lOMoARcPSD| 61630936
4. Những điểm tương đồng khác biệt điển hình giữa truyền thống civil law,
common law
Mặc civil law common law hai TTPL độc lập, cội nguồn hoàn toàn khác nhau nhưng
giữa chúng vẫn một vài điểm tương đồng. Thnhất, hai TTPL này đều quy bành
trướng hết sức rộng lớn và nguyên nhân chính dẫn đến sự mở rộng của cả hai TTPL đều
quá trình thực hiện chính sách thuộc địa hóa của các cường quốc châu Âu. Thứ hai, trong
giai đoạn "thai nghén" của hai TTPL này, cái được gọi luật chung (Jus Commune hoc
Common Learned Law ở châu Âu lục địa và Common law ở Anh) đều xuất hiện và trở thành
nền tảng quan trọng cho luật quốc gia trong mỗi TTPL. Chđiều, do sự trỗi dậy của chủ
nghĩa dân tộc pháp các nước châu Âu lục địa, Tus Commune đã nhanh chóng bph
nhận khi các quốc gia dân tộc châu Âu quay về áp dụng tập quán địa phương. Tuy vậy, sau
đó Jus Commune vẫn ít nhiều ảnh hưởng tới luật nội dung của các quốc gia châu Âu
lục địa, thể hin ở các BLDS BLTM ấn phẩm của pháp điển hoá trong giai đoạn tthế
kỷ XVIII đến thế kỷ XX. Trong khi đó, common law ra đời Anh đã ngày càng được củng cố,
hoàn thiện và phát triển bất kể sự kình địch của equity và sự xung đột giữa người đứng đầu
Tòa Đại pháp Toà án Hoàng gia trong nhiều thế kỷ. Common law không chỉ tiếp tục trường
tồn tới nay mà còn mở rộng sang các thuộc địa khác, làm thành một TTPL. Vì vậy, vẫn có thể
nói sự ra đời của luật chung ở châu Âu lục địa và ở Anh là điểm tương đồng nhưng là tương
đồng trong sự khác biệt giữa hai TTPL này. Thba, common law và civil law đều là hai TTPL
lớn nhất thế giới, lịch sử hình thành phát triển lâu đời, thu hút nhiều sự quan tâm của
giới nghiên cứu so sánh luật. Hầu hết các công trình nghiên cứu sợ sảnh luật lớn trên thế gii
đều tập trung vào hai TTPL này, hoặc vào những HTPL tiêu biểu cho hai TTPL này(HTPL của
Pháp Đức đại diện cho truyền thống civil law; của Anh Mđại diện cho truyền thống
common law). Thứ tư, cũng cần lưu ý rằng, mặc dù đã bị Đế quốc La Mã đô hộ trong suốt 4
thế kỷ, HTPL Anh ít chịu ảnh ởng bởi luật La luật La Mã dường như đã biến mất khỏi
Anh khi các quân đoàn La Mã rời khỏi nước Anh, đồng thời Anh đã nỗ lực từ chối tiếp nhận
luật La giai đoạn sau đó. Nói cách khác, luật La Mã chưa bao giờ được tiếp nhận bởi
Anh theo cách đã được tiếp nhận bởi các nước châu Âu lục địa. Tuy nhiên, nếu xem xét
một cách tỉ mỉ thì, ở một mức độ nào đó, vẫn những dấu hiệu chứng tỏ luật La Mã đã xâm
nhập được vào HTPL Anh. Một là, sự phân chia pháp luật thành luật công luật trong
những năm đầu Anh được cho là có cội nguồn từ HTPL La Mã. Hai là, sự tồn tại của các
pháp quan (praetor) La Mã và các hình thức khởi kiện Anh cũng được cho là có xuất xứ từ
La Mã. Trong nhà nước La Mã, tòa án La chỉ chấp nhận giải quyết vụ việc nếu bên nguyên
