-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Soạn bài Viết bài nghị luận về vai trò của văn học đối với tuổi trẻ | Ngữ văn 12 Cánh diều (Tập 1)
Xin gửi tới quý thày cô và các em học sinh Soạn bài Viết bài nghị luận về vai trò của văn học đối với tuổi trẻ | Ngữ văn 12 Cánh diều (Tập 1). Tài liệu giúp bạn tham khảo, chuẩn bị tốt cho bài học của mình. Mời bạn đọc đón xem!
Bài 5: Văn nghị luận (CD) 8 tài liệu
Ngữ Văn 12 822 tài liệu
Soạn bài Viết bài nghị luận về vai trò của văn học đối với tuổi trẻ | Ngữ văn 12 Cánh diều (Tập 1)
Xin gửi tới quý thày cô và các em học sinh Soạn bài Viết bài nghị luận về vai trò của văn học đối với tuổi trẻ | Ngữ văn 12 Cánh diều (Tập 1). Tài liệu giúp bạn tham khảo, chuẩn bị tốt cho bài học của mình. Mời bạn đọc đón xem!
Chủ đề: Bài 5: Văn nghị luận (CD) 8 tài liệu
Môn: Ngữ Văn 12 822 tài liệu
Sách: Cánh diều
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Ngữ Văn 12
Preview text:
Bài tập 1 trang 153 SGK Ngữ văn 12 tập 1
Bài tập: Từ kinh nghiệm đọc sách của bản thân, hãy viết bài văn bàn luận về vai trò
của tác phẩm văn học đối với cá nhân em
* Bài viết mẫu tham khảo:
Tác phẩm văn học là kết tinh của tâm hồn người sáng tác. Mỗi tác phẩm văn học là
tiếng nói của tác giả trong cuộc đời. Bởi vậy, mỗi tác phẩm đều để lại trong em
những bài học và giá trị sâu sắc. Trong đó, có truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”
của nhà văn Nguyễn Minh Châu
“Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu là bức tranh hiện thực đầy màu sắc,
ẩn sau đó chứa đựng câu chuyện về số phận cuộc đời con người.
Tác phẩm nổi bật lên với nhiều giá trị nghệ thuật đặc sắc. Đầu tiên phải kể đến nghệ
thuật xây dựng tình huống truyện tài tình. Tác giả đã xây dựng tình huống truyện
chứa đầy nghịch lý, éo le. Trong nền nghịch lý ấy, nhân vật bộc lộ những đặc điểm
tính cách, góc nhìn đời và tư tưởng của mình.
Bên cạnh đó, nghệ thuật xây dựng nhân vật sinh động, khéo léo. Nhân vật đã được
khắc họa vô cùng chân thực, sống động thông qua hành động, thông qua những
hình ảnh, ngôn ngữ vô cùng giản dị mà lại giàu ý vị, triết lý. Hình ảnh người đàn bà
làng chài có làm da ngăm rám nắng, thân hình chắc khoẻ, hình ảnh người chồng
mạnh mẽ, hung tợn. Tất cả những chi tiết đó đều phù hợp với những con người ngày
đêm lam lũ trên mặt biển.
Đi sâu hơn vào các chi tiết, ta nhận ra nổi bật lên tất cả là bút pháp tả thực. Một điều
khiến em ám ảnh ghê gớm nhất có lẽ là những dòng văn đầy bạo lực : “Lão đàn ông
lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của
lính ngụy ngày xưa, …, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken
két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày
chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Những câu văn miêu tả
chân thực vô cùng và tỉ mỉ đến từng chi tiết, gợi lên một cảm giác rất đời, rất thực.
Đó cũng chính là cuộc sống thật đang diễn ra ở một gia đình nào đó trên đất nước ta
thời bấy giờ. Cuộc sống sau chiến tranh vẫn chất chứa rất nhiều hậu quả, không chỉ
về vật chất mà còn là những tổn thương tâm lý không thể chữa lành.
