



















Preview text:
SỰ HÌNH THÀNH CỦA VƯƠNG QUỐC CHAMPA
Cách nay hơn 2000 năm, vào thời đại đồ sắt, những cư dân sinh
sống trên dải đất miền Trung Việt Nam ngày nay là chủ nhân
của nền văn hóa Sa Huỳnh. Thế kỉ II TCN, nhà Hán chiếm
nước ta, lập quận Nhật Nam (vùng đất từ phía nam đèo Hoành
Sơn đến Bình Định ngày nay). Không chịu khuất phục, nhân
dân Nhật Nam đã đứng lên lật đổ ách đô hộ của nhà Hán, lập
nhà nước độc lập. Lịch sử vương quốc cổ Chăm Pa bắt đầu.
I. CƠ SỞ CHO VIỆC HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC ĐẦU TIÊN Ở
MIỀN TRUNG - NHÀ NƯỚC LÂM ẤP
Từ thập niên đầu của thế kỷ XX, những thông tin đầu tiên của nền
văn hóa xã hội được công bố trong niên giám năm 1909 của tập san
trường viễn Đông Bác cổ của Pháp( BEFEO) “về phát hiện” một kho
chum trong khoảng 200 chiếc nằm cách mặt đất không sâu trong một
cồn cát ven biển vùng Sa Huỳnh. Tiếp theo những năm sau đó hàng loạt
cuộc khai quật đã được tiến hành ở Sa Huỳnh cũng như khu vực xung
quanh và mở rộng lên phía Bắc ra đến Quảng Bình, phía Nam vào
Đồng nai (địa điểm Dầu Giây, hàng Gòn), lên vùng Tây Nguyên (đặc
biệt là cuộc khai quật lớn di chỉ lung leng năm 2001.
Kết quả của khảo cổ học trong hơn một thế kỷ qua đã khẳng định
trên địa bàn miền Trung Việt Nam (từ Quảng Bình vào đến Bình Thuận
và địa bàn Tây Nguyên) đã hình thành cộng đồng cư dân từ rất sớm quá
trình phát triển liên tục từ trình độ thấp đến trình độ cao hơn. Địa bàn
cộng với mật độ dày đặc hơn cả là miền Duyên Hải từ Quảng Bình đến
Bình Thuận sau đó có thể xác định tương đối rõ nét chủ nhân của văn
hóa Sa Huỳnh là nền văn hóa sắp sớm mang đậm dấu ấn văn hóa biển.
Từ cuối thế kỷ II sau Công Nguyên, địa bàn phân bố của văn hóa
xã hội đã trở thành nơi định cư của người Chăm và nhiều cộng đồng
dân cư khác. Trước khi Quốc gia Lâm Ấp được hình thành miền đất từ
Quảng Bình trở vào có tên là Tượng Lâm, nước Hồ Tôn. Nhiều nguồn
thư tịch của Trung Quốc xác định từ thời Tần, Hán, Tượng Lâm là
huyện cực nam của quận Nhật Nam sau khi nhà Hán thay thế nhà triệu
đô hộ nhà châu năm 111 TCN.
Như vậy dưới thời Hán, Tượng Lâm là miền đất xa nhất về phía
Nam chịu sự đô hộ trực tiếp của chính quyền nhà Hán ở Giao Châu.
Không chịu nổi ách đô hộ của nhà Hán, nhiều cư dân từ các quận Giao
Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam đã trốn lên các vùng rừng núi phía Tây ẩn
nấu hoặc chạy xuống các vùng cực nam hợp lực với những nhóm dân
cư bản địa chống lại quân Hán. Huyện Tượng Lâm trở thành địa bàn
tranh chấp giữa lực lượng quân nhà Hán và các nhóm cư dân bản địa
trong suốt thời kỳ Bắc thuộc.
Từ những thập niên đầu Công Nguyên, tình hình chính trị ở Giao
Chỉ bắt đầu có những diễn biến phức tạp. Khi Tô Định thay Thích
Quang làm Thái Thú đã tăng cường chính sách bóc lột, áp bức đối với
nhân dân Giao Chỉ. Năm 40, Trưng Trắc và Trưng Nhị là dòng dõi lạc
tướng Mê Linh đã khởi binh chống lại chính quyền đô hộ. Nhân dân
Cửu chân, Nhật Nam, Hợp Phố đã nổi dậy hưởng ứng. Cuộc khởi nghĩa
nhanh chóng giành thắng lợi. Hai bà Trưng thu được 65 thành chính
quyền đô hộ của nhà Hán ở Giao Chỉ tan rã.
Năm Đinh Sửu niên hiệu Vĩnh Hòa thứ hai (137), nhân dân
Tượng Lâm lại nổi dậy khởi nghĩa.
Cuối thế kỷ II, vào năm 190-193 nhân lúc Trung Hoa loạn lạc,
chính quyền đô hộ của nhà Hán ở Giao Châu lỏng lẻo, nhân dân huyện
Tượng Lâm với sự lãnh đạo của Khu Liên đã nổi dậy giết Huyện lệnh.
Cuộc khởi nghĩa đã được nhân dân các quận Cửu Chân, Giao Chỉ nhiệt
liệt ủng hộ. Quân khởi nghĩa đánh phá châu thành giết chết thứ sử Giao
châu là Chu Phù. Sao thắng lợi này năm 192 người lãnh đạo cuộc khởi
nghĩa là Khu Liên giành được quyền tự chủ và lập nên quốc gia Lâm
Ấp trên địa bàn huyện Tượng Lâm quận Nhật Nam, thoát khỏi ảnh
hưởng của chính quyền đô hộ Hán.
Như vậy trong suốt thời thuộc Hán, nhân dân huyện Tượng Lâm,
quận Nhật Nam đã cùng với nhân dân Giao Chỉ, Cửu Chân liên tục nổi
dậy chống lại chính quyền đô hộ với ý thức thoát khỏi sự thống trị của
nhà Hán. Thành quả đạt được sau một tiến trình đấu tranh bền bỉ ấy là
sự ra đời của nhà nước đầu tiên của người Chăm trên dải đất miền
Trung - Nhà nước Lâm Ấp.
II. SỰ RA ĐỜI CỦA NHÀ NƯỚC LÂM ẤP
Theo thư tịch cổ Trung Quốc, vào thế kỷ II, một người tên là Khu
Liên đã thành lập nên nước Lâm Ấp. Đó chính là quốc gia của người
Chăm và các cộng đồng dân cư khác trên dải đất miền Trung mà trung
tâm chính trị và tôn giáo được xác định là ở Trà Kiệu (Quảng Nam
Ngày nay). Quốc danh Lâm Ấp xuất hiện lần đầu tiên trong thư tịch
Trung Hoa khoảng năm 230-231 và tồn tại cho đến năm Càn Nguyên
thứ nhất triều Đường Túc Tông (789). Trong bộ chính sử Khâm định
việc xử không giám cương mục, khi chép về thừa tuyên Quảng Nam, sử
thần triều Nguyễn có đoạn: “Khoảng giữa niên hiệu Trình Quán (607-
649) nhà Đường, vua Lâm Ấp là Đầu Lê chết, con là Trấn Long bị giết,
người trong nước là con nhà cô của Đầu Lê là Gia Cát Địa lên làm vua
đổi quốc hiệu là Hoàn Vương thường sang xâm lấn An Nam. Bị đô hộ
nhà Đường là Trương Chu đánh phá nước ấy mới bỏ Lâm ấp dời đến
Chiêm gọi là nước Chiêm Thành.