được viên pháp quan cấp đơn khiếu kiện (document of claim) tương tự như ở Anh sau này,
bên nguyên phải giành được trát để tiếp cận công lý Hoàng gia. cả nhà nước La Mã
Anh thời trung cổ, số ợng đơn khiếu kiện (La Mã) hay trát (Anh) đều bị hạn chế nhưng trên
thực tế chủng loại các văn bản này đều tăng lên theo thời gian do đòi hỏi của thực tiễn xét
xử. Ba là, quyền khiếu kiện về hành vị chiếm đoạt quyền sở hữu thái p Anh rất có thể có
nguồn gốc từ La Mã. Bốn là, sự tồn tại của các nhà thờ đốc giáo Anh thời đầu và học
thuyết về luật Giáo hội là mình chứng cho việc giảng dạy luật của người La Anh
thực. Năm là, cố vấn hàng đầu của William, Lanfranco đã giảng dạy luật La Mã và luật Giáo
hội tại khoa luật nổi tiếng Pavia. Vào giữa thế kỷ XI, Archbishop Theobald cũng đã mi
Vacarius tới Oxford để giảng dạy luật La Mã. Sáu là, những thành viên đầu tiên của Hội đồng
lOMoARcPSD| 61630936
cố vấn Quốc vương Anh đều những giáo đã từng học luật La Mã. Bảy là, Bracton
(Chánh án & Eyre, thẩm phán của Tòa án chính trị (King’s Bench) Đại pháp quan của
Exeter Cathedral) có quan điểm chịu ảnh hưởng bởi học thuyết pháp lý của La Mã, đặc biệt
từ Azo, người đã giảng dạy tại Đại học Bologna của Ý. Tám là, luật hiện đại của Anh có liên
quan tới đất chủ quyền đi qua đất của người khác nguồn gốc từ học thuyết của La
Mã. Cuối cùng, CJC không phải chi hấp dẫn đối với các trường đại học ở các nước châu Âu
lục địa cũng ít nhiều tỏ ra hấp dẫn đối với người Anh. Thời Henry đệ bát, Đại học
Cambridge đã sáng tạo ra danh hiệu giáo luật dân sự, trong đó thuật ngữ "luật dân sự"
(civil law) được hiểu là "luật La Mã" (Roman law)'.
Bất kể những "vết tích" trên của luật La đã đang hiện diện trong HTPL Anh, tới nay,
common law của Anh vẫn giữ vững được vị trí của mình với cách cội nguồn của một
trong hai TTPL lớn nhất thế gii - truyền thống common Law - song song tồn tại thay bị
"nuốt chửng" bởi truyền thống civil law. vậy, thể thấy skhác biệt giữa hai TTPL này
vẫn chiếm ưu thế.
Thnhất, truyền thống civil law hình thành trên cơ svăn hóa cộng đồng ở châu Âu lục địa
trong suốt giai đoạn từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVIII, trong khi đó, truyền thống common law
khôi thùy là hệ thống common law của Anh ra đời một cách ngẫu nhiên vào thế kỷ XIII,một
quốc đảo tách khỏi lục địa châu Âu do hoàn cảnh lịch sử hết sức đặc thù của Anh. Hình
thành sớm hơn so với nhiều HTPL khác ở châu Âu lục địa, common law của Anh đã phát triển
một cách tập trung, lập từng bước được hiện đại hoá, trong thời gian đó, các nước
châu Âu lục địa vẫn còn đang dẫm kiếm tìm trong luật La Mã, thông qua các sản phẩm
nghiên cứu của các khoa luật ở châu Âu lục địa, những quy phạm thích hợp để đáp ứng nhu
cầu xét xử ngày càng tăng tại các tòa án của các nước châu Âu khi đó.
