So sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt | Văn mẫu lớp 12

So sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt để thấy tâm hồn người phụ nữ. Qua đó giúp chúng ta cảm nhận được ở hai nhân vật này có những điểm chung của người phụ nữ Việt Nam đồng thời mang những nét rất riêng và độc đáo. Mời bạn đọc đón xem!

Bài văn lp 12
So sánh nhân vt Th N và người v nht
Dàn ý so sánh nhân vt Th N và người v nht
I. M bài:
- Gii thiu kết qu v Nam Cao và Chí Phèo, Kim Lân và truyn ngn V nht.
- Khám phá riêng ca mi tác gi.
II.Thân bài:
1. Khám phá riêng ca Chí Phèo trong Nam Cao :
- Thân phn khn kh của người nông dân: Chí Phèo t đứa tr b rơi vơ,
không nhà ca, không h hàng thân thích, làm anh canh đin cho nhà Kiến
ri b đầy vào tù.
- B đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh, bị hu hoại nhân tính đến nhân hình,
b gt b ra ngoài xã hi loài ngưi, tr thành con qu d của làng Vũ Đi.
- Khi thc tnh nhân tính, Chí Phèo khao khát tr v cuc sống lương thiện,
nhưng bị hội làng Đi lnh lùng c tuyệt. Chí Phèo rơi vào bi kịch b c
tuyt quyền làm người dẫn đến cái chết đy bi phn.
- Qua Chí Phèo, Nam Cao xây dng một hình tượng hi ph biến nông
thôn Việt Nam trước Cách Mng, mt b phận người lao động lương thiện b
đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh hoá.
2. Khám phá riêng ca Kim Lân trong V nht
- Thân phn nghèo hèn ca m con Tràng (dân ng , nghèo túng, không lấy
ni vợ, dáng đi lòng khòng.. )
- Tình cnh thê thm của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945..
Cnh ng v Tràng ngi vêu bên kho thóc, mặt i cày m xt.. câu
chuyn nhặt được v ca Tràng và cảnh rước nàng dâu v nhà chồng đã phơi
bày s nghèo đói và thê thm.
3. Kết thúc ca hai tác phm
a. Khác nhau
-Truyện “Chí Phèo” bng cách lp li hình nh cái gạch đã xuất hin
phần đầu c phm khi nghe tin Chí Phèo chết, Th N nhìn ngang xung bng
trong đầu Th thoáng hin ra hình nh gch b không vắng ngưi qua
li.
- Còn truyện “Vợ nhặtkết thúc bng hình nh hiện lên trong đầu Tràng : đoàn
người đi phá kho thóc của Nhật cũng với c đỏ ca Vit Minh bay php phi.
Hình ảnh này đi lp vi hình nh v cuc sng thê thm của người nông n
được miêu t nhng phần trước ca thiên truyn.
b. Gii thích vì sao có s khác nhau.
- Do hoàn cnh sáng tác hoàn cnh lch s : “Chí Phèoviết trước Cách
Mng (viết năm 1940, in năm 1941) trong hoàn cảnh đêm tối ca XHVN
đương thời. Còn “V nht” viết sau năm 1945 khi quần chúng đã được CM gii
phóng.
- Chí Phèo thuộc khuynh ớng văn học CM t sau năm 1945 có kh năng
cn thiết phi ch ra chiều hướng phát trin tích cc ca đi sng XH.
- Kết thúc của Chí Phèo đầy ám nh góp phn to nên kết cu theo kiu vòng
tròn, th hin s bế tc ca s phận người nông dân, đồng thi cho thy hin
ng Chí Phèo vn tiếp tc tn ti trong hội cũ. Còn kết thúc “V nhặt” mở
ra một hướng gii thoát cho s phn các nhân vt, ch ra con đưng sng ca
người nông dân cho thy khi b đẩy vào nh trạng đói khát đường cng thì
những người nông dân nghèo kh s ớng đến cách mng.
4.Phân tích đặc sc, tư tưởng nhân đạo ca mi tác phm.
a. Của “Chí Phèo”
- T cáo ti ác ca hội cũ đẩy người nông dân lương thin vào tình trng tha
hoá, u manh hoá, hu hoi c nhân tính ln nhân hình của con người khi
tr v vi cuc sống lương thiện thì b xã hi lnh lùng c tuyt.
- T đó cất lên tiếng kêu khn thiết đòi quyn sng, quyền làm người ơng
thin cho những ngưi cùng kh thuc xã hi.
- Th hin nim tin bn chất ơng thiện của người lao động. Khẳng định
khát vọng lương thiện ca h ngay c khi b đẩy vào tình trạng lưu manh hoá.
Với “CPhèo”, Nam Cao nhà văn đng nh vi khát vọng lương thiện ca
con ngưi.
b. Của “Vợ nht”
- S cm thông vi tình trạng đói khổ cùng cc của người dân lao động như
nm bên b vc thm ca cái chết.
- Khẳng định bn cht tốt đẹp của người lao đng. Trong cảnh cng đường đói
khát, h vẫn cưu mang đm bọc ln nhau.
- Th hin khát vọng đầy tính nhân bn của con người. Khi b đẩy tới c
đường cng, người lao động vn không bao gi mt hết nim tin; vn khao khát
có mt mái ấm gia đình, khát khao v hnh phúc, h không nghĩ về cái chết
ch nghĩ về s sng.
II. Kết bài:
- Khẳng định li vn đề và nêu ý nghĩa.
So sánh nhân vt Th N và người v nht - Mu 1
Khi so sánh nhân vt Th N người v nht trong hai tác phm ln Chí Phèo
(Nam Cao) và V nht (Kim Lân), chúng ta s thấy được hình tượng người ph
n trong văn học Vit Nam t bao đời nay luôn là ch đề được nhiu nhà văn
hướng đến. D trong bt kì giai đoạn nào, mi nhà văn đều tìm tòi, khám phá
và dành nhiều trang văn của mình đ viết v người ph n.
th thy, tiêu biu và thành công nht khi viết v đề tài người ph n đó
hình nh người v nht ca Kim Lân và Chí Phèo ca Nam Cao. Khi so sánh
nhân vt Th N và người v nht, ta s thy hai nhân vt này có những điểm
chung của người ph n Việt Nam đồng thi mang nhng nt rt riêng và độc
đáo.
Kim Lân là nhà văn chuyên về nông thôn, những điều gn gũi, mc mc và
gin d, gn gũi với người nhân. Truyn ngn ”V nht” ca Kim Lân tái li
nạn đói thê thảm người nông n nước ta năm 1945, đồng thi th v đẹp tình
người sc sng diu h: b vc chết, h hướng sng, khát khao t m gia
đình thương yêu đm bc ln.