Như vậy khoảng năm 859 (hoặc 861), Hoàn Vương được gọi là
Chiêm Thành. Tuy nhiên, trong các thư tịch của nước ta và Trung Quốc
có khi chép là Lâm Ấp có khi chép là Hoàn Vương.
Tuy nhiên một số nguồn tài liệu thư tịch đều xác nhận Lâm Áp
dựng nước vào năm 192. Sách Tấn Thư (q.97, tờ 9a) chép: Nước làm
áp lực về đời Hán mạt. Cuối đời Hán, viên Công tào ở huyện Tượng
Lâm họ Khu, có con tên Liên, giết Huyện lệnh, tự lập làm vua, con
cháu nối dõi nhau. Vua sau không có người kế tự, cháu ngoại là Phạm
Hùng thay lập. Các nhà nghiên cứu sau này đều thống nhất chọn năm
192 là năm thành lập quốc gia Lâm Ấp. Một số ý kiến cho rằng Khu
Liên là vị vua mở đầu cho Vương Quốc này và đây chính là Sri Mara,
người được nhắc đến trong nội dung tấm bia có niên đại thế kỷ thứ Hai sau Công Nguyên.
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA VƯƠNG QUỐC CHĂM PA
I. CHĂM PA TỪ KHI THÀNH LẬP ĐẾN CUỐI THẾ KỈ 10 VÀ MỐI
LIÊN HỆ VỚI GIAO CHÂU
1. Giai đoạn Sinhapura và các vương triều phía Bắc (Vương
triều Gangaraja) từ 192 – 757.
Năm 192 Khu Liên (Khu Đạt, Khu Vương) lên ngôi, tên gọi của đất
nước do Khu Liên lập nên lúc này là Lâm Ấp. (người thuyết trình nói
thêm về tên gọi Lâm Ấp). Sau thời kỳ Khu Liên trị vì, đến năm 248 Lâm
Ấp và Giao Châu tổ chức những trận đánh ở vụng Cổ Chiến. Quân Lâm
Ấp chiếm được thành Khu Túc.
Khoảng năm 270, do không có con nối dõi nên cháu ngoại của vua
là Phạm Hùng lên thay. Dưới thời Phạm Hùng, lãnh thổ Lâm Ấp được mở
rộng, phía Bắc tới thành Khu Túc và phía Nam tới Khánh Hòa.
Từ năm 271 – 282, Phạm Hùng liên kết với vua Phù Nam là Phạm
Tầm nhiều lần đem quân đánh phá các huyện ở Giao Châu. Năm 282, quân
Tấn do Đào Hoàng chỉ huy đánh bại quân Lâm Ấp, Phạm Hùng chết, con
là Phạm Dật lên thay vào năm 283. Dưới thời Phạm Dật, Lâm Ấp tương
đối phát triển. Năm 336, Phạm Dật qua đời, Tể tướng Phạm Văn lên ngôi.
Dưới thời Phạm Văn, nhiều lần đánh phủ quận Nhật Nam, chiếm Nhật
Nam và lấy được dãy Hoành Sơn làm cương vực phía Bắc.
Phạm Phật (tại ngôi năm 349 – 380), năm 380, Phạm Phật chết, con
là Phạm Hồ Đạt nối ngôi (trị vì từ 380 – 413). Trong thời gian tại vị, các vị
vua này nhiều lần dòm ngó Nhật Nam nhưng đều bị nhà Tấn đánh bại, và
phải trả lại đất Nhật Nam. Từ 413 – 420, con cháu Phạm Hồ Đạt tranh
giành ngôi vua, nội chiến khắp nơi. Năm 420, Văn Địch xưng hiệu là
Phạm Dương Mại I lên ngôi nhưng trị vì không được lâu. Năm
421 con của Văn Địch là Thái tử Đốt được nhà Đông Tấn phong hầu, hiệu
Phạm Dương Mại II. Trong thời trị vì của mình (421 – 446), nhiều lần sai
sứ sang thông hiếu với Trung Hoa nhưng cũng không ít lần đem quân đánh
phá Giao Châu. Năm 436, nhà Tống thảo phạt Lâm Ấp, cha con Dượng
Mại II trong lúc chạy trốn về phía Nam chinh phục luôn các tiểu vương tại
Vijaya (Bình Định), Aryaru (Phú Yên), thống nhất lãnh thổ phía Bắc.
Năm 446, khi trở về Khu Túc, vua thấy cảnh hoang tàn, buồn rầu mà
chết, từ đây lãnh thổ phía Bắc của Lâm Ấp bị đẩy lùi về huyện Lô Dung
(Thừa Thiên), con cháu Dương Mại II tranh chấp quyền hành. Năm 455,
con Dương Mại II là Phạm Chút lên ngôi, hiệu Thần Thành. Trung tâm
chính trị vẫn tại Khu Túc nhưng vua cho xây thêm một trung tâm văn hóa
và tôn giáo mới tại Amaravati là thánh địa Hào Quang (Mỹ Sơn, Quảng Nam).
Phạm Thần Thành mất năm 472, Lâm Ấp không có vua, triều đình
nhiều biến động, triều đình suy yếu nên tỏ thái độ thần phục nhà Tống.
Năm 484, một người Khmer tên Phạm Đăng Căn Thăng, con vua Phù
Nam Jayavarman tị nạn tại Lâm Ấp cướp ngôi và cầm quyền trong 10
năm. Năm 492, con Phạm Thần Thành là Phạm Chư Nông giành lại ngôi
báu. Phạm Chư Nông chết đuối năm 498, con cháu tiếp tục trị vì đến năm 529:
+ Phạm Văn Tán trị vì từ 498 – 502
+ Phạm Thiên Khải trị vì từ 510 – 514
+ Bật Nhuế Bạt Ma trị vì từ 526 – 529
Năm 529, Bật Nhuế Bạt Ma mất không người kế tự. Triều đình
phong Cao Tất Luật Thi La Bạt Ma lên làm vua, hiệu là Rudravarman.
Năm 577, Thi La Bạt Ma mất, con là Phạm Phạn Chí lên kế nghiệp. Năm
605, vua Tùy Dượng đế sai quân đi đánh Lâm Ấp, Phạm Phạn Chí thất bại.
Nhà Tùy chiếm được Lâm Ấp, chia làm 3 châu là Đãng Châu, Nông Châu
và Xung Châu. Cuối đời Tùy, Trung Hoa biến loạn, Phạm Phạn Chí khôi
phục lãnh thổ cũ Hoan Châu, châu Ái, châu Trong.
Năm 629 – 645, con Phạm Phạn Chí là Phạm Đầu Lê nối ngôi. Năm
645, Phạm Đầu Lê chết, vương triều Lâm Ấp hoan lạc, sau đó triều thần
lập con gái đích của Phạm Đầu Lê làm vua nhưng vị Nữ vương không có
khả năng định quốc nên năm 653, một người con cháu ngoại Rudravarman
I là Chư Cát Địa lên làm vua, hiệu là Vikrantavarman I.
Năm 685, Chư Cát Địa qua đời, con cháu tiếp tục trị vì:
+ 685 – 731, Kiến Đa Đạt Ma tức Vikrantavarman II
+ 731 – 757, Luân Đà La Đạt Ma II tức Rudravarman II
+ 757, Bhadravarman II lên thay nhưng bị các vương tôn miền Nam hạ bệ,
chấm dứt vai trò lãnh đạo của vương triều miền Bắc.