Thứ hai, trong khi các HTPL thuộc truyền thống civil law chủ yếu chịu ảnh hưởng bởi luật La
Mã thì các HTPL thuộc truyền thống common law lại chịu ảnh hưởng bởi HTPL Anh. Những
tài liệu cần thiết cho việc tiếp nhận luật La một cách có hệ thống hầu như không được du
nhập vào Anh khi luật La ảnh hưởng khắp châu Âu lục địa, thậm chí sau này nh
ởng tới cả Scotland thì HTPL của Anh đã được hình thành theo con đường riêng của mình
không dễ thay đổi. do là: (1) Anh đã hệ thống đào tạo nghề luật được thiết lập
vững chắc tại Inns of Court (trụ sở của các hiệp hội hành nghề lut Anh trước đây), thông
qua việc giảng dạy common law; (2) sự hiện diện của các tòa án pháp luật phức tạp Anh
thời đó - đặc biệt đối với mảng pháp luật có liên quan tới đất đai - đã làm cho việc tiếp nhận
luật La Mã vào Anh trở nên thiếu thực tế và hết sức phiền toái. Điều đó giải thích tại sao luật
La Mã đã không thể được ảnh hưởng đáng kể đối với HTPL Anh như đã từng với nhiều
HTPL khác ở châu Âu. Chính sự khác biệt này đã kéo theo hàng loạt sự khác biệt khác giữa
hai truyền thống civil law common law. Một là, pháp luật của các nước civil law được phân
chia thành luật công và luật trong khi sự phân chia đó không tồn tại ở các nước common
law trừ giai đoạn đu HTPL Anh (nhưng sau đó đã biến mất do sự bành trướng thẩm quyền
của Tòa án Hoàng gia), Tuy nhiên, nếu như mục đích phân chia gia luật công và của nhà
ớc La cậc nước civil law sau này đã kế thừa nhằm chú trọng phát triển Luật
qua mảng luật công (vì giai cấp thống trị muốn lẩn tránh sự điều chỉnh của pháp luật)
lOMoARcPSD| 61630936
thì ở Anh, sự phân chia này lại nhằm xác định thủ tục tố tụng được áp dụng để giải quyết một
vụ việc cụ th. Hai là, các nước civil law coi trọng pháp điển hóa, vậy thường ban hành các
bộ luật đồ sộ, điền hình là BLDS, BLTM, Bluật Lao động và các BLTTDS, BLTTHS. Ngược
lại, các ớc common law thừa nhận học thuyết stare decisis không coi trọng pháp điển
hóa coi trọng án lệ. Những phần quyết của tòa án thiết lập nên tiền lệ pháp, được công
bố trong các ấn phẩm có tên là "Law Report" hay "Reporter" (báo cáo luật) để công bố chính
thức án lệ và cung cấpịa chỉ" tra cứu, phục vụ các hoạt động xét xử, tư vấn và nghiên cứu
luật của những người hành nghề luậtcác nhà khoa học pháp. Ví dụ: Anh có All England
Law Report (Báo cáo luật trên toàn nước Anh); Quaterly Law Report (Báo cáo luật hàng
quý)...; MUnited States Reports (Báo cáo luật của Mỹ: bản chính thức); the Supreme
Court Reporters (vẫn là Báo cáo luật của TATC Mỹ nhưng do West Publishing Company xuất
bản)... Nói như vậy không có nghĩa là các nước common law không có bộ luật (code), chỉ
điều, cái được gọi là "bộ luật" ở các nước common law không giống như bộ lut ở các nưc
civil law. dụ: Bộ luật của Mỹ (United States Code) chỉ là sự tập hợp của các đạo luật độc
lập được Quốc hội Mỹ ban hành ở các thời điểm khác nhau, được sắp xếp thành những tiêu
đề (title) khác nhau trong bộ luật được đánh số thtự. Bộ luật kiểu này, vậy, rất khác
với bộ lut các nước civil law sản phẩm của hoạt động pháp điển hóa được Nghị viện
quốc gia thông qua toàn văn và cùng lúc các quyển (nếu có hay các phần/chương cầu thành
nên bộ luật. Ba là, trong khi các HTPL thuộc truyền thống civil law, nguồn luật quan trọng nhất
trong cấu trúc nguồn luật các đạo luật do quan quyền lực nhà nước tối cao ban hành
thì ở các HTTPL thuộc truyền thống common law, nguồn luật quan trọng nhất dường như lại
là án lệ.
