



Preview text:
Soạn bài Đoàn thuyền đánh cá chi tiết nhất Ngữ văn lớp 9 1. Tác giả Cù Huy Cận
Huy Cận (1919 - 2005), tên khai sinh là Cù Huy Cận quê ở làng Ân Phú,
huyện Hương Sơn, sau đó thuộc huyện Đức Thọ, nay là xã Ân Phú huyện Vũ Quang tỉnh Hà Tĩnh.
Từ nhỏ ông đã là người hiếu học, được vào Huế học trung học, đậu tú tài
Pháp, rồi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông. Từ năm 1942, ông
tham gia phong trào sinh viên yêu nước và Mặt trận Việt Minh, Huy Cận đã
tham dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào (tháng 8/1945) và được bầu vào Uỷ
ban Giái Phóng (tức Chính phủ Cách mạng lâm thời sau đó). Huy Cận cũng
từng cộng tác với nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
Sau Cách mạng tháng Tám, ông ;iên tục tham gia chính quyền cách mạng,
giữ nhiều trọng trách khác nhau như: Thứ trưởng Bộ Văn hoá, Bộ trưởng đặc
trách công tác Văn hoá - Nghệ thuật tại Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng, kiêm
Chủ tịch Uỷ ban Trung Ương Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam.
2. Sự nghiệp văn học của tác giả Huy Cận
Huy Cận yêu thích thơ ca Việt Nam, thơ Đường và chịu nhiều ảnh hưởng của
văn học Pháp. Ông là một trong những tác giả tiêu biểu trong phong trào Thơ
mới. Mỗi bài thơ của Huy Cận đều mang một phong cách đáng chú ý và có
một điểm chung là hàm súc, triết lý. Sáng tác của Huy Cận có một nét vô
cùng đặc biệt. Đó là trước Cách mạng tháng 8, thơ của ông mang vẻ sầu não,
buồn thương. Còn sau Cách mạng tháng 8 thì lại mang nét tươi vui, phấn
chấn. Có thể thấy những sáng tác của Huy Cận luôn bám sát hiện thực cuộc
sống và thời đại. Ông có năng lực cảm nhận cuộc sống rất tinh tế, có thể
nghe được từ những biểu hiện tinh vi của tạo hoá đến những biến đổi lớn lao
trong vũ trụ vô cùng tận. Hồn thơ Huy Cận luôn vận động giữa nhiều đối cực:
vũ trụ - cuộc đời; sự sống - cái chết; nỗi buồn - niềm vui; hiện thực - lãng mạn.
Huy Cận là một nhà thơ lớn, nhà văn hoá mang tầm cỡ thế giới. Tuy am hiểu
nhiều nền văn hoá của nhân loại, hồn thơ ông vẫn đậm đà bản sắc dân tộc.
Với vốn văn hoá sâu rộng, năng lực xúc cảm, suy nghĩ phong phú và quan
điểm nghệ thuật rõ ràng, Huy Cận đã đóng góp vào thi đàn một tiếng thơ có
hương sắc riêng, làm rạng rỡ diện mạo tâm hồn dân tộc.
3. Bố cục văn bản Đoàn thuyền đánh cá
Bài thơ được chia làm 3 phần:
- Phần 1: Hai khổ đầu: Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi lúc hoàng hôn buông xuống.
- Phần 2: Bốn khổ tiếp: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong một đêm trăng đẹp.
- Phần 3: Khổ cuối: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về khi bình minh đã rạng ngời trên biển.
4. Đọc - hiểu văn bản 4.1. Hoàn cảnh sáng tác
Bài thơ được sáng tác giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài
ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy Cận
mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất
nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập thơ "Trời mỗi ngày lại sáng" (1958).
4.2. Trả lời câu hỏi trong SGK Ngữ văn 9 tập 1 Câu 1 (Trang 142):
Bố cục của bài thơ:
- Đoạn 1: Hai khổ thơ đầu là cảnh đoàn thuyền đánh cá lên đường lúc hoàng
hôn buông xuống và tâm trạng náo nức của con người
- Đoạn 2: Bốn khổ thơ tiếp: cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển
- Đoạn 3: Khổ cuối: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về lúc bình minh. Không gian, thời gian:
- Không gian là mặt biển bao la, rộng lớn với sự hiện diện của mặt trời, mặt biển, trăng sao, mây gió.
