





Preview text:
SỬ THI VIỆT NAM o0o
I. THUẬT NGỮ VÀ ĐỊNH NGHĨA
Sử thi là thuật ngữ dịch từ thuật ngữ quốc tế “Epic” (tiếng Anh), gốc từ “Epikos”
(tiếng Hi Lạp, nghĩa là to lớn/vĩ đại) với hai phạm vi nghĩa: (1)
- Nghĩa rộng chỉ loại hình tự sự, đối lập với thơ và kịch, theo quan niệm
phân chia về loại thể văn chương có từ thời Aristoteles (Hi Lạp, 385 TCN - 323 TCN), (2)
- Nghĩa hẹp chỉ thể loại sử thi anh hùng.
Ở Việt Nam, ngoài tên gọi “sử thi” mà giới khoa học hay sử dụng, mỗi dân tộc có
một cách gọi riêng dành cho các sáng tác dân gian truyền miệng này: người Kinh gọi là
“Trường ca” hay “Anh hùng ca”, người Êđê gọi là “Khan”, người Mường gọi là “Mo”,
người Bana gọi là “Hơ-mon”, người Mơnông gọi là “Ót-nơ-rông”. v.v…
Người Kinh không có sử thi. Các tác phẩm sử thi vô giá ở Việt Nam hiện nay nổi
tiếng nhất là sử thi của dân tộc Êđê, bên cạnh đó là sử thi của các dân tộc khác ở khu vực
Tây Nguyên. Vùng đất Tây Nguyên là “quê hương” của sử thi. Ước tính đã có hơn 600
bộ sử thi đã được sưu tầm và bảo tồn. Có thể kể hàng loạt các tác phẩm có gí trị nghệ
thuật ở các dân tộc như: Đăm Săn, Đăm Di, Đăm Đroăn, Xinh Nhã, Y Pơrao, Mơ Hiêng
(Êđê), Đăm Noi, Dyông Wiwin, Xing Chi Ôn, Giông nghèo tám vợ, Dông Tư, Rốc Xét
(Bana), Đam Bơri, Cháng Trăng, Câu nêu thần, Mùa rẫy Bon Tiăng (Mơnông),.v.v.
Điều đáng tự hào là sử thi các dân tộc nói trên đều giữ được thuần chất dân gian, không
bị mai một và biến đổi như nhiều bộ sử thi bác học ở các quốc gia khác trên thế giới).
Theo nhà nghiên cứu Võ Quang Nhơn, “sử thi là những tác phẩm thuộc loại tự sự
dân gian, trong đó có sự kết hợp một cách hài hoà một cách tự nhiên các yếu tố nghệ
thuật khác nhau như nói lối của văn xuôi, nói vần của thơ ca, hát của thanh nhạc và diễn
xướng của sân khấu”, “là những câu chuyện ca ngợi các nhân vật anh hùng, là những
nhân vật tù tộc trưởng nổi tiếng ở các buôn làng đã có công hướng dẫn nhân dân trong
cộng đồng làm ăn để đạt được cuộc sống ấm no, những người dẫn đầu nhân dân lập được
những chiến công vang dội, đánh giặc cướp nước bên ngoài tới, bảo đảm cuộc sống yên
vui của cộng động hoặc đứng lên đấu tranh quyết liệt chống lại những tập tục lỗi thời
ràng buộc bước tiến của xã hội.” (Văn học dân gian Việt Nam, Đinh Gia Khánh - Chu
Xuân Diên - Võ Quang Nhơn, NXB Giáo dục, tr. 753)
* Nhiệm vụ 01: 1
Từ định nghĩa trên, anh/chị hãy xác định một vài thông tin khoa học về thể loại sử thi ở các phương diện:
- Hình thức diễn xướng:……………………………………………………………
….………………………………………………………………………………….
