-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của Cách Mạng Việt Nam | Tiểu luận môn Lịch sử Đảng | HMUE
Tiểu luận môn Lịch sử Đảng với đề tài: "Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của Cách Mạng Việt Nam" của Đại học Sư phạm Hà Nội giúp bạn tham khảo, ôn tập và hoàn thành tốt bài tiểu luận của mình đạt kết quả cao.
Lịch sử Đảng 92 tài liệu
Đại học Sư Phạm Hà Nội 2.1 K tài liệu
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của Cách Mạng Việt Nam | Tiểu luận môn Lịch sử Đảng | HMUE
Tiểu luận môn Lịch sử Đảng với đề tài: "Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của Cách Mạng Việt Nam" của Đại học Sư phạm Hà Nội giúp bạn tham khảo, ôn tập và hoàn thành tốt bài tiểu luận của mình đạt kết quả cao.
Môn: Lịch sử Đảng 92 tài liệu
Trường: Đại học Sư Phạm Hà Nội 2.1 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoARcPSD| 27879799
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN BÀI TIỂU LUẬN MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG
CHỦ DỀ: SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ
HÀNG ĐẦU QUYẾT ĐỊNH ĐẾN THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Hà Nội, Tháng 10 năm 2022 lOMoARcPSD| 27879799 MỤC LỤC
I. Phần mở đầu .............................. ............................... .................................................. 2
II. Phần nội dung .............................. ............................... ............................................... 2
1.Khái quát tình hình Việt Nam trước khi Đảng ra đời và ý nghĩa của sự ra đời
của Đảng .............................. ............................... ......................................................... 2
2.Vai trò của sự lãnh đạo của Đảng đưa đến sự thắng lợi của cách mạng tháng 8 4
3. Vai trò của Đảng trong kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ ..... 6
4. Sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam cho đến nay: ..... 10
III. Kết luận .............................................................. ............................... ..................... 12
IV. Tài liệu tham khảo .............................................................. ............................... ..... 13 1 lOMoARcPSD| 27879799
CHỦ ĐỀ: SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ HÀNG ĐẦU
QUYẾT ĐỊNH ĐẾN THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM I. Phần mở đầu
Mùa xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu bước ngoặt
to lớn trong lịch sử cách mạng nước ta. Trải qua gần 90 năm lãnh đạo cách mạng,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình.
15 năm sau khi thành lập, Đảng ta đã lãnh đạo Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành
công, đánh đuổi đế quốc, thực dân, lật đổ chế độ phong kiến, lập ra nhà nước công
nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á; mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc
Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Khi thực dân Pháp trở lại
xâm lược Việt Nam, cả dân tộc Việt Nam đã nghe theo lời kêu gọi của Đảng, của Bác
Hồ, lên đường kháng chiến và cuối cùng đã giành được thắng lợi to lớn, đánh thắng
đế quốc xâm lược và lập lại hoà bình ở miền Bắc Việt Nam. Trong hoàn cảnh đất nước
tạm bị chia làm hai miền, Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành đồng thời hai
cuộc cách mạng: Cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam. Khi Mỹ đưa quân vào xâm lược ở miền Nam, tiến hành chiến tranh
cục bộ đánh phá các căn cứ cách mạng ở miền Nam và mở rộng chiến tranh xâm lược
ra miền Bắc (1964), Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân hai miền "đánh
cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào", giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ
quốc (1975), đưa cả nước đi lên CNXH. 90 năm qua, dù con đường đi lên có lúc quanh
co, phức tạp, dù Đảng ta có lúc phạm khuyết điểm, sai lầm, nhưng nhờ bản lĩnh vững
vàng; sự khiêm tốn, cầu thị; sự nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm; được
nhân dân tin yêu, ủng hộ, Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó
khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nhìn lại những chặng đường
dài thăng trầm của lịch sử, nhân dân ta đã đúc kết, rút ra một chân lý: Thắng lợi của
cách mạng Việt Nam do nhiều yếu tố tạo thành, song nhân tố chủ yếu, quan trọng và
quyết định nhất chính là vai trò lãnh đạo của Đảng. II. Phần nội dung
1. Khái quát tình hình Việt Nam trước khi Đảng ra đời và ý nghĩa của sự ra đời của Đảng
a) Bối cảnh ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa Mác
Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới - thời đại cách mạng
chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Cách mạng Tháng Mười Nga đã nêu tấm
gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức.
Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) vào tháng 3/1919 đã thúc đẩy sự phát
triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, trở thành ngọn đuốc lớn soi
đường cho cách mạng Viêt Nam sau này. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có ̣ vai
trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. 2 lOMoARcPSD| 27879799
Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối
nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành ba
xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Thực
dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống
thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả. Phong
trào Cần Vương - phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, do giai cấp phong
kiến lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của Phan Đình
Phùng (năm 1896). Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng này không còn là khuynh
hướng tiêu biểu nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của
Hoàng Hoa Thám kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào năm 1913. Phong trào yêu
nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn
Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại.
Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống
yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng
do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào
đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về
đường lối cứu nước.
b) Ý nghĩa của sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Hội nghị hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng
sản duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam - theo một đường lối chính trị đúng đắn, tạo
nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả
nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu
tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và
hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời là sự kiện lịch sử có ý nghĩa trọng đại, là một bước ngoặt vô cùng quan
trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, là một sự kiện đánh dấu một mốc son chói
lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
MácLênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam,
là sự kiện gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị được xây dựng
ngay từ khi được thành lập (trong đó xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải
phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản) chính là cơ sở để Đảng Cộng
sản Việt Nam – môt Đảng vừa mới được thành lập nhưng đã giương cao được ngọn
cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết tốt nhất tình trạng khủng
hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ 3 lOMoARcPSD| 27879799
XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước và dân tộc Việt
Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết,
thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để hoàn thành thắng
lợi cuộc cách mang dân tộc dân chủ, từng bước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, con
đường cách mạng Việt Nam trong suốt 88 năm qua.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương coi cách mạng Việt Nam là
một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn
của cách mạng thế giới, đã kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại và đã
làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích
cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
2. Vai trò của sự lãnh đạo của Đảng đưa đến sự thắng lợi của cách mạng tháng 8
a) Đảng lựa chọn đừng lối chống đế quốc và chóng phong kiến đúng đắn
Trong cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945, vai trò lãnh đạo của Đảng được thể
hiện ở đường lối chống đế quốc và chống phong kiến đúng đắn. Không những thể hiện
tinh thần triệt để cách mạng, tinh thần đấu tranh không mệt mỏi cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc và giải phóng giai cấp mà còn toát lên tinh thần độc lập, tự chủ, tinh
thần tự lực cánh sinh, tinh thần sáng tạo rất cao. Nhờ đó, khi chiến tranh thế giới bùng
nổ (tháng 9/1939), Đảng ta đã mau lẹ chuyển hướng về chỉ đạo chiến lược, đặt nhiệm
vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Như vậy là từ chỗ thấy hai nhiệm vụ chống đế
quốc và chống phong kiến phải gắn liền với nhau, Đảng ta đã tiến lên một bước, nhận
rõ thêm rằng trong hai nhiệm vụ chiến lược ấy thì nhiệm vụ chống đế quốc là nhiệm
vụ chủ yếu nhất (điều này lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy và xác định ngay từ
ngày đầu thành lập Đảng 3/2/1930 nhưng không được Quốc tế Cộng sản và Đảng ta
tán thành). Nhờ nhận thức và chủ trương đúng đắn đó, Đảng đã tập hợp được thêm
các lực lượng dân tộc mà cao trào cách mạng 19301931 trước đây chưa tập hợp được;
Ngọn cờ dân tộc được giai cấp công nhân giương cao, trở thành tiếng gọi thống thiết
tất cả mọi người yêu nước, mọi giai cấp, mọi tầng lớp từ công nhân, nông dân, tiểu tư
sản và tư sản dân tộc, thậm chí cả một số địa chủ vừa và nhỏ có mâu thuẫn với đế
quốc…tập hợp nhau lại trong một Mặt trận dân tộc thống nhất, dưới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân, trên nền tảng khối liên minh công - nông. Đế quốc tăng cường
khủng bố, Đảng ta đã biết mau lẹ chuyển từ hoạt động công khai và nửa công khai
sang hoạt động bí mật hoàn toàn, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, dựa vào
nông thôn xây dựng căn cứ địa cách mạng, bí mật chuẩn lực lượng, vận động quần
chúng đấu tranh chính trị và khi có điều kiện thì đấu tranh vũ trang, đánh du kích.