Về nguyên tắc, luật do Nghị viện của các nước common law ban hành có giá trị pháp cao
hơn án lệ nhưng trên thực tế, thẩm phán những quốc gia này lại quyền giải thích luật,
tức có quyền quyết định ngữ nghĩa của các QPPL thành văn. Pháp luật thành văn còn chưa
có nghĩa chừng nào chưa được tòa án giải thích, vì vậy, thực chất, pháp luật thành văn đứng
ới án lệ về thứ bậc ở các nước common law.
Thứ ba, con đường dẫn tới sự thống nhất về pháp luật ở các nước civil law cũng khác với
Anh. Khi các quốc gia dân tộc lớn mạnh ở châu Âu lục địa (nơi khởi nguồn của truyền thống
civil law) xuất hiện cũng là lúc các quốc gia này giành được sự thống nhất về pháp luật thông
qua hoạt động lập pháp của cơ quan quyền lực tối cao của Nhà nước với kỹ thuật pháp điển
hóa hiện đại; ngược lại Anh (cội nguồn của truyền thống common law), khởi thủy, luật quốc
gia sản phẩm của hoạt động tư pháp, luật do thẩm phán làm ra trong quá trình xét x
mà không phải là sản phẩm của hoạt động lập pháp có chủ định. Nước Anh không có những
bộ luật chứa đựng những QPPL điều chỉnh từng lĩnh vực quan hệ hội đặc tnhư các
ớc châu Âu lục địa ban đầu, luật áp dng Anh được hình thành một cách tự nhiên,
trong quá trình thực thi công lý của các Tòa án Hoàng gia, theo thời gian, được gọt giữa
hoàn thiện cũng nhờ vào hoạt động xét xử của các thẩm phán cùng với những cải tổ trong
HTTA. Ngày nay, nước Anh vẫn không BLDS, BLTM BLHS đồ sộ như nhiều nước
civil law. Các mảng khác nhau của luật vẫn được điều chỉnh bởi án lệ các đạo luật được
ban hành riêng lẻ, chủ yếu để sửa đổi và bổ sung án lệ. Có những lĩnh vực quan hệ xã hội
Anh ngày nay chủ yếu vẫn được điều chỉnh bằng án lệ, ví dụ lĩnh vực hợp đồng, bồi thường
trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng và hình sự.
lOMoARcPSD| 61630936
Thứ tư, trong khi truyền thống civil law mở rộng sang các châu lục khác không chỉ bằng con
đường thuộc địa hóa mà còn bằng con đường tự nguyện do một số quốc gia muốn học hỏi
văn minh pháp lý phương Tây thì hệ thống common law của Anh sau khi hình thành đã bành
trướng sang các châu lục khác bằng con đường duy nhất, đó quá trình người Anh thực
hiện chính sách thuộc địa hóa. Dẫu cho không quốc gia nào tự nguyện học hỏi xây
dựng HTPL của mình theo mô hình HTPL Anh (như những gì đã diễn ra với truyền thống civil
law) nhưng những nơi common law của Anh lan tới, không quốc gia nào ngay cả sau
khi đã giành được độc lập khỏi ách đô hộ của thực dân Anh - lại chối bỏ common law của
Anh. Thực tế đó một minh chứng thuyết phục cho những giá trị tim ẩn hay những thế
mạnh của HTPL này.
Thnăm, trong khi chế định pháp luật tiêu biểu cho truyền thống civil law chế định nghĩa
vụ ttruyền thống common law lại chế định ủy thác, vốn không được biết đến các
ớc civil law trong quá khứ.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61630936 4.
Những điểm tương đồng và khác biệt điển hình giữa truyền thống civil law, common law
Mặc dù civil law và common law là hai TTPL độc lập, có cội nguồn hoàn toàn khác nhau nhưng
giữa chúng vẫn có một vài điểm tương đồng. Thứ nhất, hai TTPL này đều có quy mô bành
trướng hết sức rộng lớn và nguyên nhân chính dẫn đến sự mở rộng của cả hai TTPL đều là
quá trình thực hiện chính sách thuộc địa hóa của các cường quốc châu Âu. Thứ hai, trong
giai đoạn "thai nghén" của hai TTPL này, cái được gọi là luật chung (Jus Commune hoặc
Common Learned Law ở châu Âu lục địa và Common law ở Anh) đều xuất hiện và trở thành
nền tảng quan trọng cho luật quốc gia trong mỗi TTPL. Chỉ có điều, do sự trỗi dậy của chủ
nghĩa dân tộc pháp lý ở các nước châu Âu lục địa, Tus Commune đã nhanh chóng bị phủ
nhận khi các quốc gia dân tộc ở châu Âu quay về áp dụng tập quán địa phương. Tuy vậy, sau
đó Jus Commune vẫn ít nhiều có ảnh hưởng tới luật nội dung của các quốc gia ở châu Âu
lục địa, thể hiện ở các BLDS và BLTM là ấn phẩm của pháp điển hoá trong giai đoạn từ thế
kỷ XVIII đến thế kỷ XX. Trong khi đó, common law ra đời ở Anh đã ngày càng được củng cố,
hoàn thiện và phát triển bất kể sự kình địch của equity và sự xung đột giữa người đứng đầu
Tòa Đại pháp và Toà án Hoàng gia trong nhiều thế kỷ. Common law không chỉ tiếp tục trường
tồn tới nay mà còn mở rộng sang các thuộc địa khác, làm thành một TTPL. Vì vậy, vẫn có thể
nói sự ra đời của luật chung ở châu Âu lục địa và ở Anh là điểm tương đồng nhưng là tương
đồng trong sự khác biệt giữa hai TTPL này. Thứ ba, common law và civil law đều là hai TTPL
lớn nhất thế giới, có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, thu hút nhiều sự quan tâm của
giới nghiên cứu so sánh luật. Hầu hết các công trình nghiên cứu sợ sảnh luật lớn trên thế giới
đều tập trung vào hai TTPL này, hoặc vào những HTPL tiêu biểu cho hai TTPL này(HTPL của
Pháp và Đức đại diện cho truyền thống civil law; của Anh và Mỹ đại diện cho truyền thống
common law). Thứ tư, cũng cần lưu ý rằng, mặc dù đã bị Đế quốc La Mã đô hộ trong suốt 4
thế kỷ, HTPL Anh ít chịu ảnh hưởng bởi luật La Mã vì luật La Mã dường như đã biến mất khỏi
Anh khi các quân đoàn La Mã rời khỏi nước Anh, đồng thời Anh đã nỗ lực từ chối tiếp nhận
luật La Mã ở giai đoạn sau đó. Nói cách khác, luật La Mã chưa bao giờ được tiếp nhận bởi
Anh theo cách đã được tiếp nhận bởi các nước ở châu Âu lục địa. Tuy nhiên, nếu xem xét
một cách tỉ mỉ thì, ở một mức độ nào đó, vẫn có những dấu hiệu chứng tỏ luật La Mã đã xâm
nhập được vào HTPL Anh. Một là, sự phân chia pháp luật thành luật công và luật tư trong
những năm đầu ở Anh được cho là có cội nguồn từ HTPL La Mã. Hai là, sự tồn tại của các
pháp quan (praetor) La Mã và các hình thức khởi kiện ở Anh cũng được cho là có xuất xứ từ
La Mã. Trong nhà nước La Mã, tòa án La Mã chỉ chấp nhận giải quyết vụ việc nếu bên nguyên