Nội dung nhân đạo sâu sc cảm động th hin qua tình tiết truyện độc đáo, cách
k chuyn hp dn, miêu t m tinh tế, dng đối thoại sinh động. Không ch
thành công vi nhân vt Tràng, tác phm còn đ lại người đọc nhiu suy nghĩ,
trăn trở đối vi nhân vt Th. Thông qua nhân vt Th, ta càng thu hiu và cm
thông hơn tình cnh ca ngưi ph n giai đoạn trưc cách mng tháng Tám.
Song song cng vi Th, Th N ca Nam Cao cũng có mt s phn bt hnh
không km. Nam Cao là nhà văn hiện thc xut sc trước Cách mng tháng
Tám. Tác phm Chí Phèo nói lên s phn bi thm của ngưi nông dân nghèo
mà đầy lương thiện đã bị xã hi thc dân phong kiến xô đẩy vào con đường lưu
manh, ti li không c li thoát. Th N là mt trong nhng nhân vt trung tâm
ca tác phm, góp phn th hiện tư tưởng nhân đạo ca tác gi.
Nhà văn người song hành trong cuc tìm kiếm v đẹp khut lp ấy để trân
trng, nâng niu cm thông vi nhng ni thng kh ca nhân vt. Vy nên
khi so sánh nhân vt Th và người v nht ta s hiểu đồng thi khai thác và
phân tích r nt hơn số phn cũng như nt đp tâm hn của ngưi ph n hai
thi kì khác nhau.
Khi so sánh nhân vt Th N và ngưi v nht, ta s thy hai nhân vt này
đều có một điểm chung đó là c hai đu có s phn bt hnh, có nhng bi kch
riêng ca đi mình.
Trưc hết, v nhân vt Th trong tác phm v nht, Th là một người con gái c
s phn bt hnh. Th sng trong thi kì nạn đói đang tràn v khp xóm ng cư.
Cái đói qua ngòi bút ca Kim Lân khiến chúng ta kinh hãi trước “xác người
chết đói ngập đầy đường”, “người lớn xanh xám như những bóng ma”, “không
khí vn lên mùi hôi của rác rưi và mùi gây của xác người”, từng n lạnh trước
“tiếng qu kêu gào thm thiết”.
Không ch vy, sn sàng theo không Tràng v nhà ch qua vài câu nói bông
đa, sn sàng theo một người mà chng biết r nhà ca h như thế nào. Th
theo Tràng vì đơn gin thì khát khao đưc sng, khao khát mưu cầu hnh phúc.
Chết đói điều cm chc, vy Th cần nơi nương tựa để khi chết đói.
Đây cũng là nhng khao khát rt bình d ca tt c mọi ngưi.. Bn cht tốt đẹp
của người con gái đã bị nạn đói, cái đói khng khiếp cướp mất đi, che lấp đi.
thật đáng thương! Một người đàn nghèo khổ, không còn th giá tr đi
cnh mt người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng một đôi trời sinh.Tưng
chng Th một ngưi ph n táo bạo duyên nhưng thực cht cũng
cùng e l và suy nghĩ như một ngưi ph n.
Không ch riêng Th mà Th N trong tác phm Chí Phèo ca Nam Cao cũng
có s phn bt hnh không km. Th N người đàn xấu xí, d hơi, lại
thuc ng h nhà hi. Trong con mt ca người dân làng Đi, th
người đáng bỏ đi. Th N nghèo, cái nghèo đeo bám. Cả làng Đại ai cũng
biết đến Th bi ngoi hình thô kch gia cnh nghèo. Th đã phải đi gánh
nước thuê đ kiếm sng qua tng ngày.
Th cũng như Chí Phèo, không được ai yêu thương. phải chăng n sâu n
v ngoài thô kch kia là mt trái tim m nóng, đang từng ngày khao khát u
và được u. Và có l, bt hnh nht đời người là b c xã hi chi b, c
i.
So sánh nhân vt Th N và người v nht, ta không ch thy s phn bt hnh
ca h mà qua đó ta còn thấy đưc rt nhiều điều tốt đẹp hai nhân vt này mà
ngòi bút tài tình ca nhà văn đã th hiện được.
Đằng sau v rách rưi, xu xí ca hai nhân vt này là mt khát vng sng mnh
lit. Nhân vt th n đưc khc họa qua đêm gặp Chí Phèo, qua chi tiết bát
cháo hành, qua tng c ch ân cn li hỏi thăm dành cho Chí. l đây
đoạn văn thấm đẫm tình yêu thương, là v đẹp gia những con ngưi cùng cc,
bế tc trong xã hi.
Th thương Chí, một tình thương xuất phát t trái tim vi lòng cm thông u
sc, không toan tính và v li. Ch đơn giản đó tình yêu. Chí Phèo con qu
làng Vũ Đại, nhưng hắn cũng là người, cũng cần được yêu thương. Cả cuộc đời
này, hn cn Th người đàn bà mang đến s m áp…
Đối vi Th, d dã Trong “Vợ nhặt” của Kim Lân, ngưi v nhặt cũng vậy, th
theo Tràng v chẳng qua cũng muốn m mt mái m gia đình, một nơi đưc
bao bọc trong tình yêu thương. Thị đã khơi dy Tràng hình nh c đỏ bay
php phới đám người đói đi phá kho thóc ca Nht- đó minh chứng
nht cho khát vng sng, khát vng hạnh phúc đang rực cháy trong tâm hn
th.
Th N chính hin thân cho s khao khát tình yêu đôi lứa dung d, chân
thành đầy mãnh liệt. Đây chính tình cm Chí vn luôn khát khao
nhưng lại không có đưc.
Người đọc đã nhiều ám nh vi nhân vt Th N ca tác gi bi ngòi
bút “ngh thut v nhân sinh” này. Giá tr nhân văn của thiên truyn chính
tm lòng v tha, yêu thương và đng cảm mà Nam Cam đã chăm chút dành cho
nhân vt ca mình.
Còn vi nhân vật người v nht, cũng là hin thân của người ph n Vit
Nam a. D có v ngoài xu xí, kch cm, tl nhưng là một người v
hin hậu đúng mực, thương chồng và llà một người con dâu l php, biết điều
và sn sàng vun đắp xây dựng gia đình d người chng y chng có gì trong
tay. Đây chính là nhng nt đp rt tiêu biu ca ngưi ph n Vit Nam.