2. Vương triều Panduranga (Hoàn Vương Quốc – Chiêm Thành)
a) Giai đoạn Virapura (757 – 850)
Năm 757, một tiểu vương phía Nam nổi lên rồi tự xưng vương, hiệu
Prithi Indravarman. Prithi Indravarman thống nhất lãnh thổ Chăm Pa, cho
dời kinh đô từ Sinhapura (Trà Kiệu, Quảng Nam) về Virapura (Hùng
Tráng, Ninh Thuận). Năm 774, quân Java từ khơi đổ bộ vào Kauthara
(Khánh Hòa) và Panduranga (Bình Thuận), chiếm kinh đô Virapura. Vua
Prithi Indravarman tử trận. Người cháu gọi ông bằng cậu tên
là Satyavarman được tôn lên kế vị đã đưa toàn bộ triều thần và hoàng tộc
chạy lên miền Bắc tức Bình Định lánh nạn. Được cộng đồng người
Chăm và các nhóm sắc tộc khác giúp đỡ, Satyavarman thành lập một đạo
quân hùng mạnh tiến xuống Kauratha tấn công và đánh đuổi được quân Java.
Năm 786, em trai út của Satyavarman được đưa lên ngôi sau khi ông
mất, vua mới hiệu là Indravarman I (786 – 801). Năm 787, quân Java lại
tràn vào Virapura cướp phá. Mãi đến 799, Indravarman mới đánh
đuổi được quân Java để kiến thiết đất nước. Năm 801, Indravarman mất,
em rể là Hoàng thân Deva Rajadhiraja hiệu là Harivarman I lên thay, mở
đầu một thời kỳ phát triển vượt bậc của Hoàn Vương Quốc. Harivarman I
mất, con trai là tiểu vương Panduraga lên kế vị năm 817, hiệu
Vikrantavarman III. Năm 854, Vikrantavarman mất không người kế vị.
Nội bộ rối loạn và liên tục chống trả cuộc xâm lấn của Angkor trong gần
20 năm (854 – 875) làm cho Hoàn Vương Quốc kiệt quệ.
b) Giai đoạn Indrapura (cuối thế kỉ IX - cuối thế kỉ X)
Lãnh thổ Chăm Pa vào thế kỉ X
Năm 875, một vương tôn thuộc dòng phía Bắc có nhiều chiến công
chống xâm lược của đế quốc Angkor được triều thần đưa lên ngôi, hiệu
Indravarman II. Vua lên ngôi, dời kinh đô lên phía Bắc tại Indrapura hay
thành phố Sấm Sét tức Đồng Dương – trên bờ sông Ly Ly (một nhánh
sông Thu Bồn, cách Trà Kiệu tức Sinhapura 20km).
Năm 898, Indravarman mất, cháu là Hoàng thân kế vị, hiệu là
Jaya Sinhavarman I. Jaya Sinhavarman I mất năm 908, con là Jaya
Saktivarman lên thay không lâu thì qua đời.
Các triều đại tiếp theo:
+ 908 – 916, SriBhadravarman III
+ 917 – 960, từ thời Indravarman III, Chiêm Thành dần dần suy yếu
+ 960 – 972, Jaya IndravarmanI
+ 972 – 982, Paramesvaravarman I.
Năm 982, cuộc chinh phạt của Lê Đại Hành đã chính thức khiến triều đại Indrapura chấm dứt.
3. Vương triều Vijaga (thế kỉ X – thế kỉ XV)
a) Giai đoạn phát triển và thống nhất (cuối thế kỉ X – thế kỉ XIII)
Năm 988, sau khi Câu Thi Lị Ha Thân Bà Ma La (Harivarman II)
lên làm vua, tiến hành dời kinh đô từ Đồng Dương về Phật Thành (Phật
Thệ) gần Quy Nhơn (Bình Định) ngày nay. Và từ đây bắt đầu cho một thời
kì thống nhất và phát triển của Chăm Pa, từ đầu thế kỉ XI đến thế kỉ XIII.
Harivarman II trị vì từ năm 988 – năm 999 thì qua đời nhường ngôi cho
con mình là Dương Phổ Cu Bi Thi Lị (Yang Pô Ku Vijaya Sri). Đến đây
kinh đô của Chăm Pa mới dứt khoát dời về Phật Thành và lấy tên nước là Vijaya.
Yang Pô Ku Vijaya trong thời gian nắm quyền từ năm 999 – 1010
cũng đối mặt với tình trạng bất ổn mọi mặt, nó kéo dài suốt thế kỉ XI.
Sau đó là sự tiếp nối hàng loạt đời vua:
+ Harivarmadeva làm vua khoảng 1010 – 1020
+ Paramesvaraman (trị vì từ năm 1020 – 1030)
+ Vikrantavarman IV (trị vì từ năm 1030 -1041)
Sau đó từ năm 1042 – 1044 là thời kì của vua Sinharvarman II trị vì,
trong một lần Đại Việt tiến đánh vua này tử trận.
Vua Vijaya Paramesvararmedeva Dharmaraja I thế ngôi từ 1044 –
1060. Dưới thời của ông, ban đầu nhiều lần đụng độ với Đại Việt nhưng
sau đó có lẽ nhận thấy sự bất lợi nên chủ động giảng hòa và xây dựng mối
quan hệ mới tốt đẹp. Trong đối nội, Vijaya Paramesvararmedeva I cho tu
bổ và xây dựng thêm các đền tháp ở miền Nam, và ra sức củng cố vương
quyền tại đây, mục đích duy nhất của ông là mong muốn gây ảnh hưởng ở
khu vực phía Nam, tạo điều kiện thống nhất. Tuy nhiên, năm 1050 có lẽ
ngoài dự tính, nhân dân Nam Champanduranga nổi dậy đòi li khai, tách
biệt ra một quốc gia riêng biệt. Nhưng bằng biện pháp tôn giáo, cuộc nổi dậy đã yên ổn.
Sau Vijaya Paramesvaramedeva I, vua Bhadravarman IV lên ngôi
nhưng tại vị thời gian ngắn (1060 – 1061). Quyền lực sang Rudravarman
IV (1061 – 1074). Vào năm 1069 Đại Việt lại tiến đánh Chăm Pa bắt ông,
sau đó trả tự do. Chăm Pa phải nhượng lại ba châu là Bố Chính, Địa Lí,
Ma Linh. Nhưng cuối năm 1074 nổ ra một cuộc chính biến buộc
Rudravarman phải chạy sang Đại Việt. Cuộc chính biến đã đưa
Harivarman IV lên ngôi (trị vì từ năm 1074 – 1081), kết thúc thời kì
bất ổn, mở ra một xu hướng thống nhất.
Sự thống nhất đã bắt đầu nhưng không phải bằng bạo lực mà bằng
một hình thức trước kia Vijaya Paramesvararmedeva I từng áp dụng, đó là
mị dân bằng “thần quyền”. Nhưng Harivarman IV lại chu đáo hơn, ông
dùng chính nguồn gốc có mưu đồ sắp đặt trước của mình để tiến hành
thống nhất Nam và Bắc trong yên ổn. Harivarman IV trước tiên cho mình
là một bộ phận của thần linh, tiếp theo cho rằng nguồn gốc của mình là
xuất phát từ người cha thuộc họ Dừa (Bắc), mẹ thuộc tộc Cau (Nam). Với
lí do bản thân vua là đại diện của thần linh lại mang trong người hai dòng
máu Nam và Bắc, hoàn hảo để những người dân trong nước quá tôn sùng
thần thánh tin rằng giữa Bắc - Nam chính là một thể thống nhất. Ở trình độ
một nền văn minh thế kỉ XI, trong tư tưởng của người dân rằng thần linh
luôn là đấng tối cao, câu chuyện do vị vua trên đặt ra có lí và thực hiện
được. Từ đây cơ sở của một sự thống nhất bắt đầu hình thành. Chính
sự thống nhất đã mang lại những tác động lớn lao về đối ngoại của Chăm
Pa, đặc điểm lớn nhất là gây chiến với các nước láng giềng, nhưng lại nằm
trong thế gọng kìm bởi hai hướng với 2 quốc gia là Đại Việt và Chân Lạp.
