của một
không gian văn hóa- văn hóa Huế.
Khi ở ngoại vi thành phố Huế nhà văn đã cảm nhận “sông Hương như một người gái
đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” được người tình mong
đợi đến đánh thức. Từ đây thủy trình của con sông khi nó bắt đầu về xuôi tựa như một
cuộc tìm kiếm có ý thức trong một câu chuyện tình yêu lãng mạn, nhuốm màu cổ tích.
Dòng sông lúc này mang một dáng vóc mới đầy khát khao và lãng mạn “ sông Hương
đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo
những đường cong thật mềm”. Hành trình đến với “người tình mong đợi” của “người
gái đẹp” khá gian truân và nhiều thử thách khi nó phải vượt qua một loạt chướng ngại
vật :điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán… nhưng chính
trong quá trình ấy nó lại có cơ hội khoe tất cả vẻ đẹp của mình- vẻ đẹp gợi cảm với
những đường cong tuyệt mĩ. Hoàng Phủ Ngọc Tường còn thấy được ở dòng sông này
một vẻ đẹp khác nữa sâu lắng hơn, bí ẩn hơn đó là vẻ trầm mặc như triết lý , như cổ
thi của sông Hương đi giữa thiên nhiên. Sông Hương cũng chuyển mình ngày đêm
bên những lăng tẩm thành quách của vua chúa thời Nguyễn, con sông hiền hòa ở
ngoại vi thành phố Huế như đang nép mình bên giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa phong kín trong lòng.
Đến khi sông Hương đổ vào thành phố tương lai của nó, “nó đã kéo một nét thẳng
thực yên tâm theo hướng tây nam-đông bắc…, nó đã thấy chiếc cầu trắng của thành
phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vành trăng non”. Nhà văn đã dành cho sông
Hương một tình cảm trìu mến, thân thương. Có như vậy, ông mới liên tưởng trạng thái
sông Hương uốn một cánh cũng rất nhẹ sang cồn Hến như một tiếng “vâng” không nói
ra của tình yêu. Đôi mắt sâu sắc của nhà văn đã nhìn ra mối quan hệ biện chứng giữa
dòng sông Hương mềm mại với con người xứ Huế. Sông Hương dịu dàng, duyên dáng
như đã góp phần hình thành nên tính cách nết na, ý nhị của người con gái cố đô.Với
một trình độ văn hoá uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh vẻ đẹp của sông
Hương với nhiều dòng sông nổi tiếng thế giới như sông Xen của Pari, sông Đa-nuýp
của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Nga,… Từ đó mà ông đã tôn vinh vẻ đẹp độc đáo của 48
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
dòng sông Hương vào buổi đêm về, “vẫn lập lòe trong đêm sương, những ánh lửa
thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn
nhìn thấy được”. Nhà văn quý điệu chảy lững lờ của sông Hương qua thành Huế. Ông
cho rằng “Đây là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng
thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy…
chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.”
Có thể nói rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là một nhà văn hoá Huế thực sự, ông
không chỉ nhìn sông Hương trôi ở trong hiện tại, ngày ngày mang phù sa và nguồn
nước ngọt trao tặng vô tư cho những cánh đồng Châu Hóa, cho cuộc sống người dân
xứ Huế; mà ông còn nhìn sông Hương như là khởi nguồn cho những giá trị tinh thần
lịch sử. Sông Hương trong quá khứ qua các triều đại phong kiến vàng son, nó đã từng
mang cái tên Linh giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới
phía nam Tổ quốc nước Đại Việt. Nó đã từng vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân
của anh hùng Nguyễn Huệ, rồi nó đi suốt qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ
góp phần làm nên những chiến công lẫy lừng vang dội cả thế giới như lời đại tướng
Võ Nguyên Giáp đã phát biểu: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố
Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc”.
Từ hiện thực kiêu hùng của Huế, mà Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng: “Sông Hương
là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết dưới màu cỏ lá xanh biếc”. Mặt
khác, sông Hương cũng là cội nguồn của thi ca nghệ thuật. Có biết bao văn nhân, thi sĩ
đã từng rung động với dòng sông Hương như Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Tản Đà, Tố
Hữu. Nhà văn đã tin rằng “có một dòng sông thi ca về sông Hương và tôi hy vọng đã
nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ lặp lại
mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Cao Bá Quát đã từng nhìn sông Hương mà
thốt lên rằng: “Trường giang như kiếm lập thanh thiên”.Thu Bồn nhìn dòng nước lững
lờ của sông Hương mà bâng khuâng
“Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu” 49
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
Và với Nguyễn Trọng Tạo, Hương Giang lãng đãng một bầu khí quyển huyền thoại
thi ca giúp nhà thơ thăng hoa những vần thơ mê đắm:
“Con sông đám cưới Huyền Trân
Bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn
Hèn chi thơm thảo nỗi buồn
Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ
Con sông nửa thực nửa mơ
Nửa mong Lí Bạch, nửa chờ Khuất Nguyên”
Qua những trang kí tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường sông Hương hiện ra với
những vẻ đẹp dịu dàng, tinh tế, góp phần làm cho Huế trở nên một bức tranh sơn thuỷ
hữu tình. Hơn thế, sông Hương còn là dòng sông lịch sử, văn hoá, thơ ca, nghệ thuật.
Nó đã là một phần trong đời sống tâm linh của người Huế trầm mặc, sâu sắc.
Cùng là vẻ đẹp trữ tình, cùng được thể hiện qua ngòi bút tài hoa, uyên bác nhưng ở
sông Đà, Nguyễn Tuân chủ yếu thể hiện vẻ đẹp hoang dại của thiên nhiên nhằm thỏa
mãn thú ham xê dịch, còn sông Hương lại tập trung tái hiện vẻ đẹp văn hóa giàu chất
trữ tình của dòng Hương giang. Sông Đà được miêu tả từ góc nhìn địa lý còn sông
Hương lại được nhìn trên phương diện văn hóa, lịch sử.Tất cả điều đó đã tạo nên một
ấn tượng độc đáo riêng của mỗi tác giả trong tâm hồn bạn đọc; đồng thời mang đến
cho họ một cái nhìn mới mẻ, đa dạng về vẻ đẹp của thiên nhiên Tổ quốc.
