Sự tự do thực sự ? Làm thế nào để đạt
được sự tự do nội tâm?
1. Tự do thực sự ?
Tự do không nghĩa phải một mình, không bất bó, kỷ luật, ràng
buộc nào.… Đôi khi chúng ta cần những thời điểm không ràng buộc, không
quy tắc như vậy để cảm thấy tốt hơn nhưng về lâu dài sẽ hạn chế sự phát
triển của chúng ta. Sự tự do thực sự sự tự do bên trong. không
nghĩa bạn phải ngừng làm việc, ngừng kiếm tiền m bất cứ điều bạn
muốn bất cứ khi nào một sự độc lập nội tâm, cho phép bạn chính
mình, thoải mái khi chính mình một mình hay trong mối quan hệ với
người khác. Bạn biết lựa chọn điều tốt.
Chẳng hạn, trong một cặp vợ chồng, đôi khi một số người nói sự chung thủy
làm hạn chế tự do của bạn, thật đau khổ khi bị thu hút bởi một người khác
nào đó nhưng lại cảm thấy rằng mình bắt buộc phải chung thủy. Nếu người ta
coi sự chung thủy n một nghĩa vụ bắt buộc thì đó không phải một sự
chung thủy tự do, trái lại ta sẽ cảm thấy tự do bên trọng khi ta thấy rằng Tôi
muốn chung thủy bởi tôi biết nó sẽ tốt cho vợ chồng tôi, nếu tôi không
trung thành i sẽ làm tổn thương người khác, đó không phải là điều tôi muốn.”
Như vậy bạn sẽ dễ dàng nói “không” một cách thoải mái với người lôi kéo
bạn.
Chúng ta thấy rằng một sự khác biệt lớn giữa tự do nội tâm tự do thể
chất. Điều mà chúng ta thực sự cần đ cuộc sống tốt đẹp lâu dài sự tự
do bên trong.
Tự do khái niệm dùng trong triết học chính trị tả tình trạng khi nhân
không chịu sự ép buộc, hội để lựa chọn hành động theo đúng với ý
chí nguyện vọng của chính mình. Nó tiền đề sinh ra chủ nghĩa tự do theo
hướng ý thức hệ.
Trên thế giới hiện nay, không phải mọi người đều đã được hưởng quyền tự
do; nhiều nơi nhà cầm quyền tuy tuyên b thừa nhận bảo đảm quyền tự
do cho mọi người, nhưng không bảo đảm được hoặc không muốn bảo đảm
như tuyên bố; cuộc đấu tranh tự do nhiều nơi trên thế giới vẫn đang diễn
ra gay gắt. Nhân loại đã suy về khái niệm tự do từ hàng ngàn năm nay. Khi
hội ng mất tự do thì người ta càng suy nhiều về tự do. Tình trạng mất
tự do vẫn đang diễn ra trầm trọng. thế, khái niệm tự do đang được sử
dụng n luận rộng rãi trong sách o hàng ngày không chỉ từ các nhà
chính trị, nhà khoa học, còn từ những người bình thường.
Tuy nhiên, khi sử dụng bàn luận về tự do, không phải ai cũng quan
niệm đúng đắn. Trong quan niệm của hầu hết mọi người, tự do nhu cầu
tinh thần quan trọng bản; một giá trị; thậm chí là giá trị cao quý nhất;
mục tiêu động lực của sự phát triển hội. Một số người trong thực tế
thể khước từ tự do (“chạy trốn tự do”, không muốn tự do), nhưng điều
đó không nghĩa rằng đối với họ t do không phải giá trị; bởi tình trạng
tự do họ khước từ thứ tự do còn tồi tệ hơn tình trạng lệ họ đang
chịu đựng.
Ai cũng muốn tự do, tự do giá trị. Nhưng tự do tính tương đối.
Trong quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người không tự do tuyệt
đối con người không thể nhận thức hết được hoàn toàn tính tất yếu của tự
nhiên. Trong quan hệ giữa con người với con người, con người cũng không
tự do tuyệt đối. Sự tự do trong hội nhà nước (kể cả trong hội
nhà nước n chủ nhất) hạn chế hơn so với sự tự do trong hội không
nhà nước. Trong hội nhà nước hay không nhà nước, nhà
nước dân chủ hay không nhà nước dân chủ, thì mỗi người vẫn buộc phải
hy sinh một phần tự do của mình. Tự do con người đã đạt được sẽ đạt
được đều tương đối. loại tự do mọi người cần phải được hưởng
ngay; nhưng cũng loại t do mọi người chưa thể được hưởng ngay.
quan niệm cho rằng, nhu cầu tự do của mọi người cần phải được nhà
nước hội đáp ứng một cách đầy đủ điều kiện. Quan niệm này
sai lầm không thừa nhận tính tương đối của tự do. Nếu không thừa nhận
tính tương đối của tự do, thì chúng ta sẽ người không thực tế.