- Nội dung phản ánh:………………………………………………………………
….…………………………………………………………………………………
II. BỐI CẢNH THỜI ĐẠI VÀ CHỨC NĂNG THỂ LOẠI
Sử thi ra đời trong bối cảnh phát triển vượt bậc về đời sống của các tộc người gắn
liền với nhu cầu xây dựng và phát triển qui mô, sức mạnh của cộng đồng. Đây là thời kì
sống động bậc nhất trong đời sống các cộng đồng người thời cổ-trung đại mà theo Ăng-
ghen, đó là thời đại “Anh hùng”, theo Hê-ghen, đó là thời kì “bừng tỉnh”. Thời đại “Anh
hùng ấy”, theo Ăng-ghen, chính là thời kì tồn tại và phát triển chế độ “quân sự dân chủ” -
với hàm nghĩa chiến tranh là nhu cầu và là quyền lợi của tất cả các bộ tộc vì mục đích
thúc đẩy sự lớn mạnh của cộng đồng. Đây là thời đại đầy biến cố, giai đoạn cuối cùng và
phát triển cao nhất của xã hội nguyên thuỷ, giai đoạn tan rã sâu sắc của chế độ thị tộc
trước khi bước vào giai đoạn xuất hiện nhà nước. Bối cảnh lịch sử-xã hội lúc bấy giờ có
02 đặc điểm cơ bản sau:
Một là sự xuất hiện của kim loại và vai trò của nó trong đời sống cộng đồng đã
thúc đẩy sản xuất phát triển mà ở đó người tù-tộc trưởng tài giỏi và giàu mạnh phải là
người có lắm chiêng nhiều la.
Hai là sự phân hoá sâu sắc về mặt kinh tế-xã hội diễn ra mạnh mẽ. Một tầng lớp
quí tộc tách ra khỏi tập thể đông đảo của cộng đồng (sở hữu tập thể bị thay thế bởi sở hữu
cá thể trước hết ở tầng lớp quí tộc).
Ba là chiến tranh bộ lạc giữ vai trò quan trọng và thường trực, trong đó, chiến
tranh cướp đất và cướp đàn bà là 02 loại tiêu biểu nhất.
Có hai luồng ý kiến khác nhau về mốc thời gian ra đời sử thi Tây Nguyên. Quan
điểm thứ nhất của nhà nghiên cứu Sabastie (Pháp), cho rằng chiến tranh bộ lạc ở Tây
Nguyên xảy ra vào khoảng thế kỷ XVII. Tuy nhiên, nhiều nhà sử học Việt Nam cho rằng
chế độ quân sự dân chủ ở Tây Nguyên xuất hiện tương đối sớm, khoảng thế kỉ XIII, XIV.
Tương đồng với thể loại truyền thuyết, sử thi có vai trò xác lập niềm tin của nhân
dân đối với quá khứ của dân tộc.
* Nhiệm vụ 02: 2
2.1. Các nhà nghiên cứu gọi thời đại ra đời sử thi là: …………………………….
2.2. Ba đặc điểm của thời đại “quân sự dân chủ” là:
Một là: …………………………………………………………………………….
Hai là:………………………………………………………………………………
Ba là:……………………………………………………………………………….
2.3. Chiến tranh cướp đất và cướp người đẹp ở thời đại sử thi là:
a. Chiến tranh chính nghĩa b. Chiến tranh phi nghĩa
c. Không có quan niệm về chiến tranh chính nghĩa hay phi nghĩa
III. NỘI DUNG - ĐỀ TÀI CỦA SƯ THI
Mêlêtinxki nhận định: “Nội dung chủ yếu của thời đại anh hùng là sự gắn bó
khăng khít giữa quyền hạn và nghĩa vụ, giữa khát vọng cá nhân và những qui chế xã hội,
là mối quan hệ chặt chẽ giữa người anh hùng và nhân dân.”