V đẹp con người không phi ngoi hình, li nói hành động, c ch,
cách h đối đãi với người khác. Nhng phm chất đáng quý đó không phải ai
cũng thấy được, chúng ta phi biết nhìn, thu hiu, khám phá bn cht thc s
bên trong. Vy nên khi so sánh nhân vt Th N và người v nht, ta s thy c
th nhng phm cht y.
c hai tác phẩm đu mang những thông điệp hết sức nhân văn, thể hin giá
tr nhân đạo và giá tr hin thc ca tác phm. Cùng tìm hiu v nhng giá tr ý
nghĩa trong hai tác phm này:
Khi so sánh nhân vt Th N và ngưi v nht, ta s thy hai nhân vt này
chính là tinh thần nhân đạo mà nhà văn đã gi gm. Nhà văn đã cm thông vi
s phận đau khổ ca những con người nh bé, bt hnh. T o các thế lc gây
ra đau khổ cho con ni. Phát hin, khám phá và ngi ca v đẹp tim n trong
những con người bt hạnh đồng thời Đấu tranh cho khát vng chân chính, tt
đẹp của con người.
Không ch có giá tr hin thc, thông qua hai nhân vt này tác gi còn t cáo
hin thc xã hi lúc by gi. Nhà văn đã phơi bày chân thực, sâu sc cuc sng
cực, ni kh v vt cht hay tinh thn ca những con người nh, bt
hnh.Vi mi tác phm c th, giá tr hin thực đều được biu hin c th
đầy tính đa dạng. T đó th hin cái nhìn sâu sc ca nhà văn đi vi nhân vt
ca mình.
Như vậy qua bài so sánh nhân vt Th N và ngưi v nht ,chúng ta đã hiu
được r nt hơn số phn cũng như vẻ đẹp tim n ca hai nhân vt này. Để t
đó ta có cái nhìn cảm thông hơn đối vi s phn của ngưi ph n Vit Nam
lúc by gi.
So sánh nhân vt Th N và người v nht - Mu 2
Ph na Việt Nam xưa thưng phi chu nhiều định kiến cũng như phải chu
nhiều đau thương của hội cũng như chiến tranh. Nhn vt Th N nhân
người v nhặt đều những người ph na phi chu nhng đau thương mất
mát mà xã hội cũ và chiến tranh gây ra cho h.
V Tràng người đàn không r lai lịch, không gia đình, không nhà
ca. ta thm chí không tên khi xut hiện lúc được gi th, ,
lúc là người đàn bà. Ch có bà c T xem v Tràng là nàng dâu, con dâu, là con
đưc Tràng gọi nhà tôi thôi. Trước khi v nhà c T, ta cùng
vi my ch con gái ngi vêu ra cửa nkho thóc Liên đoàn ch nht hạt rơi,
ht vãi, hay ai công vic gọi đến thì làm. Trong nạn đói hồi y, thân phn
con ngưi tht r rúng. Đâu phải v Tràng mới ngưi không tên, không tui,
còn biết bao ch gái như thế.
Khi mi gp Tràng,Th người đanh đá, táo bạo ti mc tr n trơ trn.
Nghe anh chàng phu xe một câu cho đỡ nhc (Muốn ăn cơm trắng my giò
này. Lại đây đẩy xe vi anh nì), th đã cong cớn bám ly rồi vng đứng
dy, ton ton chy lại đẩy xe cho Tràng. Gp ln th hai, khi Tràng va tr hàng
xong, th đâu xầm xm chạy đến. Th đứng trước mặt xưng xỉa nói: Điêu!
Ngưi thế điêu! Khi thấy anh Tràng v d bt chot, th tiếp tc cong
cn. Thy miếng ăn, hai con mắt trũng hoáy của th tc thì sáng lên ri th
ngi xuống ăn như chết đói. Thị cắm đầu ăn một chp bốn bát bánh đúc lin
chng chuyện trò gì. Ăn xong, thị cm dọc đôi đũa quệt ngang ming khen
ngon.Phải chăng đấy tính cách cn của người đàn này? Không, từ đầu
đến lúc theo Tràng v nhà, người ph n ấy hành động hoàn toàn theo bn
năng của mình. Th làm tt c ch để có đưc miếng ăn.
Khi đã chấp nhn làm v của Tràng,trên con đuờng tr v nhà ca Tràng, th
thay đổi hn. Trong khi Tràng mt mt v hn h khác thường, hay tm
tỉm i mt mình hai mt thì sáng lên lp lánh, thì th lại đi sau hắn chng
ba bn chục thước, cp cái thúng con, cái nón tàng nghiêng nghiêng che khut
đi nửa khuôn mt. Th v rón rén, e thn. ràng so với người đàn mới
ban trưa, bây giờ th đã một con người khác. Ban trưa, lúc ngoài ch, th
sn s, cong cn để được ăn, còn bây giờ, th đang về nhà chng. V li, th bt
đầu ý thc v thân phn của mình, người v theo không. ra, th chng
chút quyn uy nào, k c quyn la chọn và đành chp nhn thun theo s phn
khi đã đến bước đưng cùng.
Tuy nhiên, c đấm ăn xôi đi nữa, th vẫn người ý thc v giá tr ca
bản thân. Trên đưng v nhà chng, khi anh Tràng lấy làm thích thú tc cnh
trẻ con chc gho, thì th v rt khó chu lắm, đôi lông mày nhíu lại, đưa
tay lên xóc li áo. Tr con nghch ngm chc ghẹo còn được, đằng này đến
người lớn cũng tò mò, thị càng ngượng xu h, chân n díu c vào chân kia.
Anh Tràng đến là vô tư, cứ ly v vy làm thích thú. Th càu nhàu trong ming
lầm lũi đi đến nỗi đi nhầm đường. Th mong sớm đến nhà “chồng” để tránh
s dòm ngó ca mọi người xung quanh.
V nhà ca Tràng, th càng khác hơn. Người đàn bày có cái tò mò bn ln ca
nàng dâu mi. Th đảo mt nhìn chung quanh. Qu là nghèo quá, ngheo xơ xác.