2. Phân loại các hình thức tự do
Qua việc trình bày bản chất của tự do, phần nào chúng tôi đã phác họa các
cấp độ của tự do. Tự do thể được phân loại dựa trên hai nh vi căn bản
“quyết định” (muốn) “hành động” (làm).
- Tự do chọn lựa quyết định (libertas arbitrii, liberum arbitrium). mang tính
cách nội tại, bên trong chủ thể. Sự quyết định này mang hai dạng:
+ Thực hiện (libertas exercitii): muốn hay không muốn;
+ Định loại (libertas specificationis): muốn làm cái này hay làm i kia.
Dưới khía cạnh luân lý, thánh ma Aquinô (De veritate q.22,a.6) còn thêm
một dạng thứ ba được đặt tên tự do tương phản (libertas contrarietatis):
chọn làm điều tốt hay làm điều xấu. Sự lựa chọn này mang theo trách nhiệm
trước lương tâm.
- Tự do hành động, xảy ra bên ngoài chủ thể. đòi hỏi sự thong dong,
không b cưỡng bách (libertas a coactione). Nó mang nhiều hình dạng.
- Tự do thể lý: thể di chuyển hành động, không b trói buộc (cùm xích)
hay ngăn chặn (tường rào).
- T do công dân: trong khung cảnh của cộng đoàn chính trị, người công dân
th hành động không bị luật pháp cấm đoán. Người ta cũng nói đến “tự
do chính trị”, nghĩa quyền thể tham gia vào việc điều khiển cộng đoàn
(trái lại với các chế độ độc tài). Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này trong chương
Bảy cuốn TLHTXH, khi nói đến nhân quyền dân quyền.
- Tự do hội: không b ràng buộc bởi luật lệ hay phong tục hội.
- Tự do luân lý: không bị ràng buộc bởi nghĩa vụ bổn phận, không bị áp lực
của đe dọa, hình phạt, phần thưởng.
3. Tâm ?
Khái niệm tâm lý không phải đơn giản. Thực tế từ xa xưa cho đến ngày nay
con người đã tốn rất nhiều công sức để tìm hiểu khái niệm này.
Người nguyên thuỷ quan điểm cho rằng con người hai phần: thể xác
tâm hồn. Tâm hồn chính là cội nguồn của tâm con người. Tâm hồn bất
tử, con người sau khi chết còn cuộc sống của tâm linh
Trong tiếng Việt thuật ngữ tâm đã từ lâu
Từ điển tiếng Việt 1988 định nghĩa một cách tổng quát: tâm ý nghĩa,
tình cảm, làm thành thế giới nội tâm, thế giới bên trong của con người”
Trong cuộc sống hàng ngày, chữ tâm thường được sử dụng ghép với các từ
khác. Ta thường cụm từ “tâm địa”, tâm can, tâm tình tâm trạng, tâm tư,
được hiểu lòng người thiên về mặt nh cảm. Như vậy tâm được dùng để
chỉ những hiện tượng tinh thần của con người.
Khái niệm m trong tâm học bao gồm tất cả những hiện tượng tinh thần
như cảm giác, tư duy, tình cảm hình thành trong đầu óc con người điều chỉnh,
điều khiển mọi hoạt động của con người.
Nói một cách chung nhất: tâm tất cả những hiện tượng tinh thần nảy sinh
trong đầu óc con người, gắn liền điều hành mọi hành động, hoạt động của
con nguời.
4. Tâm hc ?
Sở dĩ nói tâm học một khoa học đối ợng nghiên cứu
phương pháp luận nghiên cứu đặc thù riêng.
Tâm học khoa học nghiên cứu các hiện tượng tâm lý. nghiên cứu các
quy luật nảy sinh vận hành phát triển của các hiện tượng tâm trong hoạt
động đa dạng diễn ra trong cuộc sống hàng ngày của mỗi con người. Sự ra
đời của tâm học với cách một khoa học độc lập kết quả phát triển
lâu dài của nhưng tưởng triết học, những quan điểm tâm học trong
trường kỳ lịch sử phát triển của nhiều lĩnh vực khoa học khác .