Nhìn tổng thể, trong sử thi có hai nhóm sự kiện. Nhóm sự kiện thứ nhất là những
hành động, những xung đột với các lực lượng tự nhiên được trí tưởng tượng tượng của
nhân dân nhận thức và lí giải bằng lối tư duy thần thoại. Nhóm sự kiện thứ hai là những
xung đột xã hội giữa các bộ tộc, bộ lạc, tù trưởng để khẳng định và mở rộng vị thế, sức mạnh của cộng đồng.
Đối tượng phản ánh của sử thi là quá khứ anh hùng của cộng đồng, là thế giới của
cha ông và tổ tiên, thế giới của những người ưu tú nhất. Sử khi không bao giờ là những
trường ca về hiện tại. Tâm thế của tác giả là tâm thế của người đang nói về quá khứ
không với tới, tâm thế của con cháu đối với cha ông. Quá khứ đó không phải là phạm trù
thời gian thuần tuý mà là phạm trù giá trị. Trong quá khứ đó, cái gì cũng đứng thứ nhất.
Quá khứ đó liên quan đến môi trường diễn xướng sử thi: “Kể sử thi bao giờ cũng là về
đêm. Bởi vì về đêm, người Tây Nguyên sống một đời sống khác, đời sống khác của họ
bắt đầu khi con người thoát ra khỏi những nhiêu khê, nhọc nhằn, khi con người không
còn xa cách với thần linh. Thần linh cùng đi lại, cùng vui buồn với họ… Nó chỉ thức dậy
về đêm, khi bóng đêm xoá nhoà hư và thực tạo nên không gian huyền thoại mà vẫn sống
động lạ thường.” (Nguyên Ngọc)
Tương tự như đối với truyền thuyết, khi nghe kể về nhân vật sử thi ai cũng tin là
thật dù nó được hư cấu rất nhiều. Một nhà văn hoá người Êđê nói rằng: “Đăm săm toát 3
lên một đời sống thật nhưng phong phú hơn, cao xa hơn rất nhiều.” Người diễn kể sử thi
luôn đặt tác phẩm cao hơn mình, khêu gợi sự tôn kính đối với nó.
Xét về nội dung đề tài, có hai loại sử thi:
Sử thi thần thoại: Kể và giải thích về các hiện tượng sinh thành vũ trụ, con người,
sự hình thành cộng đồng, những quan hệ xã hội đầu tiên. Nó gắn bó hết sức chặt chẽ với
thần thoại, sử dụng tư duy thần thoại. Nhưng nó khác với thần thoại ở tính chất xâu chuỗi,
hệ thống sự việc từ lúc mọi cái đều chưa nên chưa có đến lúc mọi cái được sinh thành,
phát triển, già cỗi rồi tiêu vong.
Sử thi anh hùng: kể về những sự kiện, những biến cố của cộng đồng gắn liền với
nhân vật anh hùng để khẳng định sức mạnh của người đứng đầu cộng đồng cũng như của
tập thể cộng đồng đó. Có 02 đề tài tiêu biểu: một là đề tài chiến tranh-giao tranh, hai là đề
tài xây dựng cộng đồng. Người anh hừng trong các sử thi thuộc đề tài thứ nhất là những
anh hùng chiến trận. Người anh hừng trong các sử thi thuộc đề tài thứ hai là những anh hùng văn hoá. * Nhiệm vụ 03:
3.1. Từ phát biểu của nhà văn Nguyên Ngọc, em hiểu sử thi đóng vai trò như thế
nào trong đời sống của người Tây Nguyên?:
…………………………………………………………………………………….
….………………………………………………………………………………….
3.2. Kể tên 02 loại sử thi xét theo nội dung đề tài:
….………………………………………………………………………………….
….………………………………………………………………………………….
3.3. Kể tên 02 loại nhân vật trung tâm của sử thi anh hùng:
….………………………………………………………………………………….
….………………………………………………………………………………….