được viên pháp quan cấp đơn khiếu kiện (document of claim) tương tự như ở Anh sau này,
bên nguyên phải giành được trát để tiếp cận công lý Hoàng gia. Ở cả nhà nước La Mã và ở
Anh thời trung cổ, số lượng đơn khiếu kiện (La Mã) hay trát (Anh) đều bị hạn chế nhưng trên
thực tế chủng loại các văn bản này đều tăng lên theo thời gian do đòi hỏi của thực tiễn xét
xử. Ba là, quyền khiếu kiện về hành vị chiếm đoạt quyền sở hữu thái ấp ở Anh rất có thể có
nguồn gốc từ La Mã. Bốn là, sự tồn tại của các nhà thờ Cơ đốc giáo ở Anh thời kì đầu và học
thuyết về luật Giáo hội là mình chứng cho việc giảng dạy luật của người La Mã ở Anh là có
thực. Năm là, cố vấn hàng đầu của William, Lanfranco đã giảng dạy luật La Mã và luật Giáo
hội tại khoa luật nổi tiếng ở Pavia. Vào giữa thế kỷ XI, Archbishop Theobald cũng đã mời
Vacarius tới Oxford để giảng dạy luật La Mã. Sáu là, những thành viên đầu tiên của Hội đồng lOMoAR cPSD| 61630936
cố vấn Quốc vương ở Anh đều là những giáo sĩ đã từng học luật La Mã. Bảy là, Bracton
(Chánh án & Eyre, thẩm phán của Tòa án chính trị (King’s Bench) và Đại pháp quan của
Exeter Cathedral) có quan điểm chịu ảnh hưởng bởi học thuyết pháp lý của La Mã, đặc biệt
từ Azo, người đã giảng dạy tại Đại học Bologna của Ý. Tám là, luật hiện đại của Anh có liên
quan tới đất vô chủ và quyền đi qua đất của người khác có nguồn gốc từ học thuyết của La
Mã. Cuối cùng, CJC không phải chi hấp dẫn đối với các trường đại học ở các nước châu Âu
lục địa mà cũng ít nhiều tỏ ra hấp dẫn đối với người Anh. Thời Henry đệ bát, Đại học
Cambridge đã sáng tạo ra danh hiệu giáo sư luật dân sự, trong đó thuật ngữ "luật dân sự"
(civil law) được hiểu là "luật La Mã" (Roman law)'.
Bất kể những "vết tích" trên của luật La Mã đã và đang hiện diện trong HTPL Anh, tới nay,
common law của Anh vẫn giữ vững được vị trí của mình với tư cách là cội nguồn của một
trong hai TTPL lớn nhất thế giới - truyền thống common Law - song song tồn tại thay vì bị
"nuốt chửng" bởi truyền thống civil law. Vì vậy, có thể thấy sự khác biệt giữa hai TTPL này vẫn chiếm ưu thế.
Thứ nhất, truyền thống civil law hình thành trên cơ sở văn hóa cộng đồng ở châu Âu lục địa
trong suốt giai đoạn từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVIII, trong khi đó, truyền thống common law mà
khôi thùy là hệ thống common law của Anh ra đời một cách ngẫu nhiên vào thế kỷ XIII, ở một
quốc đảo tách khỏi lục địa châu Âu và do hoàn cảnh lịch sử hết sức đặc thù của Anh. Hình
thành sớm hơn so với nhiều HTPL khác ở châu Âu lục địa, common law của Anh đã phát triển
một cách tập trung, cô lập và từng bước được hiện đại hoá, trong thời gian đó, các nước
châu Âu lục địa vẫn còn đang dò dẫm kiếm tìm trong luật La Mã, thông qua các sản phẩm
nghiên cứu của các khoa luật ở châu Âu lục địa, những quy phạm thích hợp để đáp ứng nhu
cầu xét xử ngày càng tăng tại các tòa án của các nước châu Âu khi đó.