5. Làm thế nào để đạt được sự tự do nội m ?
1. Hiểu về sự tự do bạn thực sự muốn ? Điều khiến bạn cảm
thấy thực sự tự do ?
2. Cảm nhận cảm xúc của mình
Nghĩa đón nhận những cảm xúc của bạn, đ cho hiện diện thay đè
nén, cản trở để thể hiểu hơn những gì đang xảy đến với bạn bạn
cần gì.
3. Đáp ứng nhu cầu
Cũng giống như tình cảm cảm xúc, những nhu cầu là cần thiết cho chúng ta,
ta không thể chối bỏ mà. Ta chỉ khả năng đáp ng hay không đáp ứng
nó, tuy nhiên nếu tạm thời bạn bỏ qua nó, không hề mất đi mà vẫn duy trì
phát triển đôi khi ta không biết, sau đó thể gây ra những triệu chứng
khác.
Một dụ minh họa cơn đói, đôi khi bạn thể quên cơn đói nhưng không
nghĩa bạn không biết đói. Nếu bạn không ăn sẽ tạo ra những tín hiệu
khác như: mệt mỏi, nhức đầu,…về lâu dài sẽ gây ra những vấn đề sức khỏe.
Cả nhu cầu tinh thần nhu cầu thể chất đều cùng quan trọng cho
chúng ta muốn hay không thì vẫn tồn tại, tuy nhiên trong khi hầu hết
những nhu cầu về thể chất được đáp thì những nhu cầu tinh thần lại thường
bị đè nén.
Như vậy đ đạt được sự tự do nội tâm, chúng ta cần lắng nghe chính mình
để cho bản thân bạn được chính mình. Chấp nhận những cảm xúc,
những nhu cầu, những điều chúng ta không thể thay đổi.
6. Quyền tự do trong Chủ Nghĩa Hội
Chủ Nghĩa Hội (CNXH) phải tự do hơn CNTB. Khi nào đạt được mức độ
tự do cao hơn tự do của hội bản phát triển thì khi ấy mới thể
CNXH hiện thực. Việt Nam ta tuy đã định hướng tiến lên CNXH nhưng vẫn
còn đang chịu ảnh hưởng nặng nề tưởng phong kiến trong vấn đề tự do.
Phải ra sức khắc phục hạn chế này mới đúng theo định ớng XHCN. Còn
làm ngược lại, hạn chế tự do, thì đó không phải con đường tiến lên CNXH,
ngược lại, đó con đường rời bỏ mục tiêu tưởng về CNXH. Đã
những quan niệm rất sai lầm lạc hậu khi cho rằng tự do kiểu bản
phương Tây, còn CNXH t hiểu như “trại lính”. Nếu CNXH vậy t chẳng
ai yêu thích h sẽ từ bỏ nó. Cuộc đấu tranh đòi quyền tự do không khi nào
lạc hậu, không bao giờ không cần thiết, luôn vấn đ của thời đại, cũng
vấn đề thời sự, đáng quan tâm hàng đầu, hợp quy luật, hợp lòng người,
hợp tâm lý, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Với lẽ ấy, tự do bản thân
đã tất yếu. Tự do tất yếu.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tự do mục đích tiếp theo, mục đích chính của
độc lập. Độc lập để tự do. Độc lập, bản thân sự t do cho một dân
tộc; đồng thời để phải đem lại tự do cho nhân dân, cho từng người. Hồ
Chí Minh đã từng nói, nếu nước độc lập dân không được tự do, hạnh
phúc thì độc lập cũng chưa ý nghĩa gì. Khi lập nước, Người đã đưa các
thành tố “dân chủ” “tự do” vào tên gọi của nước Việt Nam mới.

Preview text:

Sự tự do thực sự là gì? Làm thế nào để đạt
được sự tự do nội tâm?
1. Tự do thực sự là gì ?
Tự do không có nghĩa là phải ở một mình, không có bất kì gò bó, kỷ luật, ràng
buộc nào.… Đôi khi chúng ta cần những thời điểm không ràng buộc, không
quy tắc như vậy để cảm thấy tốt hơn nhưng về lâu dài nó sẽ hạn chế sự phát
triển của chúng ta. Sự tự do thực sự là sự tự do bên trong. Nó không có
nghĩa là bạn phải ngừng làm việc, ngừng kiếm tiền và làm bất cứ điều gì bạn
muốn bất cứ khi nào mà là một sự độc lập nội tâm, cho phép bạn là chính
mình, thoải mái khi là chính mình dù ở một mình hay trong mối quan hệ với
người khác. Bạn biết lựa chọn điều gì là tốt.