IV. ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP CỦA SỬ THI
Sử thi kể về quá khứ của dân tộc bằng cảm hứng ngợi ca, âm điệu hào hùng. Từ
bức tranh thiên đến bức tranh lao động và chiến đấu của con người đều đặc biệt hoành
tráng, giàu có, phong phú và đẹp đẽ một cách lạ thường. Do vậy, nghệ thuật ngoa dụ,
phóng đại rất được trưng dụng. Cường điệu, lí tưởng hoá là xu hướng chính trong phương
thức tư duy nghệ thuật của sử thi. Xu hướng này có sự kết nối chặt chẽ với logic đặc
trưng trong tư duy của đồng bào các dân tộc ít người là kiểu liên tưởng, so sánh giữa 4
những khái niệm trừu tượng với những sự vật cụ thể và lối tổ chức cấu trúc chồng nối,
lặp lại, đan bện nhiều cấp độ và bình diện trong chỉnh thể ngôn từ nghệ thuật của tác
phẩm. Những đặc điểm nói trên được thể hiện qua nghệ thuật miêu tả không gian, xây
dựng nhân vật và tổ chức sự kiện tự sự.
Tiếp cận kho tàng sử thi, trước hết, là tiếp cận một không khí, một khung cảnh tự
nhiên đầy sinh khí và nhịp điệu sinh hoạt, lao động đầy hứng khởi của buôn làng chốn
núi rừng: “Trâu bò nhi nhúc như bầy mối, bầy kiến. Đường từ bên trái qua bên phải rộng
đến nỗi hai người đứng hai bên đường, một người thẳng tay giơ lên một con dao dài cũng
chưa chạm nhau. Dấu chân ngựa voi trên đường làm cho đường giống như một sợi dây
đánh. Tớ trai đi lại chen chúc nhau, ngực sát ngực. Tớ gái vú sát vú.” Cuộc sống quanh
năm rộn ràng trong thứ thanh âm vừa quen thuộc vừa mê hoặc, vừa trần tục vừa thần bí:
“Đánh lên! Cho tiếng chiêng lan ra khắp xứ. Đánh lên! Cho tiếng chiêng lòn qua sàn
xuống dưới đất. Đánh lên cho tiếng chiêng vượt mái nhà vang lên đến tận trời. Đánh cho
khỉ quên ôm chặt cành cây, cho ma quỷ cũng quên không hại người ta. Đánh cho chuột
quên đào lỗ, cho rắn nằm ngay bờ. Cho thỏ phải giật mình. Cho hươu nai cũng ngừng nghe quên ăn cỏ”.
Trong khung cảnh ấy, nổi bật hình ảnh những chàng trai tuấn tú, tài ba như Đăm
Săn, Xinh Nhã, Trông Đăn, Đăm Thí, Xinh Mơ Nga, Đam Đroăn.v.v. hay những cô gái
nhan sắc và đảm đang như Hơ Bhí, Hơ Nhí, Hbia Sun, Prăc Hjê, Hbia Blao, Bră
Êtang.v.v. Đây là hình ảnh chàng trai: “Anh đi trên đường cái thoăn thoắt như con rắn
prao huê. Anh đi trong đám cỏ tranh nhanh như rắn prao hơmat… Mỗi khi anh giẫm
mạnh vào ngạch cửa làm nhà sàn rung lên bảy lần…”. Và đây là hình ảnh cô gái: “Nàng
đi đủng đỉnh, thân hình uyển chuyển như cành cây blô sai quả, mềm dẽo như những cành
trên ngọn cây, gió đưa đi đưa lại…Nàng đi như chim phụng bay, như chim diều lượn trên
không, như nước chảy dưới suối…”.