Thứ hai, trong khi các HTPL thuộc truyền thống civil law chủ yếu chịu ảnh hưởng bởi luật La
Mã thì các HTPL thuộc truyền thống common law lại chịu ảnh hưởng bởi HTPL Anh. Những
tài liệu cần thiết cho việc tiếp nhận luật La Mã một cách có hệ thống hầu như không được du
nhập vào Anh và khi luật La Mã có ảnh hưởng khắp châu Âu lục địa, thậm chí sau này ảnh
hưởng tới cả Scotland thì HTPL của Anh đã được hình thành theo con đường riêng của mình
và không dễ gì thay đổi. Lý do là: (1) Anh đã có hệ thống đào tạo nghề luật được thiết lập
vững chắc tại Inns of Court (trụ sở của các hiệp hội hành nghề luật ở Anh trước đây), thông
qua việc giảng dạy common law; (2) sự hiện diện của các tòa án và pháp luật phức tạp ở Anh
thời đó - đặc biệt đối với mảng pháp luật có liên quan tới đất đai - đã làm cho việc tiếp nhận
luật La Mã vào Anh trở nên thiếu thực tế và hết sức phiền toái. Điều đó giải thích tại sao luật
La Mã đã không thể có được ảnh hưởng đáng kể đối với HTPL Anh như đã từng có với nhiều
HTPL khác ở châu Âu. Chính sự khác biệt này đã kéo theo hàng loạt sự khác biệt khác giữa
hai truyền thống civil law và common law. Một là, pháp luật của các nước civil law được phân
chia thành luật công và luật tư trong khi sự phân chia đó không tồn tại ở các nước common
law trừ giai đoạn đầu ở HTPL Anh (nhưng sau đó đã biến mất do sự bành trướng thẩm quyền
của Tòa án Hoàng gia), Tuy nhiên, nếu như mục đích phân chia giữa luật công và tư của nhà
nước La Mã má cậc nước civil law sau này đã kế thừa là nhằm chú trọng phát triển Luật tư
và bò qua mảng luật công (vì giai cấp thống trị muốn lẩn tránh sự điều chỉnh của pháp luật) lOMoAR cPSD| 61630936
thì ở Anh, sự phân chia này lại nhằm xác định thủ tục tố tụng được áp dụng để giải quyết một
vụ việc cụ thể. Hai là, các nước civil law coi trọng pháp điển hóa, vì vậy thường ban hành các
bộ luật đồ sộ, điền hình là BLDS, BLTM, Bộ luật Lao động và các BLTTDS, BLTTHS. Ngược
lại, các nước common law thừa nhận học thuyết stare decisis và không coi trọng pháp điển
hóa mà coi trọng án lệ. Những phần quyết của tòa án thiết lập nên tiền lệ pháp, được công
bố trong các ấn phẩm có tên là "Law Report" hay "Reporter" (báo cáo luật) để công bố chính
thức án lệ và cung cấp "địa chỉ" tra cứu, phục vụ các hoạt động xét xử, tư vấn và nghiên cứu
luật của những người hành nghề luật và các nhà khoa học pháp lý. Ví dụ: Anh có Al England
Law Report (Báo cáo luật trên toàn nước Anh); Quaterly Law Report (Báo cáo luật hàng
quý)...; Mỹ có United States Reports (Báo cáo luật của Mỹ: bản chính thức); the Supreme
Court Reporters (vẫn là Báo cáo luật của TATC Mỹ nhưng do West Publishing Company xuất
bản)... Nói như vậy không có nghĩa là các nước common law không có bộ luật (code), chỉ có
điều, cái được gọi là "bộ luật" ở các nước common law không giống như bộ luật ở các nước
civil law. Ví dụ: Bộ luật của Mỹ (United States Code) chỉ là sự tập hợp của các đạo luật độc
lập được Quốc hội Mỹ ban hành ở các thời điểm khác nhau, được sắp xếp thành những tiêu
đề (title) khác nhau trong bộ luật và được đánh số thứ tự. Bộ luật kiểu này, vì vậy, rất khác
với bộ luật ở các nước civil law là sản phẩm của hoạt động pháp điển hóa được Nghị viện
quốc gia thông qua toàn văn và cùng lúc các quyển (nếu có hay các phần/chương cầu thành
nên bộ luật. Ba là, trong khi các HTPL thuộc truyền thống civil law, nguồn luật quan trọng nhất
trong cấu trúc nguồn luật là các đạo luật do cơ quan quyền lực nhà nước tối cao ban hành
thì ở các HTTPL thuộc truyền thống common law, nguồn luật quan trọng nhất dường như lại là án lệ.