Qua hai tác phẩm “Người lái đò Sông Đà”- Nguyễn Tuân và “Ai đã đặt tên cho dòng
sông?”- Hoàng Phủ Ngọc Tường, ta có thể cảm nhận thật rõ nét vẻ đẹp trữ tình đầy
thơ mộng, hấp dẫn của hai con sông quê hương. Nó không chỉ mang nét đẹp của thiên
nhiên mà nó còn mang nhiều giá trị văn hóa, địa lý, lịch sử độc đáo. Qua đó thể hiện
vẻ đẹp đa dạng, phong phú của cảnh sắc quê hương, bộc lộ tình yêu thiết tha, gắn bó
với đất Việt của các nhà văn.
So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương - Mẫu 9 50
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
Từ xưa đến nay thiên nhiên luôn là một nguồn cảm hứng vô tận với các nhà thơ, nhà
văn làm đề tài sáng tác. Nếu như những thi nhân, văn nhân trung đại hướng tâm hồn
mình với mây, hoa, tuyết, nguyệt, cầm, kì, thi, tửu- những thú vui tao nhã ở đời thì
những tác giả hiện đại lại hướng ngòi bút của mình về cảnh sắc thiên nhiên của đất
nước, của con người trong thời đại đổi mới.
Họ luôn tìm thấy trên quê hương có những vùng núi non tuyệt đẹp, những di sản thiên
nhiên đáng để con người trân trọng, luyến lưu. Và sông nước chính là một trong
những cảnh thiên nhiên tươi đẹp ấy, dòng sông với dòng nước chảy, với lịch sử hình
thành cũng như những đặc điểm độc đáo về địa lý đã khơi gợi trong lòng các nhà văn
những cảm xúc dạt dào nhất khiến họ phải cầm bút và sáng tạo nghệ thuật. “Người lái
đò Sông Đà” –Nguyễn Tuân và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” – Hoàng Phủ Ngọc
Tường được ra đời từ chính sự thôi thúc trước cái đẹp của các nhà văn. Tuy được sáng
tác ở những khoảng thời gian khác nhau nhưng ở cả hai tác phẩm đều tái hiện thành
công vẻ đẹp trữ tình, đằm thắm của những dòng sông quê hương.
Viết về đề tài sông nước đã có nhiều bài thơ, bài văn rất thành công. Ta đã được
chiêm ngưỡng một dòng sông mênh mông, hoang vắng, buồn man mác thấm đượm
nỗi nhớ nhà trong “ Tràng giang” của Huy Cận hay một khung cảnh đìu hiu, cách biệt
của thiên nhiên sông nước Kinh Bắc trong bài thơ “Bên kia sông Đuống” của Hoàng
Cầm. Nếu những bài thơ trên chỉ là điều kiện, chỉ là cái cớ để các nhà thơ bày tỏ lòng
mình thì đến với “Người lái đò sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” người đọc
mới cảm nhận được rõ nét về một tác phẩm viết về dòng sông thực sự. Dưới ngòi bút
của các nhà văn hình ảnh dòng sông “độc bắc lưu” và hình ảnh dòng sông của xứ Huế
mộng mơ hiện lên mang nhiều nét chung độc đáo.
Cả hai nhà văn đều khắc họa hình tượng dòng sông với vẻ đẹp, dáng vẻ phong phú, đa
dạng ở nhiều khoảng thời gian, không gian,với điểm nhìn khác nhau. Dòng sông Đà
trước tiên được Nguyễn Tuân có lúc nhìn ngắm như một người xa lạ, có lúc lại như
một cố nhân thân thuộc; có khi ngắm nhìn sông Đà từ trên cao , khi lại tiến đến cận
cảnh để nhận ra rõ hơn vẻ đẹp của nó. Về thời gian, sông Đà được nhà văn chiêm 51
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
ngưỡng ở cả bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông- mỗi mùa lại đem đến cho tác giả những
xúc cảm, ấn tượng riêng. Qua đó nhà văn muốn đưa đến cho người đọc một cái nhìn
đa dạng, toàn diện về vẻ đẹp của con sông yêu thương. Với dòng sông Hương , Hoàng
Phủ Ngọc Tường cũng thể hiện thành công vẻ đẹp hoàn chỉnh về nhiều góc độ của nó.
Nhà văn đã ghi lại được vẻ đẹp phong phú của sông Hương lúc ở thượng lưu, ở ngoại
vi, ở giữa lòng thành phố Huế. Và như vậy dường như vẫn chưa đủ, ông còn mang
đến cho người đọc một cái nhìn đầy đủ hơn về sông Hương qua vẻ đẹp trong lịch sử,
cuộc đời và thi ca. Có thể nói, cả hai nhà văn đã tái hiện thật độc đáo và đa dạng vẻ
đẹp của dòng sông gắn bó tha thiết với mình qua nhiều phương diện khác nhau. Chính
điều đó đã tạo nên sức hấp dẫn, sự lôi cuốn cho người đọc, để lại trong họ nhiều ấn tượng đậm nét.
Để có được tác phẩm hay như vậy, để làm nổi bật được vẻ đẹp trữ tình của hình tượng
dòng sông đó, tất cả đều phải trải qua ngòi bút tài hoa, uyên bác của các nhà văn. Ở
mỗi nhà văn lại có cách diễn đạt và cảm nhận riêng, song họ lại bắt gặp, đồng điệu
tâm hồn trong sự khả năng quan sát tinh tế thông qua những liên tưởng, so sánh đầy
tính tạo hình, biểu cảm. Vẻ đẹp của dòng sông cũng vì thế mà càng đậm nét hơn, ấn
tượng hơn. Cả hai con sông đều được ví như những người con gái trẻ trung mang
trong mình những vẻ đẹp trong sáng, tinh khôi “ Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như
một áng tóc trữ tình; đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa
ban hoa gạo tháng hai” ; “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa
đầy hoa dại”… Bằng vốn hiểu biết phong phú, bằng sự liên tưởng, tưởng tượng độc
đáo các nhà văn đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên miền sông nước với vẻ đẹp trữ tình
đằm thắm tạo nên ấn tượng mạnh mẽ trong tâm hồn người đọc đồng thời làm sống dậy
trong họ tình cảm yêu thương, niềm tự hào với vẻ đẹp của quê hương, xứ sở, của Tổ quốc.