Th nén tiếng th dài. Anh Tràng mun v mình được t nhin, c gic v ngi,
nhưng thị ch dám ngi mm xuống mp giưng. Khi c T về, người đn
y ch động chào bằng u. Trước mặt ngưi m chng, th càng rt s
st, vẫn đứng nguyên ch cũ, khẽ nhúc nhích. Chính thái đọ y cùng hoàn cnh
ca th đã khiến bà c T , trái vi s dò xt thông thưng ca những người m
chồng đối vi nàng dâu, nhìn th lòng đầy thương xót. nhanh chóng đón
nhn th dâu ch mấy phút trước đó cả hai đều hoàn toàn xa l.Sáng ngày
hôm sau, th đã tr thành người v đảm đang. Cng vi c T, th thc dy
sm, lo dn dp nhà cửa, qut tước sân vườn sch sẽ. Người tâm như anh
Tràng vn nhn ra s thay đổi k l con người th. Tràng nom th hôm nay
khác lm, r ràng người đàn hin hậu đúng mực không v chao chát
chng lỏn như mấy ln gp ngoài ch tnh. Không nhng thế, th còn t ra
người biết tu clàm ăn. Khi thị hi c T v tiếng trng ồn ã ngoài đình
biết đó tiếng trng thúc thuế, th đã khe khẽ th dài. Ri chính th người
đầu tiên k cho c nhà nghe chuyn trên mn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta
không chịu đóng thuế na mà đi phá kho thóc Nht, chia cho người đói.
Câu chuyn y khiến Tràng ân hn và tiếc r khi nh lại mình đã từng có cơ hi
làm như thế chng làm. Ai biết rồi đây, để chăm lo cho cuộc sống gia đình
của mình, người ph n này khi c gan hơn cả anh cu Tràng! Bữa cơm
nghèo bui sáng hôm y, th cũng như cụ T và anh Tràng đều thy mt ni
ti hn len vào tâm trí mình khi phi c nut nhng miếng cám đắng chát
nghn b trong c. Song, th cũng như hai m con Tràng, đu c tránh nhìn mt
nhau, đều không muốn làm người khác phi bun tủi hơn. Phải ý nh lm, phi
tinh tế đến nhường nào mới có thái độ ng x đầy chất nhân văn tinh tế như
vy.
Hoá ra cái đanh đá, tr trẽn trước kia người đàn Tràng ly làm v chng
qua là do đói do khát mà ra. Khi đưc sống trong tình thương, trong mái m gia
đình, người đàn ấy đã sống vi bn cht tốt đẹp vn ca mình, ca mt
người ph n Vit Nam
Xây dng nhân vt Th N xu không phi nhà văn muốn bôi bác ngưi ph
n Việt Nam, ngưc li, tác gi chính muốn nói đến v đẹp sâu thm
trong tâm hn ca h, mc hình hài ca h phn xu xí. Th N thì
xu tht "cái mt ca th thc là mt s ma mai ca hóa công: Nó ngắn đến ni
b ngang hơn b dài, thế hai li hóp o mi tht tai hi, nếu
hai phinh phính thì mt th lại còn được hao hao như mặt ln...Cái mũi
thì va ngn, va to, vừa đỏ, va sần si như vỏ cam sành..." Vi nhng dòng
miêu t đầy chân thực như thế này, người đọc cảm tưởng c trong văn học
lẫn ngoài đi thc thì không ai có th xấu hơn Th N được nữa. "Đã thế th
li d hơi...Và thị li nghèo...Và th li dòng ging ca mt nhà m hi...".
Thế nên, Th N không chồng "ngưi ta tránh th như tránh một con vt
rt tm".
Vy Th N li tình cm vi Chí Phèo - con qu của làng Đại ai
ai cũng xa lánh. Có l đây cũng là một dng ý của nhà văn Nam Cao khi để cho
mt k d hơi xấu mt k cng đường lưu manh đến vi nhau yêu
nhau. Chính tình yêu y đã làm thc tnh nhng v đẹp trong sâu thm tâm hn
con ngưi.
Th t một người đàn xấu xí d hơi đã tr thành một người ph n biết quan
tâm và lo lắng cho người khác: "Mình b hn lúc này thì cũng bạc. Du sao
cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như vợ chồng...Đêm qua thổ trn
y tht phi biết. C gi hôm nay nhọc đừ. Phi cho hắn ăn mới được.
Đang m thế thì ch ăn cháo hành. Ra đưc m hôi thì là nh nhm người ngay
đó mà...". Không những thế, khi Th t tay nu cháo rồi đem đến cho Chí Phèo,
Th đã coi đó là người đàn ông của đời mình cho nên hết sc lo lắng thương
yêu. Ánh mt n i toe toét ca Th ng chừng như rất duyên nhưng
kì thc nó li khiến cho Chí cm thy Th tht có duyên.
Bát cháo hành Th n mang sang cùng nhng quan tâm Th dành cho
Chí đã khiến cho hn thc s xúc động. Hắn nghĩ đến những ưc thi trai
tr, hắn ăn n hối hn v nhng việc nh đã m. Chính thế hn mun
được tr lại làm người lương thiện, mun sng mt cuộc đời bình d hnh
phúc vi Th N. th nói tình yêu của người đàn d xấu nhưng vn
th khiến cho con người ta rung động. Không nhng thế, l, c làng Đại
không ai th cảm hóa được con qu d Chí Phèo, vy mà ch một người ph
n xu xí, d hơi bằng tình yêu chân thành ca mình li có th làm được.
Qu thật Nam Cao đã rất thành công khi xây dng hình nh con qu làng
Đại còn thành công hơn nữa khi xây dng nhân vt Th N - ngưi ph
n đầy tình thương yêu bao dung đã đánh thc phần con người lương thiện
trong Chí Phèo. Tình yêu của người đàn xấu tình yêu chân thành, xut
phát t trái tim, t lòng cm thông sâu sc, không v li cho nên nó là mt tình
yêu đẹp rất đáng trân trng. Th chính tia sáng, nim hy vng, cu
nối để Chí Phèo tr v làm người, sng vi cộng đồng. Mc sau này Chí
Phèo t kết liu đời mình thì nhân vt Th N chi tiết bát cháo hành vn
ý nghĩa to lớn đi vi mt cuộc đời, mt s phận. Để cho ngay c nhng k
cng đường, lc li vn biết hy vng v ơng lai tốt đẹp, vẫn khao khát được
sống và được yêu.
Người ph n Vit Nam nói chung hai nhân vt Th Th N nói riêng,
đồng thi khẳng định tài năng cng tư tưởng nhân đạo mà hai nhà văn thể hin.
| 1/11

Preview text:

Bài văn lớp 12
So sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt
Dàn ý so sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt I. Mở bài:
- Giới thiệu kết quả về Nam Cao và Chí Phèo, Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt.
- Khám phá riêng của mỗi tác giả. II.Thân bài:
1. Khám phá riêng của Chí Phèo trong Nam Cao :
- Thân phận khốn khổ của người nông dân: Chí Phèo từ đứa trẻ bỏ rơi bơ vơ,
không nhà cửa, không họ hàng thân thích, làm anh canh điền cho nhà Bá Kiến rồi bị đầy vào tù.
- Bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh, bị huỷ hoại nhân tính đến nhân hình,
bị gạt bỏ ra ngoài xã hội loài người, trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
- Khi thức tỉnh nhân tính, Chí Phèo khao khát trở về cuộc sống lương thiện,
nhưng bị xã hội làng Vũ Đại lạnh lùng cự tuyệt. Chí Phèo rơi vào bi kịch bị cự
tuyệt quyền làm người dẫn đến cái chết đầy bi phẫn.
- Qua Chí Phèo, Nam Cao xây dựng một hình tượng xã hội phổ biến ở nông
thôn Việt Nam trước Cách Mạng, một bộ phận người lao động lương thiện bị
đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh hoá.
2. Khám phá riêng của Kim Lân trong Vợ nhặt
- Thân phận nghèo hèn của mẹ con Tràng (dân ngụ cư, nghèo túng, không lấy
nổi vợ, dáng đi lòng khòng.. )
- Tình cảnh thê thảm của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945..
Cảnh ngộ và vợ Tràng ngồi vêu bên kho thóc, mặt lưỡi cày xám xịt.. câu
chuyện nhặt được vợ của Tràng và cảnh rước nàng dâu về nhà chồng đã phơi
bày sự nghèo đói và thê thảm.
3. Kết thúc của hai tác phẩm a. Khác nhau
-Truyện “Chí Phèo” bằng cách lặp lại hình ảnh cái lò gạch cũ đã xuất hiện ở
phần đầu tác phẩm khi nghe tin Chí Phèo chết, Thị Nở nhìn ngang xuống bụng
và trong đầu Thị thoáng hiện ra hình ảnh lò gạch bỏ không và vắng người qua lại.
- Còn truyện “Vợ nhặt” kết thúc bằng hình ảnh hiện lên trong đầu Tràng : đoàn
người đi phá kho thóc của Nhật cũng với lá cờ đỏ của Việt Minh bay phấp phới.
Hình ảnh này đối lập với hình ảnh về cuộc sống thê thảm của người nông dân
được miêu tả ở những phần trước của thiên truyện.
b. Giải thích vì sao có sự khác nhau.
- Do hoàn cảnh sáng tác và hoàn cảnh lịch sử : “Chí Phèo” viết trước Cách
Mạng (viết năm 1940, in năm 1941) trong hoàn cảnh đêm tối của XHVN
đương thời. Còn “Vợ nhặt” viết sau năm 1945 khi quần chúng đã được CM giải phóng.
- Chí Phèo thuộc khuynh hướng văn học CM từ sau năm 1945 có khả năng và
cần thiết phải chỉ ra chiều hướng phát triển tích cực của đời sống XH.
- Kết thúc của Chí Phèo đầy ám ảnh góp phần tạo nên kết cấu theo kiểu vòng
tròn, thể hiện sự bế tắc của số phận người nông dân, đồng thời cho thấy hiện
tượng Chí Phèo vẫn tiếp tục tồn tại trong xã hội cũ. Còn kết thúc “Vợ nhặt” mở
ra một hướng giải thoát cho số phận các nhân vật, chỉ ra con đường sống của
người nông dân và cho thấy khi bị đẩy vào tình trạng đói khát đường cùng thì
những người nông dân nghèo khổ sẽ hướng đến cách mạng.
4.Phân tích đặc sắc, tư tưởng nhân đạo của mỗi tác phẩm.
a. Của “Chí Phèo”
- Tố cáo tội ác của xã hội cũ đẩy người nông dân lương thiện vào tình trạng tha
hoá, lưu manh hoá, huỷ hoại cả nhân tính lẫn nhân hình của con người và khi
trở về với cuộc sống lương thiện thì bị xã hội lạnh lùng cứ tuyệt.
- Từ đó cất lên tiếng kêu khẩn thiết đòi quyền sống, quyền làm người lương
thiện cho những người cùng khổ thuộc xã hội.
- Thể hiện niềm tin và bản chất lương thiện của người lao động. Khẳng định
khát vọng lương thiện của họ ngay cả khi bị đẩy vào tình trạng lưu manh hoá.
Với “Chí Phèo”, Nam Cao là nhà văn đồng tình với khát vọng lương thiện của con người.
b. Của “Vợ nhặt”
- Sự cảm thông với tình trạng đói khổ cùng cực của người dân lao động như
nằm bên bờ vực thẳm của cái chết.
- Khẳng định bản chất tốt đẹp của người lao động. Trong cảnh cùng đường đói
khát, họ vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau.
- Thể hiện khát vọng đầy tính nhân bản của con người. Khi bị đẩy tới bước
đường cùng, người lao động vẫn không bao giờ mất hết niềm tin; vẫn khao khát
có một mái ấm gia đình, khát khao về hạnh phúc, họ không nghĩ về cái chết mà chỉ nghĩ về sự sống. II. Kết bài:
- Khẳng định lại vấn đề và nêu ý nghĩa.
So sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt - Mẫu 1
Khi so sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt trong hai tác phẩm lớn Chí Phèo
(Nam Cao) và Vợ nhặt (Kim Lân), chúng ta sẽ thấy được hình tượng người phụ
nữ trong văn học Việt Nam từ bao đời nay luôn là chủ đề được nhiều nhà văn
hướng đến. Dù trong bất kì giai đoạn nào, mỗi nhà văn đều tìm tòi, khám phá
và dành nhiều trang văn của mình để viết về người phụ nữ.
Có thể thấy, tiêu biểu và thành công nhất khi viết về đề tài người phụ nữ đó là
hình ảnh người vợ nhặt của Kim Lân và Chí Phèo của Nam Cao. Khi so sánh
nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt, ta sẽ thấy ở hai nhân vật này có những điểm
chung của người phụ nữ Việt Nam đồng thời mang những nét rất riêng và độc đáo.
Kim Lân là nhà văn chuyên về nông thôn, những điều gần gũi, mộc mạc và
giản dị, gần gũi với người nhân. Truyện ngắn ”Vợ nhặt” của Kim Lân tái lại
nạn đói thê thảm người nông dân nước ta năm 1945, đồng thời thể vẻ đẹp tình
người sức sống kì diệu họ: bờ vực chết, họ hướng sống, khát khao tổ ấm gia
đình thương yêu đùm bọc lẫn.
Nội dung nhân đạo sâu sắc cảm động thể hiện qua tình tiết truyện độc đáo, cách
kể chuyện hấp dẫn, miêu tả tâm lí tinh tế, dựng đối thoại sinh động. Không chỉ
thành công với nhân vật Tràng, tác phẩm còn để lại người đọc nhiều suy nghĩ,
trăn trở đối với nhân vật Thị. Thông qua nhân vật Thị, ta càng thấu hiểu và cảm
thông hơn tình cảnh của người phụ nữ giai đoạn trước cách mạng tháng Tám.
Song song cùng với Thị, Thị Nở của Nam Cao cũng có một số phận bất hạnh
không kém. Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trước Cách mạng tháng
Tám. Tác phẩm Chí Phèo nói lên số phận bi thảm của người nông dân nghèo
mà đầy lương thiện đã bị xã hội thực dân phong kiến xô đẩy vào con đường lưu
manh, tội lỗi không cố lối thoát. Thị Nở là một trong những nhân vật trung tâm
của tác phẩm, góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác giả.
Nhà văn là người song hành trong cuộc tìm kiếm vẻ đẹp khuất lấp ấy để trân
trọng, nâng niu và cảm thông với những nỗi thống khổ của nhân vật. Vậy nên
khi so sánh nhân vật Thị và người vợ nhặt ta sẽ hiểu đồng thời khai thác và
phân tích rõ nét hơn số phận cũng như nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ ở hai thời kì khác nhau.
Khi so sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt, ta sẽ thấy ở hai nhân vật này
đều có một điểm chung đó là cả hai đều có số phận bất hạnh, có những bi kịch riêng của đời mình.
Trước hết, về nhân vật Thị trong tác phẩm vợ nhặt, Thị là một người con gái cố
số phận bất hạnh. Thị sống trong thời kì nạn đói đang tràn về khắp xóm ngụ cư.
Cái đói qua ngòi bút của Kim Lân khiến chúng ta kinh hãi trước “xác người
chết đói ngập đầy đường”, “người lớn xanh xám như những bóng ma”, “không
khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi gây của xác người”, từng ớn lạnh trước
“tiếng quạ kêu gào thảm thiết”.
Không chỉ vậy, cô sẵn sàng theo không Tràng về nhà chỉ qua vài câu nói bông
đùa, sẵn sàng theo một người mà cô chẳng biết rõ nhà cửa họ như thế nào. Thị
theo Tràng vì đơn giản thì khát khao được sống, khao khát mưu cầu hạnh phúc.
Chết đói là điều cầm chắc, vì vậy Thị cần có nơi nương tựa để khỏi chết đói.
Đây cũng là những khao khát rất bình dị của tất cả mọi người.. Bản chất tốt đẹp
của người con gái đã bị nạn đói, cái đói khủng khiếp cướp mất đi, che lấp đi.
thật đáng thương! Một người đàn bà nghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi
cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi trời sinh.Tưởng
chừng Thị là một người phụ nữ táo bạo vô duyên nhưng thực chất cũng vô
cùng e lệ và suy nghĩ như một người phụ nữ.
Không chỉ riêng Thị mà Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao cũng
có số phận bất hạnh không kém. Thị Nở là người đàn bà xấu xí, dở hơi, lại
thuộc dòng họ nhà có hủi. Trong con mắt của người dân làng Vũ Đại, thị là
người đáng bỏ đi. Thị Nở nghèo, cái nghèo đeo bám. Cả làng Vũ Đại ai cũng
biết đến Thị bởi ngoại hình thô kệch và gia cảnh nghèo. Thị đã phải đi gánh
nước thuê để kiếm sống qua từng ngày.
Thị cũng như Chí Phèo, không được ai yêu thương. Và phải chăng ẩn sâu bên
vỏ ngoài thô kệch kia là một trái tim ấm nóng, đang từng ngày khao khát yêu
và được yêu. Và có lẽ, bất hạnh nhất đời người là bị cả xã hội chối bỏ, chê cười.
So sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt, ta không chỉ thấy số phận bất hạnh
của họ mà qua đó ta còn thấy được rất nhiều điều tốt đẹp ở hai nhân vật này mà
ngòi bút tài tình của nhà văn đã thể hiện được.
Đằng sau vẻ rách rưới, xấu xí của hai nhân vật này là một khát vọng sống mạnh
liệt. Nhân vật thị nở được khắc họa qua đêm gặp Chí Phèo, qua chi tiết bát
cháo hành, qua từng cử chỉ ân cần và lời hỏi thăm dành cho Chí. Có lẽ đây là
đoạn văn thấm đẫm tình yêu thương, là vẻ đẹp giữa những con người cùng cực, bế tắc trong xã hội.
Thị thương Chí, một tình thương xuất phát từ trái tim với lòng cảm thông sâu
sắc, không toan tính và vụ lợi. Chỉ đơn giản đó là tình yêu. Chí Phèo – con quỷ
làng Vũ Đại, nhưng hắn cũng là người, cũng cần được yêu thương. Cả cuộc đời
này, hắn cần Thị – người đàn bà mang đến sự ấm áp…
Đối với Thị, dù dã Trong “Vợ nhặt” của Kim Lân, người vợ nhặt cũng vậy, thị
theo Tràng về chẳng qua cũng vì muốn tìm một mái ấm gia đình, một nơi được
bao bọc trong tình yêu thương. Thị đã khơi dậy ở Tràng hình ảnh lá cờ đỏ bay
phấp phới và đám người đói đi phá kho thóc của Nhật- đó là minh chứng rõ
nhất cho khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc đang rực cháy trong tâm hồn thị.
Thị Nở chính là hiện thân cho sự khao khát tình yêu đôi lứa dung dị, chân
thành và đầy mãnh liệt. Đây chính là tình cảm mà Chí vốn luôn khát khao
nhưng lại không có được.
Người đọc đã có nhiều ám ảnh với nhân vật Thị Nở của tác giả bởi ngòi
bút “nghệ thuật vị nhân sinh” này. Giá trị nhân văn của thiên truyện chính là
tấm lòng vị tha, yêu thương và đồng cảm mà Nam Cam đã chăm chút dành cho nhân vật của mình.
Còn với nhân vật người vợ nhặt, cô cũng là hiện thân của người phụ nữ Việt
Nam xưa. Dù có vẻ ngoài xấu xí, kệch cỡm, thô lỗ nhưng cô là một người vợ
hiền hậu đúng mực, thương chồng và llà một người con dâu lễ phép, biết điều
và sẵn sàng vun đắp xây dựng gia đình dù người chồng ấy chẳng có gì trong
tay. Đây chính là những nét đẹp rất tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam.