Đồng thời hết sức coi trọng vai trò của thành thị. Coi trọng việc gây cơ sở cách mạng
và phát triển phong trào cách mạng ở thành thị, kết hợp chặt chẽ phong trào cách mạng
ở thành thị với phong trào cách mạng ở nông thôn.
b) Đảng đã dự doán đúng thời cơ và hành động chính xác, kịp thời khi thời cơxuất hiện. 4 lOMoARcPSD| 27879799
Ngay sau khi chiến tranh thế gới thứ hai bùng nổ, Đảng ta đã có những dự đoán
ban đầu về thời cơ khởi nghĩa. Nghị quyết TW6 (11/1939) đã nhận định: “Cuộc khủng
hoảng kinh tế, chính trị gây nên bởi đế quốc chiến tranh lần này sẽ nung nấu cách
mạng Đông Dương bùng nổ” Dựa vào dự đoán ban đầu quan trọng đó và dựa vào sự
phân tích đúng diễn biến của tình hình thế giới và trong nước, Nghị quyết Hội nghị
TW8 (5/1941) nêu rõ: “ Liên Xô thắng trận, quân Trung Quốc phản công… tất cả các
điều kiện ấy sẽ giúp cho các cuộc vận động của Đảng ta mau phát triển,và rồi đây, lực
lượng sẽ lan rộng ra toàn quốc để gây một cuộc tổng khởi nghĩa rộng lớn”. Hội nghị
nêu bật: ”Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giành độc lập cho đất nước là một nhiệm vụ
trước tiên của Đảng ta”, “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể
quốc gia, dân tộc còn phải chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của
giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Đến Hội nghị thường vụ TW ngày
9/3/1945, Đảng ta đã nhận thức cụ thể hơn: “Rồi đây, những thắng lợi của Liên Xô,
sự tan rã của chủ nghĩa phát xít quốc tế…sẽ thúc đẩy cách mạng bùng nổ ở nhiều
nước”. do đó tư tưởng chỉ đạo của Hội nghị là “Phải hành động ngay, hành động cương
quyết nhanh chóng, sáng tạo chủ động, táo bạo”.
Nhờ dự đoán đúng tình hình và đúng thời cơ, toàn Đảng mới có hành động mau lẹ,
kịp thời khi Nhật tuyên bố đầu hàng Liên Xô và Đồng Minh, sau khi nghe tin Nhật
đầu hàng, Hội nghị toàn quốc của Đảng đã nhận định” Cơ hội rất tốt cho ta giành độc
lập đã tới” và quyết định phát động cuộc Tổng khởi nghĩa trong Toàn quốc giành chính
quyền từ tay phát xít Nhật, trước khi quân Đồng Minh kéo vào Đông dương. Tiếp đó,
Đại hội Quốc dân đã nhiệt liệt tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng và đã
thông qua 10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh, đã cử ra Ủy ban dân tộc giải
phóng tức Chính phủ lâm thời do lãnh tụ Hồ Chí Minh đứng đầu.
Trong lãnh đạo khởi nghĩa, một vấn đề rất quan trọng có ý nghĩa quyết định thắng lợi
đó là phải nắm đúng thời cơ. Thời cơ có thể do thực lực cách mạng trong nước tạo ra,
cũng có thể do hoàn cảnh bên ngoài đưa lại. Nếu không có sẵn thực lực cách mạng
đến mức đủ mạnh thì không thể tạo ra được thời cơ và khi thời cơ đến sẽ không kịp
thời lợi dụng được nó. Thời cơ thuận lợi có một không hai của cuộc Tổng khởi nghĩa
đã xuất hiện rất ngắn ngủi, vẻn vẹn trong 10 ngày (từ ngày 15 đến ngày 25/8), nghĩa
là từ sau khi Nhật đầu hàng đến trước khi quân Đồng Minh vào Đông dương. Đảng
ta đã ra lệnh Tổng khởi nghĩa đúng vào lúc thời cơ lịch sử có một không hai xuất hiện.
c) Đảng đã lựa chọn đúng hình thức, phương pháp đấu tranh, phát huy đến
mứctối đa sức mạnh tổng hợp của cách mạng, giành thắng lợi một cách nhanh gọn.
