






Preview text:
Sự hình thành và ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh 1. Mở đầu vấn đề
Những triết gia của thế kỉ 19 như là Søren Kierkegaard và Friedrich Nietzsche
được xem là cha đẻ của thuyết hiện sinh. Tuy nhiên ảnh hưởng của họ đã
mở rộng ra hơn là tư tưởng về chủ nghĩa hiện sinh. Những tác phẩm của
Kiekegaard nhắm vào hệ thống triết học lý tưởng của Georg Wilhelm
Friedrich Hegel mà ông nghĩ rằng đã mặc kệ hoặc loại trừ đời sống chủ quan
bên trong nội tâm của con người. Kierkegaard, ngược lại, cho rằng "sự thật là
chủ quan", biện luận rằng điều quan trọng nhất đối với một người thực sự là
những câu hỏi liên quan đến những mối quan hệ cá nhân bên trong người đó
với sự tồn tại. Đặc biệt là, Kierkegaard, một người theo Công giáo, tin rằng
sự thật của niềm tin tôn giáo là một câu hỏi mang tính khách quan, và người
ta phải vật lộn với nó một cách nhiệt tình.
Nhiều triết gia ảnh hưởng bởi Kierkegaard cũng là những triết gia tôn giáo.
Danh sách của những triết gia theo chủ nghĩa hiện sinh theo Kitô giáo bao
gồm Gabriel Marcel, Nicholas Berdyaev, Miguel de Unamuno và Karl Jaspers
(mặc dù ông thích nói về điều ông gọi là "niềm tin có tính triết học"). Nhà văn
người Do Thái Martin Buber và Lev Shestov cũng được cho là có liên hệ với
chủ nghĩa hiện sinh. Đến mức độ nào Martin Heidegger nên được xem là một
người theo chủ nghĩa hiện sinh là một vấn đề còn gây nhiều tranh cãi[19],
như chiến thuật của ông, trong cuốn sách Tồn tại và thời gian, về những giải
thích về sự tồn tại của loài người (Dasein), phải được phân tích theo các thể
loại của chủ nghĩa hiện sinh (existentiale), đã làm nhiều bình luận viên xem
ông như là một nhân vật quan trọng trong phong trào chủ nghĩa hiện sinh.
Chắc chắn là ông đã ảnh hưởng lên Jean-Paul Sartre người mà, cùng với
Albert Camus và Simone de Beauvoir, có lẽ đã trở thành những người ủng hộ
nổi tiếng nhất cho chủ nghĩa hiện sinh, khai phá nó không chỉ trong những tác
phẩm mang tính lý thuyết như magnum opus của ông Tồn tại và sự trống
rỗng (L'Être et le Néant), mà còn trong các vở kịch và các cuốn tiểu thuyết.
Sartre, Camus và de Beauvoir tất cả đều đại diện cho một nhánh vô thần của
chủ nghĩa hiện sinh, mà bây giờ có liên hệ gần hơn với những ý tưởng của
họ về nausea, contingency, niềm tin xấu và lố bịch hơn là những ý tưởng
mang tính tôn giáo angst của Kierkegaard. Tuy nhiên, sự tập trung vào cá
nhân con người, chịu trách nhiệm trước vũ trụ cho sự chân thực của sự tồn
tại của anh/cô ta, là điểm chung của tất cả các triết gia.2. Nội dung hiện sinh có trước bản chất
Sở dĩ được gọi là chủ nghĩa hiện sinh là vì chủ nghĩa này nhấn mạnh rằng
đời sống nhân loại chỉ có thể hiểu được thông qua sự hiện sinh của cá nhân,
tức là thông qua kinh nghiệm riêng biệt của anh ta về cuộc đời.