Qua khung cảnh bạo lực ấy, trong cái đen tối ấy lại sáng lên chất nghệ thuật tài ba
của tác giả. Đoạn văn giàu chất tạo hình, tựa như một thước phim cận cảnh cuộc đời
đầy cay xót, trái ngang của người phụ nữ làng chài.
Tác phẩm để lại rất nhiều ấn tượng trong em, không chỉ là về những đặc sắc nghệ
thuật mà còn về giá trị hiện thực mà nó đem lại. Khung cảnh ấn tượng đậm sâu nhất
cho em có lẽ là cảnh bạo lực gia đình, người chồng đánh vợ như súc vật. Nếu như
trước đó nghệ sĩ Phùng đã bắt gặp một “cảnh đắt trời cho”, đẹp đến mê hồn, thậm
chí được ví như “bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, làm rung động tâm
hồn người nghệ sĩ thì giờ đây, bức tranh ấy đã nhuốm màu sắc đớn đau, cơ cực.
Chính sự đổi thay ngang trái ấy khiến em ấn tượng mãi không thôi về sự thật - sự
thật đằng sau bề ngoài đẹp đẽ, mê hồn có thể xù xì, gai góc đến như vậy.
Tác phẩm làm em cảm thấy ấn tượng thêm một lần nữa chính là ở quyết định của
người đàn bà làng chài. Hứng chịu chiếc thắt lưng quật tới tấp, “người đàn bà với
một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng
không tìm cách chạy trốn”. Phản ứng của người đàn bà ở đây thật kì lạ đến thảm
thương. Thông thường, lúc bị áp bức thì vùng lên, không được thì trốn chạy, van xin.
Liệu có ai mà sống được với những trận đòn như cơm bữa “ba ngày một trận nhẹ,
năm ngày một trận nặng”. Tuy nhiên, người đàn bà trong truyện của Nguyễn Minh
Châu chính là như vậy. Quả là một nghịch lí trong cuộc sống đời thường. Tủi nhục,
đớn đau bởi bạo hành, đánh đập, nhưng cô cũng không chịu buông bỏ, dứt nghĩa vợ
chồng. Người đàn bà ấy có những lí lẽ cho riêng mình, tưởng chừng như đơn giản
nhưng ở cô mang cái nhìn thấu suốt một cuộc đời, mang trải nghiệm mà Đẩu và
Phùng chưa bao giờ thấy được: “các chú đâu có thể hiểu được cái việc của các
người làm ăn lam lũ, khó nhục…”, “ chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất
vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…”
Tác phẩm đã đưa giúp cho em có cái nhìn vô cùng thực tế về bản thân và cuộc
sống. Mọi chuyện không chỉ đơn giản như vẻ ngoài của nó, trước khi suy xét cần
phải thấu hiểu tường tận, nhìn xuyên qua những cái bề ngoài đẹp đẽ để nhận ra
được bản chất của sự vật, hiện tượng bên trong cái vỏ ngoài ấy. Nhìn nhận về con
người cũng vậy. Con người vốn là một thực thể bề bộn và phức tạp, không đơn
chiều, nhất phiến. Vì vậy, không nên nhìn con người hay số phận con người một
cách đơn giản xuôi chiều mà cần nhìn nhận một cách đa chiều, đa diện mới hiểu hết
bản chất đích thực của con người.
Tác giả đã đem đến một truyện ngắn có chiều sâu nhận thức và có giá trị cuộc sống
lớn lao, thông qua phát hiện những nghịch lí của đời thường.
Đọc truyện, em cảm thấy nhói đau cho số phận con người trong cuộc sống mưu sinh
vất vả, nhọc nhằn. Câu chuyện đã giúp em giác ngộ nhiều bài học sâu sắc từ những
nghịch lí cuộc đời. Bản thân em nhận ra rằng những kiến thức sách vở chỉ là kẻ
ngây thơ trước thực tế muôn màu, muôn sắc, phức tạp.