Lựa chọn đúng thời cơ, lại còn phải có sự chỉ đạo và có phương pháp đúng mới
có mới có thể giành được thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa. Tư tưởng chỉ đạo và
phương pháp mà Đảng ta lựa chọn trong Tổng khởi nghĩa là:
• Dựa vào cao trào cách mạng của toàn dân.
• Kết hợp giữa lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, lấy lực lượng chính trị là
chủ yếu, lực lượng vũ trang làm nòng cốt. 5 lOMoARcPSD| 27879799
• Nổi dậy đồng loạt. Kết hợp phong trào ở nông thôn và phong trào ở thành thị hỗ
trợ nhau để khởi nghĩa.
• Dựa vào sức mạnh chung của cách mạng, kể cả thế thắng của cách mạng thế giới
là chính, có kết hợp ở một mức độ nhất định về công tác binh vận, thuyết phục
bọn tay sai của Nhật đầu hàng.
• Ba nguyên tắc hành động là: Tập trung, thống nhất, kịp thời; Chính trị và quân sự
phối kết hợp; Làm tan dã tinh thần quân địch và dụ chúng hàng trước khi đánh”.
Tư tưởng chỉ đạo nói trên của Đảng còn được quán triệt và thể hiện ở sự chủ động,
năng động, sáng tạo của các Đảng bộ địa phương và diễn biến của Tông khởi nghĩa
trong cả nước, nhất là ở những địa phương tiêu biểu, trọng yếu như ở Hà nội,Huế, Sài
gòn, đặc biệt là ở thủ đô Hà nội.
Sự chỉ đạo của Đảng về hính thức, về nguyên tắc và về thời gian khởi nghĩa đã đưa
lại kết quả là nhân dân ta giành được chính quyền trước khi quân Đồng Minh vào Đông dương.
d) Đảng đã thực hiện sách lược khôn khéo đối với Nhật trong khi tiến hành Tổngkhởi nghĩa.
Từ tháng 9/1940, khi Nhật nhảy vào Đông Dương, Đảng ta xác định Nhật là kẻ
thù chủ yếu, cần phải đánh đổ. Nhưng lúc này, Nhật đã đầu hàng Liên Xô và Đồng
Minh, tinh thần quân đội Nhật hoang mang cao độ, Đảng đã thực hiện một sách lược
khôn khéo: “ Đối với quân đội Nhật, chúng ta sẽ rất ôn hòa, tránh tất cả những sự xô
xát vô ích, bất lợi cho cả đôi bên, đồng thời chúng ta có thể dùng ngoại giao làm cho
Nhật hiểu rõ tình thế, tán thành cách mạng Việt Nam”.
Trong thực tế, lực lượng khởi nghĩa do Đảng chỉ đạo đã không đánh quân Nhật, mà
dựa vào sức mạnh của cách mạng để thuyết phục và vô hiệu hóa lực lượng của chúng,
làm cho chúng không can thiệp vào công việc giành chính quyền của nhân dân ta. Đối
với những nơi xảy ra xô xát, ta dựa vào sức mạnh bạo lực của quần chúng và dùng
đàm phán, buộc Nhật phải nhượng bộ. Nhờ đó, đã tránh được đổ máu và thổn thất
trong quá trình tiến hành khởi nghĩa.
Như vậy, cuộc Cách mạng tháng Tám thành công một cách mau lẹ, trọn vẹn là do
nhiều nhân tố, nhưng trước hết và quyết định nhất là vai trò lãnh đạo, sáng suốt và chỉ
đạo tài tình của Đảng ta.