Người ta sống, chứ không phải tồn tại, trong mỗi phút giây, và kinh nghiệm về
cuộc sống của mỗi người luôn có tính chất độc đáo, khác biệt hoàn toàn với
kinh nghiệm của mọi người, và chỉ có thể được hiểu đúng thông qua sự dấn
thân của anh ta vào cuộc sống. Chủ nghĩa hiện sinh chối bỏ quan điểm về
khuôn mẫu lý tưởng của Con Người viết hoa, hoặc của nhân loại, trong đó
mỗi người chỉ là một hình ảnh của con người phổ quát. Nó cũng khước từ
câu hỏi của triết học Hy-lạp “Nhân loại là gì?”, một câu hỏi hàm ý rằng con
người có thể được định nghĩa, nếu như anh ta được đặt vào một vị trí thích
hợp trong trật tự vạn vật; thay vào đó, nó hỏi cái câu hỏi của Job và thánh
Augustine “Tôi là ai?” với sự gợi ý về tính độc đáo và kỳ bí của mỗi thân phận
và sự nhấn mạnh đến chủ thể tính, tức nhân vị, hơn là đến khách thể tính,
tức sự vật. Nhìn bên ngoài, con người chỉ là một sinh linh như mọi sinh linh
khác; nhưng nhìn từ bên trong, anh ta là cả một vũ trụ, là trung tâm của cái vô
cùng. Các nhà hiện sinh đề cao quan điểm chủ thể tính, và tất cả những đặc
tính còn lại của chủ nghĩa hiện sinh đều phát triển từ quan điểm này.
2. Khái niệm chủ nghĩa hiện sinh
Chủ nghĩa hiện sinh (existentialism), hay thuyết hiện sinh, là một chủ nghĩa
triết học bắt nguồn từ một nhóm triết gia thế kỷ 19, trong đó có các cái tên rất
quen thuộc như Søren Kierkegaard, Jean-Paul Sartre, Friedrich Nietzsche và
Albert Camus. Chủ nghĩa hiện sinh nhấn mạnh trải nghiệm, hành động, cách
sống của cá nhân mỗi người. Điều đó có nghĩa là gì? Hiểu nôm na mà nói,
chủ nghĩa hiện sinh cho rằng thế giới này chỉ có thể tồn tại nếu như mỗi cá
nhân đều sống, đều trải nghiệm và đều tư duy. Thế giới của một người chỉ có
thể tồn tại nếu anh ta tồn tại, và chính bản thân suy nghĩ, tính cách và việc
anh ta nhìn nhận thế giới ra sao làm nên tính chất thế giới của anh ta.
Ở điểm này, chủ nghĩa hiện sinh tôn trọng sự riêng biệt của mỗi cá nhân, và
đề cao sự thật rằng không có một "nhân loại" chung chung nào, mà chỉ có
những người có cuộc sống vô cùng khác nhau và là những "vũ trụ thu nhỏ" bao la rộng lớn.
Bên cạnh việc đề cao trải nghiệm cá nhân, chủ nghĩa hiện sinh cũng thường
hay bị nhầm lẫn với chủ nghĩa hư vô (nihilism). Mặc dù đều chia sẻ một quan
điểm chung là mọi thứ, bao gồm cả "cuộc sống" nói chung đều vô nghĩa, hai
chủ nghĩa này hoàn toàn khác nhau. Trong khi chủ nghĩa hư vô nhìn vào sự
tuyệt vọng, đoạn diệt và không có ý nghĩa của cuộc sống, chủ nghĩa hiện sinh
nhấn mạnh cuộc sống của mỗi cá nhân. Nếu hỏi cả hai nhà triết học theo hai
chủ nghĩa này câu "Cuộc sống có ý nghĩa gì?" họ đều sẽ trả lời là Không có ý
nghĩa, nhưng nếu hỏi "Cuộc sống CỦA ANH có ý nghĩa gì", trong khi nhà Hư
vô vẫn trả lời không, câu trả lời của nhà Hiện sinh lại đầy đam mê với cuộc
sống. Tất cả những tác phẩm của nhà hiện sinh, điển hình như Albert Camus,
đều lấy con người làm trọng tâm của mọi vật, và chính con người, tình yêu
của con người với nhau sẽ làm cho cuộc sống bớt hoang mang.
Sự khác nhau to lớn ở đây chính là, chủ nghĩa hiện sinh cho rằng không hề
có "cuộc đời" nói chung, chỉ có "cuộc đời mỗi cá nhân". Khi ta nhắc đến "cuộc
đời", ta vô tình gom chung tất cả cá nhân vào một chủ thể, nhưng làm như
thế là vô nghĩa, vì cuộc đời của mỗi người khác nhau, nên không thể nào kết
luận một quan điểm chung về mục đích của nó. Câu hỏi "Cuộc sống có ý
nghĩa gì?" gần như thừa thãi, mà phải là "Cuộc sống của tôi có ý nghĩa gì?".
Câu hỏi đó không nên hướng về sự cao cả, vĩ đại của vũ trụ, mà chỉ nên là câu hỏi cá nhân.