Về nguyên tắc, luật do Nghị viện của các nước common law ban hành có giá trị pháp lý cao
hơn án lệ nhưng trên thực tế, thẩm phán ở những quốc gia này lại có quyền giải thích luật,
tức có quyền quyết định ngữ nghĩa của các QPPL thành văn. Pháp luật thành văn còn chưa
có nghĩa chừng nào chưa được tòa án giải thích, vì vậy, thực chất, pháp luật thành văn đứng
dưới án lệ về thứ bậc ở các nước common law.
Thứ ba, con đường dẫn tới sự thống nhất về pháp luật ở các nước civil law cũng khác với ở
Anh. Khi các quốc gia dân tộc lớn mạnh ở châu Âu lục địa (nơi khởi nguồn của truyền thống
civil law) xuất hiện cũng là lúc các quốc gia này giành được sự thống nhất về pháp luật thông
qua hoạt động lập pháp của cơ quan quyền lực tối cao của Nhà nước với kỹ thuật pháp điển
hóa hiện đại; ngược lại ở Anh (cội nguồn của truyền thống common law), khởi thủy, luật quốc
gia là sản phẩm của hoạt động tư pháp, là luật do thẩm phán làm ra trong quá trình xét xử
mà không phải là sản phẩm của hoạt động lập pháp có chủ định. Nước Anh không có những
bộ luật chứa đựng những QPPL điều chỉnh từng lĩnh vực quan hệ xã hội đặc thù như các
nước châu Âu lục địa mà ban đầu, luật áp dụng ở Anh được hình thành một cách tự nhiên,
trong quá trình thực thi công lý của các Tòa án Hoàng gia, theo thời gian, được gọt giữa và
hoàn thiện cũng nhờ vào hoạt động xét xử của các thẩm phán cùng với những cải tổ trong
HTTA. Ngày nay, nước Anh vẫn không có BLDS, BLTM và BLHS đồ sộ như ở nhiều nước
civil law. Các mảng khác nhau của luật tư vẫn được điều chỉnh bởi án lệ và các đạo luật được
ban hành riêng lẻ, chủ yếu để sửa đổi và bổ sung án lệ. Có những lĩnh vực quan hệ xã hội ở
Anh ngày nay chủ yếu vẫn được điều chỉnh bằng án lệ, ví dụ lĩnh vực hợp đồng, bồi thường
trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng và hình sự. lOMoAR cPSD| 61630936
Thứ tư, trong khi truyền thống civil law mở rộng sang các châu lục khác không chỉ bằng con
đường thuộc địa hóa mà còn bằng con đường tự nguyện do một số quốc gia muốn học hỏi
văn minh pháp lý phương Tây thì hệ thống common law của Anh sau khi hình thành đã bành
trướng sang các châu lục khác bằng con đường duy nhất, đó là quá trình người Anh thực
hiện chính sách thuộc địa hóa. Dẫu cho không có quốc gia nào tự nguyện học hỏi và xây
dựng HTPL của mình theo mô hình HTPL Anh (như những gì đã diễn ra với truyền thống civil
law) nhưng ở những nơi common law của Anh lan tới, không có quốc gia nào ngay cả sau
khi đã giành được độc lập khỏi ách đô hộ của thực dân Anh - lại chối bỏ common law của
Anh. Thực tế đó là một minh chứng thuyết phục cho những giá trị tiềm ẩn hay những thế mạnh của HTPL này.
Thứ năm, trong khi chế định pháp luật tiêu biểu cho truyền thống civil law là chế định nghĩa
vụ thì ở truyền thống common law lại là chế định ủy thác, vốn không được biết đến ở các
nước civil law trong quá khứ.