3. Vai trò của Đảng trong kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ
a) Vai trò lãnh đạo của Đảng trong cuộc chống Pháp xâm lược (1945- 1954)
Thời kỳ từ tháng 9-1945 đến 12 năm 1946, chính quyền cách mạng được thiết
lập trên cả nước nhưng phải đối phó với muôn ngàn khó khăn, ở tình thế hiểm nghèo
ví như “ngàn cân treo sợi tóc”. Trong Chánh cương vắn tắt, Đảng ta đã xác định rõ
"chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội 6 lOMoARcPSD| 27879799
cộng sản"; "Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam
được hoàn toàn độc lập".1
Tháng 2 năm 1946, thực dân Pháp và chính quyền Tưởng ký Hiệp ước Hoa- Pháp ở
trùng Khánh hòng đưa quân Pháp tiến quân ra Bắc. Trước tình hình đó Chủ tịch Hồ
Chí Minh thay mặt Chính phủ ta ký với đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định sơ bộ
6-3-1946 hòa hoãn với Pháp nhằm tranh thủ thời gian hòa bình, củng cố lực lượng,
tránh đối phó với nhiều kẻ thù một lúc, bảo vệ và củng cố thành quả Cách mạng Tháng Tám.
Nhưng thực dân Pháp bội ước, cho quân lấn tới và ra tối hậu thư đòi tự vệ ở thủ đô
phải nộp vũ khí, chậm nhất vào ngày 18-12-1946. Không thể nhân nhượng được nữa,
chiều 18-12-1946, Thường vụ Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch đã quyết định phát
động cuộc kháng chiến toàn quốc. Trải qua nhiều khó khăn gian khổ, phát động nhiều
chiến dịch lớn, Đảng đã đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) là tổng hợp của
nhiều nguyên nhân, nhưng sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định hàng
đầu quyết định thắng lợi.
Trước hết, do Đảng có đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo. Đường lối đó thể
hiện trong Bản Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”, “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến”
của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng (21951);
tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh. Cốt lõi
đường lối kháng chiến của Đảng khẳng định: cuộc kháng chiến của dân tộc ta là chiến
tranh nhân dân chính nghĩa; có tính chất toàn dân, toàn diện lâu dài, dựa và sức mình
là chính; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình. Mặc dù
lâu dài, gian khổ, khó khăn, song kháng chiến nhất định thắng lợi.
Đảng có công tác tư tưởng đúng đắn, động viên quân dân cả nước, phát huy chính
nghĩa, tinh thần đoàn kết trong mặt trận Liên Việt vì “Tổ quốc trên hết”, vượt qua mọi
gian khổ, hy sinh, quyết tâm vì độc lập tự do đưa kháng chiến đến thắng lợi. .
Đảng có công tác tổ chức tài giỏi, lãnh đạo chính quyền dân chủ nhân dân là công cụ
sắc bén vừa tổ chức kháng chiến, từng bước phát triển kinh tế, văn hóa kháng chiến,
xây dựng chế độ mới.
Đảng đã xây dựng được quân đội nhân dân anh hùng, có nghệ thuật quân sự tài giỏi,
được sự giúp đỡ, nuôi dưỡng từ nhân dân đã tổ chức các chiến dịch lớn thắng lợi. Đó
là chiến dịch 60 ngày đêm của quân dân Hà Nội kìm chân quân Pháp; chiến dịch Việt
Bắc Thu Đông năm 1947; chiến dịch Biên Giới năm 1950 và đỉnh cao là chiến dịch
Điện Biên Phủ, buộc thực dân Pháp phải chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở
Đông Dương. Ngày 21-7-1954, Pháp và các nước đã ký kết Hiệp định Giơnevơ, công
nhận độc lập chủ quyền của ba nước Đông Dương, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa
bình trên toàn cõi Đông Dương.
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t 2, tr 2. 7 lOMoARcPSD| 27879799
b) Vai trò lãnh đạo Đảng trong cuộc chống Mỹ, thống nhất đất nước (1954- 1975)
Sau năm 1954, đất nước ta chia làm hai miền. Miền Bắc Việt Nam được giải
phóng, thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ phá hoại
Hiệp định Giơnevơ, hất cẳng Pháp, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu
mới của Mỹ, phòng tuyến chống chủ nghĩa cộng sản.
Những năm 1954-1958, Đảng chủ trương khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc, đấu tranh hòa bình đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, thống nhất nước nhà.
Trước sự vi phạm hiệp định Giơnevơ, đàn áp dã man những người yêu nước ở miền
Nam của Mỹ- Diệm, Hội nghị Trung ương 15, khóa II (1-1959) quyết định cách mạng
miền Nam phải giành chính quyền bằng con đường sử dụng bạo lực cách mạng. Dưới
sự lãnh đạo của Đảng, phong trào Đồng khởi từ tỉnh Bến Tre (1-1960) nhanh chóng
lan rộng ra khắp miền Nam. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam thành
lập (12-1960). Cách mạng miền Nam chuyển mạnh từ thế giữ gìn lực lượng chuyển
sang thế tiến công cách mạng.