3. Hình thành chủ nghĩa hiện sinh như thế nào?
Có thuật ngữ “Existentialism”(Chủ nghĩa hiện sinh), có gốc từ “Existence”có
nghĩa là sự tồn tại hay hiện hữu, nhưng không phải là sự tồn tại của các sự
vật, hiện tượng vật lý hay sự tồn tại của sinh vật mà là sự tồn tại của con người.
Chủ nghĩa hiện sinh ra đời ở Đức cuối chiến tranh thế giới thứ nhất với hai
đại biểu lớn là Martin Heidegger (1889-1976) và Karl Jasper (1883 - 1969),
sau đó lan nhanh sang Pháp tạo nên các tên tuổi như Jean Paul Sartre
(1905-1980), Garbie Marcel (1889 -1978), Albert Camus (1913-1960),
Merleau Ponty (1908-1961). Ban đầu, chủ nghĩa hiện sinh là một trào lưu văn
học phản ánh triết lý sống tự nhiên, tự tại, tự do bằng các hình thức tiểu
thuyết, truyện, kịch, thi ca, nhật ký, tiểu luận,.. Theo dòng thời gian, triết lý
sống đó được đa số người chấp nhận và lý luận hóa, trừu tượng hóa trở
thành một trường phái triết học, một phong trào xã hội, ảnh hưởng sâu rộng
trong lối sống giới trẻ.
Sự ra đời của chủ nghĩa hiện sinh là hiện tượng xã hội tất yếu phù hợp với xu
hướng phát triển tâm lý thời đại chống lại bản thể luận và nhận thức luận
trong siêu hình học truyền thống, theo đó các triết gia mải mê tìm kiếm nguồn
gốc vũ trụ, lý giải quá trình nhận thức mà bỏ quên thân phận và kiếp sống con
người, không lý giải mối quan hệ phụ thuộc giữa cá nhân và xã hội, giữa tự
do và tất yếu. Tuy khoa học kỹ thuật có mặt để giảm nhẹ sức lao động,
nhưng rồi chẳng mấy chốc máy móc đã ép con người theo guồng quay và trở
thành nô lệ của nó. Trong cuộc sống hiện đại, để tồn tại con người nhiều lúc
phải tự đánh mất mình, bị đổi ngôi từ “nhân vị” thành “đại từ”, từ “chủ thể”
thành “đối tượng”, từ “tôi” thành “nó”. Chung quy là buộc phải tha hóa đúng
như nhận định của triết gia Nitschez: “Con người đã chết”.
Chủ nghĩa hiện sinh đồng thời là sự đáp trả tư tưởng tư biện trừu tượng triết
học Hegel trong quá trình đi tìm các khái niệm phổ biến mà không quan tâm
đến đời sống hiện thực của con người và chủ nghĩa lãng mạn trong văn học
cổ điển đã lý tưởng hóa tình yêu và cuộc sống, dẫn dắt con người ngày càng
xa rời hiện thực. Triết học truyền thống quá lý thuyết, chủ nghĩa lãng mạn văn
học cổ điển lún sâu miêu tả những chuyện tình lâm ly bi tráng, trong khi đó
con người sống càng ngày càng tự do và thực dụng, giao tiếp giữa người và
người trở nên cởi mở, thẳng thắn, đời sống con người đòi hỏi mọi vấn đề
phải cụ thể hơn, sát thực hơn, dấn thân hay “hiện sinh hơn”.
4. Ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh đến đời sống xã hội và văn học như thế nào?
Với mục đích muốn làm thay đổi quan niệm sống và lối sống con người hiện
đại, ngôn ngữ phức tạp và luận chứng của chủ nghĩa hiện sinh hoàn toàn
hướng vào tầng lớp trí thức có nhiệm vụ làm lay chuyển các định hướng duy
khoa học và các ảo tưởng kỹ trị. Về phương diện này có thể nói chủ nghĩa
hiện sinh đã đạt được những thành tựu nhất định, và mặc dù hiện nay nó
hoàn toàn vô hiệu trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học, song
những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh đã đi vào tâm tính hiện đại.
Điều đó trước hết có liên quan tới việc vạch ra tính giả dối của ý thức thỏa
hiệp, tính kiên định của sự lựa chọn với tư cách là điều kiện để hình thành cá
tính đích thực và khắc phục niềm tin thơ ngây của nhân loại vào tiến bộ khoa học - kỹ thuật.