Tuy thua Đại Việt nhưng giành thắng lợi với Chân Lạp. Trong giai đoạn
này các công trình như Trà Kiệu, hay Mỹ Sơn được tu bổ và xây dựng.
Năm 1081, Jaya Indravarman II lên thay ngôi, nhưng không lâu bị
Pâng cướp ngôi lên làm vua lấy hiệu là Sri Paramabodhisatva (trị vì từ
năm 1081 – 1086). Tình hình Chăm Pa lúc này tương đối ổn định, và nuôi
ý định cướp lại ba châu đã mất từ tay Đại Việt. Tình trạng hòa, đánh với
Đại Việt và Chân Lạp của Chăm Pa có lẽ kéo dài suốt giai đoạn này. Hai
đời vua tiếp theo là Harivarman V và Indravarman III đã giữ được mối
quan hệ hòa hảo với Đại Việt.
b) Giai đoạn thịnh đạt của Chăm Pa (thế kỉ XIII – thế kỉ XIV)
Sau khi bị Chân Lạp chiếm đóng, năm 1220, họ không một lí do đã
rút khỏi Chân Lạp, nhưng cũng không quên lập nên một chính quyền
thân Angkor, đứng đầu là Jaya Paramesvaraman II. Suốt thời gian trị vì
của mình từ năm 1220 – 1252, ông theo đuổi 2 chính sách: khôi phục kinh
tế và giữ thái độ kì thị với Đại Việt.
Về chính trị và đối ngoại, do là một chính quyền thân Ăngko ngay từ
đầu có lẽ Chăm Pa ngã hẳn về phía Chân Lạp, từ đó mà đối đầu với Đại
Việt. Trong quan hệ với Chân Lạp rõ ràng như vậy, nhưng đối với Đại
Việt có lẽ còn bắt nguồn từ việc bị mất 3 châu ở phía Bắc trước kia, cùng
với thời điểm nhân nhà Lý suy yếu đã tiến hành cướp phá. Nhưng khi mà
Chân Lạp cũng suy yếu, chính sách đối ngoại của Chăm Pa vẫn là đối đầu
với Đại Việt có lẽ là vì muốn mở rộng lãnh thổ.
Thời đại của Jaya Paramesvaraman II tồn tại có một vai trò nhất định
của nó, đó là ổn định đất nước sau chiến tranh). Đến khi Indravarman VI
lên ngôi vực dậy và nâng tầm Chăm Pa, điều trước tiên là ông đã đi thăm
Nam Chăm Pa và thu được những thắng lợi, đó là sự yên ổn tại vùng
Panduranga. Suốt thời gian cai trị từ năm 1265 – 1285, ông đã mang đến
cảnh thái bình, thịnh vượng cho Chăm Pa.
Vị vua có công lớn nhất là Chế Mân – Jaya Sinhavarman IV trị vì từ
năm 1285 đến năm 1305. Chế Mân đã tiếp tục những chính sách của vua
cha và đưa Champa đến thời huy hoàng. Biểu hiện rõ nhất là lần mở rộng
lãnh thổ về phía Tây lên miền thượng nguyên – lưu vực sông Đà Rằng và
Sre Pốc. Thứ hai, thương nghiệp được phát triển với việc mở lại các cảng
thị mà quan trọng nhất là cảng Tini – Thilibinai. Bên cạnh phát triển về
thương nghiệp và mở rộng lãnh thổ, nhân dân Chăm Pa lại một lần nữa đối
đầu với quân Nguyên, nhưng bằng chính sách ngoại giao mềm dẻo của
Chế Mân cuộc xâm lược đã không diễn ra. Trong khi đó đối với Đại Việt,
mối quan hệ lại được tiếp tục phát triển với việc công chúa Huyền Trân –
người con gái của Trần Nhân Tông được gả cho Chế Mân là biểu hiện rõ
nhất. Người Chăm Pa chịu mất châu Ô và châu Lý để đổi lại sự ổn định cơ
bản để phát triển đất nước, đó là một lựa chọn thông minh. Tuy về sau có
một chút hiềm khích nhưng mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước vẫn cố
được duy trì. Như vậy với những điều nêu trên có thể khẳng định đây là
giai đoạn thịnh vượn nhất của vương quốc Chăm Pa sau mấy thế kỉ bất ổn về chính trị.
II . TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ XÃ HỘI. CÁC THÀNH TỰU VỀ
HOẠT ĐỘNG KINH TẾ - VĂN HOÁ – NGHỆ THUẬT CHĂM PA
1. Tình hình chính trị, xã hội
a) Tổ chức chính trị và bộ máy chính quyền:
Về chính trị, vương quốc Chăm Pa gồm 5 tiểu vương quốc trải dài từ
Đèo Ngang (Quảng Bình) đến mũi Kê Gà (Bình Thuận), đó là: Indrapura,
Amaravati, Vijaya, Kauthara và Panduranga. Mỗi tiểu vương quốc có một
lãnh thổ riêng cùng cư dân sinh sống trên lãnh thổ đó, hoạt động độc lập trên lãnh thổ của mình.
Vì tổ chức theo định chế liên bang như vậy nên trên thực tế, triều
đình trung ương chỉ giữ vai trò thần quyền, gìn giữ sự thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ. Đứng đầu vương quốc là vua. Các vị vua Lâm Ấp đều lấy tên
mình là tên một thần linh, thường là với Siva để độc quyền cai trị. Nhà vua
là chủ sở hữu tối cao, tuyệt đối về ruộng đất cũng như thần dân. Phụ tá nhà
vua là các quan lại trung ương và địa phương, được phân chia thành ba
hạng: đứng đầu là hai vị tôn quan (hai tể tướng võ và văn), kế là thuộc
quan gồm ba hạng: Luân đa đỉnh, Ca luân trí đế và Ất tha già lan, sau cùng
là ngoại quan (quan lại địa phương). Bên cạnh đội ngũ quan lại còn có một
số tăng lữ Bàlamôn, thường là người Ấn Độ, là những chức sắc cao cấp về
tôn giáo và ảnh hưởng lớn về chính trị, văn hóa ở triều đình Champa.
Lực lượng quân đội – công cụ bảo vệ triều đình – cũng được chú
trọng phát triển. Đương thời, vương quốc Chăm Pa có một đội quân
thường trực đông tới 4 – 5 vạn người. Họ được cấp lương bằng hiện vật
(quần áo, thóc gạo), dùng những vũ khí như cung, nỏ, kích, toàn, mộc và
giáo. Ngoài bộ binh thì còn có một binh chủng đặc biệt là kỵ binh và
tượng binh. Chăm Pa là một nước giáp biển nên quân đội thường mạnh về
thủy chiến, thủy quân cũng được đặc biệt quan tâm xây dựng, nên ở đầu
thế kỷ V, Chăm Pa đã có một đội “lâu thuyền”. Dưới thời Phạm Văn, kỹ
thuật luyện sắt (rèn kiếm, đúc lao) đạt đến tột đỉnh. Phạm Văn theo một
thương gia người Lâm Ấp sang Trung Hoa và Ấn Độ buôn bán, nhờ đó đã
học hỏi được kĩ thuật luyện kim và xây thành lũy của người Trung Hoa.
b) Phân hóa xã hội:
Đạo Bàlamôn trở thành tôn giáo chính của Lâm Ấp trong giai đoạn
đầu, vì vậy luật Manu của đạo Bàlamôn ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội
Lâm Ấp trong nhiều thế kỷ. Luật Manu phân chia xã hội thành bốn đẳng cấp:
+ Đứng đầu là Brahman, tức giới tăng lữ, nắm quyền tối cao về văn hóa tư tưởng và học thuật
+ Thứ hai là Ksatriya, tức đẳng cấp vua chúa, quý tộc, chiến binh, nắm
quyền tối cao về chính trị và quân sự
+ Thứ ba là những thương gia và phú nông, nắm quyền về kinh tế và xây dựng
+ Thứ tư là thợ thủ công, dân nghèo. Đây là tầng lớp thấp trong xã hội
Chăm Pa cổ đại, họ sinh ra để bị sai khiến và làm nô dịch.