Vẻ đẹp con người không phải ở ngoại hình, lời nói mà ở hành động, cử chỉ, ở
cách họ đối đãi với người khác. Những phẩm chất đáng quý đó không phải ai
cũng thấy được, chúng ta phải biết nhìn, thấu hiểu, khám phá bản chất thực sự
bên trong. Vậy nên khi so sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt, ta sẽ thấy cụ
thể những phẩm chất ấy.
Ở cả hai tác phẩm đều mang những thông điệp hết sức nhân văn, thể hiện giá
trị nhân đạo và giá trị hiện thực của tác phẩm. Cùng tìm hiểu về những giá trị ý
nghĩa trong hai tác phẩm này:
Khi so sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt, ta sẽ thấy ở hai nhân vật này
chính là tinh thần nhân đạo mà nhà văn đã gửi gắm. Nhà văn đã cảm thông với
số phận đau khổ của những con người nhỏ bé, bất hạnh. Tố cáo các thế lực gây
ra đau khổ cho con người. Phát hiện, khám phá và ngợi ca vẻ đẹp tiềm ẩn trong
những con người bất hạnh đồng thời Đấu tranh cho khát vọng chân chính, tốt đẹp của con người.
Không chỉ có giá trị hiện thực, thông qua hai nhân vật này tác giả còn tố cáo
hiện thực xã hội lúc bấy giờ. Nhà văn đã phơi bày chân thực, sâu sắc cuộc sống
cơ cực, nỗi khổ về vật chất hay tinh thần của những con người bé nhỏ, bất
hạnh.Với mỗi tác phẩm cụ thể, giá trị hiện thực đều được biểu hiện cụ thể và
đầy tính đa dạng. Từ đó thể hiện cái nhìn sâu sắc của nhà văn đối với nhân vật của mình.
Như vậy qua bài so sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt ,chúng ta đã hiểu
được rõ nét hơn số phận cũng như vẻ đẹp tiềm ẩn của hai nhân vật này. Để từ
đó ta có cái nhìn cảm thông hơn đối với số phận của người phụ nữ Việt Nam lúc bấy giờ.
So sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt - Mẫu 2
Phụ nữa Việt Nam xưa thường phải chịu nhiều định kiến cũng như phải chịu
nhiều đau thương của xã hội cũng như chiến tranh. Nhận vật Thị Nở và nhân
người vợ nhặt đều là những người phụ nữa phải chịu những đau thương mất
mát mà xã hội cũ và chiến tranh gây ra cho họ.
Vợ Tràng là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà
cửa. Cô ta thậm chí không có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả,
lúc là người đàn bà. Chỉ có bà cụ Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con dâu, là con
và được Tràng gọi là nhà tôi mà thôi. Trước khi về nhà bà cụ Tứ, cô ta cùng
với mấy chị con gái ngồi vêu ra ở cửa nhà kho thóc Liên đoàn chờ nhặt hạt rơi,
hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Trong nạn đói hồi ấy, thân phận
con người thật rẻ rúng. Đâu phải vợ Tràng mới là người không tên, không tuổi,
còn biết bao chị gái như thế.
Khi mới gặp Tràng,Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trở nên trơ trẽn.
Nghe anh chàng phu xe hò một câu cho đỡ nhọc (Muốn ăn cơm trắng mấy giò
này. Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì), thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng
dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Gặp lần thứ hai, khi Tràng vừa trả hàng
xong, thị đâu xầm xầm chạy đến. Thị đứng trước mặt mà xưng xỉa nói: Điêu!
Người thế mà điêu! Khi thấy anh Tràng có vẻ dễ bắt choẹt, thị tiếp tục cong
cớn. Thấy có miếng ăn, hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên rồi thị
ngồi sà xuống ăn như chết đói. Thị cắm đầu ăn một chạp bốn bát bánh đúc liền
chẳng chuyện trò gì. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng mà khen
ngon.Phải chăng đấy là tính cách cốn có của người đàn bà này? Không, từ đầu
đến lúc theo Tràng về nhà, người phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản
năng của mình. Thị làm tất cả chỉ để có được miếng ăn.
Khi đã chấp nhận làm vợ của Tràng,trên con đuờng trở về nhà của Tràng, thị
thay đổi hẳn. Trong khi Tràng mặt có một vẻ gì hớn hở khác thường, hay tủm
tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh, thì thị lại đi sau hắn chừng
ba bốn chục thước, cắp cái thúng con, cái nón tàng nghiêng nghiêng che khuất
đi nửa khuôn mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Rõ ràng so với người đàn bà mới
ban trưa, bây giờ thị đã là một con người khác. Ban trưa, lúc ở ngoài chợ, thị
sấn sổ, cong cớn để được ăn, còn bây giờ, thị đang về nhà chồng. Vả lại, thị bắt
đầu ý thức về thân phận của mình, là người vợ theo không. Té ra, thị chẳng có
chút quyền uy nào, kể cả quyền lựa chọn và đành chấp nhận thuận theo số phận
khi đã đến bước đường cùng.
Tuy nhiên, dù cố đấm ăn xôi đi nữa, thị vẫn là người có ý thức về giá trị của
bản thân. Trên đường về nhà chồng, khi anh Tràng lấy làm thích thú trước cảnh
lũ trẻ con chọc ghẹo, thì thị có vẻ rất khó chịu lắm, đôi lông mày nhíu lại, đưa
tay lên xóc lại tà áo. Trẻ con nghịch ngợm chọc ghẹo còn được, đằng này đến
người lớn cũng tò mò, thị càng ngượng và xấu hổ, chân nọ díu cả vào chân kia.
Anh Tràng đến là vô tư, cứ lấy vợ vậy làm thích thú. Thị càu nhàu trong miệng
và lầm lũi đi đến nỗi đi nhầm đường. Thị mong sớm đến nhà “chồng” để tránh
sự dòm ngó của mọi người xung quanh.
Về nhà của Tràng, thị càng khác hơn. Người đàn bà ấy có cái tò mò bẽn lẽn của
nàng dâu mới. Thị đảo mắt nhìn chung quanh. Quả là nghèo quá, ngheo xơ xác.