Chẳng hạn, trong một cặp vợ chồng, đôi khi một số người nói sự chung thủy
làm hạn chế tự do của bạn, thật là đau khổ khi bị thu hút bởi một người khác
nào đó nhưng lại cảm thấy rằng mình bắt buộc phải chung thủy. Nếu người ta
coi sự chung thủy như là một nghĩa vụ bắt buộc thì đó không phải là một sự
chung thủy tự do, trái lại ta sẽ cảm thấy tự do bên trọng khi ta thấy rằng “Tôi
muốn chung thủy bởi vì tôi biết nó sẽ tốt cho vợ chồng tôi, và nếu tôi không
trung thành tôi sẽ làm tổn thương người khác, đó không phải là điều tôi muốn
.”
Như vậy bạn sẽ dễ dàng nói “không” một cách thoải mái với người lôi kéo bạn.
Chúng ta thấy rằng có một sự khác biệt lớn giữa tự do nội tâm và tự do thể
chất. Điều mà chúng ta thực sự cần để có cuộc sống tốt đẹp lâu dài là sự tự do bên trong.
Tự do là khái niệm dùng trong triết học chính trị mô tả tình trạng khi cá nhân
không chịu sự ép buộc, có cơ hội để lựa chọn và hành động theo đúng với ý
chí nguyện vọng của chính mình. Nó là tiền đề sinh ra chủ nghĩa tự do theo hướng ý thức hệ.
Trên thế giới hiện nay, không phải mọi người đều đã được hưởng quyền tự
do; ở nhiều nơi nhà cầm quyền tuy tuyên bố thừa nhận và bảo đảm quyền tự
do cho mọi người, nhưng không bảo đảm được hoặc không muốn bảo đảm
như tuyên bố; cuộc đấu tranh vì tự do ở nhiều nơi trên thế giới vẫn đang diễn
ra gay gắt. Nhân loại đã suy tư về khái niệm tự do từ hàng ngàn năm nay. Khi
xã hội càng mất tự do thì người ta càng suy tư nhiều về tự do. Tình trạng mất
tự do vẫn đang diễn ra trầm trọng. Vì thế, khái niệm tự do đang được sử
dụng và bàn luận rộng rãi trong sách báo hàng ngày không chỉ từ các nhà
chính trị, nhà khoa học, mà còn từ những người bình thường.
Tuy nhiên, khi sử dụng và bàn luận về tự do, không phải ai cũng có quan
niệm đúng đắn. Trong quan niệm của hầu hết mọi người, tự do là nhu cầu
tinh thần quan trọng và cơ bản; là một giá trị; thậm chí là giá trị cao quý nhất;
là mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội. Một số người trong thực tế
có thể khước từ tự do (“chạy trốn tự do”, không muốn có tự do), nhưng điều
đó không có nghĩa rằng đối với họ tự do không phải là giá trị; bởi vì tình trạng
tự do mà họ khước từ là thứ tự do còn tồi tệ hơn tình trạng nô lệ mà họ đang chịu đựng.
Ai cũng muốn có tự do, vì tự do là giá trị. Nhưng tự do có tính tương đối.
Trong quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người không có tự do tuyệt
đối vì con người không thể nhận thức hết được hoàn toàn tính tất yếu của tự
nhiên. Trong quan hệ giữa con người với con người, con người cũng không
có tự do tuyệt đối. Sự tự do trong xã hội có nhà nước (kể cả trong xã hội có
nhà nước dân chủ nhất) hạn chế hơn so với sự tự do trong xã hội không có
nhà nước. Trong xã hội dù có nhà nước hay không có nhà nước, dù có nhà
nước dân chủ hay không có nhà nước dân chủ, thì mỗi người vẫn buộc phải
hy sinh một phần tự do của mình. Tự do mà con người đã đạt được và sẽ đạt
được đều là tương đối. Có loại tự do mà mọi người cần phải được hưởng
ngay; nhưng cũng có loại tự do mà mọi người chưa thể được hưởng ngay.