Sự phân chia đẳng cấp xã hội như trên biểu hiện rõ ràng nhất trên ở
lãnh thổ phía Nam của vương quốc, còn trên lãnh thổ phía Bắc do chịu
ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa và Phật giáo Đại Thừa nên sự
phân chia đẳng cấp không thật sự rõ rệt.
2. Hoạt động kinh tế
a) Sản xuất nông nghiệp:
Đóng vai trò chủ yếu trong toàn bộ nền kinh tế của vương quốc
Chăm Pa và đời sống của cư dân. Sức kéo trong sản xuất là trâu bò. Thủy
lợi tưới tiêu khá phát đạt. Lương thực chính của Chăm Pa là lúa, ngoài lúa
còn có những loại ngũ cốc khác như đậu, kê, vừng, ngô,… Thư tịch cổ
cũng nói tới tầm quan trọng của việc trồng lúa: “Người Tượng Lâm biết
cày đến nay hơn 600 năm (tức từ khoảng đầu Công nguyên). Phép đốt rẫy
để trồng cũng như người Hoa. Nơi gọi là bạch điền thì trồng lúa trắng,
tháng bảy làm thì tháng mười lúa chín, nơi gọi là xích điền thì trồng lúa đỏ,
tháng mười hai làm thì tháng tư lúa chín. Như thế gọi là lúa chín hai mùa.”.
Việc vua cấp lương cho binh lính bằng thóc gạo và việc dựng đền bao giờ
cũng đi liền với yêu cầu cúng tặng ruộng đất, cũng nói lên địa vị đặc biệt
của nông nghiệp trong đời sống kinh tế. Chăm Pa là đất nước giáp biển
nên nghề đánh bắt cá cũng là nghề quen thuộc của người dân nơi đây. Biển
Chăm Pa có rất nhiều cá, ngoài ra còn có san hô, đồi mồi, ngọc trai.
b) Thủ công nghiệp: • Nghề dệt:
Trong các di chỉ Sa Huỳnh, khảo cổ học đã phát hiện ra nhiều dọi xe
chỉ với những bước tiến bộ vượt bậc chứng minh nghề dệt vải trong vương
quốc cổ Chăm Pa đã đạt một trình độ phát triển khá và có truyền thống lâu
đời. “Thủy kinh chú” cho biết người Chăm xưa có nghề chăn tằm dệt lụa,
nhưng nổi bật nhất vẫn là nghề dệt vải. Người ta đã biết trồng đay và có lẽ
cả bông, có thể cung cấp nguyên liệu để dệt một loại vải trắng rất đẹp mà
các tài liệu xưa gọi là “cát bối”. Hầu hết các tầng lớp trong xã hội từ vua,
quan và cả phụ nữ quý tộc đều chỉ dùng loại vải này. Ngoài ra, vải trắng
còn được dùng để làm cáng, tán và cờ phướn. Vải trắng Chăm là một đặc sản đẹp và quý.
⇨ Việc xe sợi, dệt vải trắng, nhuộm và dệt nhiều màu, đã phổ biến
và có kĩ thuật tinh xảo, làm thành một bước tiến đáng kể của nghề thủ công cổ truyền này. • Nghề gốm:
Trong nền văn hóa Sa Huỳnh, kĩ thuật chế tạo và trang trí mỹ thuật
của đồ gốm đạt đến độ tinh xảo và độc đáo. Tuy nhiên, cư dân sau Sa
Huỳnh không lưu lại tín hiệu gì đáng kể để có thể xác định được sự tồn tại
và phát triển của nghề này. • Nghề kim khí:
Sau những vũ khí và công cụ bằng đồng và sắt tìm thấy ở các di chỉ
Sa Huỳnh, ta còn được biết về nghề gia công kim loại qua các tài liệu
viết. Chính sử Trung Hoa cho biết: Chăm Pa đúc tượng người bằng vàng
và bạc rất lớn. Theo mô tả thì Quốc vương Chăm Pa trang sức rất cầu kỳ,
đeo nhiều đồ trang sức bằng trân châu và kim khí quỷ. Quân đội cũng cần
được trang bị nhiều loại vũ khí khác nhau như giáo, lao,… là sản phẩm của nghề kim khí.
⇨ Với những nhu cầu đó, nghề rèn đúc kim loại và gia công đồ trang
sức đương nhiên đã sớm có điều kiện phát triển. c) Thương nghiệp
Là một quốc gia có bờ biển dài, cư dân của vương quốc Chăm Pa
gắn với biển bằng cách mở cửa quan hệ với bên ngoài. Không chỉ là hoạt
động hải sản mà có lẽ họ còn tổ chức buôn bán với các quốc gia hải đảo
khác trong khu vực. Tuy nhiên trên thực tế, do nhu cầu tiêu dùng trong
nước đơn giản, sản phẩm thủ công nghèo nàn và “gạo không xuất ra
ngoài” nên Chăm Pa không thực sự phát triển về hoạt động nội thương
cũng như ngoại thương. Trước thế kỷ X, do điều kiện kĩ thuật hàng hải còn
hạn chế nên quan hệ trao đổi giữa Chăm Pa với nước ngoài bằng được
biển chưa phát triển. Nhìn chung, nền kinh tế của vương quốc Chăm Pa cổ
còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc.
3. Văn hóa – nghệ thuật a) Văn hóa • Tôn giáo: + Đạo Bàlamôn:
Buổi đầu, đạo Bàlamôn phát triển mạnh tại các tiểu vương phía Nam
và từ thế kỷ thứ IV bắt đầu phát triển ra miền Bắc, dưới triều vua
Bhadravarman I, người sáng lập ra triều đại Gangaraja. Trong xã hội
Champa cổ, đẳng cấp tu sĩ (Brahman) rất được trọng vọng, đạo Bàlamôn
rất thịnh hành. Jaya Sinhavarman I mất năm 898, con là Jaya Saktivarman
lên thay (899-901). Những vị vua tiếp theo – Bhadravarman II (901-918)
và con là Indravarman III (918-959) – tiếp tục sự nghiệp của cha ông trong
lĩnh vực tôn giáo: đạo Bàlamôn trở thành Quốc giáo. Đạo Bàlamôn giữ vai
trò độc tôn trong các triều đại cho đến thế kỷ X, sau đó nhường vai trò
Quốc giáo cho đạo Phật Tiểu Thừa. + Phật giáo:
Dưới thời Phạm Hồ Đạt, Phật giáo Tiểu thừa (Thevada) phát triển
mạnh, nhiều nhà sư từ Ấn Độ sang Lâm Ấp truyền đạo. Phật giáo Champa
có hai phái: phái Tiểu thừa và phái Đại thừa. Đa số phật tử Chăm trong
giai đoạn đầu theo phái Tiểu thừa. Trên địa bàn các tiểu vương miền Nam
hầu như không có dấu vết của Phật giáo đại thừa. Trái lại, ở miền Bắc,
Phật giáo Đại thừa được các vị sư Trung Hoa du nhập vào và phát triển
mạnh từ thế kỷ thứ VI đến thế kỷ thứ IX, ảnh hưởng mạnh mẽ đặc biệt
trong tầng lớp nhân dân lao động. + Đạo Hồi:
Trong các thế kỷ VII – IX, nhiều thuyền buôn Ả Rập từ các hải cảng
Barsa, Siraf và Oman đã đến buôn bán với Chiêm thành nhưng không
được đón tiếp nồng hậu do ngôn ngữ bất đồng, do đó không thể truyền đạo
cho dân chúng địa phương. Mốc thời gian đạo Hồi được du nhập mạnh mẽ
vào Chiêm Thành là thế kỷ X, dưới thời vua Indravarman III (918 – 959).
