So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà | Văn mẫu lớp 12
So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà tuyển chọn 6 bài văn mẫu siêu hay gồm bài phân tích ngắn gọn, đầy đủ, bài làm của học sinh giỏi. Qua đó giúp cho các em học sinh lớp 12 có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng luyện Văn ngày một tốt hơn.
Preview text:
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
Dàn ý So sánh nhân vật người lái đò và Huấn Cao
Dàn ý chi tiết số 1 I. Mở bài:
Giới thiệu tác giả và tác phẩm
- Sông Đà là tập tùy bút hay nhất của Nguyễn Tuân viết về cảnh và người Tây Bắc.
Đó kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958 của nhà văn.
- Phong cảnh Tây Bắc dưới ngòi bút Nguyễn Tuân vừa hùng vĩ uy nghiêm, vừa tuyệt
vời, thơ mộng. Trong bài Người lái đò sông Đà rút từ tập tùy bút Sông Đà, nhà thơ
không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn hết lời ngợi ca vẻ đẹp của con người
Tây Bắc, nhất là những người lái đò trên con sông dữ dội và thơ mộng ấy. II. Thân bài :
So sánh hai tác phẩm Chữ người tử tù và Người lái đò sông Đà.
1. Phân tích nhân vật người lái đò sông Đà
* Vài nét về hình ảnh con sông Đà
- Hình ảnh sông Đà hiện lên thật hung dữ nhưng cũng không kém phần thơ mộng, trữ tình.
- Hình ảnh sông Đà vừa “hung bạo” vừa “trữ tình” là nền để người lái đò xuất hiện.
* Nhân vật người lái đò sông Đà Ông lái đò:
- Ông là người anh hùng sông nước.
- Ông lái đò là nghệ sĩ tài hoa.
-> Đúng như nhà văn Nguyễn Tuân nhận xét, ông lái đò là một “tay lái đò tài hoa”.
=> Nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân rất tài hoa. Nhà văn lược bỏ hầu hết
các chi tiết về đời tư của ông lái đò để đi sâu vào khắc họa ngoại hình, hành động của nhân vật.
2. So sánh nhân vật người lái đò với nhân vật Huấn Cao
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
- Nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một con
người tài hoa, khí phách hiên ngang bất khuất, “thiên lương” trong sáng.
- Vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn, có sức chinh phục, cảm hóa
mãnh liệt đối với những con người có tấm lòng “biệt liên tài”.
=> Từ việc tìm hiểu vài nét về vẻ đẹp hình tượng của nhân vật Huấn Cao chúng ta dễ
thấy được những nét chung và điểm khác biệt trong cách tiếp cận con người của
Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám. * Nét chung:
- Nguyễn Tuân tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
- Vẫn là ngòi bút tài hoa, uyên bác, lịch lãm, vận dụng tri thức tổng hợp của nhiều
ngành văn hóa, nghệ thuật khác nhau trong miêu tả và biểu hiện.
- Vẫn sử dụng vốn ngôn từ hết sức tinh lọc, phong phú, độc đáo. Khả năng tổ chức câu
văn đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi nhịp nhàng. Các phép tu
từ được nhà văn phối hợp vô cùng điêu luyện. * Khác biệt:
- Chữ người tử tù ca ngợi cái đẹp của tài hoa, khí phách và thiên lương, qua đó phủ
nhận thực tại phàm tục của xã hội thực dân phong kiến trước Cách mạng. Người lái đò
sông Đà ca ngợi con sông Đà và người lái đò sông Đà, bày tỏ niềm yêu mến thiết tha
thiên nhiên đất nước, niềm tin yêu cuộc sống mới, con người mới.
+ Huấn Cao là con người của quá khứ, của lịch sử, nay chỉ còn “vang bóng’’; ông lái
đò là con người của hiện tại, của hôm nay.
+ Huấn Cao là người đặ biệt, siêu phàm ; ông lái đò là con người bình thường của
cuộc sống thường nhật.
+ Huấn Cao đối lập sâu sắc với xã hội, trở thành kẻ tử tù của xã hội bất công; ông lái
đò là một con người đang ngày đêm đem sức lực và trí tuệ xây dựng quê hương, đất nước.
- Về cảm hứng thẩm mĩ:
+ Qua nhân vật Huấn Cao: tài hoa nghệ sĩ chỉ có ở những con người kiệt xuất thuộc
quá khứ “vang bóng một thời’’
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
+ Qua nhân vật ông lái đò: tài hoa nghệ sĩ có cả ở nhân dân đại chúng, thể hiện trong
lao động và chiến đấu.
- Về cách tiếp cận con người:
+ Trong Chữ người tử tù: ca ngợi những “con người đặc tuyển, những tính cách phi
thường”, ca ngợi cái đẹp và nhấm nháp những cảm giác mới lạ.
+ Trong Người lái đò sông Đà: ca ngợi những nhân vật tài hoa có thể tìm thấy ngay
trong cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân, ca ngợi cái đẹp gắn với nhân
dân lao động, với cuộc sống đang nảy nở sinh sôi đồng thời lên án, tố cáo chế độ cũ,
khẳng định bản chất nhân văn của chế độ mới. III. Kết bài:
- Qua Người lái đò sông Đà và nhân vật người lái đò, ta thấy nổi lên một Nguyễn
Tuân tài hoa độc đáo, uyên thâm, tâm huyết, có tấm lòng yêu thương, tự hào da diết về
vẻ đẹp của thiên nhiên, con người miền Tây Bắc.
- Hai tác phẩm Người lái đò sông Đà và Chữ người tử tù đã nói lên phần nào đặc điểm
phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân với sự ổn định lẫn sự vận động trong phong
cách ở hai giai đoạn trước và sau Cách mạng.
Dàn ý chi tiết số 2 1. Hoàn cảnh * Điểm chung
– Phải đối mặt với một môi trường sống chứa đựng nhiều nguy hiểm, đầy thử thách.
– Môi trường ấy đồng thời cũng là cơ hội để họ bộc lộ trọn vẹn những vẻ đẹp độc đáo
trong tâm hồn, tính cách, khả năng của họ. * Điểm riêng – Huấn Cao
+ Chế độ phong kiến suy tàn, bắt đầu bộc lộ tính chất xấu xa, đen tối.
+ Vì chống lại triều đình phong kiến mà Huấn Cao đã bị bắt, bị xử án tử hình, bị giam
cầm để chờ ngày ra pháp trường chịu án chém. Những ngày cuối cùng của cuộc đời
ông phải sống trong buồng giam tử tù, nơi không có chỗ cho sự tồn tại của thiên lương
hay cái đẹp. Do đó, Huấn Cao luôn phải chuẩn bị tâm thế cho những trò đốn mạt, cạm
bẫy xấu xa của kẻ tiểu nhân.
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà – Ông lái đò
+ Môi trường lao động đầy nguy hiểm: Con sông Đà hung bạo, độc dữ như kẻ thù số một.
+ Công việc lái đò lại là công việc dễ tổn thọ bởi nó đầy những hiểm nguy, buộc
người lái đò phải luôn tay, luôn mắt, luôn gần, luôn tim. Nguy hiểm nhất là những lần
vượt thác – nơi dòng sông thể hiện đầy đủ nhất cái uy lực khủng khiếp của nó. 2. Đặc điểm:
Tài năng phi phàm, xuất chúng: – Huấn Cao:
+ Tài năng trong lĩnh vực nghệ thuật – đòi hỏi sự uyên bác và một tâm hồn phóng khoáng.
+ Tài viết chữ: Nét chữ vuông vắn, tươi tắn, viết nhanh và đẹp. Hồn chữ – điều được
kí thác trong từng nét chữ là hoài bão tung hoành của một đời người. Danh tiếng: chữ
Huấn Cao nổi tiếng khắp vùng tỉnh Sơn đến kẻ vô danh tiểu tốt cũng biết đến mà
ngưỡng mộ. Chữ Huấn Cao là một vật báu ở đời, là niềm ao ước của những ai có sự
am hiểu về chữ thánh hiền và cảm nhận được giá trị của cái đẹp. Chữ Huấn Cao có
khả năng lay động, chinh phục lòng người. – Ông lái đò
Tài năng bộc lộ trong lao động với một công việc rất bình thường: lái đò
+ Tay lái ra hoa: Những động tác chèo lái chứa đựng vẻ đẹp. Cái đẹp đời thường, giản
dị mà cũng vô cùng độc đáo.
+ Linh hoạt trong từng động tác để ứng phó, hoá giải những đòn đánh, thế tấn công
của con sông không chỉ độc dữ mà còn có khả năng quân sự tuyệt vời.
Sông Đà đã phối hợp được sức mạnh của cả đá và nước. Ông lái đò chỉ đứng trên một
con thuyền với một mái chèo, một mình đơn độc giữa bao la sóng thác. Đá sông Đà
dàn thạch trận với những cửa sinh, cửa tử biến ảo khôn lường. Nước sông Đà có
những thế võ và sức mạnh đủ để quật ngã những tay lái non gan và ít kinh nghiệm.
mái chèo chỉ là một công cụ bình thường nhưng khi ở trong tay ông lái đò lại như một
cây đũa thần, giúp ông ổn định thế trận, hoá giải sức mạnh của mọi đòn tấn công.
Với sự linh hoạt của động tác, ông lái đò đã đưa chiếc thuyền vượt qua thạch trận. Lúc
thì đè sấn lên sóng thác mà đi, chặt đôi sóng mà tiến,… Con thuyền dưới sự điều
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
khiển của ông lái đò khi tiến khi thoái, khi công khi thủ. Có lúc nó lao vút như một
mũi tên tre, xuyên nhanh qua nước, vừa bơi, vừa tự động lái được, lượn được.
Qua mỗi trùng vi thạch trận, ông lái đò lại đổi tay lái và đổi luôn chiến thuật. Trong
trận chiến trên sông, không phải không có lúc người lái đò méo bệch mặt đi vì những
vết thương bởi sóng đánh đòn âm, đòn tỉa vào chỗ hiểm. Nhưng chính nhờ sự linh
hoạt của động tác, sự biến hoá của chiến thuật đã khiến cho lũ đá nơi ải nước phải tiu
nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng. Con thuyền của ông lái đò đã bỏ lại phía sau mình
tiếng gieo hò của sóng thác để thanh thản hoà mình vào một không gian mới, không
khí mới trên chính con sông vừa mới đây thôi còn là đối thủ trong trận chiến sinh tử.
Khí phách hiên ngang, bất khuất trước những hiểm nguy, thử thách không chịu
đầu hàng, lùi bước mà sẵn sàng đối mặt với một tâm thế bình thản, ung dung nhất có
thể. Thậm chí, họ còn coi những hiểm nguy như một niềm sinh thú trong cuộc sống của mình.
* Điểm chung: Coi những hiểm nguy như một niềm sinh thú trong cuộc sống của mình.
– Huấn Cao: Quản ngục vì lòng cảm mến Huấn Cao, muốn ông được sống những
ngày cuối cùng thoải mái nên đã biệt đãi người tử tù nguy hiểm. Hằng ngày, quản
ngục đều sai người mang rượu thịt vào tận buồng giam tử tù. Do chưa biết rõ về con
người quản ngục nên trong mắt Huấn Cao, rượu thịt đưa vào là một thứ cạm bẫy.
Nhưng ông không hề né tránh mà vẫn đón nhận như một thú bình sinh.
– Ông lái đò: Ông lái đò là người không thích chèo đò ở những quãng sông bằng
phẳng bởi nó tạo cho ông cảm giác dại chân, dài tay và dễ buồn ngủ. Ông coi những
ghềnh thác hiểm nguy chính là tình cảm đậm đà con sông dành cho nhà đò.
* Điểm riêng: Tình thế phải đối mặt
– Huấn Cao: Cái án tử hình, chốn ngục tù dơ bẩn với những trò tiểu nhân thị oai, với
quyền lực xấu xa và cái chết có thể đến bất cứ lúc nào. Đối mặt với tình thế ấy, Huấn
Cao luôn giữ thái độ ung dung, bình thản, tự do, tự tại. Trò tiểu nhân thị oai không
ngăn cản ông thực hiện ý định của mình. Ông sẵn sàng đối mặt với quyền lực đen tối.
Ngay cả cái chết cũng không gợi trong ông dù chỉ một thoáng phân vân. Nếu cái tin
ngày mai Huấn Cao bị giải về kinh chịu án chém làm viên quản ngục tái nhợt đi, thầy
thơ lại hớt hơ hớt hải thì không khiến Huấn Cao bận tâm chút nào. Nỗi bận tâm của
Huấn Cao bấy giờ chỉ là nên hay không nên cho chữ quản ngục.
– Ông lái đò: những trận thuỷ chiến trên sông, hiểm nguy luôn thường trực trong cuộc
sống của những người lao động trên sông nước. Thậm chí, cuộc sống của người lái đò
là cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên để giành sự sống từ tay nó về tay mình.
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
Bởi con sông Đà mà ông lái đò phải đối mặt hung bạo, độc dữ như một người dì ghẻ,
một kẻ thù số một. Vậy mà ông lái đò dám chung sống suốt đời với nghề chèo đò,
dám đối mặt tới cùng (cưỡi trên thác sông Đà phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ) với tư
thế hiên ngang không chịu đầu hàng, lùi bước, luôn bình tĩnh, tỉnh táo để chỉ huy con thuyền vượt sóng thác.
Tấm lòng, nhân cách đáng quý
Đều đem cái tâm trong sáng, cao quý để đối xử với cuộc sống, con người để vun đắp
những mối quan hệ tốt đẹp, để xây dựng những mối tri kỉ, tri âm. * Huấn Cao
Là người có tài viết chữ nhưng ông không dùng cái tài để mưu lợi cá nhân. Bởi ông
biết rằng cái quý của chữ nằm ở giá trị tinh thần của nó. Vì thế, ông chỉ cho nhữ
những người tri âm tri kỉ, những con người hiểu được tấm lòng của ông.
Huấn Cao cho chữ viên quản ngục bởi ông nhận ra ở quản ngục một thiên lương trong
sáng, một tấm lòng đáng trọng. Trao bức lụa với những nét chữ vuông vắn, tươi tắn
vào tay quản ngục là trao cái đẹp vào tay người say mê cái đẹp, là trao tấm lòng cho
người có tấm lòng. Hơn thế nữa, từ khi nhận ra con người quản ngục, Huấn Cao đã thể
hiện sự trân trọng trong cách xưng hô, lựa chọn không gian, thời gian viết chữ. Niềm
mong muốn bảo vệ thiên lương cho con người đáng trọng đó bộc lộ ở lời khuyên chí
tình. Chính tấm lòng, nhân cách của Huấn Cao đã lay động sâu sắc đến tình cảm của
viên quan coi ngục, khiến quản ngục nghẹn ngào, cúi đầu xin bái lĩnh.
Như vậy, cái đẹp do Huấn Cao sáng tạo ra có thể tồn tại bất tử và có ý nghĩa đối với con người, cuộc đời. * Ông lái đò
– Gắn bó thuỷ chung với con sông Đà, ông coi sông Đà như một kì phùng địch thủ để
thi thố tài năng. Đồng thời, với ông, con sông Đà lắm tài nhiều tật còn là một người tri
kỉ tâm giao. Chính sự am hiểu đã giúp ông chinh phục được sông Đà.
– Tấm lòng và trách nhiệm đối với quê hương đất nước
+ Quá khứ: Thời chúa đất ngăn sông cắt bến, kẻ thù lùng sục, không thể trực tiếp chèo
đò đưa bộ đội qua sông, những con đò bỏ vắng ven sông cùng với quy ước ngầm của
những người lái đò (anh cán bộ nếu không muốn cho địch biết cái bến mình vừa sang
thì cứ việc thả cho thuyền trôi dọc sông, người bến dưới bắt được sẽ gửi trả lại người
phía trên này) chính là tấm lòng của người lao động với cách mạng, kháng chiến.
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
+ Hiện tại: Khi đất nước đang trong thời kì dựng xây, ông lái đò lại rất tự hào kể về
việc được chở một đoàn chuyên gia ta và chuyên gia Nga đi khảo sát địa hình, chuẩn
bị cho việc xây dựng nhà máy thuỷ điện. Đây là một người tự hào chân chính của một
người công dân khi được đóng góp công sức vào công cuộc xây dựng đất nước. 3. Đánh giá chung
– Cả hai nhân vật đều được xây dựng bằng biện pháp lí tưởng hoá, xuất phát từ cơ sở
của cái nhìn độc đáo về con người của nhà văn Nguyễn Tuân: Nhìn con người ở
phương diện tài hoa nghệ sĩ để có thể làm nổi bật những vẻ đẹp phi thường trong tài
năng, cốt cách của các nhân vật. Nhà văn đã đặt nhân vật vào những tình huống đầy
thử thách, những mối quan hệ nhìn bề ngoài là đối nghịch nhưng bên trong là tri kỉ, tri
âm để các nhân vật vừa bộc lộ khí phách, nhân cách, tài năng xuất chúng hơn người.
Đồng thời, để tạo nên sức thuyết phục của hình tượng nhân vật, Nguyễn Tuân đã huy
động kho vốn kiến thức trên nhiều lĩnh vực kết hợp với trí tưởng tượng độc đáo.
*Chữ người tử tù
Sáng tác trước cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân lúc này là một nhà văn lãng mạn,
ông đã tìm kiếm sự độc đáo bằng cách xây dựng những nhân vật đặc tuyển – hình mẫu
lí tưởng của những con người một thời vang bóng, những anh hùng bất đắc chí, những
nho sĩ cuối mùa dù sa cơ thất thế vẫn cương quyết không chịu dung hòa với môi
trường đen tối, với xã hội bát nháo, lố lăng.
* Người lái đò sông Đà
Sáng tác vào những năm 60, Nguyễn Tuân lúc này đã trở thành một nhà văn cách
mạng. Ông không còn đối lập xưa – nay, cổ – kim, cũng không còn tìm kiếm cái đẹp
của một thời vang bóng mà ở ngay cuộc sống hiện tại với những con người bình
thường. Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, ông lái đò tuy chỉ là một người lao động bình
thường nhưng lại có khí phách của một người anh hùng và tài năng, tấm lòng của một người nghệ sĩ.
– Nếu như khi xây dựng Huấn Cao, Nguyễn Tuân chủ yếu sử dụng tri thức về nghệ
thuật thì khi xây dựng nhân vật ông lái đò, nhà văn cần rất nhiều vốn tri thức đời sống.
Bởi vậy, những chuyến đi thực tế, sự gắn bó với những người lao động, công phu tìm
hiểu cuộc sống, công việc của họ chính là điều kiện cần thiết để ngòi bút nhà văn có
thể thăng hoa. Chính điều này giúp ngòi bút Nguyễn Tuân giữ được uy lực của mình,
vẫn giữ được tài năng của mình. Những tác phẩm văn chương thống nhất ở tư tưởng
nhưng phong phú, sáng tạo trong nghệ thuật biểu hiện.
Dàn ý chi tiết số 3
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà A. Mở bài
Nguyễn Tuân (1910 – 1987) được mệnh danh là một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp
của cuộc đời và viết lên những áng văn hay cho hậu thế. Trước CMT8 năm 1945,
quan niệm cái đẹp của Nguyễn Tuân là những thứ chỉ còn xuất hiện trong quá khứ ở
những bậc cao nhân tài hoa. Còn sau cách mạng với sự thay đổi của thời đại quan
điểm cái đẹp của ông đã thay đổi gắn liền với cuộc sống thường nhật từ những gì dung
dị nhất. Thông qua hai nhân vật Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” và ông lái đò trong
“Người lái đò sông Đà” ta thấy rõ nhất sự chuyển dịch trong cảm hứng sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân. B. Thân bài
1. Phân tích nhân vật người lái đò sông Đà:
1.1. Vài nét về hình ảnh con sông Đà: Sông Đà hiện lên thật hung dữ nhưng cũng
không kém phần thơ mộng, trữ tình là cái nền để người lái đò xuất hiện..
1.2. Nhân vật người lái đò sông Đà:
a. Ông lái đò có ngoại hình và những tố chất khá đặc biệt: tay “lêu nghêu”, chân
“khuỳnh khuỳnh”, “giọng ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh”, “nhỡn giới vòi vọi
như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó”… Đặc điểm ngoại hình và những tố
chất này được tạo nên bởi nét đặc thù của môi trường lao động trên sông nước.
b. Ông lái đò là người tài trí, luôn có phong thái ung dung pha chút nghệ sĩ: ông hiểu
biết tường tận về “tính nết” của dòng sông, “nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả
những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”, “nắm chắc binh pháp của thần
sông thần đá”, “thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở”, biết rõ từng
cửa tử, cửa sinh trên “thạch trận” sông Đà. Đặc biệt, ông chỉ huy các cuộc vượt thác
một cách tài tình, khôn ngoan và biết nhìn những thử thách đã qua bằng cái nhìn giản
dị mà không thiếu vẻ lãng mạn…
c. Ông lái đò rất mực dũng cảm trong những chuyến vượt thác đầy nguy hiểm: tả xung
hữu đột trước “trùng vi thạch trận” của sông Đà, kiên cường nén chịu cái đau thể xác
do cuộc vật lộn với sóng thác gây nên, chiến thắng thác dữ bằng những động tác táo
bạo mà vô cùng chuẩn xác, mạch lạc (tránh, đè sấn, lái miết một đường chéo, phóng thẳng…).
d. Ông lái đò là một hình tượng đẹp về người lao động mới. Qua hình tượng này,
Nguyễn Tuân muốn phát biểu quan niệm: người anh hùng không phải chỉ có trong
chiến đấu mà còn có cả trong cuộc sống lao động thường ngày. Ông lái đò chính là
một người anh hùng như thế.
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
2. So sánh với nhân vật Huấn Cao:
2.1. Nhân vật Huấn Cao:
a. Nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một con
người tài hoa, khí phách hiên ngang bất khuất, “thiên lương” trong sáng.
b. Vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn, có sức chinh phục, cảm hóa
mãnh liệt đối với những con người có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”.
c- Hình tượng ông Huấn Cao là hình tượng điển hình cho vẻ đẹp "vang bóng một
thời” nay đã lùi vào quá khứ chỉ còn dư âm trong tâm trạng của những tấm lòng tích
cổ thương kim ( Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ - Vũ Đình Liên)
2.2. Từ việc tìm hiểu vài nét về vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao, chúng
ta sẽ dễ thấy được chỗ thống nhất và khác biệt trong cách tiếp cận con người của
Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám.
a- Nét chung (tính thống nhất):
- Nguyễn Tuân vẫn tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
- Vẫn là ngòi bút tài hoa, uyên bác, lịch lãm, vận dụng tri thức tổng hợp của nhiều
ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau trong miêu tả và biểu hiện.
- Vẫn sử dụng vốn ngôn từ hết sức tinh lọc, phong phú, độc đáo. Khả năng tổ chức câu
văn xuôi đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi nhịp nhàng. Các
phép tu từ được nhà văn phối hợp vô cùng điêu luyện.
b- Nét riêng (tính khác biệt):
- Trước Cách mạng tháng Tám, con người Nguyễn Tuân hướng tới và ca ngợi là
những “con người đặc tuyển, những tính cách phi thường”. Sau Cách mạng tháng
Tám, nhân vật tài hoa nghệ sĩ của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy ngay trong cuộc chiến
đấu, lao động hàng ngày của nhân dân.
- Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân là một người tài tử, thích chơi “ngông”,
mắc cái bệnh ham mê thanh sắc, thích chiêm ngưỡng, chắt chiu cái đẹp và nhấm nháp
những cảm giác mới lạ. Sau Cách mạng tháng Tám, nhà văn nhạy cảm với con người
mới, cuộc sống mới từ góc độ thẩm mĩ của nó. Nhưng không còn là một Nguyễn Tuân
“nghệ thuật vị nghệ thuật” nữa. Ông đã nhìn cái đẹp của con người là cái đẹp gắn với
nhân dân lao động, với cuộc sống đang nảy nở sinh sôi, đồng thời lên án, tố cáo chế
độ cũ, khẳng định bản chất nhân văn của chế độ mới.
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà C. Kết bài
- Qua "Người lái đò sông Đà" và nhân vật người lái đò, ta thấy nổi lên một Nguyễn
Tuân tài hoa độc đáo, uyên thâm, tâm huyết, có tấm lòng yêu thương, tự hào da diết về
vẻ đẹp của thiên nhiên, con người miền Tây Bắc.
- Hai tác phẩm "Người lái đò sông Đà" và "Chữ người tử tù" đã nói lên phần nào đặc
điểm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân với sự ổn định lẫn sự vận động trong
phong cách ở hai giai đoạn trước và sau Cách mạng.
Dàn ý chi tiết số 4 1. Mở bài
- Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, một nghệ sĩ tài hoa suốt đời đi tìm cái đẹp, có cá
tính mạnh và phong cách độc đáo.
- Truyện ngắn “Chữ người tử tù” là tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Tuân trước cách
mạng tháng Tám. Tác phẩm viết về một tử từ tài hoa có thiên lương, khí phách, một
quản ngục có sở thích chơi chữ, ngưỡng mộ những con người tài hoa.
- “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm in trong tập tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Tác
phẩm là kết quả của chuyến đi gian khổ mà đầy lí thú của Nguyễn Tuân lên miền Tây
Bắc kì vĩ. Chuyến đi đã giúp ông khám phá “thứ vàng Mười đã qua thử lửa” trong tâm
hồn, tính cách của những người lao động bình thường, giản dị.
- “Chữ người tử tù” và “Người lái đò sông Đà” tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật
Nguyễn Tuân trước và sau cách mạng tháng Tám. 2. Thân bài
a. Nhân vật Huấn Cao:
- Là nhân vật trung tâm của tác phẩm – một tử tù có khí phách, thiên lương. Phẩm
chất nổi bật ở Huấn Cao là khí phách hiên ngang, tài hoa, nghệ sĩ. - Trong cảnh cho chữ:
• Ta gặp lại một Huấn Cao tài năng với nét chữ vuông tươi tắn trên nền tấm lụa
trắng tinh. Ở đây Huấn Cao không còn là một tên tử tù mà là một nghệ sĩ đang say sưa sáng tạo.
• Ta gặp một Huấn Cao có khí phách trong hình ảnh “một người tù cổ đeo gông,
chân vướng xiềng” mà nét chữ vẫn tung hoành, thể hiện hoài bão của một con
người, một cuộc đời.
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
• Vẻ đẹp thiên lương cũng được tỏa sáng: Huấn Cao hiện lên là một con người
có tâm hồn tinh tế, tha thiết yêu đời, trải qua bao đọa đầy mà tâm hồn không hề
chai sạn (cảm nhận mùi thơm của thoi mực). Huấn Cao – một tên tử tù không
nghĩ đến cái chết của bản thân mà nghĩ đến cuộc sống của kẻ khác (khuyên
quản ngục về quê, lời khuyên là lời di huấn tinh thần về một lẽ sống cao đẹp)
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật trong tình huống hết sức éo le, bút pháp
lãng mạng, lí tưởng hóa nhân vật.
b. Nhân vật người lái đò sông Đà:
- Cùng với sông Đà, người lái đò sông Đà là hnhf tượng trung tâm. Là cảm hứng chủ
đạo của Nguyễn Tuân trong tùy bút “Người lái đò sống Đà” . Ở người lái đò sông Đà
có sự thống nhất, hài hòa giữa sự môc mạc, giản dị và chất tài hoa nghệ sĩ.
- Cuộc chiến đầu sống còn với thác nước sông Đà – kẻ thù số một của con người đã
thể hiện phẩm chất tài hoa của nhân vật này. Cuộc chiến đấu cam go quyết liệt trải qua ba chặng:
• Ở trùng vi thạch trận thứ nhất
• Ở trùng vi thạch trận thứ hai
• Ở trùng vi thạch trận thứ ba
Trong cả 3 lần, đối mặt với đá, thác sông Đà, người lái đò đã hiện lên như một anh
hùng chiếm trận dũng cảm, gan dạ, mưu trí, thật xứng là "một tay lái ra hoa". Ông
thuộc hết binh pháp của thần sông, thần núi, vượt qua ba lớp trùng vi thạch trận của
sông Đà một cách ngoạn mục.
- Khi đã vượt qua ghềnh thác, ông lái đò biết thưởng thức cuộc sống như một người
nghệ sĩ: "Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam..."
- Nghệ thuật miêu tả nhân vật: bút pháp lãng mạn, trí tưởng tượng phong phú, ngôn ngữ tài hoa, sắc sảo. 3. Kết bài
- Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp: cái đẹp ở thiên nhiên, cái đẹp
trong con ngươi, cái đẹp ở truyền thống văn hóa… Nhân vật của Nguyễn Tuân dù ở
lĩnh vực nào cũng là những con người tài hoa nghệ sĩ. Kiểu nhân vật tài hoa như Huấn
Cao và người lái đò sông Đà được ra đời từ cảm hứng ấy.
- Đều là những nhân vật tài hoa, nghệ sĩ song nếu Huấn Cao là con người trong vang
bong một thời, phiêu bạt với đời thì người lái đò sông Đà là con người lao động trông
công cuộc xây dựng đất nước, gần gũi, mộc mạc, giản dị. Đó là sự thay đổi trong quan
niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân trước và sau cách mạng tháng Tám.
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
So sánh hình tượng Người lái đò và Huấn Cao - Mẫu 1
Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa, ông có sở trường về tùy bút. Sông Đà là
tập tùy bút hay nhất của Nguyễn Tuân viết về cảnh và người Tây Bắc, là kết quả của
chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958 của nhà văn. Ở Tây Bắc, ông sống với bộ đội,
thanh niên xung phong, công nhân làm đường và đồng bào các dân tộc ít người. Thực
tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã mang lại cho Nguyễn Tuân nguồn cảm
hứng sáng tạo dồi dào. Phong cảnh Tây Bắc dưới ngòi bút Nguyễn Tuân vừa hùng vĩ
uy nghiêm, vừa tuyệt vời, thơ mộng. Trong bài Người lái đò sông Đà rút từ tập tùy bút
Sông Đà, nhà thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn hết lời ngợi ca vẻ
đẹp của con người Tây Bắc, nhất là những người lái đò trên con sông dữ dội và thơ mộng ấy.
Trong tùy bút, hình ảnh sông Đà hiện lên thật hung dữ: “Lúc này nước sông Đà reo
như đun sôi lên một trăm độ muốn hất tưng đi một cái thuyền đang phải đóng vai một
cái nắp ấm của một ấm nước sôi khổng lồ. Ngấn mạn thuyền thấp hơn ngấn nước tư vi
bên ngoài, cạp mui thuyền cắm ngập dưới ngấn nước đang sôi trắng lên. Mặt sông
cũng có ổ gà như mặt đường kạn, đi vào ổ gà sông là thuyền bị giật xuống bị dồn lên.
Đã gọi là thác, tức là chỗ khúc sông phức tạp đó nhiều luồng nước. Có luồng nước đi
lầm vào thì chết ngay, có luồng nước đi vào đúng luồng rồi nhưng mà không trúng tim
luồng thì cũng vẫn có thể là thập tử nhất sinh như thường.. ”.
Những hình ảnh sông Đà hiện lên không kém phần thơ mộng, trữ tình: “Tôi có bay tạt
qua sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách
nhìn về con Tây Bắc hung bạo và trữ tình.. “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ
tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng
hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa
xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước
sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh
canh hến của sông Gấm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt
người bầm đi vì rượu bừa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì
mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè
ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế
mà phết vào bản đồ...”.
Hình ảnh con sông Đà vừa “hung bạo và trữ tình” là cái nền để người lái đò xuất hiện.
Ông lái đò là người anh hùng sông nước: trong cuộc chiến đấu gay go với con sông
dữ, ông là người chỉ huy tài ba, trí dũng, can trường, Vượt qua hết các vực xoáy,
luồng chết, cửa tử,... để đưa con đò đến nơi sóng yên nước lặng. Về tư thế: “ông đò
hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình”, về
phong thái: “tỉnh táo, tự tin., cố nén vết thương do
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
sóng nước gây ra”, về hành động: “hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái”, “đánh đòn
tỉa”, “đánh đòn âm vào chỗ hiểm”. Sau Khi “phá xong cái trùng vi thạch trận, vòng
thứ nhất”, ông không một phút “nghỉ tay nghỉ mắt”, phá luôn vòng vây thứ hai và đổi
luôn “chiến thuật”. Khi nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông “ghì
cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết
một đường chéo về phía cửa đá ấy”. Thế là những luồng tử đã “bỏ hết lại sau thuyền.
Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh”. Sau đó, ông bước vào trận chiến
với “một trùng vây thứ ba”. Ông liền “phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa” có
bọn đá hậu vệ của con thác. Rồi “vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng,
thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái
được, lượn được”. Thế là hết thác. Sóng nước lại thanh bình.
Hơn nữa, ông lái đò còn là nghệ sĩ tài hoa. Trong nghề chèo đò vượt thác, ông lái đò
đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ
đá nơi ải nước hiểm trở. Ở vòng đầu lũ đá ấy đã mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử,
một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngọn sông nhưng ông đã thuộc lòng các cửa
này. Ở vòng thứ hai, cửa tử tàng lên đê đúng lừa con thuyền của ông vào, và cửa sinh
lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn nhưng ông vẫn cứ hiểu được điều nguy hiểm ấy.
Ông khám phá ra cách chinh phục chúng: cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng
như là cưỡi hổ. Khi bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liên xô ra định níu
thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử, nhờ nhớ mặt bọn này nên đứa thì ông tránh mà rảo bơi
chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến, ở trùng vây cuối
cùng, mặc dù ít cửa hơn nhưng ông nhận ra rằng ở bên phải bên trái đều là luồng chết
cả, lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cho nên, ông dùng đòn “phóng thẳng”.
Thế là ông chiến thắng trọn trong cuộc đi qua cửa ải nước đủ tướng dữ, quân tợn vừa
rồi. Đúng như nhà văn Nguyễn Tuân nhận xét, ông lái đò là một “tay lái ra hoa”.
Còn cô lái đò là một người phụ nữ Việt Nam yêu nước tha thiết, đảm đang, tháo vát,
tâm hồn dạt dào cảm xúc và tràn ngập chất thơ: “..Một buổi chiều Quỳnh Nhai khác,
tôi lại tìm đến một cô lái đò đã từng chở đò dọc đưa gạo kháng chiến từ Quỳnh Nhai
về thác Tà Hè đổ lên kho quân lương. Cô lái đò châu Quỳnh Nhai giảng cho tôi hiểu
biết thêm về ý nghĩa kiến trúc của cái thuyền then vuốt đuôi én trên sông Đà: “Các
anh bảo thuyền giống con cá, bảo cái thuyền như một con cá nó quẫy mạnh đuôi trên
mặt sông thì cùng được thôi. Chúng em chỉ biết cái đuôi thuyền nó vẫy lên cao như
thế để có cái chỗ mà treo cái bu gà. Gà sống này, con nào đẹp lông và gái hay, thì phải
mua đến mười đồng bạc mới. Con gà sống là cái đồng hồ của người lái đò sông Đà
đấy. Đi đường xa, qua bờ này bến khác, có tiếng gà gáy đem theo, nó đỡ nhớ nương
ruộng bản mường mình. Hai bên bờ sông Đà, ai ai cũng biết hát cả đấy. Đang phát
nương, nhìn xuống dòng sông Đà mà thấy thuyền các em đi qua, là người phụ nữ Thái
chúng em đều hát gửi xuống một hai câu và có khi hát cả một bài. Hồi Pháp chiếm
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
đóng, tiếng hát của phụ nữ đều lánh xa bờ xa bến. Nhiều tiếng hát chạy xa lên tận đỉnh
núi. Nay hòa bình, hết địch rồi tiếng hát mới lại xuống dần tới mặt bến...”.
Nhìn chung, nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân rất tài hoa. Nhà văn lược
bỏ hầu hết các chi tiết về đời tư của ông lái đò, cô lái đò để đi sâu khắc họa ngoại
hình, hành động của nhân vật.
Chúng ta thử so sánh nhân vật người lái đò với nhân vật Huấn Cao (Chữ người tử tù).
Nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một con người
tài hoa, khí phách hiên ngang bất khuất, “thiên lương” trong sáng. Huấn Cao viết chữ
rất đẹp: “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm(...). Có được chữ ông Huấn mà treo
là có một báu vật trên đời”. Trong thị hiếu thẩm mỹ của cổ nhân, từ Trung Hoa đến
Việt Nam, viết chữ đẹp là một thủ pháp nghệ thuật và chơi chữ đẹp là một thú chơi
cao khiết, tao nhã. Bởi vậy, qua những băn khoăn, tính toán, mưu mẹo, biệt đãi, nhẫn
nhục, đau khổ, hốt hoảng, hi vọng, tuyệt vọng, hồi hộp, lo sợ, thành kính của viên
quản ngục thì cái tài hoa quý hiếm của nhân vật Huấn Cao càng được tôn lên đỉnh cao chói lọi.
So sánh hình tượng Người lái đò và Huấn Cao - Mẫu 2
Nguyễn Tuân (1910 - 1987) được mệnh danh là một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp
của cuộc đời và viết lên những áng văn hay cho hậu thế. Trước CMT8 năm 1945,
quan niệm cái đẹp của Nguyễn Tuân là những thứ chỉ còn xuất hiện trong quá khứ ở
những bậc cao nhân tài hoa. Còn sau cách mạng với sự thay đổi của thời đại quan
điểm cái đẹp của ông đã thay đổi gắn liền với cuộc sống thường nhật từ những gì dung
dị nhất. Thông qua hai nhân vật Huấn Cao trong "Chữ người tử tù" và ông lái đò trong
"Người lái đò sông Đà" ta thấy rõ nhất sự chuyển dịch trong cảm hứng sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân.
Có thể nói, "Chữ Người Tử Tù" được xem là truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn
Tuân trong giai đoạn trước CMT8 năm 1945. Truyện ngắn này được trích ra từ tập
"Vang bóng một thời" đây là tập truyện kể về những con người tài hoa giờ đã vang
bóng một thời. Nhân vật chính của truyện là Huấn Cao người mang vẻ đẹp của một
người nghệ sĩ tài hoa với khả năng viết chữ thư pháp đẹp nức tiếng gần xa. Ngay cả
Viên quản ngục của một huyện nhỏ vô danh cũng biết: "Chữ ông đẹp lắm, vuông
lắm...có được chữ ông Huấn Cao mà treo trong nhà là có một vật báu ở trên đời". Cho
nên sở nguyện của Viên quản ngục là một ngày kia ngôi nhà của ông sẽ được treo một
đôi câu đối do chính tay ông Huấn Cao viết.
Huấn Cao không chỉ có tài viết chữ đẹp mà ông còn có một thiên lương trong sáng.
Ông không bao giờ ép mình cho chữ vì tiền hay vì quyền thế. Ông chỉ cho chữ những
người biết trân quý cái đẹp cái tài.Cho nên suốt đời Huấn Cao mới chỉ viết hai bộ tứ
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
bình và một bức trung đường cho ba người bạn mà ông yêu mến.Lúc đầu, ông tỏ ra
khinh bạc viên quản ngục vì nghĩ rằng hắn định có âm mưu đen tối gì với mình khi
biệt đãi trong phòng giam.Rồi từ từ Huấn Cao mới cảm nhận được tấm lòng "biệt liên
tài" của ông quản ngục và viên thơ lại.Họ là những người biết yêu cái đẹp thành tâm
xin chữ Huấn Cao. Và để không phụ lòng viên quản ngục ông đã cho chữ ngay trong
nhà lao. Nguyễn Tuân đã mô tả cảnh cho chữ là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có.
Nhân vật Huấn Cao không chỉ đẹp ở tài năng mà còn đẹp ở cái tâm và ý chí bất khuất
hiên ngang của người quân tử. Ở ông có khí phách của người anh hùng mà không phải
ai cũng có thể có được. Thông qua nhân vật Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân đã bộc
lộ niềm tin bất diệt vào những cái đẹp mang giá trị cao quý ngay cả trong những nơi
tối tăm, dơ bẩn nhất vẫn tỏa sáng.
Nếu như Huấn Cao được ví như anh tài xuất chúng được xây dựng trong hoàn cảnh có
một không hai thì nhân vật ông lái đò lại có chút bình dị hơn. Trong tùy bút "Người lái
đò sông Đà" của Nguyễn Tuân nhân vật ông lái đò được xây dựng hết sức chân thật
qua công việc ông làm. Ông lái đò là người có ngoại hình rất đặc biệt với hai tay "lêu
nghêu", chân "khuỳnh khuỳnh", giọng nói thì "ào ào như tiếng nước trước mặt
ghềnh", đôi mắt thì "vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó"...Với đặc
điểm ngoại hình như thế chúng ta thấy được rất phù hợp với môi trường lao động trên sông nước của ông.
Ông lái đò được Nguyễn Tuân miêu tả là một người rất tài trí và có phong thái ung
dung pha chút nghệ sĩ. Ông là người làm nghề rất có tâm hiểu biết tường tận từng
ngóc ngách của con sông cũng như tính nết của nó. Ông nhớ như đóng đanh vào lòng
những luồng nước và tất cả những con thác hiểm trở. Nắm bắt được trận đồ binh pháp
của thần sông, thần đá. Thuộc làu quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở.
Đặc biệt, ông còn chỉ huy được các cuộc vượt tác một cách tài tình biết rõ từng cửa
sinh, cửa tử mà vượt qua.
Nguyễn Tuân miêu tả ông lái đò như một vị tướng hiên ngang "tả xung hữu đột" trước
muôn trùng sóng nước của sông Đà. Ông là người rất dũng cảm biết chịu cái đau của
thể xác do vật lộn với sóng to gió lớn để chiến thắng thác dữ bằng những động tác táo
bạo và vô cùng chuẩn xác. Ta thấy ông lái đò được xây dựng như một nghệ sĩ thực thụ
chứ không phải là một người lái đò bình thường.
Cả hai nhân vật Huấn Cao và ông lão lái đò đều được xây dựng bằng biện pháp lý
tưởng hóa. Xuất phát từ cơ sở cái nhìn độc đáo của nhà văn Nguyễn Tuân. Ông nhìn
con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ có thể làm nổi bật lên những vẻ đẹp phi
thường trong tài năng, cốt cách của họ. Nhà văn đã đặt hai nhân vật vào những tình
huống đầy thử thách để giúp họ bộc lộ được phẩm chất đáng quý của mình.
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
Nếu như khi xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân sử dụng tri thức nghệ thuật
thì xây dựng nhân vật ông lái đò nhà văn lại vận dụng nhiều vốn tri thức đời
sống.Chính điều này đã khiến cho ngòi bút Nguyễn Tuân thuyết phục được nhiều đối
tượng độc giả.Những tác phẩm văn chương của ông không chỉ đẹp về mặt ngôn từ còn
có giá trị nghệ thuật rất đặc sắc mà hậu thế phải công nhận.
So sánh hình tượng Người lái đò và Huấn Cao - Mẫu 3
Nguyễn Tuân (1910-1987) là một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp. Trước cách mạng,
ông quan niệm cái đẹp chỉ có trong quá khứ "Vang bóng một thời" và tài hoa nghệ sĩ
chỉ có ở những con người xuất chúng của thời trước còn vương sót lại. Còn sau cách
mạng, ông không đối lập quá khứ với hiện tại và cái đẹp có cả ở quá khứ, hiện tại, đặc
biệt là phẩm chất tài hoa có thể có ở cả nhân dân đại chúng. Qua việc phân tích hai
nhân vật ông Huấn Cao trong "Chữ người tử tù" và nhân vật ông Lái đò trong "Người
lái đò sông Đà", chúng ta cũng có thể thấy rõ điều đó.
Chữ người tử tù" là một truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Tuân viết trước cách
mạng (1940) rút từ tập "Vang bóng một thời" . Đây là truyện ngắn có nội dung tư
tưởng sâu sắc và có nhiều thành công về phương diện nghệ thuật. Giá trị tư tưởng và
nghệ thuật bộc lộ tập trung trong hình tượng nhân vật Huấn Cao
Cũng như các nhân vật trong "Vang bóng một thời", vẻ đẹp của Huấn Cao trước hết là
vẻ đẹp của con người tài hoa, nghệ sĩ. Phẩm chất tài hoa nghệ sĩ này được biểu hiện rõ
nhất là ở cái tài viết chữ đẹp. Một thời Hán học, cha ông ta viết chữ Nho, một loại chữ
giàu tính tạo hình. Các nhà Nho xưa viết chữ để bộc lộ cái tâm, cái chí, viết chữ đã trở
thành một môn nghệ thuật gọi là thư pháp. Và Huấn Cao là một nghệ sĩ rất mực tài
hoa trong nghệ thuật này "Tài viết chữ rất nhanh và đẹp" của ông nổi tiếng khắp cả
tỉnh Sơn .Ngay cả viên quản ngục của một huyện nhỏ vô danh cũng biết: "Chữ ông
đẹp lắm, vuông lắm...có được chữ ông Huấn Cao mà treo trong nhà là có một vật báu
trên đời". Cho nên "Sở nguyện của viên quản ngục này là có một ngày kia treo ở nhà
riêng một câu đối do tay ông Huấn Cao viết". Để có được chữ của Huấn Cao, viên
quản ngục không những phải dụng công, phải nhẫn nhục, mà còn phải liều mạng. Bởi
vì biệt đãi Huấn Cao, một kẻ tử tù là một việc làm nguy hiểm, có khi phải trả giá bằng tính mạng của mình.
Huấn Cao còn là con người có thiên lương trong sáng, cao đẹp. Nghĩa là Huấn Cao rất giàu chữ tâm.
Huấn Cao có tài viết chữ, nhưng không phải ai ông cũng cho chữ. Ông không bao giờ
ép mình cho chữ vì vàng ngọc, hay quyền thế. Ông chỉ trân trọng những ai biết yêu
quý cái đẹp, cái tài. Cho nên, suốt đời Huấn Cao chỉ mới viết hai bộ tứ bình và một
bức trung đường cho ba người bạn thân mà thôi. Ông tỏ thái độ khinh bạc ra mặt viên
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
quản ngục vì tưởng rằng viên quản ngục có âm mưu đen tối gì, khi thấy viên quan ấy
biệt đãi mình. Rồi ông "Cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài" của quản ngục và thơ lại, khi
biết họ thành tâm xin chữ. Huấn Cao quyết không phụ tấm lòng của họ nên mới diễn
cảnh cho chữ trong nhà lao, được tác giả gọi là "Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có"
Huấn Cao còn đẹp hơn nữa ở phẩm chất bất khuất, hiên ngang
Đẹp ở phẩm chất tài hoa, nghệ sĩ, có thiên lương, chữ tâm trong sáng, cao đẹp, Huấn
Cao còn đẹp hơn nữa ở phẩm chất bất khuất, hiên ngang của một bậc anh hùng hào
kiệt. Huấn Cao dám chống lại triều đình mà ông căm ghét, khinh bỉ. Dù chí lớn không
thành, tư thế Huấn Cao bao giờ cũng hiên ngang, bất khuất. Bị dẫn vào huyện ngục,
ông không chút run sợ trước những kẻ đang nắm giữ vận mệnh của mình. Ông lừng
lững dẫn sáu đồng chí tù, hiên ngang bước vào nhà lao. Giữa chốn lao tù đầy tử khí,
ông vẫn thản nhiên nhắm rượu thịt do thơ lại mang đến coi "Như cái việc ông vẫn làm
trong cái hứng bình sinh". Và ông đã sẵn sàng trả lời viên quản ngục bằng những câu
hết sức cao ngạo, dù biết rằng có thể sẽ bị những trận đòn báo thù khủng khiếp. Là
một tử tù chỉ đợi ngày ra pháp trường, vậy mà Huấn Cao vẫn hiện lên trong tư thế ung
dung, đĩnh đạc đường hoàng, ngang tàng kiêu dũng của một bậc anh hùng "Chọc trời
khuấy nước mặc dầu"; "Dọc ngang nào biết trên đầu có ai". Tuy nhiên đây là một anh
hùng thất trận, một tử tù
Nhân vật Huấn Cao bộc lộ lý tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Tuân: Sự thống nhất của cái
tài, cái tâm và khí phách anh hùng. Qua nhân vật này, Nguyễn Tuân muốn biểu lộ
niềm tin bất diệt vào những giá trị cao quý của con người và sức mạnh kỳ diệu của cái
đẹp, đồng thời cũng bày tỏ tấm lòng yêu nước thầm kín của mình. Vì thế, Huấn Cao
đã trở thành biểu tượng cho sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp,
cái cao cả đối với cái phàm tục, dơ bẩn, của khí phách hiên ngang đối với thói quen cam chịu nô lệ.
Nhân vật Huấn Cao là một nhân vật của truyện ngắn được xây dựng theo bút pháp
lãng mạn: Để làm nổi bật vẻ đẹp Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật vào trong
một tình huống độc đáo: Cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao và quản ngục. Đó là cuộc gặp
gỡ giữa tử tù với quan coi ngục, nhưng cũng là cuộc hội ngộ kỳ lạ giữa những kẻ "Liên tài tri kỉ"
Khắc hoạ hình tượng Huấn Cao, để làm nổi bật sự chiến thắng của cái tài, cái đẹp, cái
tâm và khí phách hiên ngang, Nguyễn Tuân sử dụng triệt để sức mạnh của "Nguyên
tắc tương phản đối lập của bút pháp lãng mạn". Ở truyện ngắn này, nhà văn cũng đã
thể hiện cái tài dựng cảnh, dựng người với ngôn ngữ cổ kính, trang trọng, tinh tế.
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
Tuỳ bút "Người lái đò sông Đà" là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của
Nguyễn Tuân viết sau Cách mạng, được in trong tập "Sông Đà" (1960). Ở tuỳ bút này,
người lái đò sông Đà là một hình tượng độc đáo, hấp dẫn mang rõ dấu ấn phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
Trước hết ông lái đò là người rất mực tài trí, dũng cảm trong những chuyến vượt thác đầy hiểm nguy
Để làm nổi bật phẩm chất này, Nguyễn Tuân đã có dụng ý nghệ thuật sâu xa là để cho
người lái đò xuất hiện trên một hoàn cảnh đầy thử thách khốc liệt. Nguyễn Tuân
khẳng định "Ông muốn ghi cái đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái
đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà". Nguyễn
Tuân đã mô tả một cách chân thật vừa trân trọng, vừa yêu thương, vừa cảm phục nhân
vật ông lái đò vô cùng hiên ngang, trí dũng trong cuộc chiến đấu với những con sóng,
con thác đầy hung dữ, nguy hiểm. Cuộc vượt thác, dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân
diễn ra như một trận đánh dữ dội có nhiều hồi, nhiều đợt, mỗi đợt lại có những thử
thách ác liệt khác nhau, dòng sông bày ra những thạch trận hiểm hóc khác nhau: "Đá ở
đây từ ngàn năm vẫn mai phục trong lòng sông...để vồ lấy con thuyền. Đá bày ra
thạch trận trên sông với những bồng chìm và pháo đài nổi, phối hợp với đá, nước thác
reo hò làm thanh viện cho đá phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở chân
thác". Kho từ vựng giàu có và vốn kiến thức văn hoá khoa học phong phú, uyên bác
như quân sự, võ thuật, thể dục thể thao, điện ảnh...của Nguyễn Tuân được dịp huy
động để miêu tả cuộc thuỷ chiến ác liệt giữa người lái đò và sóng thác sông Đà "Sóng
nước thúc gối vào bụng và hông thuyền...có lúc chúng đội cả thuyền lên...sóng thác đã
đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất". Có lúc tưởng như ông lái đò sẽ bị con thuỷ quái
sông Đà vô cùng hung bạo ấy nuốt chửng. Nhưng ông lái đò vẫn không hề nao núng,
trái lại vẫn bình tĩnh chủ động chiến đấu một cách dũng cảm đầy mưu trí như một vị
chỉ huy tài trí tuyệt vời, điều khiển con thuyền lần lượt vượt qua các thác ghềnh như
"Phá cái trận đồ bát quái của dòng sông hung bạo"..."Dòng nước hùm beo đang hồng
hộc tế mạnh trên sông Đà". Nhưng người lái đò vẫn "Cưỡi lên thác sông Đà...đến cùng như là cưỡi hổ".
Người lái đò tài hoa tuyệt vời
Ông lái đò còn là người rất mực tài hoa, có phong thái ung dung, pha chút nghệ sĩ.
Sóng, thác sông Đà rất khắc nghiệt, chỉ cần người lái đò một phút thiếu chính xác, một
tích tắc thiếu bình tĩnh, nhỡ tay, hoa mắt là có thể phải trả giá bằng cả chính sinh
mệnh của mình. Nhưng sóng, thác sông Đà dù có hung dữ đến đâu, cũng bị khuất
phục trước người lái đò thời nay. Bởi người lái đò là một nghệ sĩ có nghệ thuật chở đò
kỳ diệu. Nghệ thuật ấy được biểu hiện rõ nhất ở khả năng nắm chắc quy luật tất yếu
của sông Đà, nhờ thế mà người lái đò trở thành người tự do, người chiến thắng. Ông
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
lái đò đã nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá, thuộc lòng các luồng sinh,
luồng tử mà chủ động trong mọi tình huống. Lúc thì "Ông cưỡi thác nắm lấy bờm
sóng mà phóng nhanh qua cửa tử" lúc lại "Ghì cương đè sấn lên mà chặt đôi con thác
để mở đường tiến". Thế là, bằng những động tác nhuần nhuyễn hoàn hảo rất tinh
thông trong nghề nghiệp của mình, ông lái đò đã lái con thuyền "như một mũi tên tre
xuyên qua hơi nước", xuyên qua biết bao ghềnh thác hiểm nghèo của dòng sông hung
bạo này. Nguyễn Tuân gọi người lái đò của mình có "tay lái ra hoa" là như vậy. Người
lái đò trở thành một người nghệ sĩ, một người anh hùng chiến thắng thiên nhiên.
Ngày xưa Nguyễn tuân bị xem là nhà văn có quan điểm duy mỹ. Ngày nay ông hướng
ngòi bút của mình đến những con người lao động bình thường đang âm thầm cống
hiến cho đất nước. Ông phát hiện ra nét tài hoa nghệ sĩ của họ được thể hiện ngay
trong công việc lao động vô cùng nguy hiểm nhưng cũng vô cùng cao cả của mình.
Nguyễn Tuân gọi đó là "Cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí con người Tây
Bắc". Qua đây, Nguyễn Tuân muốn phát biểu một quan niệm: người anh hùng không
chỉ xuất hiện trong chiến đấu, mà còn xuất hiện trong cuộc sống lao động bình thường.
Tóm lại Huấn Cao là kiểu nhân vật tiêu biểu cho bút pháp lãng mạn của Nguyễn Tuân
trước CM tháng tám; Còn người lái đò là kiểu nhân vật tiêu biểu cho phong cách
Nguyễn Tuân sau cách mạng. Qua đây, ta thấy Nguyễn Tuân xứng đáng là một nhà
văn suốt đời mải mê đi tìm cái đẹp, ca ngợi cái đẹp và không ngừng sáng tạo, bao giờ
ông cũng tạo được cho mình một nét phong cách độc đáo hấp dẫn.
So sánh hình tượng Người lái đò và Huấn Cao - Mẫu 4
Nguyễn Tuân được biết đến là “một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn” với cá tính
mạnh và ngông. Ông là nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo, là người nghệ sĩ
suốt đời đi tìm cái đẹp. Và chính cái nhìn độc đáo về con người như vậy, ông đã xây
dựng hình tượng nhân vật của mình ở chất tài hoa nghệ sĩ mà tiêu biểu phải nhắc đến
hai nhân vật: Huấn Cao (Chữ người tử tù) và người lái đò (Người lái đò sông Đà).
Đây là hai nhân vật được khắc họa trong hai giai đoạn sáng tác khác nhau (trước và
sau Cách mạng tháng Tám) của nhà văn. Ở hai nhân vật này đều có sự thống nhất và
khác biệt trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân.
Trước hết, điểm nhất quán đầu tiên ở Huấn Cao và ông lái đò đó là họ đều được tiếp
cận ở góc độ văn hóa nghệ thuật, theo tiêu chuẩn tài hoa nghệ sĩ. Nhân vật này đều là
những con người nghệ sĩ tài hoa trong nghề nghiệp của mình, họ đều là những anh
hùng kiên cường, bất khuất. Và đặc biệt hơn tâm hồn họ luôn trong sáng và cao đẹp.
Huấn Cao mang vẻ đẹp thiên lương, nổi loạn không vì tư lợi cá nhân mà vì dân, vì
nước, mục đích thể hiện một cái khao khát xây dựng công bằng, xóa sạch mọi bất
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
công, ngang trái trong cuộc đời. Không vì vàng ngọc quyền thế mà ép mình viết chữ
và chỉ cho chữ những người tri âm, tri kỉ trong đó có viên quan cai ngục. Khi Huấn
Cao nhìn thấy tấm lòng trong sáng viên quản ngục, đã sẵn sàng nhận lỗi và cho chữ
“thiếu một chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Huấn Cao quan điểm
sống riêng đó là phải sống sao cho xứng đáng với những tấm lòng, phụ tấm lòng của
người khác là điều không thể tha thứ. Ông thật sự là một nhân cách cao đẹp kết hợp
giữa tâm và tài. Cũng giống như Huấn Cao, ông lái đò cũng được khắc họa chất vàng
mười trong tâm hồn nhưng nó là vàng mười của người anh hùng lao động bình thường
trên sông nước. Sau khi vượt qua ba chặng thác đầy nguy hiểm, nhưng ông lái đò
không bàn tán một lời nào mà chỉ nói về cá anh vũ, cá dầm xanh. Đây chính là vẻ đẹp
của người nghệ sĩ lớn, phẩm chất anh hùng lập nên bao chiến công phi thường nhưng
lại rất đỗi bình thường. Đó cũng chính là vẻ đẹp của con người thời đại Hồ Chí Minh
trong công cuộc xây dựng xã hội mới, con người mới.
Nhưng ngay cả khi miêu tả nét tài hoa, uyên bác của họ thì Nguyễn Tuân vẫn cho thấy
sự khác biệt. Đầu tiên trong cách giới thiệu hai nhân vật này, nếu như Nguyễn Tuân
giới thiệu gián tiếp về Huấn Cao, nhà văn đứng ngoài cuộc, ông không đưa bất kì lời
bình luận nào mà người đọc chỉ biết đến Huấn Cao qua cuộc trò chuyện với viên quan
coi ngục và thầy thơ lại, đây là một con người tài hoa trong viết chữ, trong khi đó nhà
văn giới thiệu ông lái đò là người “Lai Châu bạn tôi làm nghề chở đò dọc suốt sông
Đà đã mười năm liền và thôi làm đò cũng đôi chục năm nay”, một sơ yếu lí lịch đầy
đủ nhưng không cụ thể. Khác với Huấn Cao, ông lái đò không có một cái tên riêng.
Như vậy, nếu trước Cách mạng, Nguyễn Tuân chỉ tìm thấy những bông hoa lạc lõng
còn vương sót lại trong quá khứ thì sau Cách mạng, nhà văn tìm thấy những bông hoa,
trong cuộc đời thật của đại bộ phận nhân dân mà tiêu biểu là ông lái đò.
Điểm khác biệt tiếp theo được thể hiện chính trong tài năng của hai nhân vật, có nghĩa
là dù nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ nhưng nét tài hoa ở Huấn Cao
khác với nét tài hoa ở ông lái đò. Huấn Cao được xây dựng là một người có tài thư
pháp, tài viết chữ đẹp siêu phàm. Cái tài đó nức danh, nổi tiếng khắp vùng. Ông viết
chữ rất nhanh và rất đẹp. Chữ của ông “vuông lắm, đẹp lắm”, có được chữ ông Huấn
treo trên nhà là có được vật báu trên đời. Không xin được chữ thì đó là niềm ân hận
suốt đời của viên quan cai ngục. Và tài năng ấy càng được khẳng định qua thái độ biệt
đãi Huấn Cao của viên cai ngục, ông nhìn tử tù Huấn Cao bằng con mắt hiền lành,
kiêng nể, sai người quét dọn phòng giam, nhẫn nại và dũng cảm để xin được chữ của
Huấn Cao, cho dù Huấn Cao đã đuổi đi “người hỏi ta muốn gì ư, ta chỉ muốn nhà
ngươi đừng bước chân vào đây nữa”. Tài năng của Huấn Cao được thể hiện ngay
trong nét chữ của ông, đó là nét chữ nhưng cũng là nét người, nét chữ ấy không chỉ
vuông, tươi tắn mà còn nói lên hoài bão tung hoành của một đời con người. Có thể
khẳng định chữ viết của Huấn Cao là những tác phẩm mỹ thuật dành riêng cho những
tao nhân mặc khách, những người có khiếu văn hóa thẩm mĩ và biết yêu cái đẹp.
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
Nhưng không chỉ tài hoa với nghề viết chữ, Huấn Cao còn hiện lên là một anh hùng
khí phách, hiên ngang và bất khuất. Ông dám một mình đứng lên lãnh đạo chống lại
triều đình phong kiến thối nát. Khi dấy binh việc lớn không thành, dù có tài vượt ngục
bẻ khóa nhưng ông cũng không chạy trốn ngược lại vẫn mang phong thái ung dung,
thanh thản đến giây phút cuối cùng. Nửa tháng trời ở trong buồng giam, vẫn thản
nhiên nhận rượu thịt giống như lúc bình sinh. Điều này chứng tỏ ông coi cái chết nhẹ
tựa lông hồng, khinh ghét cái xấu chính vì thế ông coi khinh quan cai ngục. Trước cái
chết ngày mai vào kinh, pháp trường lập ở đó nhưng Huấn Cao vẫn ung dung chủ
động đón nhận cái chết, dám làm dám chịu và vẫn khai sinh ra cái đẹp trong lòng của
cái ác, cái xấu đang ngự trị. Đó thật sự là tính cách của người anh hùng kiên cường, bất khuất.
Khác với Huấn Cao, ông lái đò là người tài hoa, trí dũng trong nghề chở đò của mình.
Ông làm nghề chở đò đã suốt mười năm liền và vô cùng am hiểu dòng sông Đà mà
ông vẫn chở khách hằng ngày. Để tô đậm vẻ tài hoa trong nghề chèo đò của ông lái
đò, Nguyễn Tuân đã miêu tả ba chặng vượt thác đầy thử thách. Trong chặng vượt thác
thứ nhất, sóng nước Đà giang hiện lên với tính cách của loài thủy chiến, đưa ra những
đòn hiểm độc nhằm “bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”, chúng bày thiên la địa võng hò
reo vang trời để uy hiếp tinh thần đối phương. Tuy nhiên, ông lái đò vẫn hiện lên là
một con người trí tuệ, tài hoa khi nén cơn đau chống đỡ ngón đòn hiểm độc nhất của
dòng sông, kiên cường dũng cảm vượt qua hỗn chiến dù cuộc chiến không cân sức
này nhiều lúc làm ông rơi vào tình thế bị động nhưng ông vẫn phá được trùng vi thạch
trận thứ nhất. Đến chặng thứ hai khi sóng nước Đà giang trở nên nham hiểm, xảo
quyệt hơn, nó hiện lên như một con thú muốn đòi ăn chết con thuyền. Nhưng nhờ kinh
nghiệm chèo đò và sự am hiểu về con sông Đà cùng tài năng chở đò của mình, ông đã
không hề nao núng, tỉnh táo phóng đúng vào cửa sinh làm cho cái thằng đá tướng phải
tiu nghỉu cái mặt. Ông lái đò như dũng sĩ tung hoành trên chiến trận, luôn luôn sáng
suốt ứng phó kịp thời thay đổi chiến thuật để chế ngự dòng thác man dại, độc địa, xáo
trá đó. Như vậy trong chặng thứ nhất ông lái đò ở thế thủ thì đến chặng thứ hai ông đã
ở thế công để rồi đến chặng thứ ba đã làm nên chiến tích của mình, ông đã dành phần
thắng trong cuộc chiến, đem lại phần thắng vinh quang cho cuộc đời mình. Đó chính
là người anh hùng lao động vất vả trong cuộc sống bình thường. Ở ông lái đò, luôn
ánh lên vẻ tài hoa, trí dũng, cái mà Nguyễn Tuân gọi là “chất vàng mười đã qua thử lửa”.
Như vậy qua việc so sánh hai hình tượng nhân vật Huấn Cao và ông lái đò, ta có thể
thấy rằng Nguyễn Tuân luôn hướng vào những con người phi thường, khác thường.
Đó phải là những con người tài hoa nghệ sĩ, mang cái nhìn văn hóa bền vững trong
phong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân. Nhưng qua đây ta cũng nhìn nhận
được điểm khác biệt trong phong cách tiếp cận của nhà văn, nếu trước Cách mạng cái
đẹp hiện lên trong sự hoài niệm, hoài cổ, nó đối lập với thực tại nghiệt ngã thì sau
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
Cách mạng cái đẹp được nhìn trong sự hiện hữu của đời thường, trong thực tài và nó
hòa nhập vào cuộc sống rộng lớn của nhân dân. Nhưng cho dù có sự khác biệt đi
chăng nữa thì cả hai nhân vật Huấn Cao và ông lái đò đều được thể hiện bởi một ngòi
bút tài hoa và uyên bác. Tài hoa trong việc dựng người, dựng cảnh, tài hoa trong việc
sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật, những so sánh, liên tưởng táo bạo, bất ngờ; uyên bác
trong việc vận dụng nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau để làm phong phú và tăng
khả năng diễn tả của nghệ thuật văn chương, làm tăng khả năng tổ chức câu văn xuôi
giàu tính tạo hình, vốn từ vựng phong phú.
Nhìn chung, qua việc khắc họa hai hình tượng nhân vật Huấn Cao và ông lái đò đã
cho thấy sự ổn định, nhất quán trong việc tiếp cận con người của Nguyễn Tuân, đồng
thời cũng thấy được sự vận động trong phong cách ở hai giai đoạn trước và sau Cách
mạng tháng Tám. Từ đây, ta thấy được tài năng của người nghệ sĩ tâm huyết với nghề.
Đó là một Nguyễn Tuân đầy cá tính, tài hoa, uyên thâm, với tấm lòng tha thiết yêu
thương, trân trọng cái đẹp.
So sánh hình tượng Người lái đò và Huấn Cao - Mẫu 5
Nguyễn Tuân là tác giả lớn của văn học hiện đại Việt Nam với những thành tựu xuất
sắc ở cả hai giai đoạn trước và sau năm 1945. Sáng tác của Nguyễn Tuân mang phong
cách riêng độc đáo trong đó nổi bật chất tài hoa uyên bác. "Người lái đò sông Đà" là
bài tùy bút xuất sắc của Nguyễn Tuân được tin trong tập "sông Đà" năm 1960. Đoạn
văn "ông đò hai tay giữ mái chèo... Họ nghĩ thế lúc ngừng chèo" đã thể hiện trọn vẹn
vẻ đẹp của ông đò. Khi liên tưởng đến nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn "chữ
người tử tù" của Nguyễn Tuân trước cách mạng, ta thấy được sự ổn định và phát triển
trong cách tiếp cận con người của tác giả.
Để làm nổi bật vẻ đẹp của ông lái đò, Nguyễn Tuân đặt người lái đò trong một bối
cảnh phi thường. Trùng vi thạch trận sông Đà được bố trí bằng hai lực lượng: đá và
nước. Đá đã mai phục hàng nghìn năm trở thành thạch tinh, thạch quỷ, hòn nào cũng
"nhăn nhìn méo mó", thái độ thì "ngỗ ngược". Nước nơi đây reo hò làm thanh viện
cho đá, chúng đánh những món đòn hiểm độc nhất. Đó là một bức đại cảnh, trên đó
người lái đò hiện lên đẹp vô cùng như một dũng tướng, một người nghệ sĩ với tay lái ra hoa.
Một trong những phẩm chất tiên quyết của người nghệ sĩ là anh ta phải am hiểu công
việc mình làm, lĩnh vực mình hoạt động, đối tượng mình khám phá và sáng tạo. Nếu
xem người lái đò là người nghệ sĩ thì đó chính là một người nghệ sĩ âm tường. "Ông
đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá" và "thuộc quy luật" của dòng sông, thác
đá... Bằng những chữ "binh pháp", "quy luật phục kích" Nguyễn Tuân đã biến sông,
đá, nước vô tri thành loài thủy quái, thành lũ tướng dữ quân tợn. Hai chữ "thần sông
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
thần đá", Nguyễn Tuân lại biến lũ quân hùng tợn ấy thành một thế lực siêu nhiên, siêu
hình. Ông đò qua các từ "nắm chắc, thuộc" trở thành người dũng tướng làm chủ một
đội quân, một lực lượng hùng hậu.
Ông đò còn hiện lên với vẻ đẹp tài hoa, trí dũng trong trận thủy chiến với sóng thác
sông Đà. Vòng vây thứ nhất, sông Đà mở bốn của tử, một cửa sinh nằm lập lờ phía tả
ngạn... Ông đò hai tay "giữ vững mái chèo", hai chân "kẹp chặt lấy cuống lái", mặt "
méo bệch" vì sóng táy vô cùng đau. Tiếng chỉ huy "ngắn gọn, tỉnh táo". Ông đò hiện
lên vô cùng bình tĩnh, cam trường để giúp ông làm chủ con thuyền, làm điểm tựa
vững chắc cho các cộng sự của mình bằng sự phòng thủ, chế ngự và ám binh bất động.
Đến vòng vây thạch trận thứ hai, sông nước tăng thêm cửa tử, cửa sinh lệch về phía
hữu ngạn, dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế sống...Sóng nước, thác nước sông Đà
như một loài hoang thú dùng hết tốc độ, sức mạnh trong cuộc truy sát con mồi. Ông
đò không chỉ nhận thức sự mạo hiểm khi cưỡi trên sóng nước sông Đà mà còn tỉnh táo
chinh phục. Ông ghì cương lái, nắm buồng sóng đúng luồng, phóng nhanh vào luồng
sinh. Khi gặp bọn thủy quân, đức ông "tránh, rảo bơi chèo lên", đứa ông "sấn lên, chặt
đôi, mở đường tiến". Ở vòng này, ông đò tấn công cực kì linh hoạt, có cương có nhu,
có công có thủ. Ở vòng vây cuối, sự hiểm ác của thác đá đã được nhà văn miêu tả
trong hình ảnh ẩn dụ tài hoa về "cổng đá cánh mở cánh khép", phải trái đều là luồng
chết. Nhiệm vụ của ông đò là "phóng thẳng thuyền, chọc thủng" một luồng sinh duy
nhất ở ngay giữa cửa bọn đá hậu vệ trấn giữ. Hình ảnh con thuyền lao vút qua khe hẹp
được miêu tả trong những câu văn ngắn cùng với sự kết hợp động từ và danh từ: "vút,
vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng..." đã thể hiện sự điêu luyện, khéo léo và
sức mạnh của một tay lái "ra hoa".
Trở về với cuộc sống bình thường, ông đò lại hiện lên với vẻ đẹp ung dung, bình dị.
Sau khi chiến thắng thiên nhiên hung bạo, những người lái đò lại "đốt lửa trong hang
đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh... Chả thấy ai bàn
thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn".
Thái độ bình thản ấy càng tô đậm tầm vóc lớn lao của những người anh hùng trong
cuộc sống đời thường bình dị khi họ coi việc chiến đấu và chiến thắng sông Đà hiểm
ác chỉ là chuyện thường ngày.
Ngược dòng thời gian về với văn Nguyễn Tuân trước cách mạng ta thấy thấp thoáng
bóng dáng của Huấn Cao trong truyện ngắn "chữ người tử tù". Đó là một con người
tài hoa, khí phách và có thiên lương trong sáng, lành vững. Ông có tài viết chữ nhanh
và đẹp, chữ Huấn Cao biến tên Huấn Cao thành thanh danh lẫy lừng, chữ ông Huấn
còn trở thành báu vật với quản ngục. Huấn Cao còn đứng đầu đội quân phiến loạn, khí
phách tỏa sáng khi nhập lao, khi nhận hung tin. Lời giãi bày với thầy thơ lại và quản
ngục còn cho thấy ông Huấn là người có thiên lương trong sáng, lành vững.
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
Qua hình tượng ông lái đò và Huấn Cao, phong cách của Nguyễn Tuân luôn ổn định
trong việc tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Tuy nhiên, nếu trước
cách mạng nhà văn tìm thấy vẻ đẹp ở lớp người đặc tuyển, chỉ còn là một thời vang
bóng thì sau cách mạng, tác giả trở về với nhân dân đại chúng, hiện hữu trong cuộc
sống cần lao bình dị đời thường.
So sánh hình tượng Người lái đò và Huấn Cao - Mẫu 6
Nguyễn Tuân là một hiện tượng của nền văn học việt Nam thế kỷ XX. Tác phẩm của
Nguyễn Tuân thể hiện phong cách độc đáo, tài hoa, sự hiểu biết phong phú trong
nhiều lĩnh vực và vốn ngôn ngữ giàu có, điêu luyện. Hay nói như Nguyễn Minh Châu:
“Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ tài hoa”. Toàn bộ cuộc đời cũng
như gần 5000 trang viết của ông đã tạo nên một “huyền sử” – huyền sử của một người
ưa lối chơi “độc tấu”. Cung đàn văn chương Nguyễn Tuân được viết trên cùng một
khuông nhạc nhưng với thanh âm trầm bổng khác nhau của các nốt nhạc. Phong cách
Nguyễn Tuân vì vậy mà có sức hấp dẫn người đọc. Những nét thống nhất và khác biệt
ấy thể hiện rõ qua hai tác phẩm “Chữ người tử tù” (1939) và “Người lái đò sông Đà” (1960).
Truyện ngắn “Chữ người tử tù” lúc đầu có tên là “ Dòng chữ cuối cùng” đăng trên tạp
chí “Tao đàn” số 29 vào năm 1938, sau đó đã được in trong tập “ Vang bóng một
thời” và được đổi tên thành “ Chữ người tử tù”.
Trong truyện ngắn này, Nguyễn Tuân tập trung ca ngợi cái đẹp, cái tài, cái thiên
lương. Nhân vật trung tâm mà tác giả tập trung khắc họa đó là Huấn Cao – một tử tù
của triều đình nhưng đặc biệt nổi tiếng khắp vùng với biệt tài viết chữ. Đó là một con
người trọng nghĩa khí, là hiện thân của cái tài, cái đẹp, cái thiên lương. Không chỉ có
nhân vật Huấn Cao mà tấm lòng trong sáng, biết thưởng thức và giữ gìn cái đẹp còn
được thể ở nhân vật thầy thơ lại và viên quản ngục. Đặc biệt, tấm lòng của viên quản
ngục được Nguyễn Tuân coi là “ một thanh âm trong trẻo chen vào một bản đàn mà
nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ.”
Nếu như trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Tuân thường tìm cái đẹp trong quá khứ
thì sau Cách mạng tháng Tám ông say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống chiến đấu,
lao động của nhân dân. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông thời kì này là tuỳ
bút “Người lái đò sông Đà”.
“Người lái đò sông Đà” được in trong tập tuỳ bút “Sông Đà” (1960), gồm 15 bài tuỳ
bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng Chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây
Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn
Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn
cảm hứng sáng tạo phong phú. Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vỹ và
tuyệt vời thơ mộng, Nguyễn Tuân còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn
con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm
hồn Tây Bắc” qua hình ảnh người lái đò sông Đà.
Nguyễn Tuân – một nhà văn nổi tiếng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông có những
sáng tác xoay quanh những nhân vật lí tưởng về tài năng xuất chúng, về cái đẹp tinh
thần như “Chiếc ấm đất”, “Chén trà sương”… Và một lần nữa, chúng ta lại bắt gặp
chân dung tài hoa trong thiên hạ, đó là Huấn Cao – nhân vật chính trong tác phẩm
“Chữ người tử tù”.
Huấn Cao là con người có tài năng khác thường. Nét tài hoa này trước hết là tài viết
chữ đẹp. Đó là tài viết chữ Hán- thứ chữ tượng hình- đã được người xưa nâng lên tầm
nghệ thuật thư pháp.Tài viết chữ đẹp của Huấn Cao không được thể hiện qua việc
miêu tả trực tiếp của tác giả mà thông qua sự nhận xét, đánh giá và thái độ của một
nhân vật khác trong truyện là viên quản ngục: “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông
lắm…Có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời”. Viên quản ngục sẵn
sàng chịu nhục, bất chấp nguy hiểm để đạt được mong ước bấy lâu là “có một ngày
kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do chính tay ông Huấn cao viết”. Điều
đó có nghĩa là nhân vật này đã đặt chữ ông Huấn cao hơn cả danh dự và tính mạng của
mình. Đây là sáng tạo độc đáo của Nguyễn Tuân. Một mặt nó làm cho nhân vật hiện
lên khách quan, tránh được mọi sự gò ép, áp đặt. Mặt khác nó cũng có tác dụng như
một chiếc đòn bẩy, tôn cái tài, cái đẹp, cùng những phẩm chất đáng quí của Huấn Cao
lên nhiều lần. Và như vậy người đọc có cảm giác tại năng của nhân vật Huấn Cao đã
đạt đến độ siêu phàm, hiếm có, sống mãi trong sự tôn thờ, ngưỡng mộ của người đời.
Điều này cũng phù hợp với quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân.
Chữ của Huấn Cao đẹp đến như vậy thì nhân cách của Huấn Cao cũng thật đáng ca
ngợi. Ông là con người tài, tâm vẹn toàn. Huấn Cao có cốt cách ngạo nghễ, phi
thường của một bậc trượng phu. Ông đã dám chống lại triều đình mà ông căm ghét để
giờ đây khép vào tội “đại nghịch”, chịu án tử hình. Huấn Cao có tấm lòng nhân ái bao
la. Ông Huấn thương cho nhân dân vô tội nghèo khổ, lầm than bị áp bức bóc lột bởi
giai cấp thống trị tàn bạo thối nát. Ông Huấn rất căm ghét bọn thống trị và thấu hiểu
nỗi thống khổ của người dân “thấp cổ bé họng”. Nếu như Huấn Cao phục tùng bọn
phong kiến kia thì ông sẽ được hưởng vinh hoa phú quý. Nhưng không, ông Huấn đã
lựa chọn con đường khác: con đường đấu tranh chống lại triều đình mục nát, giành
quyền sống cho người dân vô tội. Cuộc đấu tranh không thành công, ông bị bọn chúng
bắt. Giờ đây phải sống trong cảnh ngục tối chờ ngày xử chém.
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
Trước khi bị bắt vào ngục, viên quản ngục đã nghe tiếng đồn Huấn Cao rất giỏi võ,
ông có tài “bẻ khóa, vượt ngục” chứng tỏ Huấn Cao là một người văn võ toàn tài, quả
là một con người hiếm có.
Trong những ngày chờ thi hành án, mặc dù “sa cơ lỡ vận” nhưng Huấn Cao vẫn giữ
được khí phách hiên ngang, kiên cường. Tuy bị giam cầm về thể xác nhưng ông Huấn
vẫn hoàn toàn tự do bằng hành động “lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc
mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái” và lãnh đạm, không
thèm chấp sự đe dọa của tên lính áp giải. Dưới mắt ông, bọn kia chỉ là “một lũ tiểu
nhân thị oai”. Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ của bọn chúng nhưng ông vẫn tỏ ra
“khinh bạc”. Ông đứng đầu gông, ông vẫn mang hình dáng của một vị chủ soái, một
vị lãnh đạo. Người anh hùng ấy dù cho thất thế nhưng vẫn giữ được thế lực, uy quyền
của mình. Thật đáng khâm phục. Mặc dù ở trong tù, ông vẫn “thản nhiên nhận rượu,
thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình”. Huấn Cao hoàn toàn tự
do về tinh thần. Khi viên cai ngục hỏi Huấn Cao cần gì thì ông trả lời: “Ngươi hỏi ta
cần gì à? Ta chỉ muốn một điều là nhà ngươi đừng bước chân vào đây”.
Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn
hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ …”. Ông không thèm
đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí
của mình trong xã hội. Ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn
bã” của xã hội. “Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”.
Thiên lương của Huấn Cao cũng thật trong sáng, cao đẹp. “Tính ông vốn khoảnh,
không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình cho chữ bao giờ”, vì ông không sợ
quyền uy, không ham vàng ngọc. Theo ông, chỉ có “thiên lương”, bản chất tốt đẹp của
con người mới là đáng quý. Do vậy khi biết được nỗi lòng của viên quản ngục, Huấn
Cao không những vui vẻ nhận lời cho chữ mà còn thốt rằng: “Ta cảm cái tấm lòng biệt
nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại
có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong
thiên hạ”. Hành động cho chữ viên quản ngục chứng tỏ Huấn Cao là một con người
biết quý trọng cái tài, cái đẹp, biết nâng những kẻ tầm thường lên ngang hàng với mình.
Vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ của nhân vật Huấn cao được thể hiện rõ nét trong cảnh Huấn
Cao cho chữ . Đó quả là một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”. Người cho chữ là tử
tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” đang “đậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch
trắng tinh” với tư thế ung dung tự tại. Huấn Cao đang dồn hết tài năng, tinh hoa vào
từng nét chữ. Đó là những nét chữ cuối cùng của con người tài hoa ấy. Những nét chữ
chứa chan tấm lòng của Huấn Cao và thấm đẫm nước mắt thương cảm của người đọc.
Viết chữ rất đẹp nhưng cả đời Huấn Cao mới chỉ viết hai bộ tứ bình và một bức trung
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
đường cho ba người bạn thân rồi phải vội vã ra đi, để lại biết bao tiếc nuối cho người
đọc. Qua đó, Nguyễn Tuân cũng gián tiếp lên án xã hội đương thời đã vùi dập tài hoa
con người. Và người tù kia bỗng trở nên có quyền uy trước những người đang chịu
trách nhiệm giam giữ mình. Ông Huấn đã khuyên viên quản ngục như một người cha
khuyên bảo con: “Tôi bảo thực thầy quản nên về quê ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện
chơi chữ. Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững rồi cũng có ngày nhem
nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Vì theo Huấn Cao, cái đẹp không thể nào ở chung
với cái xấu được. Con người chỉ thưởng thức được cái đẹp khi có bản chất trong sáng,
nhân cách cao thượng mà thôi. Những nét chữ cuối cùng đã cho rồi, những lời nói
cuối cùng đã nói rồi. Huấn Cao, người anh hùng tài hoa kia dù đã ra đi mãi mãi nhưng
để lại ấn tượng sâu sắc cho những ai đã thấy, đã nghe, đã từng được thưởng thức nét
chữ của ông. Sống trên cõi đời này, Huấn Cao đã đứng lên đấu tranh vì lẽ phải, đã xóa
tan bóng tối hắc ám của cái ác, cái xấu. Chính vì vậy, hình tượng Huấn Cao đã trở nên
bất tử. Huấn Cao sẽ không chết mà bước sang một cõi khác để mang ánh sáng của cái
đẹp xua tan bóng tối nơi đó, đem lại hạnh phúc cho mọi người ở mọi nơi.
Ở Huấn Cao ánh lên vẻ đẹp của cái “tài” và cái “tâm”. Trong cái “tài” có cái “tâm”.
Và cái “tâm” ở đây chính là nhân cách cao thượng, sáng ngời của một con người tài
hoa. Cái đẹp luôn song song “tâm” và “tài” thì cái đẹp đó mới trở nên có ý nghĩa thực
sự. Xây dựng hình tượng Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân đã thành công trong việc
xây dựng nên chân dung nghệ thuật điển hình lí tưởng về thẩm mĩ trong văn học. Dù
cho Huấn Cao đã đi đến cõi nào chăng nữa thì ông vẫn sẽ mãi trong lòng người đọc
thế hệ hôm nay và mai sau.
Quản ngục là một nhân vật phụ trong tác phẩm Chữ người tử tù. Nhưng nhân vật này
cũng góp phần không nhỏ làm nên giá trị độc đáo của thiên truyện. Viên quản ngục
không có cái tài hoa của một nghệ sĩ nhưng lại có tâm hồn nghệ sĩ đó là yêu cái đẹp và trân trọng người tài.
Hai chữ quản ngục đã phần nào gợi lên đầy đủ nghề nghiệp về nhân vật đó là cai tù,
nghề đại diện cho quyền lực phong kiến, đối lập với những con người tài hoa, khí
phách như Huấn Cao, đối lập với cái đẹp. Nghề nghiệp ấy cũng gợi lên một môi
trường của gông cùm, xiềng xích, tội ác. Nhân vật ấy hằng ngày phải chứng kiến bao
điều tàn nhẫn, lọc lừa, ăn đời ở kiếp với bọn tiểu nhân… Cảnh sống ấy dễ làm cho con
người bị chai sạn, dễ bị đẩy vào bùn nhơ của tội lỗi. Nhưng quản ngục vẫn giữ được
vẻ đẹp nhân cách đáng quý. Cách ví von của Nguyễn Tuân “Đó là một thanh âm trong
trẻo chen giữa vào bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”, là “cái cao khiết giữa
một đống cặn bã…” thể hiện sự nhìn nhận, khám phá, đề cao con người mang vẻ đẹp thiên lương nghệ sĩ.
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
Để làm nổi bật thanh âm trong trẻo, cái cao khiết của viên quản ngục, nhà văn Nguyễn
Tuân đã đi vào thể hiện nhân vật quản ngục là con người bị ném vào môi trường cặn
bã nhưng vẫn giữ được thiên lương. Điều đó bộc lộ qua thái độ và cách ứng xử của
viên quản ngục đối với sáu người tử tù đặc biệt là đối với Huấn Cao. Khi nhận được
phiến trát, quản ngục hỏi thầy thơ lại: “Tôi nghe ngờ ngợ. Huấn Cao? Hay là cái
người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh rất đẹp đó không?” Câu
hỏi là sự thăm dò kín đáo, thận trọng nhưng cũng chính là bộc lộ sự ngưỡng mộ, khâm
phục, kính nể của quản ngục đối với tài hoa, danh tiếng và khí phách của Huấn Cao.
Khi biết mình nắm trong tay sinh mệnh của Huấn Cao, quản ngục đã phải trải qua một
cuộc đấu tranh tư tưởng. Ông ngồi đó với khuôn mặt tư lự và suy nghĩ. Quản ngục
hiểu rằng, ông là người hành pháp phải làm việc theo bổn phận và chức trách mà
chính quyền giao cho. Ông băn khoăn, trăn trở không biết phải đối xử với Huấn Cao
như thế nào. Bởi đó là một con người mà từ lâu quản ngục đã mến mộ. Nguyễn Tuân
đã dành những trang văn trang trọng, nên thơ miêu tả khung cảnh đêm tối khi quản
ngục suy ngẫm: “Tiếng trống thành phủ gần đấy đã bắt đầu thu không…nâng đỡ lấy
một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ”.
Vẻ đẹp nhân cách viên quản ngục được Nguyễn Tuân tô đậm khi nhà văn miêu tả thái
độ khác thường của quản ngục lúc tiếp đón sáu người tử tù. Quản ngục đã nhìn Huấn
Cao và các bạn tù của ông bằng cặp mắt hiền lành và lòng kiêng nể. Cái nhìn ấy, tấm
lòng ấy đã ẩn chứa một thái “độ biệt nhỡn liên tài”. Chính thái độ kiêng nể của quản
ngục đã làm cho bọn lính lấy làm lạ, nhắc quản ngục: “Xin thầy để tâm cho…”. Quản
ngục đã trả lời với bọn lính: “ Ta biết rồi, việc quan ta đã có phép nước. Các chú chớ
nhiều lời”. Như vậy, Nguyễn Tuân đã khai thác yếu tố tương phản, đối lập giữa một
bên là bọn lính áp giải hung hăng, với một bên là ánh mắt hiền lành của viên quản
ngục để làm nổi bật về viên quản ngục: quản ngục tuy là đại diện cho quyền lực phong
kiến nhưng ông không phải là hung đồ với bàn tay vấy máu. Ngược lại sống giữa bùn
nhơ nhưng ông không bị hoen ố, không bị vấy bẩn mà thực sự là cái cao khiết giữa một đống cặn bã.
Xây dựng nhân vật viên quản ngục, nhà văn không chỉ thể hiện vẻ đẹp nhân cách mà
còn khám phá và thể hiện vẻ đẹp của một con người có tâm hồn của một người nghệ
sĩ. Theo cách giới thiệu của nhà văn, viên quản ngục là một nhà nho, biết đọc vỡ nghĩa
sách thánh hiền và có một khát vọng cháy lòng là xin được con chữ Huấn Cao, coi đó
là vật báu. Nghĩa là đằng sau cái con người công cụ của bộ máy trấn áp quyền lực
phong kiến, nhân vật viên quản ngục còn là một con người có tâm hồn nghệ sĩ, trân
trọng cái đẹp, khao khát thưởng thức cái đẹp.
Từ khi Huấn Cao trở thành người tù nơi trại giam của mình, viên quản ngục khổ tâm
nhất đó là có được Huấn Cao ở trong tay mà không biết làm thế nào để tiếp cận được
Huấn Cao.Quản ngục luôn tư lự, đăm chiêu, nghĩ ngợi tìm cách xin chữ Huấn Cao cho
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
bằng được. Vì chữ Huấn Cao là báu vật trên đời, nếu không xin được thì quản ngục sẽ
ân hận suốt đời. Miêu tả chân dung quản ngục lúc này giọng văn Nguyễn Tuân trở nên
chậm rãi, trang trọng: Người ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Những
đường nhăn nheo của bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến mất. Ở đấy, giờ chỉ còn là mặt
nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ.” Một hôm quản ngục mở khóa cửa
buồng kín, tỏ ý biệt đãi Huấn Cao và bị Huấn Cao thể hiện thái độ khinh bạc nhưng
quản ngục không hề trả thù. Ngược lại ông còn “Xin lĩnh ý” rất từ tốn và khiêm
nhường. Có lẽ, ông đã tự ý thức được khoảng cách xa vời giữa người tử tù Huấn Cao
với mình và ông hiểu được để có cái đẹp phải tự nguyện chứ không phải là cưỡng bức
bằng những mánh khóe tầm thường.
Cảnh cho chữ là nơi kết đọng vẻ đẹp tâm hồn nghệ sĩ của quản ngục. Khi Huấn Cao
viết xong một chữ “viên quản ngục lại vội khúm núm”. Sự khúm núm ấy không phải
là nỗi sợ sệt tầm thường mà là cảm kích tột cùng trước một nhân cách lớn, tài năng
lớn. Khi nghe những lời khuyên chân thành của Huấn Cao, quản ngục đã cảm động
“vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm
cho nghẹn ngào: kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Đây không phải là cái cúi đầu đớn hèn,
nhục nhã mà cái cúi đầu này khiến quản ngục trở nên lớn lao, cao cả. Bởi cúi đầu
trước cái đẹp thì đó cũng là hành động đẹp của một con người có nhân cách cao đẹp.
Phải chăng cái cúi đầu ấy như cái cúi đầu của Cao Bá Quát thuở nào: “Nhất sinh đê
thủ bái mai hoa”. Bên cạnh cái cúi lạy cao cả đó là giọt nước mắt của tâm hồn nghệ sĩ
biết yêu, biết trân trọng đến xót xa ngậm ngùi, nuối tiếc cho cái đẹp. Thái độ nhã nhặn
và tinh thần phục dịch tận tụy Huấn Cao của viên quản ngục là biểu hiện một thái độ
tôn trọng, thành kính trước một nhân cách đẹp. Luôn hướng về cái đẹp, chăm sóc cái
đẹp cũng là hành vi trọng nghĩa, một phẩm chất trong sáng cao quý hiếm có của nhân
vật này. Yêu cái đẹp đến mức dám phạm đến phép nước, dám bất chấp nguy hiểm là
một tâm hồn đẹp đẽ hiếm thấy. Nhân vật viên quản ngục xứng đáng được nêu gương ,ca ngợi.
Làm nghề quản ngục, môi trường làm việc là nhà tù, đối tượng tiếp xúc hằng ngày là
tù nhân, tội phạm, nhưng với sự hòa quyện giữa nhân cách cao đẹp và tâm hồn người
nghệ sĩ, nhân vật viên quản ngục có thể được ví như một bông sen vươn dậy từ bùn
lầy “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Trong một đời cầm bút đi tìm cái đẹp,
Nguyễn Tuân luôn cảm kích, ngợi ca những con người tài hoa nghệ sĩ trong bất cứ
nghề gì và hình tượng viên quản ngục là một nhân vật như thế.
Người lái đò sông Đà hiện lên trước hết là một người lao động từng trải, có nhiều kinh
nghiệm đò giang, có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán
nữa. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả
những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của
mình. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác
đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối
phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một: “Đá ở đây ngàn năm vẫn
mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở
quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc thuyền nào nhô vào đường ngoặt
sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ
ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm, méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này… Sông Đà đã
giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng
hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn
độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn…”
Trong cuộc chiến đấu với thác dữ, người lái đò thực sự là người nghệ sĩ tài hoa trong
nghề chèo đò: hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào
mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô
vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông
lão vẫn không hề nao núng, mà bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con
thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết
thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh
hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. “Phá xong cái trùng vi thạch trận
thứ nhất”, người lái đò “phá luôn vòng vây thứ hai“. Ông lái đò đã nắm chắc binh
pháp của thần sông, thần đá. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là
luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc
thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa
trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa
xuyên vừa tự động lái được lượn được. Trong cuộc chiến không cân sức ấy, người lái
đò chỉ có một cán chèo, một con thuyền không có đường lùi còn dòng sông dường
như mang sức mạnh siêu nhiên của loài thuỷ quái. Tuy nhiên, kết cục cuối cùng,
người lái đò vẫn chiến thắng, khiến cho bọn đá tướng “tiu nghỉu bộ mặt xanh lè vì
phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé.”
Nhân vật người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm lụng âm
thầm, giản dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, kì vĩ,
trở thành đại diện của con người trong công cuộc chinh phục thiên nhiên. Người lao
động nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh thần thánh của
thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc.
Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở nhân vật người lái đò sông Đà là phong thái của một
nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa
rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng
mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến
trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong tác phẩm Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra
hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ
được nó nên có tự do.
Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh,
thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những
khúc sông không có thác lại dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ. Chung quy lại, nơi nào
cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải
nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận
mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của
ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào
cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí
nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm
lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về
cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như những nghệ
sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự
tán dương về công sức của mình. nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét:
“Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng
giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng
nhớ. Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo.” Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dễ thấy,
nhưng nhìn người lái đò tài hoa, chỉ có trong trang văn của Nguyễn Tuân.
“Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng
tám. Tác phẩm không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên nhiên Tây bắc mà
còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của người dân lao động nơi đây. Qua
nhân vật người lái đò, nhà văn Nguyễn Tuân bộc lộ tình yêu đất nước, niềm tự hào
hứng khởi, gắn bó tha thiết với nhân dân, đất nước .
Nhân vật Huấn Cao, viên quản ngục trong tác phẩm Chữ người tử tù là những nhân
vật lãng mạn. Với những nhân vật này, tác giả đưa người đọc trở về với một thời đã
qua nay chỉ còn vang bóng. Để làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao và viên
quản ngục, Nguyễn Tuân đã đặt các nhân vật vào một tình huống truyện độc đáo: cuộc
gặp gỡ giữa Huấn Cao với quản ngục và thơ lại. Đó là cuộc gặp gỡ của tử tù với quan
coi ngục, nhưng cũng là cuộc hội ngộ của những kẻ “liên tài tri kỉ”.
Vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ của nhân vật Huấn Cao và tâm hồn nghệ sĩ của viên quản ngục
còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc sử dụng sức mạnh của nguyên tắc tương
phản, đối lập của bút pháp lãng mạn: đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cái đẹp,
cái cao cả với cái phàm tục, dơ bẩn. Có sự tương phản ở những chi tiết tạo hình được
sử dụng để miêu tả không khí của cảnh cho chữ (bóng tối phòng giam, ánh sáng đỏ
rực của bó đuốc, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián, tấm lụa
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
bạch còn nguyên vẹn lần hồ…). Có sự đối lập tương phản giữa việc cho chữ (công
việc tạo ra cái đẹp nói lên hoài bão tung hoành của một đời con người) với hoàn cảnh
cho chữ (nơi hôi hám, bẩn thỉu, nơi giam cầm, cùm trói tự do). Có sự đối lập ở phong
thái của người cho chữ (đường hoàng, đĩnh đạc) với tư thế của kẻ nhận chữ (khúm núm, yếu đuối)…
Ngôn ngữ miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”
giàu chất tạo hình và mang màu sắc trang trọng, cổ kính. Ông sử dụng nhiều từ Hán –
Việt, lời ăn tiếng nói mang khẩu khí của người xưa làm tăng thêm vẻ đẹp của một
“thời vang bóng” ở hình tượng Huấn Cao và viên quản ngục.
Nhân vật người lái đò trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là nhân vật hiện thực.
Đây là hình ảnh của con người trong chiến đấu, lao động đời thường, đại diện cho
những người vô danh, thầm lặng, có mặt trên mọi miền của Tổ quốc. Ông lái đò sinh
ra bên bờ sông Đà và gắn bó với nghề sông nước như bao người lái đò khác nơi
thượng nguồn sông Đà. Đời sống tâm hồn của người lái đò giản dị: không nói nhiều
về chiến công; dù đi đâu cũng luôn nhớ về nương ruộng, bản mường quê hương xứ sở.
Để làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật người lái đò, Nguyễn Tuân sử dụng ngôn ngữ
phong phú, sáng tạo, tài hoa; kết hợp kể với tả nhuần nhuyễn và đặc sắc. Nghệ thuật
khắc họa nhân vật độc đáo, sáng tạo. Sử dụng kết hợp các biện pháp nghệ thuật so
sánh, nhân hóa, liên tưởng, vận dụng tri thức của liên ngành, đa ngành góp phần miêu
tả cuộc chiến hào hùng và khẳng định vẻ đẹp tâm hồn nhân vật.
Cũng như các loại hình nghệ thuật khác, tác phẩm văn chương muốn được người đọc
đón nhận một cách nồng nhiệt và sống mãi với thời gian thì nhà văn phải không
ngừng sáng tạo. Nam Cao đã từng nói rằng: “Văn chương không cần đến những người
thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những
người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì
chưa có” (Đời thừa). Trong quá sáng tác, các nhà văn chân chính bằng tài năng và tâm
huyết của mình đã không ngừng nỗ lực và sáng tạo để cho ra đời nhiều tác phẩm có
giá trị. Nhân loại đã từng ngưỡng mộ và tôn vinh những tài năng lỗi lạc như: A.X.
Puskin , R. Ta- Go, A.P. Sê- Khốp, V. Huy- Gô…với những tác phẩm xuất sắc họ để
lại cho muôn đời. Nhận thức được sự sáng tạo trong quá trình sáng tác là một yêu cầu
tất yếu của văn chương, các nhà văn Việt Nam trong đó có Nguyễn Tuân đã không
ngừng tìm tòi, khám phá và đã tạo được cho mình phong cách riêng cùng với những tác phẩm có giá trị.
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, nghệ sĩ lớn, suốt đời đi tìm cái đẹp. Trước Cách
mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân là nhà văn lãng mạn. Ông thể hiện sự bất mãn, bất lực
trước hiện thực bằng cách chỉ tin vào cái đẹp trong quá khứ, về một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng.
Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
Sau Cách mạng Tám Nguyễn Tuân đã nhanh chóng trở thành nhà văn cách mạng. Tác
phẩm của Nguyễn Tuân thời kì này được khơi nguồn từ cuộc sống lao động sản xuất
và chiến đấu của nhân dân nên mang đậm chất hiện thực. Lòng yêu nước và tinh thần
dân tộc của nhà văn được phát huy mạnh mẽ, quan niệm về cái đẹp cũng có sự chuyển
biến rõ rệt. Ông quan niệm cái đẹp không ở đâu xa mà cái đẹp ở ngay trong hiện thực
cuộc sống, trong tâm hồn của những người lao động bình dị đang ngày đêm sản xuất,
chiến đấu để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Họ chính là những người nghệ sĩ , những
anh hùng vô danh thầm lặng rất đáng được ca ngợi.
Nguyễn Tuân là nhà văn tài năng và giàu sức sáng tạo. Trong cuộc đời cầm bút của
mình, ông đã tạo được một phong cách độc đáo, tài hoa, uyên bác. Tìm hiểu sự nhất
quán và sáng tạo trong cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Tuân phần nào giúp ta
hiểu rõ hơn quan điểm thẩm mĩ, sự đóng góp của ông cho nền văn học nước nhà.