Có quan niệm cho rằng, nhu cầu tự do của mọi người cần phải được nhà
nước và xã hội đáp ứng một cách đầy đủ và vô điều kiện. Quan niệm này là
sai lầm vì không thừa nhận tính tương đối của tự do. Nếu không thừa nhận
tính tương đối của tự do, thì chúng ta sẽ là người không thực tế.
2. Phân loại các hình thức tự do
Qua việc trình bày bản chất của tự do, phần nào chúng tôi đã phác họa các
cấp độ của tự do. Tự do có thể được phân loại dựa trên hai hành vi căn bản
là “quyết định” (muốn) và “hành động” (làm).
- Tự do chọn lựa quyết định (libertas arbitri , liberum arbitrium). Nó mang tính
cách nội tại, ở bên trong chủ thể. Sự quyết định này mang hai dạng:
+ Thực hiện (libertas exerciti ): muốn hay không muốn;
+ Định loại (libertas specificationis): muốn làm cái này hay làm cái kia.
Dưới khía cạnh luân lý, thánh Tôma Aquinô (De veritate q.22,a.6) còn thêm
một dạng thứ ba được đặt tên là tự do tương phản (libertas contrarietatis):
chọn làm điều tốt hay làm điều xấu. Sự lựa chọn này mang theo trách nhiệm trước lương tâm.
- Tự do hành động, xảy ra bên ngoài chủ thể. Nó đòi hỏi sự thong dong,
không bị cưỡng bách (libertas a coactione). Nó mang nhiều hình dạng.
- Tự do thể lý: có thể di chuyển và hành động, không bị trói buộc (cùm xích)
hay ngăn chặn (tường rào).
- Tự do công dân: trong khung cảnh của cộng đoàn chính trị, người công dân
có thể hành động mà không bị luật pháp cấm đoán. Người ta cũng nói đến “tự
do chính trị”, nghĩa là quyền có thể tham gia vào việc điều khiển cộng đoàn
(trái lại với các chế độ độc tài). Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này trong chương
Bảy cuốn TLHTXH, khi nói đến nhân quyền và dân quyền.
- Tự do xã hội: không bị ràng buộc bởi luật lệ hay phong tục xã hội.
- Tự do luân lý: không bị ràng buộc bởi nghĩa vụ bổn phận, không bị áp lực
của đe dọa, hình phạt, phần thưởng. 3. Tâm lý là gì ?
Khái niệm tâm lý không phải đơn giản. Thực tế từ xa xưa cho đến ngày nay
con người đã tốn rất nhiều công sức để tìm hiểu khái niệm này.
Người nguyên thuỷ có quan điểm cho rằng con người có hai phần: thể xác và
tâm hồn. Tâm hồn chính là cội nguồn của tâm lý con người. Tâm hồn là bất
tử, con người sau khi chết còn có cuộc sống của tâm linh
Trong tiếng Việt thuật ngữ tâm lý đã có từ lâu
Từ điển tiếng Việt 1988 định nghĩa một cách tổng quát: “ tâm lý là ý nghĩa,
tình cảm, làm thành thế giới nội tâm, thế giới bên trong của con người”
Trong cuộc sống hàng ngày, chữ tâm thường được sử dụng ghép với các từ
khác. Ta thường có cụm từ “tâm địa”, tâm can, tâm tình tâm trạng, tâm tư,
được hiểu là lòng người thiên về mặt tình cảm. Như vậy tâm lý được dùng để
chỉ những hiện tượng tinh thần của con người.
Khái niệm tâm lý trong tâm lý học bao gồm tất cả những hiện tượng tinh thần
như cảm giác, tư duy, tình cảm hình thành trong đầu óc con người điều chỉnh,
điều khiển mọi hoạt động của con người.
Nói một cách chung nhất: tâm lý là tất cả những hiện tượng tinh thần nảy sinh
trong đầu óc con người, gắn liền và điều hành mọi hành động, hoạt động của con nguời.
4. Tâm lý hc là gì ?
Sở dĩ nói tâm lý học là một khoa học vì nó có đối tượng nghiên cứu và có
phương pháp luận nghiên cứu đặc thù riêng.
Tâm lý học là khoa học nghiên cứu các hiện tượng tâm lý. Nó nghiên cứu các
quy luật nảy sinh vận hành và phát triển của các hiện tượng tâm lý trong hoạt
động đa dạng diễn ra trong cuộc sống hàng ngày của mỗi con người. Sự ra
đời của tâm lý học với tư cách là một khoa học độc lập là kết quả phát triển
lâu dài của nhưng tư tưởng triết học, những quan điểm tâm lý học trong
trường kỳ lịch sử và phát triển của nhiều lĩnh vực khoa học khác .