Là một trào lưu chuyển tải tư tưởng bằng tác phẩm văn học, chủ nghĩa hiện
sinh lan nhanh và ảnh hưởng sâu rộng đến giới trẻ phương Tây, tạo nên
những phong trào rộng rãi trong cuộc sống phương Tây vào những năm 60 -
70 thế kỷ XX như “Hippy”, “Anti-State”, “Anti-Modern”, “Sexual Liberation”.
Các phong trào này đã tạo nên một cuộc sống sôi động trong giới trẻ, góp
phần khẳng định tiến bộ xã hội trong vấn đề bảo vệ nhân quyền, đề cao các
quyền tự do, nhất là tự do ngôn luận.
Khi nói về sự ảnh hưởng chủ nghĩa hiện sinh ở Việt Nam nó là một cách tự
phát, chủ nghĩa hiện sinh đã manh nha trong Cung oán ngâm khúc của
Nguyễn Gia Thiều khi ông miêu tả thân phận của những thiếu nữ được tuyển
vào cung Vua phủ chúa chờ ngày ân ái.
Thông qua đó, tác giả đã nói lên thân phận “bèo dạt mây trôi” của kiếp làm
người nói chung: “Thảo nào khi mới chôn nhau / Đã mang tiếng khóc ban đầu
mà ra/ Khóc vì nỗi thiết tha sự thế/ Ai bày trò bãi bể nương dâu/ Trắng răng
đến thuở bạc đầu. .Trăm năm còn có gì đâu - Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì”.
Tiếp theo Cung oán ngâm khúc, Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng là một thi
phẩm phản ánh đời sống “hồng nhan bạc phận” của nàng Kiều với những
tiếng kêu xé lòng đứt ruột: “Trăm năm trong cõi người ta/ Những điều trông
thấy mà đau đớn lòng...Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng
là lời chung”. Mười lăm năm sống lưu lạc của nàng Kiều là một bản cáo trạng
lên án chế độ phong kiến đương thời, một chế độ “nhất nam viết hữu, thập
nữ viết vô”, coi thường thân phận của người phụ nữ, xem họ thân phận họ như những hạt mưa rơi.
Từ phương Tây, chủ nghĩa hiện sinh theo gót chân quân xâm lược Pháp đến
Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ XX, hiện diện trên thi đàn như thơ say
của Vũ Hồng Chương, thơ mới, phản ánh tình yêu hiện đại của các thi sĩ tiền
chiến, đặc biệt là thơ Xuân Diệu. Ở miền Nam, dưới thời tạm chiếm, chủ
nghĩa hiện sinh đã trở thành mốt sống của thanh niên đô thị. Tư tưởng hiện
sinh phản ánh trong hàng loạt các tác phẩm văn học, điển hình là các tác
phẩm của Duyên Anh, Nguyễn Thị Hoàng, Thanh Tâm Tuyền,.. đã nói lên
tinh thần lo âu, tuyệt vọng, nổi loạn, phản kháng của tầng lớp thanh niên
“sống giữa hai làn đạn”.Trên một khía cạnh nào đó có thể nói chủ nghĩa hiện
sinh ở miền nam Việt Nam trước giải phóng đã góp tiếng nói phản kháng sự
xâm lược của Mỹ như phong trào “dậy mà đi” phản ánh sự dấn thân của tuổi
trẻ trong công cuộc giải phóng đất nước.