Trong các thế kỷ sau mới có thêm các giáo sĩ, thương gia và giáo dân Hồi
giáo Java đến Chiêm thành giảng dạy giáo lý và có độ lan tỏa rộng trong
quần chúng nhân dân và giáo lý đạo Hồi chinh phục nhanh chóng đức tin
của người dân Chiêm thành. Đạo Hồi được đông đảo quần chúng bình dân
tin theo. Từ thế kỷ XI trở đi, đạo Hồi trở thành tôn giáo thứ hai của vương
quốc Chiêm Thành, sau đạo Bàlamôn. Tuy nhiên, đạo hồi được truyền bá
vào vương quốc Chiêm thành qua trung gian các nhà ngoại giao và thương
nhân Java và Sumatra nên có nhiều khác biệt so với đạo Hồi chính thống.
• Phong tục – tín ngưỡng:
Người Chăm giữ rất lâu một số phong tục của mình. Họ “cho màu
đen là đẹp”, đặc biệt gắn liền với tục ăn trầu là tục nhuộm răng đen. Tập
tục “cùng họ kết hôn với nhau” (Nam Tề thư) được người Chăm bảo tồn
trong suốt lịch sử phát triển của vương quốc. Trong xã hội Chăm, địa vị
phụ nữ được coi trọng, người con gái đóng vai trò chủ động trong quan hệ
hôn nhân, quan hệ tính theo dòng mẹ thường có ý nghĩa rất lớn. Người
Chăm cũng bảo lưu khá nguyên vẹn tục lệ thờ cúng tổ tiên và việc tang lễ.
Tín ngưỡng thực sự bền vững và sâu sắc là tình cảm gắn bó với tổ
tiên, là người sáng lập ra dòng họ. Tổ tiên còn được người Chăm đồng
nhất với những vị thần nào đó để thờ phụng và tôn kính. Tang lễ là một
trong những biểu hiện sâu sắc nhất giữa người sống đối với tổ tiên và dòng
họ. Hình thức hỏa thiêu được áp dụng khá phổ biến. Đối với tầng lớp quý
tộc và đặc biệt là vua chúa, sau khi chết thì vợ và cung nữ cũng lên giàn
hỏa thiêu. Chính sử nước ta đã từng chép về sự kiện quốc vương Chiêm
Thành là Chế Mân chết năm 1307, công chúa Huyền Trân buộc phải lên
giàn hỏa thiêu, sau được Trần Khắc Chung cứu thoát. • Chữ viết:
Tại khu vực miền Bắc, trước khi Khu Liên thành lập quốc gia Lâm
Ấp thì do ảnh hưởng của Trung Hoa nên tầng lớp tôn thất và quý tộc
Chăm đã sử dụng chữ Hán trong các văn thư trao đổi với quan lại nhà Hán
tại Giao Chỉ. Sau khi Khu Liên qua đời, chữ Phạn cổ (Sanskrit) – một loại
chữ viết xuất phát từ miền Nam Ấn Độ cách đây hơn 2.000 năm – trở
thành chữ viết chính thức của vương triều. Chữ Phạn trở thành chữ quốc
ngữ của vương quốc Chăm Pa cổ từ thế kỷ II, được viết và khắc trên bia ca
tụng công đức của các vua đương thời nhân dịp lập đền, tặng ruộng và đồ
thờ, viết thư giao dịch với các nước và có lẽ cả các văn bản tôn giáo. Bên
cạnh chữ Phạn cổ, người Chăm đã sáng tạo nên chữ Chăm cổ. Đây là
thành tựu lớn nhất. Người Chăm đã xây dựng hệ thống văn tự riêng là
chữ Chăm cổ để thể hiện tiếng nói của mình đánh dấu một sự sáng tạo to
lớn. Chữ Chăm cổ đã được hiện diện trên văn bia. Bia đầu tiên viết bằng
chữ Chăm cổ là bia Đông Yên Châu, thuộc thế kỷ IV. • Lịch pháp:
Vì là một quốc gia nông nghiệp nên người Chăm từ xưa đã biết dùng
lịch để tính thời vụ mùa màng, cũng như ghi chép sự kiện quan trọng. Ban
đầu, người Chăm tiếp thu và dùng lịch Ấn Độ. Lịch Saka là lịch pháp duy
nhất được biết đến qua bi kỷ, sau này phổ biến sang nhiều nước khác ở
Đông Nam Á, trong đó có Chăm Pa. Các học giả Chăm Pa ngày xưa đã
nghiên cứu và tính khá thành thạo vị trí di chuyển theo thời gian của các
hành tinh để xác định thời gian một cách chính xác. b) Nghệ thuật • Kiến trúc:
Nghệ thuật kiến trúc Chăm Pa ảnh hưởng sâu sắc từ văn hóa Ấn Độ,
đặc biệt là trên các đền tháp hiện còn từ Quảng Nam đến Bình Thuận ngày
nay. Những đền tháp này thể hiện phong phú các giai đoạn phát triển của
nghệ thuật kiến trúc Chăm Pa, với mỗi giai đoạn lịch sử mang một phong
cách khác nhau. Tuy ảnh hưởng của Ấn Độ đối với nghệ thuật kiến trúc
Chăm Pa rất sâu sắc nhưng không phải khi du nhập vào Chăm Pa nó vẫn
giữ một cách rập khuôn mà đã được gia giảm và thể hiện theo cách Chăm
Pa tạo nên một phong cách riêng:
+ Tháp Chăm Pa nhỏ nhắn hơn so với đền tháp Ấn Độ, gọn và đơn giản hơn tháp Campuchia.
+ Các nhà kiến trúc của Chăm Pa đã dùng nhiều nếp xếp tinh vi thay
cho việc phải làm nhiều tầng bệ, lợi dụng đỉnh đồi cao để thay cho nền đá
tượng trưng cho chân núi thần thánh. Nói cách khác, họ đã xử lý những
biện pháp đơn giản, ít tốn kém hơn để vẫn đạt được những yêu cầu của
quan niệm nghệ thuật Ấn giáo. Trong các loại hình tháp thì hệ thống tháp
Mỹ Sơn chiếm vai trò quan trọng trong nghệ thuật kiến trúc của Chăm Pa.
Có người cho rằng đền tháp Mỹ Sơn E1 (có niên đại khoảng thế kỉ VIII)
đã “trở thành tiêu biểu cho kiến trúc vào loại cổ nhất, đẹp và đặc sắc nhất,
trở thành một mốc, một tiêu chí để phân định tiến trình kiến trúc Chăm
Pa.”. Ngoài Mỹ Sơn ra thì còn có nhóm đền tháp Hòa Lai được coi là
những kiến trúc thành công nhất của phong cách với khối thân hình lập thể
mạnh mẽ và bên trên là hệ thống cổ điển của các tầng nhỏ dần.
• Tạc tượng và điêu khắc:
Trong bộ ba thần Ấn Độ giáo thì thần Siva được đề cao nhất. Siva là
vị thần tượng trưng cho sự tàn phá của tự nhiên, thường thể hiện dưới hình
thức ngẫu tượng Linga (dương vật). Ở các quốc gia Đông Nam Á thì
Chăm Pa là quốc gia có nhiều ngẫu tượng Linga, có kích thước lớn và đẹp
hơn cả. Ngoài ra còn có ngẫu tượng Yoni (âm vật). Ngẫu tượng Linga -
Yoni tạc bằng đá cứng, màu hồng nhạt, nét gọn, chính xác và đẹp, giữ
được vẻ trang nghiêm “thánh hóa” mà không thô kệch. Ngẫu tượng thường
đặt trên bệ, có những chân bệ được chạm hoa văn cành lá (đây là mô-típ
phổ biến nhất). Cành lá uốn cong thân và hai đầu, xoắn xuýt, trông tươi tắn
và đầy sức sống. Trong các đền tháp Chăm thì có nhiều loại tượng và hầu
hết đều là tượng thần. Nhiều pho tượng đã đạt đến trình độ cao về nghệ
thuật điêu khắc như: tượng bán thân nữ thần Parvati thuộc thế kỷ VIII, tìm
thấy ở Hương Quế (Quảng Nam). Tượng được tạc giống y hệt một người
con gái bình thường với nét mặt tươi tắn, thanh tú của “người Nam Á”, nụ
cười mỉm hồn nhiên và bộ tóc tết kiểu Chăm độc đáo. Qua pho tượng này
cho thấy: trình độ tạc tượng điêu khắc của người Chăm xưa chẳng thua
kém gì các quốc gia nổi tiếng trên thế giới trong loại hình nghệ thuật này.
Ở Trà Kiệu, Mỹ Sơn và Đồng Dương có rất nhiều công trình kiến
trúc, tượng, phù điêu và di tích, di vật. Các di vật và công trình thuộc giai
đoạn đầu này (từ thế kỉ VII đến thế kỉ X) đã chiếm một vị trí hết sức đặc
biệt trong lịch sử vương quốc cổ Chăm Pa. Tuy rằng hệ thống, kích thước
cũng như số lượng tượng thần không lớn nhưng nghệ thuật kiến trúc và tạc
tượng của Chăm Pa ở giai đoạn thế kỉ VII – X đã phản ánh một sức sống
mới đang lên của những thế kỷ đầu tiên, thể ký cổ điển.
• Âm nhạc và múa Chăm:
Thư tịch cổ Trung Hoa từng xác nhận, khi thực hiện nghi lễ hôn
nhân, người Chăm có “ca múa với nhau”. Cho thấy âm nhạc và múa có lẽ
đã phát triển trong xã hội Chăm Pa cổ đại. Trong dân gian, nghi lễ đám
cưới luôn có tổ chức múa hát, đó là thói quen trong sinh hoạt cộng đồng.
Chăm Pa có nhiều nhạc cụ, gồm 3 nhóm chính: nhóm gõ, nhóm kéo và nhóm hơi.
+ Nhóm gõ có 2 loại trống quan trọng nhất: trống Baramưng và trống
Kynăng. Trống Baramưng có mặt ở các dàn nhạc trong tất cả các nghi lễ
của người Chăm. Trống Kynăng diễn tả âm thanh đa dạng, sử dụng trong
hầu hết các sinh hoạt văn hóa của người Chăm, đặc biệt là lễ hội truyền thống.
+ Nhóm kéo: độc đáo nhất là nhị mu rùa. Nó có bầu cộng hưởng lớn hơn
các loại nhị thường nên âm thanh khỏe, chắc, vang xa. Loại nhị này
thường được dùng trong tang ma.
+ Nhóm hơi: kèn Saranai có vai trò rất quan trọng trong dàn nhạc truyền
thống của người Chăm, sở trường là gây ấn tượng mạnh và tạo ra những âm thanh liền hơi.
Nhạc điệu Chăm đa dạng, nhiều giai điệu khác nhau phù hợp với
từng nghi thức cụ thể. Có nhạc cung đình, cúng lễ, hôn nhân, tang ma,…
giai điệu vui hay buồn ai oán đều có. Ngoài sáng tạo ra nhạc cụ và ca hát,
người Chăm còn có những điệu múa uyển chuyển sinh động. Như điệu
múa Apsaras ở phù điêu “chân bệ Trà Kiệu”.
Vương quốc Champa cổ đại đã có hơn 10 thế kỷ hình thành, phát
triển và tạo dựng nên một nền văn hóa tiêu biểu, đặc sắc. Dấu ấn
văn hóa ấy còn lưu lại đậm nét trong cộng đồng người Chăm và có
độ lan tỏa, ảnh hưởng nhất định đến đời sống văn hóa, tinh thần
của các cộng đồng dân cư khác.
SỰ SUY TÀN CỦA VƯƠNG QUỐC CHĂM PA
I. SỰ CÁCH BIỆT CỦA NAM BẮC CHĂM PA
Sự xung đột xã hội đầu tiên trong lịch sử Chăm Pa đã xảy ra vào
những năm cuối cùng của thế kỷ 11. Chiến tranh nội bộ này đã gây rạng
nứt xã hội rất nghiêm trọng giữa dân tộc Chăm Pa ở miền nam vốn tôn
thờ giai cấp lãnh đạo dòng cây Cau và dân tộc Chăm Pa ở miền bắc trung
thành với cấp lãnh đạo quốc gia thuộc dòng cây Dừa. May thay, cuộc xung
đột này chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn ngủi, bởi vì các giới lãnh đạo
quốc gia giữa hai miền, cũng vì ý thức đến tầm quan trọng của sự xung đột
này, đã tìm cách giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng.
II. SỰ PHÂN BIỆT NAM BẮC CHĂM PA: 1360-1471
Mưu đồ làm tay sai cho địch nhằm ám hại vua Chế Bồng Nga, một
hiện tượng duy nhất trong lịch sử Chăm Pa, phải chăng là một tiếng
chuông báo hiệu cho sự suy tàn của vương quốc này. Kể từ năm 1360,
vương quốc Chăm Pa ngày càng đi đến con đường suy yếu. Sự suy yếu
này phát xuất từ hai nguyên nhân chính: một phần, phải đối đầu chống lại
sự xâm lăng của láng giềng miền bắc, còn phần khác phải đối phó với bao
nhiêu chiến tranh nội bộ của mình. Chỉ trong khoảng thời gian chưa đầy
30 năm, 5 vị vua Chăm Pa tiếp nối nhau để lên ngôi ở thủ đô Vijaya (Bình
Định). Sự hiện diện của 5 vị vua trên ngai vàng Chăm Pa cũng đã chứng
minh rằng trong suốt 30 năm này, Chăm Pa có 5 chính sách riêng biệt và 5
lực lượng riêng biệt. Sự xung đột không lối thoát trong xã hội Chăm Pa
kể từ năm 1360, xuất phát từ gia đình trị và địa phương trị của một số nhà
lãnh đạo Chăm Pa thời đó, cũng là nguyên nhân đưa đến sự diệt vong của
Vijaya, tiểu vương quốc Chăm Pa ở miền bắc vào năm 1471.
III. CUỘC NỘI CHIẾN GIỮA TÂY SƠN VÀ NGUYỄN ÁNH
Chăm Pa bị lôi kéo vào một cuộc nội chiến giữa dân tộc Việt, đó là
sự bùng nổ chiến tranh vào năm 1771 giữa phong trào Tây Sơn ở miền bắc
và Nguyễn Ánh trấn thủ ở Sài Gòn. Cuộc nội chiến này đã biến lãnh
thổ Chăm Pa (khu vực Phan Rang và Phan Rí) thành bãi chiến trường đẫm
máu trong vòng 30 năm giữa hai thế lực thù địch của dân tộc Việt, một bên
trung thành với Nguyễn Ánh còn bên khác thì ủng hộ phong trào Tây Sơn.
Năm 1773, Tây Sơn xua quân chiếm đóng Panduranga, trong khi đó
Nguyễn Ánh rời bỏ ngai vàng vào năm 1775 chạy về miền nam lập mật
khu ở Gia Định. Suốt 30 năm nội chiến, Tây Sơn biến Nha Trang thành
khu vực địa đầu quân sự của mình, trong khi đó Nguyễn Ánh trấn
thủ ở Gia Ðịnh. Hoàn cảnh địa dư này đã biến Chăm Pa thành một khu vực
nằm giữa hai gọng kìm biên giới quân sự của Tây Sơn ở phía bắc và
Nguyễn Ánh ở phía nam. Thế là vương quốc Chăm Pa phải đón nhận hàng
năm sự hiện diện quân đội viễn chinh của Tây Sơn và Nguyễn Ánh trên lãnh thổ của mình.
Lý do rất là giản dị, muốn tấn công Nguyễn Ánh ở Gia Ðịnh, Tây
Sơn phải làm chủ quân sự ở Chăm Pa (khu vực Phan Rang và Phan Rí)
trước. Về phía Nguyễn Ánh, muốn tấn công Tây Sơn ở Bình Ðịnh,
Nguyễn Ánh phải xua quân chiếm đóng Chăm Pa trước tiên, sau đó mới có
thể tiến quân đến Nha Trang được. Trong suốt cuộc nội chiến giữa Tây
Sơn và Nguyễn Ánh, biên giới của vương quốc Chăm Pa hoàn toàn bị xóa
bỏ trên bản đồ vì thiếu quân lực để phòng thủ.
Thêm vào đó, mọi cơ cấu tố chức chính trị và xã hội Chăm Pa hoàn
toàn bị sụp đổ. Dân tộc Chăm Pa phải chấp nhận cúi lạy cả hai phe vừa
Tây Sơn lẫn Nguyễn Ánh để bảo tồn tánh mạng. Các tầng lớp lãnh đạo
Chăm Pa chia thành hai phe nhóm do hai thế lực thù địch người Việt tạo
dựng ra. Vì rằng, một khi đã xâm chiếm Chăm Pa để làm cứ điểm quân
sự, Nguyễn Ánh thành lập một chính quyền mới của vương quốc này tập
trung những thành phần lãnh đạo thân cận với mình. Một khi tiến quân vào
Chăm Pa, Tây Sơn lại ra lệnh thanh trừng gắt gao những phần Chăm Pa
theo Nguyễn Ánh để rồi thành lập một chính quyền khác mà cấp lãnh đạo
chỉ là thành viên của Tây Sơn.
Sự thay đổi liên tục chính quyền trong thời điểm đó đã đưa mọi cơ
cấu tổ chức quốc gia Chăm Pa đứng bên lề vực thẳm. Lợi dụng cơ hội này,
hai phe thù địch Tây Sơn và Nguyễn Ánh tung hoành cướp phá tài nguyên
Chăm Pa để phục vụ cho chiến tranh của mình và điều động thanh niên
Chăm Pa xung phong vào chiến trường đẫm máu mà mục tiêu của chiến
tranh này không liên hệ gì đối với họ. Trong khi đó, Chăm Pa lại đặt dưới
quyền cai trị của một tầng lớp lãnh đạo mang tính cách bù nhìn, vì vương
chức của họ hoàn toàn do Tây Sơn hoặc Nguyễn Ánh tấn phong. Sự kiện
này đã chứng tỏ rằng, mọi cơ cấu tổ chức chính quyền ở Chăm Pa hoàn
toàn bị sụp đổ. Lãnh thổ Chăm Pa chỉ là nơi đón nhận hàng ngàn quân lính
của dân tộc Việt, luôn luôn tự cho mình là kẻ chiến thắng, thẳng tay bốc
lột nhân dân Chăm Pa mà họ xem đó chỉ là những kẻ “man rợ” không
cùng nòi giống với mình. Nói tóm lại, Chăm Pa không còn tồn tại nữa với
danh nghĩa là một quốc gia độc lập và tự chủ trong suốt cuộc chiến giữa
Tây Sơn và Nguyễn Ánh kể từ 1771 đến 1802. Thế là định mệnh của sự
sống còn Chăm Pa không còn nằm trong tay của nhân dân Chăm Pa nữa,
mà là tùy thuộc hoàn toàn vào kết quả của chiến tranh giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh.
IV. NỘI CHIẾN GIỮA MINH MỆNH VÀ LÊ VĂN DUYỆT
Năm 1802, Nguyễn Ánh đánh bại Tây Sơn, lên ngôi với tôn hiệu là
Gia Long. Nhằm tri ân những chiến sĩ đã từng đấu tranh bên cạnh mình,
Gia Long tái lập lại vương hiệu Chăm Pa, sau đó phong cho Po Saong
Nhung Ceng (tổ tiên của gia đình hoàng gia Bà Thềm ở Phan Rí) - một
tướng lãnh gốc người Chăm rất thân cận với Gia Long lên làm quốc vương Panduranga-Champa.
Thế là từ năm 1802, Chăm Pa không còn là một quốc gia độc lập
nữa mà là một lãnh thổ tự trị đặt dưới quyền bảo hộ của triều đình Việt
Nam, tổng trấn Gia Ðịnh Thành là Lê Văn Duyệt được xem như là một
ông phó vương ở miền nam thời đó. Sau ngày từ trần của Gia Long vào
năm 1820, hoàng đế Minh Mệnh đưa ra chính sách cai trị hoàn toàn ngược
lại với chủ trương của Gia Long. Khi lên ngôi, Minh Mệnh xóa bỏ hoàn
toàn chính sách ưu đãi dành riêng cho vương quốc Chăm Pa do phụ vương
của ông ta để lại và tìm cách ngăn chặn mọi ảnh hưởng của Lê Văn
Duyệt ở vương quốc này.
Lê Văn Duyệt vùng dậy phản đối chính sách Minh Mệnh và nhất
quyết đứng ra bảo vệ vương quốc Chăm Pa cho tới cùng. Thế là sự khủng
hoảng bùng nổ và vương quốc Champa lại trở thành nạn nhân lần thứ 3
của cuộc chiến nội bộ giữa người Việt Nam thời đó. Vì quá thân cận với
Tổng Trấn Gia Ðịnh Thành là Lê Văn Duyệt hay là vì quá khiếp sợ trước
uy quyền chính trị của ông ta, giai cấp lãnh đạo Chăm Pa thời đó không
phục tùng hoàng đế Minh Mệnh nữa. Năm 1832, Lê Văn Duyệt từ trần,
Minh Mệnh xua quân xâm chiếm Chăm Pa và trừng phạt vô cùng dã man
giai cấp lãnh đạo Champa vì tội phục tùng Lê Văn Duyệt để rồi xóa hẳn
vương quốc này trên bản đồ Đông Dương. Năm 1832 đánh dấu móc sụp
đổ hoàn toàn vương quốc Chăm Pa.