5. Làm thế nào để đạt được sự tự do nội tâm ?
1. Hiểu về sự tự do mà bạn thực sự muốn là gì ?
Điều gì khiến bạn cảm thấy thực sự tự do ?
2. Cảm nhận cảm xúc của mình
Nghĩa là đón nhận những cảm xúc của bạn, để cho nó hiện diện thay vì đè
nén, cản trở nó để có thể hiểu hơn những gì đang xảy đến với bạn và bạn cần gì. 3. Đáp ứng nhu cầu
Cũng giống như tình cảm cảm xúc, những nhu cầu là cần thiết cho chúng ta,
ta không thể chối bỏ nó mà. Ta chỉ có khả năng đáp ứng hay không đáp ứng
nó, tuy nhiên nếu tạm thời bạn bỏ qua nó, nó không hề mất đi mà vẫn duy trì
và phát triển mà đôi khi ta không biết, sau đó có thể gây ra những triệu chứng khác.
Một ví dụ minh họa là cơn đói, đôi khi bạn có thể quên cơn đói nhưng không
có nghĩa là bạn không biết đói. Nếu bạn không ăn nó sẽ tạo ra những tín hiệu
khác như: mệt mỏi, nhức đầu,…về lâu dài sẽ gây ra những vấn đề sức khỏe.
Cả nhu cầu tinh thần và nhu cầu thể chất đều vô cùng quan trọng và cho dù
chúng ta muốn hay không thì nó vẫn tồn tại, tuy nhiên trong khi hầu hết
những nhu cầu về thể chất được đáp thì những nhu cầu tinh thần lại thường bị đè nén.
Như vậy để đạt được sự tự do nội tâm, chúng ta cần lắng nghe chính mình
và để cho bản thân bạn được là chính mình. Chấp nhận những cảm xúc,
những nhu cầu, những điều mà chúng ta không thể thay đổi.
6. Quyền tự do trong Chủ Nghĩa Xã Hội
Chủ Nghĩa Xã Hội (CNXH) phải tự do hơn CNTB. Khi nào đạt được mức độ
tự do cao hơn tự do của xã hội tư bản phát triển thì khi ấy mới có thể có
CNXH hiện thực. Việt Nam ta tuy đã định hướng tiến lên CNXH nhưng vẫn
còn đang chịu ảnh hưởng nặng nề tư tưởng phong kiến trong vấn đề tự do.
Phải ra sức khắc phục hạn chế này mới đúng là theo định hướng XHCN. Còn
làm ngược lại, hạn chế tự do, thì đó không phải là con đường tiến lên CNXH,
mà ngược lại, đó là con đường rời bỏ mục tiêu lý tưởng về CNXH. Đã có
những quan niệm rất sai lầm và lạc hậu khi cho rằng tự do là kiểu tư bản
phương Tây, còn CNXH thì hiểu như “trại lính”. Nếu CNXH mà vậy thì chẳng
ai yêu thích và họ sẽ từ bỏ nó. Cuộc đấu tranh đòi quyền tự do không khi nào
lạc hậu, không bao giờ là không cần thiết, luôn là vấn đề của thời đại, cũng là
vấn đề thời sự, đáng quan tâm hàng đầu, vì nó hợp quy luật, hợp lòng người,
hợp tâm lý, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Với lẽ ấy, tự do – bản thân nó –
đã là tất yếu. Tự do là tất yếu.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tự do là mục đích tiếp theo, mục đích chính của
độc lập. Độc lập là để có tự do. Độc lập, bản thân nó là sự tự do cho một dân
tộc; đồng thời là để và phải đem lại tự do cho nhân dân, cho từng người. Hồ
Chí Minh đã từng nói, nếu nước độc lập mà dân không được tự do, hạnh
phúc thì độc lập cũng chưa có ý nghĩa gì. Khi lập nước, Người đã đưa các
thành tố “dân chủ” và “tự do” vào tên gọi của nước Việt Nam mới.
Document Outline

  • Sự tự do thực sự là gì? Làm thế nào để đạt được sự
    • 1. Tự do thực sự là gì ?
    • 2. Phân loại các hình thức tự do
    • 3. Tâm lý là gì ?
    • 4. Tâm lý học là gì ?
    • 5. Làm thế nào để đạt được sự tự do nội tâm ?
    • 6. Quyền tự do trong Chủ Nghĩa Xã Hội