Thị nén tiếng thở dài. Anh Tràng muốn vợ mình được tự nhiện, cứ giục vợ ngồi,
nhưng thị chỉ dám ngồi mớm xuống mép giường. Khi bà cụ Tứ về, người đần
bà ấy chủ động chào bà bằng u. Trước mặt người mẹ chồng, thị càng rụt rè sợ
sệt, vẫn đứng nguyên chỗ cũ, khẽ nhúc nhích. Chính thái đọ ấy cùng hoàn cảnh
của thị đã khiến bà cụ Tứ , trái với sự dò xét thông thường của những người mẹ
chồng đối với nàng dâu, bà nhìn thị lòng đầy thương xót. Bà nhanh chóng đón
nhận thị là dâu dù chỉ mấy phút trước đó cả hai đều hoàn toàn xa lạ.Sáng ngày
hôm sau, thị đã trở thành người vợ đảm đang. Cùng với bà cụ Tứ, thị thức dậy
sớm, lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ. Người vô tâm như anh
Tràng vẫn nhận ra sự thay đổi kỳ lạ ở con người thị. Tràng nom thị hôm nay
khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát
chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài chợ tỉnh. Không những thế, thị còn tỏ ra là
người biết tu chí làm ăn. Khi thị hỏi bà cụ Tứ về tiếng trống ồn ã ngoài đình và
biết đó là tiếng trống thúc thuế, thị đã khe khẽ thở dài. Rồi chính thị là người
đầu tiên kể cho cả nhà nghe chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta
không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc Nhật, chia cho người đói.
Câu chuyện ấy khiến Tràng ân hận và tiếc rẻ khi nhớ lại mình đã từng có cơ hội
làm như thế mà chẳng làm. Ai biết rồi đây, để chăm lo cho cuộc sống gia đình
của mình, người phụ nữ này có khi cả gan hơn cả anh cu Tràng! Bữa cơm
nghèo buổi sáng hôm ấy, thị cũng như bà cụ Tứ và anh Tràng đều thấy một nỗi
tủi hờn len vào tâm trí mình khi phải cố nuốt những miếng cám đắng chát và
nghẹn bứ trong cổ. Song, thị cũng như hai mẹ con Tràng, đều cố tránh nhìn mặt
nhau, đều không muốn làm người khác phải buồn tủi hơn. Phải ý nhị lắm, phải
tinh tế đến nhường nào mới có thái độ ứng xử đầy chất nhân văn và tinh tế như vậy.
Hoá ra cái đanh đá, trở trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng
qua là do đói do khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia
đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp vốn có của mình, của một
người phụ nữ Việt Nam
Xây dựng nhân vật Thị Nở xấu xí không phải nhà văn muốn bôi bác người phụ
nữ Việt Nam, mà ngược lại, tác giả chính là muốn nói đến vẻ đẹp sâu thẳm
trong tâm hồn của họ, mặc dù hình hài của họ có phần xấu xí. Mà Thị Nở thì
xấu thật "cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: Nó ngắn đến nỗi
mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu
hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn...Cái mũi
thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành..." Với những dòng
miêu tả đầy chân thực như thế này, người đọc có cảm tưởng cả trong văn học
lẫn ngoài đời thực thì không có ai có thể xấu hơn Thị Nở được nữa. "Đã thế thị
lại dở hơi...Và thị lại nghèo...Và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi...".
Thế nên, Thị Nở không có chồng và "người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm".
Vậy mà Thị Nở lại có tình cảm với Chí Phèo - con quỷ của làng Vũ Đại mà ai
ai cũng xa lánh. Có lẽ đây cũng là một dụng ý của nhà văn Nam Cao khi để cho
một kẻ dở hơi xấu xí và một kẻ cùng đường lưu manh đến với nhau và yêu
nhau. Chính tình yêu ấy đã làm thức tỉnh những vẻ đẹp trong sâu thẳm tâm hồn con người.
Thị từ một người đàn bà xấu xí dở hơi đã trở thành một người phụ nữ biết quan
tâm và lo lắng cho người khác: "Mình mà bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao
cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như vợ chồng...Đêm qua thổ trận
ấy thật là phải biết. Cứ gọi hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được.
Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay
đó mà...". Không những thế, khi Thị tự tay nấu cháo rồi đem đến cho Chí Phèo,
Thị đã coi đó là người đàn ông của đời mình cho nên hết sức lo lắng và thương
yêu. Ánh mắt và nụ cười toe toét của Thị tưởng chừng như rất vô duyên nhưng
kì thực nó lại khiến cho Chí cảm thấy Thị thật có duyên.
Bát cháo hành mà Thị nở mang sang cùng những quan tâm mà Thị dành cho
Chí đã khiến cho hắn thực sự xúc động. Hắn nghĩ đến những mơ ước thời trai
trẻ, hắn ăn năn và hối hận về những việc mình đã làm. Chính vì thế hắn muốn
được trở lại làm người lương thiện, muốn sống một cuộc đời bình dị mà hạnh
phúc với Thị Nở. Có thể nói tình yêu của người đàn bà dù xấu xí nhưng vẫn có
thể khiến cho con người ta rung động. Không những thế, có lẽ, cả làng Vũ Đại
không ai có thể cảm hóa được con quỷ dữ Chí Phèo, vậy mà chỉ một người phụ
nữ xấu xí, dở hơi bằng tình yêu chân thành của mình lại có thể làm được.
Quả thật Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng hình ảnh con quỷ dũ làng
Vũ Đại và còn thành công hơn nữa khi xây dựng nhân vật Thị Nở - người phụ
nữ đầy tình thương yêu và bao dung đã đánh thức phần con người lương thiện
trong Chí Phèo. Tình yêu của người đàn bà xấu xí là tình yêu chân thành, xuất
phát tự trái tim, từ lòng cảm thông sâu sắc, không vụ lợi cho nên nó là một tình
yêu đẹp và rất đáng trân trọng. Thị chính là tia sáng, là niềm hy vọng, là cầu
nối để Chí Phèo trở về làm người, sống với cộng đồng. Mặc dù sau này Chí
Phèo có tự kết liễu đời mình thì nhân vật Thị Nở và chi tiết bát cháo hành vẫn
có ý nghĩa to lớn đối với một cuộc đời, một số phận. Để cho ngay cả những kẻ
cùng đường, lạc lối vẫn biết hy vọng về tương lai tốt đẹp, vẫn khao khát được sống và được yêu.
Người phụ nữ Việt Nam nói chung và hai nhân vật Thị và Thị Nở nói riêng,
đồng thời khẳng định tài năng cùng tư tưởng nhân đạo mà hai nhà văn thể hiện.