Trong sử thi, nhân vật trung tâm và nhân vật đối thủ đều được miêu tả với những
nét đẹp riêng, bởi vì, theo quan niệm của con người thời đại này, người anh hùng nào
cũng là người anh hùng. Đăm Săn được miêu tả với vẻ đẹp sang trọng, kiểu cách: “Nó
không biết Đăm Săn à? Nó không biết người tù trưởng đầu đội khăn kép và vai mang túi
da. Nó không biết Đăm Săn có danh tiếng đến tận thần linh sông núi, không còn một
tướng nào là không biết đến Đăm Săn. Nó không biết rằng Đăm Săn đây không có ai bì
kịp…”. Là đối thủ của Đăm Săn, Mtao Mxây cũng được xây dựng bằng một hình tượng
oai dũng: “Mtao Mxây là một tù trưởng giàu mạnh. Gông cùm, tù binh chật cả làng. Lông
chân dày như đắp lên một lớp. Lông mày sắc như đá mài. Con mắt sáng ngời như đã
uống hết một chum rượu, đến nỗi một con trâu lớn cũng không dám đi qua”. 5
Cảnh đánh nhau ở chiến trường được miêu tả hết sức kịch tính trong sử thi: “Nhảy
một nhảy vượt qua một đồi tranh, nhảy lùi một nhảy vượt qua một đồi tre mơ ô; anh chạy
xuống phía đông, anh chạy lên phía tây”. Đối thoại của nhân vật cũng đối lập căng thẳng:
- Mtao Mxây: Khoan khoan, để tao xuống đất. Đừng vội đâm tao trước lúc tao xuống.
- Đăm Săn: Tao không thèm đâm mày trước lúc mày xuống. Con lợn dưới đất tao
không đâm thì mày tao cũng không đâm.”
Toàn bộ những yếu tố ngôn ngữ sinh động về hình tượng, hài hoà về nhạc điệu,
đối lập về kịch tính được các nghệ nhân diễn kể sử thi chắt lọc, nhào nặn, phối hợp và
diễn đạt theo một kết cấu trùng điệp đã tạo nên vẻ đẹp hài hoà của sử thi. Nhờ vậy nó là
một trong những nhân tố quan trọng tạo nên tính bền vững trong việc bảo vệ và lưu
truyền của thể loại sử thi anh hùng. * Nhiệm vụ 04:
4.1. Qua đoạn văn miêu tả: “Anh đi trên đường cái thoăn thoắt như con rắn prao
huê. Anh đi trong đám cỏ tranh nhanh như rắn prao hơmat…(1) Mỗi khi anh giẫm mạnh
vào ngạch cửa làm nhà sàn rung lên bảy lần…(2)”, anh/chị hãy chỉ ra nét độc đáo trong
nghệ thuật miêu tả của các dân tộc ít người (so với nghệ thuật miêu tả của người Kinh) ở:
a- Hình ảnh “rắn” (câu 1)……………………………………………………
b- Nghĩa hàm ẩn (câu 2):……………………………………………………………
4.2. Trong đoạn miêu tả tiếng chiêng: “Đánh lên……”, anh chị hãy xác định
những yếu tố lặp lại:
- Ở cấu độ từ-ngữ:………………………………………………………………….
- Ở cấp độ câu:………………………………………………………………………
….………………………………………………………………………………….
4.3. Hai câu văn miêu tả Mtao Mxây: “Lông mày sắc như đá mài. Con mắt sáng
ngời như đã uống hết một chum rượu, đến nỗi một con trâu lớn cũng không dám đi qua”,
ngoài thủ pháp so sánh, sử dụng thủ pháp nghệ thuật gì? Chỉ ra cụm từ thể hiện rõ thủ pháp nghệ thuật ấy.
….………………………………………………………………………………….
….…………………………………………………………………………………. 6
Document Outline
- I.THUẬT NGỮ VÀ ĐỊNH NGHĨA
- II.BỐI CẢNH THỜI ĐẠI VÀ CHỨC NĂNG THỂ LOẠI
- III.NỘI DUNG - ĐỀ TÀI CỦA SƯ THI
- IV.ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP CỦA SỬ THI
- * Nhiệm vụ 04: