So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài hay nhất | Ngữ văn 12

Tác phẩm "Vợ Nhặt" của nhà văn Kim Lân và tác phẩm "Người Đàn Bà Hàng Chài" của nhà văn Nguyễn Minh Châu là hai tác phẩm viết về người phụ nữ, tuy có điểm khác nhau những lại có những gặp gỡ trong tư tưởng, bởi vậy hôm nay hãy cùng Luật Minh Khuê chúng tôi tìm hiểu So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài qua bài viết dưới đây nhé. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Chủ đề:

Văn mẫu 12 637 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 12 1 K tài liệu

Thông tin:
4 trang 3 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài hay nhất | Ngữ văn 12

Tác phẩm "Vợ Nhặt" của nhà văn Kim Lân và tác phẩm "Người Đàn Bà Hàng Chài" của nhà văn Nguyễn Minh Châu là hai tác phẩm viết về người phụ nữ, tuy có điểm khác nhau những lại có những gặp gỡ trong tư tưởng, bởi vậy hôm nay hãy cùng Luật Minh Khuê chúng tôi tìm hiểu So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài qua bài viết dưới đây nhé. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

38 19 lượt tải Tải xuống
So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài
hay nhất
1. Dàn ý so sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng
chài chi tiết nhất:
1.1 Mở Bài
Kim Lân là một nhà văn nổi tiếng với các tác phẩm miêu tả cuộc sống của người dân nông thôn và những
nông dân chất phác, hiền lành. Trong tác phẩm "Vợ nhặt," ông đã diễn tả tốt vẻ đẹp và khát vọng sống
mãnh liệt của người vợ nhặt trong thời kỳ khó khăn của đói năm Ất Dậu.
Nguyễn Minh Châu là một trong những tác giả hàng đầu đổi mới văn học Việt Nam sau năm 1975. Tác
phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" từ góc nhìn của nhân vật Phùng - một nghệ sĩ trên hành trình khai phá nghệ
thuật - đã giúp tái hiện hiện thực và con người với những khám phá mới mẻ. Tác phẩm còn phát hiện ra vẻ
đẹp của người đàn bà hàng chài, tạo nên một thành công đáng kể.
1.2 Thân bài
1. Nhân vật người vợ nhặt
– Giới thiệu chung: Tuy không miêu tả thật nhiều nhưng nhân vật người vợ nhặt vẫn là một trong ba nhân
vật quan trọng của tác phẩm. Nhân vật này được khắc họa sống động, theo lối đối lập giữa bề ngoài và bên
trong, ban đầu và về sau.
– Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu:
+ Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng là một lòng ham sống mãnh liệt. (dẫn chứng)
+ Phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáng, lại là một người hiểu biết, ý tứ.(dẫn chứng)
+ Bên trong vẻ chao chát, cong cớn, chỏng lỏn lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan.
(dẫn chứng)
2. Nhân vật người đàn bà hàng chài
– Giới thiệu chung: Là nhân vật chính, có vai trò quan trọng với việc thể hiện tư tưởng của tác phẩm. Nhân
vật này được khắc họa sắc nét, theo lối tương phản giữa bên ngoài và bên trong, giữa thân phận và phẩm
chất.
– Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu.
+ Bên trong ngoại hình xấu xí, thô kệch là một tấm lòng nhân hậu, vị tha, độ lượng, giàu đức hi sinh. (dẫn
chứng)
+ Phía sau vẻ cam chịu, nhẫn nhục vẫn là một người có khát vọng hạnh phúc, can đảm, cứng cỏi. (dẫn
chứng)
+ Phía sau vẻ quê mùa, thất học lại là một người phụ nữ thấu hiểu, sâu sắc lẽ đời. (dẫn chứng)
3. So sánh
Nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật:
– Tương đồng: Cả hai nhân vật đều là những thân phận bé nhỏ, nạn nhân của hoàn cảnh. Những vẻ đẹp
đáng trân trọng của họ đều bị đời sống cơ cực lam lũ làm khuất lấp. Cả hai đều khắc họa bằng những chi
tiết chân thực…
– Khác biệt: Vẻ đẹp được thể hiện ở nhân vật người vợ nhặt chủ yếu là phẩm chất của một nàng dâu mới,
hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh, trong nạn đói thê thảm. Vẻ đẹp được khắc sâu ở nhân vật
người đàn bà hàng chài là những phẩm chất của một người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các chi
tiết đầy kịch tính, trong tình trạng bạo lực gia đình…
4. Lí giải sự khác biệt
–Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển, biến đổi từ thấp đến cao (cảm
hứng lãng mạn), trong khi đó người đàn bà hàng chài lại tĩnh tại, bất biến như một hiện thực nhức nhối
đang tồn tại (cảm hứng thế sự – đời tư trong khuynh hướng nhận thức lại)
– Sự khác biệt giữa con người giai cấp (Vợ nhặt) với quan niệm con người đa dạng phúc tạp (Chiếc thuyền
ngoài xa) đã tạo ra sự khác biệt này.
1.3 Kết bài
– Đánh giá giá trị nội dung và nghệ thuật
2. So sánh người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài.
Những người phụ nữ Việt Nam có phẩm chất cao quý đã trở thành từ đề tài thơ ca và câu văn trong nhiều
tác phẩm. Những hình ảnh như người vợ nhặt trong Vợ Nhặt của Kim Lân (1962) và người đàn bà hàng
chài của Nguyễn Minh Châu vẫn luôn gợi lại sự kiên cường, bất khuất, trung hậu và đảm đang của trái tim
những người phụ nữ này. Tuy cuộc đời của họ khác nhau, nhưng tất cả đều được đánh giá cao bởi phẩm
chất của họ.
Kim Lân là một nhà văn có tình yêu và sự trung thành đối với đất, nhân dân và phong cách sống nông thôn
nguyên thủy. Trong tác phẩm "Vợ nhặt", ông đã diễn tả cuộc sống, số phận và cảnh ngộ của những con
người trong giai đoạn khó khăn của nạn đói năm Ất Dậu với hình ảnh người vợ nhặt mang trong mình khát
vọng sống giữa nỗi đau khổ. Với Nguyễn Minh Châu, anh là một nhà văn luôn tìm kiếm "hạt ngọc ẩn dấu
trong tâm hồn con người", mở đường cho sự đổi mới của văn học Việt Nam sau năm 1975. Trong tác phẩm
"Người đàn bà hàng chài", nhà văn khai thác chân thật hiện thực và con người từ góc độ trần thuật của
nghệ sĩ về người phụ nữ.
Trong tác phẩm Vợ Nhặt của nhà văn Kim Lân, nhân vật Thị được miêu tả như một người phụ nữ đói khát
cơm áo, sống trong hoàn cảnh nghèo khó và luộm thuộm. Cô có một gương mặt lấm lem và hình dáng bộ
ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, chỉ có tên là "Thị". Nhặt rác và nghe thấy những câu hát đang
vang lên, Thị lập tức đến và giúp Tràng đẩy xe bò. Cô không ăn trầu, thay vào đó lại thưởng thức bánh đúc
rồi cầm đũa quẹt ngang miệng và tấm tắc khen ngon. Mặc dù vẻ ngoài của Thị trông chao đảo, tuy nhiên,
tác giả đã cho nhân vật này có sự đỗi mới tích cực hơn, trong đó đói nghèo không phải là nguyên nhân của
tính cách xấu, tàn ác. Nhân vật Thị thật đáng thương khi cuộc hôn nhân đời cô chỉ bắt đầu với vài câu nói
được Tràng giọng đại, khiến cô quên mất sĩ diện, nghĩa hiệp và đức hạnh của mình, và cứ thế xà xuống ăn
hết bát bánh đúc, bỏ lại nguồn sông còn dang dở. Tất cả đều do cái đói khiến con người lạc lối, héo hon.
Khi Thị gặp Tràng, Thị luôn đóng vai trò một người phụ nữ nghiêm khắc và khó tính. Nhưng khi Thị trở
thành vợ Tràng và làm dâu trong gia đình, cô ta trở nên đảm đang và hiếu thảo. Thị đi theo Tràng về nhà
như đi tới một nơi cô có thể tìm được sự an toàn giữa cuộc khủng hoảng thức ăn. Trên con đường đến nhà
Tràng, cô Thị không còn đanh đá như trước đây nữa, mà thay vào đó là sự nhút nhát, dịu dàng. Khi bước
vào ngôi nhà mới, Thị có cảm giác như một nàng dâu mới, đôi mắt nhìn chằm chằm, dáng điệu khép nép và
câu chào lúng túng. Từ đó, Thị trở nên đảm đang và dịu dàng hơn cả, cô cùng mẹ chồng sửa sang nhà cửa,
dọn dẹp vườn tược và vui vẻ trong bữa ăn đơn giản nhưng đầy yêu thương. Thị kể cho mọi người nghe về
những người cướp kho thóc Nhật với hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng phấp phới. Đó là điều làm nhen nhóm ánh
sáng hy vọng cho tương lai, mở ra con đường đấu tranh vào Cách mạng. Thị dần hiểu và cảm nhận được
đầy đủ từ chữ "tình", với ý thức về trách nhiệm và bổn phận của mình. Dù đang gặp khó khăn trong cuộc
sống, tình cảm vẫn là trên hết vì nó giúp con người sống tự do, tạo nên chính mình và trở thành người.
Trong cuộc sống, người đàn bà hàng chài có thể coi nỗi khổ vận của mình như điều đương nhiên. Chị đã
chấp nhận để chồng đánh mình, chỉ yêu cầu rằng đánh phải ở trên bờ và không để con cái chứng kiến. Từ
đó, có thể thấy rằng lẽ đời đã chiến thắng và tạo nên dòng chảy cho Phùng và chánh án Đẩu hiểu rõ hơn về
thực tế cuộc sống. Tấm lòng yêu thương, nhân hậu bao dung và vị tha của người đàn bà hàng chài được
chứa đựng trong niềm tin đơn giản và vững chắc rằng ông trời sinh ra người đàn bà để mang thai và sinh
con, sau đó nuôi dưỡng chúng cho đến khi trưởng thành. Bằng cách đó, phải gánh chịu mọi khó khăn và nỗi
đau, chị cảm nhận được hạnh phúc nhỏ bé trong cuộc sống. Qua nhân vật của người đàn bà hàng chài, tác
giả Nguyễn Minh Châu khẳng định rằng gian nan không thể làm mất đi tấm lòng yêu thương, sự bao dung
và vị tha trong người phụ nữ. Với họ, một gia đình hạnh phúc là một gia đình đầy đủ tất cả thành viên của
nó, dù cho mỗi người trong số họ vẫn có những tính cách chưa hoàn thiện.
Hai nhà văn sáng tác với hai ngòi bút khác nhau và hai cá tính khác nhau. Tuy nhiên, khi viết về hai người
phụ nữ trong những bối cảnh khác nhau, cả hai đều đặt ngòi bút vào trái tim để tìm, phát hiện và tôn vinh
những người phụ nữ đó trong số khổ cực và nghèo đói. Họ đã trở thành những cái tên không tên, nhưng lại
tạo ra những tác phẩm nghệ thuật đầy ý nghĩa. Bằng vẻ đẹp của họ, họ thể hiện một niềm tin vào phẩm
chất của con người, ngay cả khi đối diện với hoàn cảnh đáng trách nhất.
Leonit Leonop từng nói rằng "Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội
dung". Điều này đúng, mỗi nhà văn đều đặt nhân vật của mình trong các tình huống khác nhau để thể hiện
sự sáng tạo và ý nghĩa riêng của họ. Kim Lân đã chọn bối cảnh nạn đói để thể hiện khát vọng sống mạnh
mẽ, con người xứng đáng với cuộc sống tốt đẹp nhưng chìm trong nghèo đói. Ngược lại, Nguyễn Minh
Châu xây dựng hình tượng người phụ nữ trong một xã hội lạc hậu sau năm 1975, với sự thấu hiểu sâu sắc
về cuộc sống và tình yêu thương sau cuộc chiến, trong khi nghèo đói và kết cục vẫn chưa thay đổi.
Hai nhà văn đã rất thành công trong việc tạo dựng những nhân vật sống động và đặt trái tim của mình vào
những câu chuyện để hiểu, chia sẻ và cảm thông với những cơn đau khổ của cuộc đời trong xã hội. Họ là
những nhà văn chân chính và tác phẩm của họ như Aimatop đã khẳng định rằng "Tác phẩm chân chính
không chỉ kết thúc ở trang cuối cùng, nó có thể tiếp tục kể câu chuyện về các nhân vật mãi mãi. Tác phẩm
ấy sẽ đi vào tâm hồn của người đọc, tiếp tục sống và hành động như một lực lượng nội tâm, như sự dằn vặt
và ánh sáng của lương tâm, không bao giờ tàn tạ như thi ca của sự thật."
| 1/4

Preview text:

So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài hay nhất
1. Dàn ý so sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài chi tiết nhất: 1.1 Mở Bài
Kim Lân là một nhà văn nổi tiếng với các tác phẩm miêu tả cuộc sống của người dân nông thôn và những
nông dân chất phác, hiền lành. Trong tác phẩm "Vợ nhặt," ông đã diễn tả tốt vẻ đẹp và khát vọng sống
mãnh liệt của người vợ nhặt trong thời kỳ khó khăn của đói năm Ất Dậu.
Nguyễn Minh Châu là một trong những tác giả hàng đầu đổi mới văn học Việt Nam sau năm 1975. Tác
phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" từ góc nhìn của nhân vật Phùng - một nghệ sĩ trên hành trình khai phá nghệ
thuật - đã giúp tái hiện hiện thực và con người với những khám phá mới mẻ. Tác phẩm còn phát hiện ra vẻ
đẹp của người đàn bà hàng chài, tạo nên một thành công đáng kể. 1.2 Thân bài
1. Nhân vật người vợ nhặt
– Giới thiệu chung: Tuy không miêu tả thật nhiều nhưng nhân vật người vợ nhặt vẫn là một trong ba nhân
vật quan trọng của tác phẩm. Nhân vật này được khắc họa sống động, theo lối đối lập giữa bề ngoài và bên
trong, ban đầu và về sau.
– Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu:
+ Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng là một lòng ham sống mãnh liệt. (dẫn chứng)
+ Phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáng, lại là một người hiểu biết, ý tứ.(dẫn chứng)
+ Bên trong vẻ chao chát, cong cớn, chỏng lỏn lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan. (dẫn chứng)
2. Nhân vật người đàn bà hàng chài
– Giới thiệu chung: Là nhân vật chính, có vai trò quan trọng với việc thể hiện tư tưởng của tác phẩm. Nhân
vật này được khắc họa sắc nét, theo lối tương phản giữa bên ngoài và bên trong, giữa thân phận và phẩm chất.
– Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu.
+ Bên trong ngoại hình xấu xí, thô kệch là một tấm lòng nhân hậu, vị tha, độ lượng, giàu đức hi sinh. (dẫn chứng)
+ Phía sau vẻ cam chịu, nhẫn nhục vẫn là một người có khát vọng hạnh phúc, can đảm, cứng cỏi. (dẫn chứng)
+ Phía sau vẻ quê mùa, thất học lại là một người phụ nữ thấu hiểu, sâu sắc lẽ đời. (dẫn chứng) 3. So sánh
Nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật:
– Tương đồng: Cả hai nhân vật đều là những thân phận bé nhỏ, nạn nhân của hoàn cảnh. Những vẻ đẹp
đáng trân trọng của họ đều bị đời sống cơ cực lam lũ làm khuất lấp. Cả hai đều khắc họa bằng những chi tiết chân thực…
– Khác biệt: Vẻ đẹp được thể hiện ở nhân vật người vợ nhặt chủ yếu là phẩm chất của một nàng dâu mới,
hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh, trong nạn đói thê thảm. Vẻ đẹp được khắc sâu ở nhân vật
người đàn bà hàng chài là những phẩm chất của một người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các chi
tiết đầy kịch tính, trong tình trạng bạo lực gia đình…
4. Lí giải sự khác biệt
–Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển, biến đổi từ thấp đến cao (cảm
hứng lãng mạn), trong khi đó người đàn bà hàng chài lại tĩnh tại, bất biến như một hiện thực nhức nhối
đang tồn tại (cảm hứng thế sự – đời tư trong khuynh hướng nhận thức lại)
– Sự khác biệt giữa con người giai cấp (Vợ nhặt) với quan niệm con người đa dạng phúc tạp (Chiếc thuyền
ngoài xa) đã tạo ra sự khác biệt này. 1.3 Kết bài
– Đánh giá giá trị nội dung và nghệ thuật
2. So sánh người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài.
Những người phụ nữ Việt Nam có phẩm chất cao quý đã trở thành từ đề tài thơ ca và câu văn trong nhiều
tác phẩm. Những hình ảnh như người vợ nhặt trong Vợ Nhặt của Kim Lân (1962) và người đàn bà hàng
chài của Nguyễn Minh Châu vẫn luôn gợi lại sự kiên cường, bất khuất, trung hậu và đảm đang của trái tim
những người phụ nữ này. Tuy cuộc đời của họ khác nhau, nhưng tất cả đều được đánh giá cao bởi phẩm chất của họ.
Kim Lân là một nhà văn có tình yêu và sự trung thành đối với đất, nhân dân và phong cách sống nông thôn
nguyên thủy. Trong tác phẩm "Vợ nhặt", ông đã diễn tả cuộc sống, số phận và cảnh ngộ của những con
người trong giai đoạn khó khăn của nạn đói năm Ất Dậu với hình ảnh người vợ nhặt mang trong mình khát
vọng sống giữa nỗi đau khổ. Với Nguyễn Minh Châu, anh là một nhà văn luôn tìm kiếm "hạt ngọc ẩn dấu
trong tâm hồn con người", mở đường cho sự đổi mới của văn học Việt Nam sau năm 1975. Trong tác phẩm
"Người đàn bà hàng chài", nhà văn khai thác chân thật hiện thực và con người từ góc độ trần thuật của
nghệ sĩ về người phụ nữ.
Trong tác phẩm Vợ Nhặt của nhà văn Kim Lân, nhân vật Thị được miêu tả như một người phụ nữ đói khát
cơm áo, sống trong hoàn cảnh nghèo khó và luộm thuộm. Cô có một gương mặt lấm lem và hình dáng bộ
ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, chỉ có tên là "Thị". Nhặt rác và nghe thấy những câu hát đang
vang lên, Thị lập tức đến và giúp Tràng đẩy xe bò. Cô không ăn trầu, thay vào đó lại thưởng thức bánh đúc
rồi cầm đũa quẹt ngang miệng và tấm tắc khen ngon. Mặc dù vẻ ngoài của Thị trông chao đảo, tuy nhiên,
tác giả đã cho nhân vật này có sự đỗi mới tích cực hơn, trong đó đói nghèo không phải là nguyên nhân của
tính cách xấu, tàn ác. Nhân vật Thị thật đáng thương khi cuộc hôn nhân đời cô chỉ bắt đầu với vài câu nói
được Tràng giọng đại, khiến cô quên mất sĩ diện, nghĩa hiệp và đức hạnh của mình, và cứ thế xà xuống ăn
hết bát bánh đúc, bỏ lại nguồn sông còn dang dở. Tất cả đều do cái đói khiến con người lạc lối, héo hon.
Khi Thị gặp Tràng, Thị luôn đóng vai trò một người phụ nữ nghiêm khắc và khó tính. Nhưng khi Thị trở
thành vợ Tràng và làm dâu trong gia đình, cô ta trở nên đảm đang và hiếu thảo. Thị đi theo Tràng về nhà
như đi tới một nơi cô có thể tìm được sự an toàn giữa cuộc khủng hoảng thức ăn. Trên con đường đến nhà
Tràng, cô Thị không còn đanh đá như trước đây nữa, mà thay vào đó là sự nhút nhát, dịu dàng. Khi bước
vào ngôi nhà mới, Thị có cảm giác như một nàng dâu mới, đôi mắt nhìn chằm chằm, dáng điệu khép nép và
câu chào lúng túng. Từ đó, Thị trở nên đảm đang và dịu dàng hơn cả, cô cùng mẹ chồng sửa sang nhà cửa,
dọn dẹp vườn tược và vui vẻ trong bữa ăn đơn giản nhưng đầy yêu thương. Thị kể cho mọi người nghe về
những người cướp kho thóc Nhật với hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng phấp phới. Đó là điều làm nhen nhóm ánh
sáng hy vọng cho tương lai, mở ra con đường đấu tranh vào Cách mạng. Thị dần hiểu và cảm nhận được
đầy đủ từ chữ "tình", với ý thức về trách nhiệm và bổn phận của mình. Dù đang gặp khó khăn trong cuộc
sống, tình cảm vẫn là trên hết vì nó giúp con người sống tự do, tạo nên chính mình và trở thành người.
Trong cuộc sống, người đàn bà hàng chài có thể coi nỗi khổ vận của mình như điều đương nhiên. Chị đã
chấp nhận để chồng đánh mình, chỉ yêu cầu rằng đánh phải ở trên bờ và không để con cái chứng kiến. Từ
đó, có thể thấy rằng lẽ đời đã chiến thắng và tạo nên dòng chảy cho Phùng và chánh án Đẩu hiểu rõ hơn về
thực tế cuộc sống. Tấm lòng yêu thương, nhân hậu bao dung và vị tha của người đàn bà hàng chài được
chứa đựng trong niềm tin đơn giản và vững chắc rằng ông trời sinh ra người đàn bà để mang thai và sinh
con, sau đó nuôi dưỡng chúng cho đến khi trưởng thành. Bằng cách đó, phải gánh chịu mọi khó khăn và nỗi
đau, chị cảm nhận được hạnh phúc nhỏ bé trong cuộc sống. Qua nhân vật của người đàn bà hàng chài, tác
giả Nguyễn Minh Châu khẳng định rằng gian nan không thể làm mất đi tấm lòng yêu thương, sự bao dung
và vị tha trong người phụ nữ. Với họ, một gia đình hạnh phúc là một gia đình đầy đủ tất cả thành viên của
nó, dù cho mỗi người trong số họ vẫn có những tính cách chưa hoàn thiện.
Hai nhà văn sáng tác với hai ngòi bút khác nhau và hai cá tính khác nhau. Tuy nhiên, khi viết về hai người
phụ nữ trong những bối cảnh khác nhau, cả hai đều đặt ngòi bút vào trái tim để tìm, phát hiện và tôn vinh
những người phụ nữ đó trong số khổ cực và nghèo đói. Họ đã trở thành những cái tên không tên, nhưng lại
tạo ra những tác phẩm nghệ thuật đầy ý nghĩa. Bằng vẻ đẹp của họ, họ thể hiện một niềm tin vào phẩm
chất của con người, ngay cả khi đối diện với hoàn cảnh đáng trách nhất.
Leonit Leonop từng nói rằng "Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội
dung". Điều này đúng, mỗi nhà văn đều đặt nhân vật của mình trong các tình huống khác nhau để thể hiện
sự sáng tạo và ý nghĩa riêng của họ. Kim Lân đã chọn bối cảnh nạn đói để thể hiện khát vọng sống mạnh
mẽ, con người xứng đáng với cuộc sống tốt đẹp nhưng chìm trong nghèo đói. Ngược lại, Nguyễn Minh
Châu xây dựng hình tượng người phụ nữ trong một xã hội lạc hậu sau năm 1975, với sự thấu hiểu sâu sắc
về cuộc sống và tình yêu thương sau cuộc chiến, trong khi nghèo đói và kết cục vẫn chưa thay đổi.
Hai nhà văn đã rất thành công trong việc tạo dựng những nhân vật sống động và đặt trái tim của mình vào
những câu chuyện để hiểu, chia sẻ và cảm thông với những cơn đau khổ của cuộc đời trong xã hội. Họ là
những nhà văn chân chính và tác phẩm của họ như Aimatop đã khẳng định rằng "Tác phẩm chân chính
không chỉ kết thúc ở trang cuối cùng, nó có thể tiếp tục kể câu chuyện về các nhân vật mãi mãi. Tác phẩm
ấy sẽ đi vào tâm hồn của người đọc, tiếp tục sống và hành động như một lực lượng nội tâm, như sự dằn vặt
và ánh sáng của lương tâm, không bao giờ tàn tạ như thi ca của sự thật."