Sau công cuộc đổi mới do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng, với phương
châm “cởi trói cho văn học nghệ thuật”, chủ nghĩa hiện sinh có cơ hội thể hiện
nguyên hình trên diễn đàn văn học với các gương mặt tiêu biểu như: Nguyễn
Quang Lập (Một nửa đời đen - trắng, Đời cát), Nguyễn Minh Châu (Phiên chợ
Giát), Phạm Thị Hoài (Thiên sứ, Mê lộ, Man nương), Dương Thu Hương (Bên
kia bờ ảo vọng, Những thiên đường mù), Bảo Ninh (Nỗi buồn chiến tranh),
Nguyễn Huy Thiệp (Phẩm tiết, Vàng lửa, Tướng về hưu, Thương nhớ đồng
ơi...), Chu Lai (Ăn mày dĩ vãng), Dương Hướng (Bến không chồng), Nguyễn
Thị Ngọc Tư (Cánh đồng bất tận), Đỗ Hoàng Diệu (Bóng đè, Vu quy...),... Các
tác phẩm văn học này đã góp thêm tiếng nói đa dạng cho việc đổi mới của
văn học nước nhà, phản ánh một góc buồn tủi, cô đơn của cuộc sống, phơi
bày thế giới nội tâm giằng xé của con người trong một thời đại đầy lo âu, mâu
thuẫn và biến động từng ngày của khoa học công nghệ. Thực ra chủ nghĩa
hiện sinh trong văn học là sự nối tiếp của chủ nghĩa hiện thực phê phán
nhưng với tinh thần tự nhiên, “vô tư”, thẳng thắn và cay nhiệt hơn, nếu không
nói là đôi khi có ác ý muốn “hạ bệ những thần tượng”, đưa thần tượng (Idol)
và những lý tưởng chính trị - xã hội trở về cuộc sống đời thường, đúng như
nghĩa câu cách ngôn mà Karl Marx yêu thích “Không có gì thuộc về con
người mà xa lạ đối với tôi”. 5. Kết thúc vấn đề
Như vậy, sự ra đời của chủ nghĩa hiện sinh như một liệu pháp tâm lý giải tỏa
những ức chế của đời sống xã hội đã bị giam hãm một thời gian dài, bị cầm
tù bởi những cấm kỵ của chế độ phong kiến, lên án thói đạo đức giả và sự
tha hóa con người trong xã hội biến động về khoa học công nghệ, mong ước
cứu vớt con người trước thảm họa chiến tranh, đưa con người trở về ngôi vị làm người chân chính.
6. Câu hỏi thường gặp về chủ nghĩa hiện sinh
Một số câu hỏi thường gặp liên quan đến chủ nghĩa hiện sinh, cụ thể:
6.1 Hãy nêu nội dung chính của chủ nghĩa hiện sinh?
Chủ Nghĩa Hiện Sinh là một phạm trù triết học suy ngẫm về ý nghĩa, mục đích
và giá trị tồn tại của con người. Thuật ngữ “Existentia” trong tiếng Latinh, và
“Existence” trong tiếng Pháp và Anh, hay “Dasein” trong ngôn ngữ Đức, phản
ánh quan điểm cơ bản của triết lý này. Và mặc dù thuật ngữ này được
chuyển ngữ sang tiếng Việt là “hiện sinh”, có nghĩa là “cuộc sống hiện tại”,
nhưng cách dịch đó đã không bao hàm đầy đủ tư tưởng của một trào lưu triết
học có sức ảnh hưởng như vậy.
6.2 Chủ Nghĩa Hiện Sinh đề cao điều gì?
Chủ Nghĩa Hiện Sinh đề cao trải nghiệm chủ quan trong suy nghĩ, cảm giác
và các hoạt động cá nhân. Luận điểm cốt lõi là “hiện sinh có trước bản chất”.
Tuy vậy, các nhà nghiên cứu và triết gia cũng cho rằng tư tưởng quan trọng
của chủ nghĩa này đồng thời cũng dẫn đến mâu thuẫn lớn nhất của nó, khi
phủ nhận tính tất yếu và quy luật khách quan, và rằng sự tự do lựa chọn của
cá nhân có thể dẫn đến những sai lầm không thể cứu vãn.
6.3 “Existentialism” – Chủ Nghĩa Hiện Sinh nói về vấn đề gì?
“Existentialism” – Chủ Nghĩa Hiện Sinh, không đơn thuần tập trung vào cuộc
sống trước mắt hay sự tồn tại mà ta đang có. Sự sống hiện hữu này cần
nhấn mạnh tính chủ quan, khám phá sự tồn tại của cá nhân cụ thể – một tồn
tại có ý thức và “tồn tại cho” chính cá nhân đó, thay vì chỉ là “tồn tại duy lý”
do/bởi/tại một điều gì đó không phải tự thân mong muốn.
Document Outline
- Sự hình thành và ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh
- 1. Mở đầu vấn đề
- 2. Khái niệm chủ nghĩa hiện sinh
- 3. Hình thành chủ nghĩa hiện sinh như thế nào?
- 4. Ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh đến đời sống
- 5. Kết thúc vấn đề
- 6. Câu hỏi thường gặp về chủ nghĩa hiện sinh
- 6.1 Hãy nêu nội dung chính của chủ nghĩa hiện sinh
- 6.2 Chủ Nghĩa Hiện Sinh đề cao điều gì?
- 6.3 “Existentialism” – Chủ Nghĩa Hiện Sinh nói về