- Thời gian là nhịp tuần hoàn của vũ trụ: Từ lúc hoàng hôn buông xuống, trời
biển vào đêm đến lúc mặt trời đội biển nhổ lên, một ngày mới bắt đầu. Nhịp
tuần hoàn của vũ trụ điểm nhịp thời gian cho đoàn thuyền đánh cá làm việc. Câu 2 (trang 142):
- Hình ảnh người lao động và công việc của họ được miêu tả trong không
gian rộng lớn của biển cả. Bài thơ miêu tả trọn vẹn một đêm lao động trên
biển của đoàn thuyền đánh cá. Hai khổ thơ đầu là cảnh ra khơi. Khung cảnh
thiên nhiên dẫu chỉ phác hoạ ít nét mà vẫn cho ta cảm nhận được vẻ chắc
nịch, thấm đậm không khí khẩn trương của một buổi xuất bến ra khơi. Hai
câu thơ đầu gợi tả sự vận động của thời gian, mặt trời xuống biển, từng đợt
sóng gợn những nét ngang luân chuyển qua lại như then cửi và mặt trời
xuống đến đâu, cánh cửa đêm như được kéo xuống đến đó. Khi những ánh
sáng mặt trời tắt hẳn cũng là lúc "sóng đã cài then", "đêm sập cửa". Đúng
thời điểm ấy, trong không gian của một đêm đã bắt đầu bừng sáng tiếng hát của ngư dân.
Đó không phải là thanh âm đơn điệu, đó là khúc hát lãng mạn cất lên từ lòng
tin, từ tình yêu lao động, của sắc "cá bạc" đan dệt thành. Những vần trắc
trong khổ thơ đầu (lửa, cửa, khơi, khơi) hoà cùng khúc hát, rất có giá trị trong
việc gợi tả vẻ thoáng đạt, sáng láng ấy. Một cách tự nhiên, những vần thơ mở
đầu hút người đọc vào không khí lao động của ngư dân lúc nào không hay.
Bốn khổ thơ tiếp theo là cảnh lao động trên biển đêm. Những khổ thơ này tập
trung nhiều hình ảnh tráng lệ, vẻ tráng lệ đã được gợi ra từ đầu bài thơ với
hình ảnh "Mặt trời... như hòn lửa". Đến đây, cảnh đánh cá đêm trên biển
được miêu tả hết sức sinh động. Đó là những động từ mạnh mẽ "lái gió, lướt,
quẫy, kéo xoăn tay,..." là những hình ảnh gợi tả cái kì vĩ, lớn lao "mây cao,
biển bằng, dặm xa, bụng biển, thế trận, vây giăng, đêm thở", là những sắc
màu lộng lẫy, rực rỡ như trẩy hội và cả những nét thơ mộng, bay bổng "buồm
trăng, lấp lánh đuốc đen hồng, trăng vàng choé, sao lùa, vẩy bạc đuôi vàng
loé rạng đông, nắng hồng,...". Vẻ đẹp của biển trời hoà quyện với vẻ đẹp của
con người lao động dệt lên bức tranh tráng lệ, rạo rực sức sống, rạng rỡ vẻ
đẹp say mê lòng người. Có lẽ không ở đâu có vẻ đẹp và nguồn sống bất tận
kì diệu của Biển Đông lại đẹp hơn những câu thơ này. Câu 3 (trang 142):
Hình ảnh đặc sắc trong khổ 3 là: Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển
cả bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ, khổng lồ, hoà nhập vào với kích
thước rộng lớn của thiên nhiên: lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng,...
Bút pháp lãng mạng nổi bật trong việc sáng tạo hình ảnh thơ, với những liên
tưởng sáng tạo, độc đáo, nhiều so sánh thú vị, thủ pháp phóng đại được sử dụng hợp lý. Câu 4 (trang 142):
Bài thơ có bốn từ "hát". Cả bài thơ như một khúc ca, ngợi ca lao động với tinh
thần làm chủ, với niềm vui phơi phới mà nhà thơ viết thay cho nhưng người
lao động. Lời thơ dõng dạc, giọng điệu như khúc hát mê say hào hứng, cách
gièo vần biến hoá linh hoạt. Vần trắc xen lẫn vần bằng, vần liền xen lẫn vần
cách. Vần trắc tạo nên sức dội, sức mạnh. Vần bằng tạo nên sự vang xa, bay
bổng,... tất cả góp phần làm nên âm hưởng của bài thơ vừa khoẻ khoắn sôi
nổi, vừa lãng mạn bay bổng. Câu 5 (trang 142):
Nhà thơ Huy Cận có cái nhìn tươi mới, cảm xúc hào hứng tràn đầy niềm vui
về cuộc sống. Thiên nhiên tráng lệ, giàu có là nguồn tài nguyên vô tận của
con người. Con người hăng hái, say mê lao động, làm chủ cuộc sống, xây
dựng cuộc sống mới. Đây là một cái nhìn tin tưởng và phấn khởi của nhà thơ
trước thời đại mới. Bắt đầu từ đây, hồn thơ Huy Cận nảy nở trở lại trong niềm vui say cuộc sống mới.
Document Outline
- Soạn bài Đoàn thuyền đánh cá chi tiết nhất Ngữ văn
- 1. Tác giả Cù Huy Cận
- 2. Sự nghiệp văn học của tác giả Huy Cận
- 3. Bố cục văn bản Đoàn thuyền đánh cá
- 4. Đọc - hiểu văn bản
- 4.1. Hoàn cảnh sáng tác
- 4.2. Trả lời câu hỏi trong SGK Ngữ văn 9 tập 1