Tác phẩm đã khơi dậy lòng thương cảm, sự thấu hiểu và sẻ chia trước số phận vất
vả, khổ cực của kiếp người nghèo khổ, bế tắc bị cầm tù bằng nỗi đau về thể xác và
tinh thần. Thông qua tác phẩm, em phát hiện ra những vẻ đẹp đời thường hết sức
nhân văn trong mỗi con người và từ đó, thêm trân trọng con người, trân trọng những
phẩm chất đáng quý và cao cả ấy
Mỗi tác phẩm văn học đều mang một thứ ánh sáng nhiệm màu, ánh sáng ấy chiếu
rọi vào trong tâm hồn ta, nuôi dưỡng tâm hồn. Ánh sáng kì diệu ấy, chiếu tỏa lên mọi
ngóc ngách cuộc đời và tạo nên những cảm xúc tốt đẹp, làm cho cuộc sống trở nên
tươi đẹp và ý nghĩa hơn.
Bài tập 2 trang 154 SGK Ngữ văn 12 tập 1
Bài tập: Chỉ ra lỗi diễn đạt trong hai đoạn văn sau đây được trích từ bài làm của học
sinh và nêu cách sửa.
(1) Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải là một tác phẩm nghệ thuật, bằng lối
sử dụng từ ngữ tinh tế, rõ ràng, những từ gợi tả, gợi cảm, từ láy và điệp từ hoà cùng
với nhịp thơ vui cho ta thấy một bức tranh mùa xuân thật đẹp trong bức tranh ấy
chứa đựng cả tấm lòng, tình cảm của tác giả.
(2) Tuy Nguyễn Du xuất thân từ tầng lớp quyền quý. Cha và anh trai ông đều làm
quan to trong triều. Bản thân ông cũng từng tham gia bộ máy cai trị phong kiến.
Trong những năm loạn lạc, ông có điều kiện sống gần dân, nếm trải đủ mùi cay
đắng. Vì thế, ông rất đồng cảm với người dân cùng khổ. Trả lời:
(1) Các lỗi diễn đạt trong đoạn văn và cách sửa:
- Lỗi lô-gic. Không thể chỉ ghi là tác phẩm nghệ thuật mà cần phải nhận định đây là
tác phẩm nghệ thuật có đặc điểm gì, nhằm tạo tiền đề nội dung cho vế sau triển
khai. Vì vậy cần thêm từ đặc sắc/ độc đáo kết hợp với dấu chấm câu để ngắt vế câu.
Sau khi sửa, câu văn sẽ trở thành “ Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải là một
tác phẩm nghệ thuật độc đáo. Bằng lối...”
- Lỗi thiếu từ ngữ và sử dụng dấu câu: Từ ngữ “điệp từ” cần bổ sung đầy đủ thành
“biện pháp điệp từ”, kết hợp dấu phẩy, ngắt vế câu. Câu văn sau khi sửa: “những từ
gợi tả, gợi cảm, từ láy và biệp pháp điệp từ , hoà cùng với nhịp thơ vui”
- Lỗi dùng từ: “nhịp thơ vui” sửa thành “ nhịp điệu vui tươi”. Câu văn sau khi sửa:
“hoà cùng với nhịp điệu vui tươi..”
- Lỗi dấu câu: Sử dụng dấu chấm ngăn cách vế câu “bức tranh mùa xuân thật đẹp
trong bức tranh ấy”. Sau khi sửa : “bức tranh mùa xuân thật đẹp. Trong bức tranh ấy…”
(2) Các lỗi diễn đạt trong đoạn văn và cách sửa:
- Lỗi dùng sai quan hệ từ “tuy...nhưng”. Cần sửa lại: bỏ quan hệ từ “tuy”
- Lỗi sử dụng giấu câu: “Tuy Nguyễn Du xuất thân từ tầng lớp quyền quý. Cha và
anh trai ông đều làm quan to trong triều”. Sử dụng dấu phẩy thay dấu chấm bởi lẽ,
vế câu sau là ý nghĩa bổ sung cho vế trước. Sau khi sửa : “Tuy Nguyễn Du xuất thân
từ tầng lớp quyền quý, cha và anh trai ông đều làm quan to trong triều”