Bên cạnh những nét chung độc đáo, vẻ đẹp trữ tình của hai con sông còn mang những
nét riêng vô cùng đặc sắc. Đầu tiên là vẻ đẹp của dòng sông Đà. Con Sông Đà hùng vĩ
dài trên năm trăm cây số ,ở nơi thượng nguồn nó mang một vẻ đẹp hào hùng và thách
thức, vậy mà vượt qua đoạn thượng nguồn dòng sông hoàn toàn mang bộ mặt khác: 52
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
thơ mộng, trữ tình, thanh bình, yên ả; nó giống như một cô thiếu nữ xinh đẹp trút bỏ
cái vẻ “đỏng đảnh” để trở về với vẻ đẹp dịu dàng lãng mạn của mình- một nét tính
khác của Sông Đà được Nguyễn Tuân dùng ngòi bút tài hoa để miêu tả mang đậm
chất chữ tình. Và cũng giống như con Sông Đà khi hung bạo, nó được con người luôn
khát khao tìm kiếm cái đẹp kia miêu tả ở nhiều góc độ. Lúc thì nhà văn nhìn con sông
từ trên tàu bay, từ trên cao, có lúc lại nhìn qua đám mây mùa xuân, khi nhìn qua đám
mây mùa thu, có khi tác giả cảm nhận dòng sông bằng nỗi nhớ của cố nhân, gặp thì
vui mừng, xa thì nhớ nhung. Cũng có khi bằng đôi mắt lịch sử, của hồi ức, của quá
khứ, và ở điểm nhìn, con Sông Đà lại có một vẻ đẹp khác nhau. Khát khao tìm đến
một cái vẻ đẹp mới hoàn mĩ cùng bản tính của một người nghệ sĩ luôn mong muốn tìm
kiếm sự mới lạ độc đáo đã khiến cho dòng Sông Đà trở nên sinh động “ đóng đinh”
vào trong lòng người đọc. Con sông đầy ghềnh thác tung bọt trắng xóa nhìn từ trên
xuống ngoằn ngoèo như một cái dây thừng. Rồi có lúc nó lại giống như một thiếu nữ
mà có lẽ nói đúng hơn là một tiên nữ giáng trần khiến cho người ta phải mê mẩn:
“ Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.
Cũng giống như rất nhiều những câu văn sau đó nữa, câu văn ngân vang lên như một
bài thơ, dòng sông giờ đây trở nên thật hiền lành, nó như một nét vẽ đẹp tô điểm cho
bức tranh của núi rừng Tây Bắc. Và vẻ đẹp của Sông Đà không bao giờ nhàm chán. Ở
mỗi thời điểm khác nhau người ta lại thấy Sông Đà trong một dáng vẻ, hình hài khác
nhau: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh
hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một
người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bực bội gì
mỗi độ thu về…” Dường như ở con sông Đà không có chỗ cho những cái sơ sài, tất cả
đều phải là tuyệt đỉnh.
Không gian lắng đọng trong vẻ đẹp của “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm
bướm sông Đà”. Nguyễn Tuân đã gợi lên vẻ đẹp của sông Đà bằng hai từ “gợi cảm”.
Và quả thực ,vẻ đẹp thơ mộng của dòng sông khiến cho người ngoạn cảnh gặp lại có 53
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
cảm giác “đằm đằm ấm ấm”, gợi biết bao thi vị. Trong vẻ đẹp của Sông Đà, họ phát
hiện ra nó đẹp như một bức tranh đường thi vẽ cảnh “Yêu hoa tam nguyệt há Dương
Châu “của Lý Bạch. Vẻ đẹp như trang nghiêm trong mạch cổ Đường thi, vừa lắng
đọng về một thời Lí, Trần, Lê vừa bâng khuâng cảm giác về sự sống đâm chồi nảy lộc:
“Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ thời Lí đời
Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi . Thuyền tôi trôi qua một
nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ
gianh đồi núi đang ra nhưng nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm
sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi
niềm cổ tích tuổi xưa”. Vừa vượt qua ghềnh thác Sông Đà, ai nghĩ Sông Đà lại có một
quãng sông lặng tờ đến vậy? ấy thế mà điều đó lại đang hiện hữu. Đến quãng sông này,
Sông Đà như một dòng sông vắt qua thời gian, như một chứng nhân im lặng đang âm
thầm đóng góp vẻ đẹp của mình cho đất trời. Nhà văn đã để cho dòng cảm xúc dào dạt
thốt lên thành lời đối thoại với thiên nhiên,bờ bãi ven sông. Dường như con người
muốn hoà mình cùng cảnh vật để chiêm ngưỡng vẻ đẹp đầy sức cuốn hút của dòng
sông. Bờ sông lúc này như biến thành một bờ cổ tích. Giữa con người và thiên nhiên
có một mối chan hoà, giao cảm và đồng điệu tuyệt vời: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu
nhung khỏi áng cỏ sương ,chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh
tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái nói riêng của con vật lành: “Hỡi
ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá
dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông ,bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông
đuổi mất đàn hươu vụt biến”. Cuộc đối thoại tưởng tượng của nhà văn khiến cho thiên
nhiên hiện hình với tất cả vẻ hoang sơ của nó, dường như nằm ngoài những biến động,
âm thanh của cuộc sống con người. Có lẽ ở nơi đây chỉ có thiên nhiên làm chủ vẻ đẹp
của chính mình và con người chỉ đóng vai trò là một “ông khách” thưởng ngoạn cái
đẹp. Giữa con người và thiên nhiên có một mối quan hệ hòa hợp, thân thiện. Mọi
chuyển động dường như đều cố gắng để không làm ảnh hưởng đến cái dòng chảy tĩnh
lặng như thời tiền sử ấy. Quá khứ và hiện tại đan xen khẳng định vẻ đẹp bất biến theo thời gian. 54
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
Ngòi bút và ngôn ngữ của Nguyễn Tuân tràn đầy âu yếm và nâng niu. Mỗi câu chữ
đều quyện chặt tình yêu với con sông thể hiện sinh động qua biện pháp nhân hóa. Màu
sắc và hình ảnh hiện lên đẹp như một bức tranh. Nhà văn đã khiến cho bức tranh ấy
mang một vẻ đẹp hoàn hảo, độc đáo và đầy ấn tượng. Có dòng sông, có nước sông, có
cảnh vật hai bên bờ sông nhưng đó phải là con sông như một áng tóc trữ tình, bờ sông
như một bờ tiền sử, như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa. Sông Đà đẹp ! đó là điều
không thể phủ nhận. Nhưng với Nguyễn Tuân dòng sông mang một vẻ đẹp hoàn mĩ.