Đại hội lần thứ III của Đảng (9-1960) chủ trương đồng thời xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc, đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà. Đại hội bầu đồng chí Lê
Duẩn là Tổng Bí thư của Đảng.
Từ năm 1961, Tổng thống Mỹ Kennơđi quyết định chuyển sang thực hiện chiến lược
“Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam. Trước tình hình đó, Đảng chủ trương, miền Bắc
chi viện mạnh mẽ cho cách mạng miền Nam qua đường Hồ Chí Minh trên bộ, trên
biển, tiến công mạnh mẽ quân địch. Tháng 11-1963, Ngô Đình Diệm bị ám sát. Chính
quyền Sài Gòn liên tục bị đảo chính. “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ bị phá sản.
Sau 10 năm hòa bình (1954-1964), miền Bắc thay đổi mọi mặt, đã tiến những bước
dài chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội, con người đều đổi mới.
Từ 1965-1968, Tổng thống Mỹ Giônxơn quyết định tiến hành “Chiến tranh cục bộ”,
đưa hơn nửa triệu quân Mỹ và quân một số nước đồng minh của Mỹ vào miền Nam,
cho không quân và hải quân ném bom, thả mìn phá hoại miền Bắc. Trước sự leo thang
chiến tranh của Mỹ, Đảng chủ trương phát động cuộc chiến tranh nhân dân chống Mỹ
trên cả nước, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược trong bất cứ tình huống nào.
Quân dân miền Bắc tổ chức lại sản xuất, chống chiến tranh phá hoại của Mỹ với tinh
thần “tay cày tay sung”, “tay búa tay súng”, đồng thờitích cực chi viện chiến trường
với tinh thần “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”.
Quân dân miền Nam đẩy mạnh cao trào đánh Mỹ, diệt ngụy, giành thắng lợi ở nhiều
trận, đặc biệt là thắng lợi của cuộc Tổng công kích và nổi dậy mùa Xuân năm 1968
đã buộc Mỹ phải chấm dứt không điều kiện ném bom miền Bắc, rút quân viễn chinh
Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam, ngồi đàm phán với ta tại Hội nghị Pari (11-1968).
Chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ bị phá sản.
Từ năm 1972, Tổng thống Níchxơn quyết định tiến hành Chiến lược “Việt Nam hoá
chiến tranh”. Quân dân miền Nam mở nhiều đòn tấn công chiến lược vào những năm
1971, 1972; đặc biệt, quân dân Hà Nội chiến thắng trận “Điện Biên Phủ trên không”, 8 lOMoARcPSD| 27879799
buộc đế quốc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari (1-1973) công nhận độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút hết quân đội Mỹ và quân đồng minh
của Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”
Đảng chủ trương mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Với ba
đòn tiến công là chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế-Đà Nẵng và chiến dịch Hồ
Chí Minh (từ 10-3 đến 30-4-1975) quân dân ta đã giải phóng hoàn toàn miền Nam,
kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là kết quả tổng hợp của nhiều
nhân tố, trong đó sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết
định hàng đầu. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12 năm 1976)
đã khẳng định: "Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta
trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ đúng
đắn và sáng tạo của Đảng ta"2
Đảng có đường lối chính trị, quân sự và phương pháp cách mạng độc lập, tự chủ, đúng
đắn, sáng tạo, tổng hợp, dẫn dắt cuộc kháng chiến của toàn dân tộc đi đến thắng lợi
hoàn toàn. Đó là đường lối đồng thời đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc và cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam và sự
nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách
thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà. Đó là hai chiến
lược cách mạng khác nhau ở hai miền, nhưng tiến hành đồng thời, có quan hệ mật
thiết, thúc đẩy lẫn nhau nhằm giải quyết mâu thuẫn chung giữa nhân dân ta với đế
quốc Mỹ và tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc.