Nó không chỉ đơn giản là một dòng sông chảy tràn qua núi rừng Tây Bắc mà trở thành
một sinh thể sống động, một linh hồn tinh tế và nhạy cảm. Dòng sông Đà hùng vĩ,
hiểm trở là kẻ thù, là thách thức, là một kẻ “hằng năm đời đời kiếp kiếp làm mình làm
mẩy với con người” ; vượt qua đoạn thượng nguồn nó đã trở thành một cố nhân. Và
khi trước cảnh: “Dải Sông Đà bọt nước lênh đênh- Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”
Sông Đà trở thành “người tình nhân chưa quen biết”… Cứ thế, bằng ngòi bút tài hoa
của mình, Nguyễn Tuân dẫn dắt người đọc chiếm lĩnh vẻ đẹp của con sông bằng tất cả
niềm say mê, tình yêu với sông núi, giang san. Nhà văn đã hát lên những lời ngợi ca
say sưa về vẻ đẹp trữ tình tuyệt vời của Sông Đà như một khúc ca hùng tráng, ngập
tràn yêu thương đối với một vùng thiên nhiên tươi đẹp của đất nước.
Đến với dòng sông của xứ Huế thơ mộng, như một “hướng dẫn viên du lịch” tài năng
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến cho người đọc một cái nhìn vô cùng toàn diện
nhưng không kém phần hấp dẫn về vẻ đẹp trữ tình của sông Hương. Ở thượng nguồn
sông Hương mang vẻ đẹp huyền bí, chẳng phải ngẫu nhiên nhà văn lại gọi dòng sông
như một “bản trường ca của rừng già”. Ở nơi khơi nguồn của dòng chảy, gắn liền với
đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, con sông toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt,
vừa hùng vĩ, vừa trữ tình như một bản trường ca bất tận của thiên nhiên.
Tại nơi rừng đại ngàn sông Hương “như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”
đây là một liên tưởng thú vị và độc đáo. Với hình ảnh so sánh này, nhà văn đã khắc
vào tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh mẽ về vẻ đẹp hoang dại nhưng cũng rất tình
tứ của con sông. Không những thế tác giả còn nhân hóa dòng sông khiến nó hiện lên
như một con người có cá tính, tâm hồn “rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan 55
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Ra khỏi rừng già, sông Hương trở thành một
“người mẹ phù sa” của một vùng văn hóa xứ sở. Nó không chỉ giúp người đọc có
thêm một góc nhìn, một sự hiểu biết về vẻ đẹp hùng vĩ, man dại, đầy chất thơ của
sông Hương mà còn mang đến một cái nhìn sâu sắc hơn muốn ghi công: sông Hương
như một đấng sáng tạo đã góp phần tạo nên, gìn giữ và bảo tồn văn hóa của một vùng
thiên nhiên, xứ sở. Sông Hương chính là một khởi nguồn, một sự bắt đầu của một
không gian văn hóa- văn hóa Huế.
Khi ở ngoại vi thành phố Huế nhà văn đã cảm nhận “sông Hương như một người gái
đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” được người tình mong
đợi đến đánh thức. Từ đây thủy trình của con sông khi nó bắt đầu về xuôi tựa như một
cuộc tìm kiếm có ý thức trong một câu chuyện tình yêu lãng mạn, nhuốm màu cổ tích.
Dòng sông lúc này mang một dáng vóc mới đầy khát khao và lãng mạn “ sông Hương
đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo
những đường cong thật mềm”. Hành trình đến với “người tình mong đợi” của “người
gái đẹp” khá gian truân và nhiều thử thách khi nó phải vượt qua một loạt chướng ngại
vật :điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán… nhưng chính
trong quá trình ấy nó lại có cơ hội khoe tất cả vẻ đẹp của mình- vẻ đẹp gợi cảm với
những đường cong tuyệt mĩ. Hoàng Phủ Ngọc Tường còn thấy được ở dòng sông này
một vẻ đẹp khác nữa sâu lắng hơn, bí ẩn hơn đó là vẻ trầm mặc như triết lý , như cổ
thi của sông Hương đi giữa thiên nhiên. Sông Hương cũng chuyển mình ngày đêm
bên những lăng tẩm thành quách của vua chúa thời Nguyễn, con sông hiền hòa ở
ngoại vi thành phố Huế như đang nép mình bên giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa phong kín trong lòng.
Đến khi sông Hương đổ vào thành phố tương lai của nó, “nó đã kéo một nét thẳng
thực yên tâm theo hướng tây nam-đông bắc…, nó đã thấy chiếc cầu trắng của thành
phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vành trăng non”. Nhà văn đã dành cho sông
Hương một tình cảm trìu mến, thân thương. Có như vậy, ông mới liên tưởng trạng thái
sông Hương uốn một cánh cũng rất nhẹ sang cồn Hến như một tiếng “vâng” không nói
ra của tình yêu. Đôi mắt sâu sắc của nhà văn đã nhìn ra mối quan hệ biện chứng giữa 56
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
dòng sông Hương mềm mại với con người xứ Huế. Sông Hương dịu dàng, duyên dáng
như đã góp phần hình thành nên tính cách nết na, ý nhị của người con gái cố đô.Với
một trình độ văn hoá uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh vẻ đẹp của sông
Hương với nhiều dòng sông nổi tiếng thế giới như sông Xen của Pari, sông Đa-nuýp
của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Nga,… Từ đó mà ông đã tôn vinh vẻ đẹp độc đáo của
dòng sông Hương vào buổi đêm về, “vẫn lập lòe trong đêm sương, những ánh lửa
thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn
nhìn thấy được”. Nhà văn quý điệu chảy lững lờ của sông Hương qua thành Huế. Ông
cho rằng “Đây là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng
thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy…
chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.”
Có thể nói rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là một nhà văn hoá Huế thực sự, ông
không chỉ nhìn sông Hương trôi ở trong hiện tại, ngày ngày mang phù sa và nguồn
nước ngọt trao tặng vô tư cho những cánh đồng Châu Hóa, cho cuộc sống người dân
xứ Huế; mà ông còn nhìn sông Hương như là khởi nguồn cho những giá trị tinh thần
lịch sử.Sông Hương trong quá khứ qua các triều đại phong kiến vàng son, nó đã từng
mang cái tên Linh giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới
phía nam Tổ quốc nước Đại Việt. Nó đã từng vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân
của anh hùng Nguyễn Huệ, rồi nó đi suốt qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ
góp phần làm nên những chiến công lẫy lừng vang dội cả thế giới như lời đại tướng
Võ Nguyên Giáp đã phát biểu: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố
Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc”.
Từ hiện thực kiêu hùng của Huế, mà Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng: “Sông Hương
là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết dưới màu cỏ lá xanh biếc”. Mặt
khác, sông Hương cũng là cội nguồn của thi ca nghệ thuật. Có biết bao văn nhân, thi sĩ
đã từng rung động với dòng sông Hương như Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Tản Đà, Tố
Hữu. Nhà văn đã tin rằng “có một dòng sông thi ca về sông Hương và tôi hy vọng đã
nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ lặp lại
mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Cao Bá Quát đã từng nhìn sông Hương mà 57
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
thốt lên rằng: “Trường giang như kiếm lập thanh thiên”.Thu Bồn nhìn dòng nước lững
lờ của sông Hương mà bâng khuâng:
“Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
Và với Nguyễn Trọng Tạo, Hương Giang lãng đãng một bầu khí quyển huyền thoại
thi ca giúp nhà thơ thăng hoa những vần thơ mê đắm:
“Con sông đám cưới Huyền Trân
Bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn
Hèn chi thơm thảo nỗi buồn
Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ
Con sông nửa thực nửa mơ
Nửa mong Lí Bạch, nửa chờ Khuất Nguyên”
Qua những trang kí tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường sông Hương hiện ra với
những vẻ đẹp dịu dàng, tinh tế, góp phần làm cho Huế trở nên một bức tranh sơn thuỷ
hữu tình. Hơn thế, sông Hương còn là dòng sông lịch sử, văn hoá, thơ ca, nghệ thuật.
Nó đã là một phần trong đời sống tâm linh của người Huế trầm mặc, sâu sắc.
Cùng là vẻ đẹp trữ tình, cùng được thể hiện qua ngòi bút tài hoa, uyên bác nhưng ở
sông Đà, Nguyễn Tuân chủ yếu thể hiện vẻ đẹp hoang dại của thiên nhiên nhằm thỏa
mãn thú ham xê dịch, còn sông Hương lại tập trung tái hiện vẻ đẹp văn hóa giàu chất
trữ tình của dòng Hương giang. Sông Đà được miêu tả từ góc nhìn địa lý còn sông
Hương lại được nhìn trên phương diện văn hóa, lịch sử.Tất cả điều đó đã tạo nên một
ấn tượng độc đáo riêng của mỗi tác giả trong tâm hồn bạn đọc; đồng thời mang đến
cho họ một cái nhìn mới mẻ, đa dạng về vẻ đẹp của thiên nhiên Tổ quốc.
Qua hai tác phẩm “Người lái đò Sông Đà”- Nguyễn Tuân và “Ai đã đặt tên cho dòng
sông?”- Hoàng Phủ Ngọc Tường, ta có thể cảm nhận thật rõ nét vẻ đẹp trữ tình đầy
thơ mộng, hấp dẫn của hai con sông quê hương. Nó không chỉ mang nét đẹp của thiên 58
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
nhiên mà nó còn mang nhiều giá trị văn hóa, địa lý, lịch sử độc đáo. Qua đó thể hiện
vẻ đẹp đa dạng, phong phú của cảnh sắc quê hương, bộc lộ tình yêu thiết tha, gắn bó
với đất Việt của các nhà văn.
So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương - Mẫu 10
Từ xa xưa, cuộc sống của con người luôn có sự gắn bó mật thiết với vạn vật của tự
nhiên. Cùng với vầng trăng và bầu trời, cỏ cây và hoa lá… dòng sông cũng là một
trong những “người bạn” gần gũi và nghĩa tình với nhân sinh. Bởi thế mà dòng sông
đã không ít lần trở thành hình ảnh được biết bao văn nhân, thi sĩ gửi gắm những tâm
tư, nỗi niềm của mình. Với Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường, nỗi niềm và
tâm tư ấy được bộc lộ thông qua vẻ đẹp trữ tình của sông Đà và sông Hương trong hai
tác phẩm “Người lái đò sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Cùng tìm hiểu,
phân tích và so sánh vẻ đẹp trữ tình của sông Đà và sông Hương qua bài viết sau.
Trong tùy bút Người lái đò Sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng con sông như
một nhân vật có tính cách, rất cụ thể và sinh động. Trước khi so sánh vẻ đẹp trữ tình
của sông Đà và sông Hương, ta cần tìm hiểu và phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà.