Đảng có công tác tư tưởng đúng đắn, đã động viên quân dân cả nước ta tin tưởng vào
chính nghĩa vượt qua mọi gian khổ hy sinh, cả nước ra trận. Hễ còn một tên xâm lược
Mỹ trên đất nước ta thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi
Đảng đã lãnh đạo, động viên cán bộ, chiến sĩ và đồng bào miền Nam kiên cường chiến
đấu chống quân thù, xứng đáng với danh hiệu “Thành đồng của Tổ quốc”.
Đảng đã lãnh đạo, động viên đồng bào và chiến sĩ miền Bắc vừa xây dựng, vừa chống
chiến tranh phá hoại, vừa hoàn thành nghĩa vụ hậu phương lớn, chi viện tiền tuyến
lớn đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Đảng có quân đội nhân dân anh hùng, có nghệ thuật quân sự tài giỏi; có tấm gương
anh dũng chiến đấu của hàng triệu cán bộ, đảng viên và đồng bào cả nước.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của BCHTW Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IV, Nxb Sự thật,1977, tr.22. 9 lOMoARcPSD| 27879799
Đảng đã phát huy sức mạnh đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào,
Campuchia; có sự ủng hộ hết lòng và sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa;
sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ.3
4. Sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam cho đến nay:
Sau ngày đất nước thống nhất, cả nước sôi nổi thực hiện kế hoạch khôi phục
và phát triển kinh tế. Với những hậu quả của chiến tranh, những khó khăn thử thách
mới phát sinh, nhất là nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc rất nặng nề, cùng với những sai lầm,
khuyết điểm, chủ quan nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, chậm chuyển đổi cơ
chế quản lý đã làm cho đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội vào cuối những năm 70.
Để vượt qua khó khăn, thử thách, Đảng đã thẳng thắn đánh giá tình hình và tìm phương
hướng khắc phục. Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV
(9/1979) đã chủ trương “Phải sửa đổi và cải tiến các chính sách hiện hành, nhất là
chính sách về lưu thông, phân phối, nhằm làm cho sản xuất bung ra.” Có thể coi đây
là chủ trương khởi đầu của quá trình tìm tòi con đường đổi mới ở Việt Nam.
Đại hội V (3/1982) của Đảng chủ trương tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, thừa
nhận sự tồn tại thực tế của nhiều thành phần kinh tế, điều chỉnh bước đi và quy mô
của quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu.
Quá trình tìm tòi đường lối đổi mới diễn ra từ rất sớm và trên thực tế đã thực hiện đổi
mới từng phần từ khi có Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khóa IV, số 20-
NQ/TW về tình hình và nhiệm vụ cấp bách (9/1979); Chỉ thị 100 của Ban Bí thư về
khoán trong nông nghiệp (13/1/1981); Quyết định 25-CP của Chính phủ về đổi mới
quản lý trong kinh tế quốc doanh (21/11/1981); Nghị quyết Đại hội V của Đảng
(3/1982); Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8 khoá V (6/1985) về giá- lươngtiền.
Và đến Đại hội VI của Đảng (12/1986) đường lối đổi mới đất nước đã được hoạch
định trên những mặt căn bản.
Đường lối đổi mới xác định kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm
vụ then chốt, tập trung vào đổi mới cơ cấu kinh tế, điều chỉnh chủ trương cải tạo xã
hội chủ nghĩa, thừa nhận và thể chế hoá sự tồn tại của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Từ sau Đại hội VI (12/1986) Đảng và nhân dân đã tập trung thực hiện đường lối đổi
mới. Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (5-4-1988) hoàn thiện cơ chế khoán trong nông
nghiệp, hộ nông dân trở thành đơn vị kinh tế tự chủ. Hội nghị Trung ương lần thứ 6
khoá VI (tháng 3/1989) nêu rõ những nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới và đề ra
những chủ trương chính sách lớn, đồng bộ để giải quyết những vấn đề kinh tế, xã hội.
3 Giáo trình Lịch Sử Đảng 10 lOMoARcPSD| 27879799
Đại hội lần thứ VII của Đảng (6/1991) đánh dấu bước trưởng thành mới của Đảng.
Đây là lần đầu tiên Đảng thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.
Sau Đại hội VII, Đảng ta từ thực tiễn của công cuộc đổi mới tiếp tục làm rõ nhiều vấn
đề lớn đặt ra như xây dựng, củng cố Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; chỉnh
đốn Đảng, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng; làm rõ nội dung công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. .
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6/1996) đã tổng kết 10 năm đổi
mới. Đại hội VIII đánh dấu một bước ngoặt quan trọng chuyển đất nước ta sang một
thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng
một nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, công bằng, văn minh, vì hạnh phúc
của nhân dân, vì tình hữu nghị và sự hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Đại hội IX của Đảng (4/2001) là Đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới, thể
hiện ý chí kiên cường và niềm hy vọng lớn lao của cả dân tộc trong thời điểm trọng
đại bước vào thế kỷ mới.
Một trong những nội dung quan trọng của Đại hội X của Đảng (4/2006) là nhìn lại
khái quát 20 năm đổi mới. Trong báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng tại Đại hội đã nhận định: “Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu
to lớn và có ý nghĩa lịch sử. .”
Đại hội lần thứ XI của Đảng (tháng 1/2011), tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước.
Từ thực tiễn chỉ đạo, lãnh đạo, Đại hội rút ra một số bài học kinh nghiệm. Đó là phải
luôn kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo,
phát triển chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh; coi trọng chất lượng, hiệu
quả tăng trưởng và phát triển bền vững; coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng
trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. .
Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng
bước hình thành, phát triển. Trong ảnh: Dầu khí là ngành kinh tế mũi nhọn, đóng
góp nhiều vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. (Ảnh: Huy Hùng/TTXVN)
Đại hội lần thứ XII của Đảng (tháng 1/2016) được tổ chức sau 30 năm toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân ta thực hiện công cuộc Đổi mới kể từ Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12/1986).
Sau 35 năm đổi mới, nước ta đã giành được những thành tựu quan trọng về kinh tếxã
hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại và sự ổn định chính trị. Đường lối đổi mới vừa
hợp quy luật, hợp lòng người nên đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, khơi dậy sự sáng
tạo của mọi cấp, mọi ngành, mọi đơn vị, mọi người, tạo nên sức mạnh của dân tộc. 11 lOMoARcPSD| 27879799
35 năm qua, nền kinh tế không chỉ tăng trưởng về quy mô mà chất lượng tăng trưởng
cũng được cải thiện. Sau giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990), mức tăng trưởng GDP
bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4%. Giai đoạn 1996-2000, tốc độ tăng GDP đạt 7%.
Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, với sự điều hành quyết liệt và quyết tâm cao
của Chính phủ, Việt Nam đã từng bước đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất
lượng tăng trưởng, biểu hiện ở việc tốc độ tăng GDP bình quân giai đoạn 2016-2019
đạt mức 6,8%, đạt mục tiêu tăng trưởng bình quân 6,5% đến 7% của kế hoạch 5 năm 2016-2020. III. Kết luận
Như vậy, từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách
mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những
thắng lợi vĩ đại. Với những thắng lợi đã giành được trong 90 năm qua, nước ta từ một
xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo
con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm
chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát
triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có
vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
Trong lãnh đạo, Đảng có lúc cũng phạm sai lầm, khuyết điểm; có những sai lầm,
khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách
quan. Đảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn
để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.
Từ thực tiễn phong phú của cách mạng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng đã rút ra những bài học kinh nghiệm lớn, trong đó bài học thứ năm là: “sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân
dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do
thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ
thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai
lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên”4
Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong 90 năm qua kể từ ngày có Đảng lãnh
đạo là minh chứng sinh động nhất về năng lực lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng
ta và sức mạnh to lớn của nhân dân ta. Tự hào với những thắng lợi đã đạt được, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn vững tay lái, sáng suốt lãnh đạo toàn dân tộc, trước mắt tiếp
tục thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước do Đại hội đại biểu toàn
4 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H. tr.66. 12 lOMoARcPSD| 27879799
quốc lần thứ XII đã đề ra; phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành nước phát triển, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. IV. Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, HàNội, 2002, t 2, tr 2.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của BCHTW Đảng tại Đại hội
đạibiểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật,1977, tr.22.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của BCHTW Đảng tại Đại hội
đạibiểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật,1977, tr.22.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
NxbChính trị quốc gia, H. tr.66. 13