Dưới lời giới thiệu của Nguyễn Tuân, dòng sông Đà hiện lên với hình ảnh của một
dòng sông hung bạo, thế nhưng đằng sau dáng vẻ hung bạo ấy lại là dáng vẻ của một
dòng sông trữ tình. Ban đầu, dòng sông được miêu tả bởi sự hợp thành của những
khúc sông, bờ đá dựng vách thành, những quãng sông, lòng sông thắt hẹp như yết hầu, thác nước dữ dội.
Từ trên cao, nó không khác gì “cái dây thừng ngoằn ngoèo” với“từng nét sông ra trên
đại dương đá lờ lờ bóng mây” và hay “làm mình làm mẩy với con người”. Thế mà
dòng sông ấy đã có lúc thật dịu dàng thấp thoáng hình ảnh của một người thiếu nữ
diễm kiều khi “con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân
tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn
mùi khói núi Mèo đốt nương xuân”. 59
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
Đó là sự liên tưởng bất ngờ và táo bạo gợi vẻ đẹp nên thơ, huyền ảo của dòng sông.
Chính cái vẻ mềm mại, trữ tình và quyến rũ ấy đang ôm ấp trong mình cái “chất
Nguyễn Tuân”. Với thiên nhiên Tây Bắc, ông dành cho nó một tình cảm thiết tha còn
xét về tài năng người nghệ sĩ trong nghệ thuật miêu tả, ông chính là người đội trưởng
tài tình khi chỉ huy được cả một đội quân ngôn từ hùng hậu của mình.
Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn phản quang qua màu nước của nó. Cùng trên một
dòng sông nhưng đã có biết bao sắc màu biến đổi diệu kì vào những thời điểm khác
nhau. Nếu “mùa xuân dòng xanh ngọc bích”, thì vào mùa thu “nước sông Đà lừ lừ
chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”.
Tác giả quả thật đã có sự cảm nhận hết sức tinh tế và độc đáo khi miêu tả màu sắc của
dòng sông. Những màu sắc của dòng sông ấy có được là nhờ vào sự quy chiếu, liên
tưởng của tác giả lên những sự vật và những hình ảnh. Nếu sắc xanh được cảm nhận
qua vẻ đẹp của làn mây ngọt ngào tràn đầy sức sống thì ánh đỏ khiến người đọc dễ
hình dung đến sứ mệnh của con sông khi phải oằn mình chở nặng phù sa để đắp bồi cho bãi biển xanh tốt.
Thế nên Sông Đà không thể nào là một dòng sông đen như “thực dân Pháp đã đè ngửa
con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu” mà là dòng sông
xinh đẹp, sinh động bởi những màu sắc tươi tắn ấy.
Không chỉ thể hiện sự trữ tình, thơ mộng ở hình dáng, màu sắc mà quang cảnh hai bên
bờ sông Đà cũng góp phần tạo nên những nét đẹp ấy. Trước cảnh chuồn chuồn, bươm
bướm rập rờn trên bờ bãi sông Đà, tác giả đã ghi lại cảm giác của mình bằng một ví
von đầy thiện cảm: “Chao ôi, trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa
dầm, vui như nối lại chiêm bao bị đứt quãng”.
Niềm vui khi hiện diện trước bờ bãi Sông Đà ấy hẳn đã bắt nguồn cho sự hình thành
của mối quan hệ thiện tình giữa cố nhân và nghệ sĩ. Dù tâm tính người cố nhân ấy
biến đổi khó lường nhưng tác giả vẫn cảm thấy “đằm đằm ấm ấm” bởi không khí thân
thương, gần gũi của quang cảnh nơi đây. Không chỉ vậy, nét hoang dại bởi sự lặng tờ 60
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
của quãng sông, cách đàn hươu ngốn ngọn cỏ gianh đẫm sương đêm và cả tiếng cả
đập nước sông như gọi con người về với nỗi niềm cổ tích tuổi xưa…
So sánh vẻ đẹp trữ tình của sông Đà và sông Hương, ta không thể quên phân tích hình
tượng sông Hương trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Vẻ đẹp của sông Hương lại được gợi nên từ chính trong cuộc hành trình tìm kiếm tình
yêu của nó. Mặc dù ở nơi khởi nguồn, sông Hương tựa như:
“một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những
ghềnh thác, cuộc xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn” dẫu có lúc “trở nên dịu
dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.
Nhưng nó vẫn không thể giấu đi nét phóng khoáng và man dại như một cô gái Di-gan
của mình. Thế mà, khi vừa ra khỏi rừng, sông Hương bỗng chốc đã thay hình đổi dạng
để “mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ” và “trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”.
Đến ngoại vi thành phố, dòng sông là “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh
đồng Châu Hóa đầy hoa dại” để được người tình mong đợi đến đánh thức. Vì được
đánh thức nên bao nhiêu sức sống như ngời lên trong cách “chuyển dòng liên tục”,
“vòng giữa khúc quanh đột ngột” và “uốn mình theo những đường cong thật mềm” của Hương giang.
Khi trôi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, dòng sông mềm như lụa với
màu nước phản quang, lung linh, quyến rũ “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Lúc qua
bao lăng tẩm, đền đài với sự u tịch, kiêu hãnh âm u của rừng thông, sông Hương lại
khoác lên vẻ trầm mặc “như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng
lặng của nó gặp tiếng chuông của chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những
xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”. 61
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
Sau đó, sông Hương đã uốn một cánh cung rất nhẹ làm cho dòng sông như mềm hẳn
đi như một tiếng “vâng không nói ra của tình yêu”, nó vui hẳn lên khi về trong giữa
lòng thành phố. Tác giả đã liên tưởng đến điệu nhạc trữ tình, thiết tha dành cho Huế
trước dòng chảy trôi chậm, thực chậm của dòng sông. Bao nhiêu nét hoang dại, rầm rộ
trước kia đã hóa thành kín đáo, dịu dàng bởi dòng chảy tựa một điệu slow sâu lắng,
nhịp nhàng. Trong sự liên tưởng của tác giả, sông Hương còn thấp thoáng trong hình
ảnh của một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya đang chất chứa rất nhiều tâm sự trong lòng.
Trước khi giã biệt thành phố Huế, sông Hương giống như người tình dịu dàng, chung
thủy không muốn rời Huế nên “rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố
Huế lần cuối”. Tác giả đã ý nghị gọi đấy là nỗi niềm vương vấn và cả một chút kín
đáo của tình yêu. Sự kín đáo ấy gợi đến hình ảnh nàng Kiều trong đêm tình tự trở lại
tìm Kim Trọng để nói một lời thề. Tóm lại, vẻ đẹp của sông Hương trong thủy trình
của nó được cảm nhận và miêu tả bằng tình cảm tha thiết với Huế, bằng vốn văn hóa
phong phú và bằng cái nhìn mê đắm, tài hoa của tác giả.
Sông Hương là dòng sông của văn hóa thi ca. Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển của Huế
đã sinh thành trên mặt nước của dòng sông này. Chính vì thế, sông Hương có một vai
trò quan trọng trong việc bồi đắp và làm phong phú đời sống tâm hồn của con người đất kinh kỳ.
Không chỉ vậy, sông Hương còn là nguồn cảm hứng bất tận cho các văn nghệ sĩ.
Trong cách cảm nhận tinh tế của Tản Đà, nó hiện lên với hình ảnh “dòng sông trắng –
lá cây xanh”, với khí phách mạnh mẽ của Cao Bá Quát, sông Hương “như kiếm dựng
trời xanh”. Bên cạnh đó, sông Hương còn thấp thoáng trong bóng chiều bảng lảng của
hồn thơ Bà Huyện Thanh Quan và phút chốc phục sinh mạnh mẽ qua vần thơ của Tố Hữu:
“Hương giang ơi dòng sông êm
Qua tim ta vẫn ngày đêm tự tình” 62
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
“Dòng sông ai đã đặt tên
Để người đi nhớ Huế không quên”
“Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
Tên gọi sông Hương qua câu chuyện huyền thoại cùng với cách đặt nhan đề đã gợi lên
nhiều ý nghĩa. Tích cũ kể việc nhân dân hai bên bờ sông vì cảm mến con sông xinh
đẹp nên đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông để làn nước được thơm
mãi đã cho thấy vị trí của dòng Hương giang trong lòng mọi người quan trọng đến
nhường nào. Cách sử dụng câu hỏi tu từ “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã thể hiện sự
tha thiết trong tình cảm của tác giả dành cho dòng sông vì chẳng hay ai đặt tên mà lại
hay đến thế, trữ tình đến thế.
Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà và sông Hương có những điểm tương đồng đáng chú ý.
Trước nhất, vẻ đẹp của hai con sông đã được khai phá trên các phương diện địa lí, văn
hóa, điện ảnh… và thông qua cách khai phá ấy, người đọc có thể cảm nhận được sự
tài hoa trong văn phong của hai tác giả Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà và sông Hương càng được thể hiện cụ thể, sinh động thì
ta lại càng cảm nhận được trong đó tình cảm, say mê, yêu mến và tự hào của tác giả về
cảnh sắc thiên nhiên của đất nước. Cuối cùng mục đích của sự thể hiện đó của Nguyễn
Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường chắc hẳn là muốn mọi người cũng nên biết trân
trọng và giữ gìn những nét đẹp vốn quý của tự nhiên tạo vật.
Nét khác biệt ở vẻ đẹp trữ tình của sông Đà và sông Hương có lẽ được thể hiện rõ
ràng nhất khi hai tác giả đã miêu tả những ấn tượng của các dòng sông bằng những tài
năng nghệ thuật của riêng mình.
Khi viết về vẻ đẹp trữ tình của sông Đà, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật sự trữ tình bên
cạnh nét tính cách khác là sự hung bạo của dòng sông thông qua biện pháp nghệ thuật
nhân hóa. Còn với Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà văn lại đặc biệt thành công khi sử 63
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
dụng biện pháp so sánh và liên tưởng để khai thác vẻ đẹp của dòng Hương giang.
Cách viết của tác giả không chỉ đơn thuần cho người đọc cảm nhận được là nét trữ
tình gắn với thủy trình, thi ca và tên gọi của nó mà còn giúp ta hình dung được những
giá trị của dòng sông về mặt lịch sử, văn hóa.
Sông Đà hiện lên trên trang viết của Nguyễn Tuân với những nét đẹp quý giá đã góp
phần làm cho hình ảnh của người lao động thêm nổi bật. Trên cái nền của bức tranh
thiên nhiên với điểm nhấn là dòng sông, sự hiện diện của người lái đò là minh chứng
nổi bật cho “thứ vàng mười” của vùng cao Tây Bắc.
Với “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, sông Hương đã được Hoàng Phủ Ngọc Tường
hết lời ngợi ca và đó cũng chính là lời ngợi ca mà ông dành cho xứ Huế. Thông qua sự
ca ngợi ấy, nhà văn cũng muốn bày tỏ và gửi gắm tình yêu quê hương, đất nước của mình.
Như vậy, khi tìm hiểu sự khác biệt trong vẻ đẹp trữ tình của sông Đà và sông Hương,
ta thấy hình ảnh hai dòng sông mang phong cách riêng của hai nhà văn đã thể hiện
những tình cảm rất đáng quý ở họ. Đó không chỉ là tình yêu dành riêng cho dòng sông
chở nặng những tâm tư, nỗi niềm của những người nghệ sĩ mà suy rộng hơn còn là
tình yêu nồng nàn dành cho xứ sở, quê hương… Chính vì tình yêu đó, họ có thể biến
những hình ảnh rất đỗi gần gũi, bình dị thành thành điểm nhấn rất thơ mộng, trữ tình
trong bức tranh thiên nhiên của đất nước.
So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương - Mẫu 11
Nguyễn Tuân từng nói: “Ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường” có rất nhiều ánh lửa. Thật
tình, cái ánh lửa nồng ấm, mãnh liệt ấy thổi vào tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng
sông?” đã làm say đắm biết bao hồn người. Cảm nhận vẻ đẹp dòng sông trong đoạn:
“Trong những dòng sông…Kim Phụng” trong tác phẩm, nhà văn gợi ta liên tưởng đến
vẻ đẹp dòng sông Đà trong đoạn: “Hùng vĩ của sông Đà…nợ xuýt” của Nguyễn Tuân
để từ đó có cơ hội khám phá ra điểm chung và nét riêng ấn tượng trong vẻ đẹp của hai dòng sông. 64
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
Bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã để lại trong lòng người đọc bao thế hệ
những dư vang vô cùng đẹp đẽ về một dòng sông quê hương thân thương, một tâm
hồn nghệ sĩ đắm say nghệ thuật. Trong đoạn: “Trong những dòng sông…chân núi
Kim Phụng”, nhà văn đã phác họa rất chân thực vẻ đẹp riêng vốn có của dòng sông xứ
Huế mộng mơ. Sông Hương có cho mình một vị trí địa lý vô cùng độc đáo: một dòng
sông đẹp như những dòng sông khác trên thế giới nhưng lại chỉ thuộc về một thành
phố duy nhất. Dòng sông thủy chung son sắc ấy chẳng chịu chia nước chia lòng với
bất kỳ một thành phố nào. Vị thế của dòng sông được nhà văn và người đọc xác định
bởi giá trị của lòng chung thủy chí tình. Tiếp đến, với ngòi bút văn chương đặc sắc,
nhà văn đã phác họa nên một bản trường ca rừng già bằng ngôn từ nghệ thuật. Câu
văn dài, nhịp văn nhanh kết hợp cùng từ láy, động từ đã gợi liên tưởng đến hình ảnh
hùng vĩ nhưng cũng rất đỗi thơ mộng trữ tình của sông Hương. Sông Hương lúc này là
một bản hòa ca mới mẻ và gợi nhiều rung động, đắm say về một bản trường ca, một
khúc tình ca tha thiết, dạt dào.
Những câu văn tiếp theo, sông Hương được ví như cô gái Di – gan phóng khoáng và
man dại với bản lĩnh gan dạ và bản tính tự do, trong sáng. Cũng có lúc, dòng sông ấy
được xem như người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở, một đấng sinh thành đã
vun đắp, bồi tụ nét đẹp văn hóa của một miền Huế thơ. Những câu văn cuối đoạn,
Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn sông Hương mang một khuôn mặt kinh thành và tâm
hồn sâu thẳm như kín đáo gửi một lời đề nghị về cách nhìn mới mẻ về con sông: nhìn
thấu bản tâm thẳm sâu của nó đồng thời cách nhìn cách thể hiện đó còn bộc lộ tâm
tình của một chàng trai trong hành trình khám phá và chinh phục tâm hồn, trái tim một
người con gái trí tuệ, tài hoa, trẻ trung, mê đắm.
Viết về sông Đà trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân cũng khắc họa
hình tượng sông Đà mang vẻ đẹp hùng vĩ, ta có thể bắt gặp vẻ đẹp đó trong đoạn văn:
“Hùng vĩ của sông Đà…đòi nợ xuýt”. Trong đoạn văn này, nhà văn tập trung khắc
họa hai hình ảnh: vách đá và ghềnh Hát Loóng với nét đẹp rất riêng và ấn tượng. Hình
tượng vách thành hiện lên đầy nét tạo hình, gợi ra vách đá đồ sộ, kiên cố hệt như dáng
vẻ đầy bí mật của thành quách cổ kính xưa. Ghềnh Hát Loong dài hàng ngàn cây số, 65
Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
“nước xô đá, đá xô sóng…”. Câu văn dài này đã tạo ra nhịp văn nhanh, kết hợp với
điệp từ cùng động từ mạnh và phép nhân hóa đã khắc họa đậm nét sự dữ dội đến hung
bạo của ghềnh đá. Hơn nữa, nó còn giúp nhà văn biến nước, đá, sóng và gió sông Đà
trở thành một lũ cuồng quân cùng nhau hợp sức tạo khúc cuồng ca.
Cùng viết về những dòng sông tươi đẹp của quê hương đất nước, hai nhà văn đưa dẫn
liên tưởng người đọc đến sự so sánh điểm chung cũng như nét riêng trong vẻ đẹp của
hai dòng sông. Nói về điểm giống nhau, hai cây bút tài hoa trong hai đoạn trích đều
miêu tả dòng sông ở khúc thượng nguồn để từ đó giúp người đọc cảm nhận được sự
hùng vĩ của thiên nhiên đất trời và của hai con sông. Bên cạnh nét chung, điểm riêng
của hai dòng sông ở đoạn trích này là sắc vẻ hùng vĩ được thể hiện khác nhau. Nếu
như Nguyễn Tuân thể hiện sự hùng vĩ của sông Đà ở vẻ hung bạo, ở dung mạo và tâm
địa của một loài thủy quái, một “kẻ thù số một” thì dưới ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc
Tường, dáng vẻ hùng vĩ của dòng sông Hương lại được gợi nên như một khúc tình ca,
một địa chỉ của văn hóa, tâm hồn của quê hương xứ sở. Điểm chung cũng như nét
riêng trong vẻ đẹp của hai dòng sông ở hai đoạn trích này đã góp phần đem đến sự
thành công cho tác phẩm, góp sự đa dạng cho kho tàng tùy bút, bút ký viết về những
dòng sông quê hương đồng thời khẳng định sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế cũng như sự tài
hoa trong ngòi bút nghệ thuật của hai nhà văn.
Nét đẹp dòng sông Hương trong đoạn văn đã phần nào giúp người đọc hiểu được sự
tinh tế trong cách nhìn, sự tài hoa trong cách thể hiện cái đẹp của cây bút Hoàng Phủ
Ngọc Tường. Liên hệ đến vẻ đẹp của dòng sông Đà và bút lực Nguyễn Tuân, điểm
chung và nét riêng trong vẻ đẹp hai dòng sông khiến ta càng thêm ấn tượng và yêu
mến hai tác phẩm và hai tác giả tài năng này. 66