NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
Nguyễn Tuân
Người lái đò ng Đà một áng Văn đẹp đượC làm nên t tình yêu
đất nướC say đắm, thiết tha Của một Con người muốn dùng n Chương đ
Ca ngợi Vẻ đẹp Vừa Vĩ, hào hùng Vừa trữ tình thơ mộng Của thiên nhiên
nhất Của Con người lao động nh dị miền Tây BắC. TáC phẩm CÒn
Cho thấy CÔng phu lao động nghệ thuật k nhọC Cùng s tài hoa, uyên
báC Của Nguyễn Tuân trong ViệC dùng Ch nghĩa để tái tạo những CÔng
Của tạo hÓa những tíCh lao động Của Con người.
I.
KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ TÁC PHẨM
1.
Tác giả Nguyễn Tuân
Cho đến nay Và mãi nhiều năm Về sau nữa, ChắC Chắn khÔng ai nghi
ngờ Vị trí hàng đầu trong làng Văn Việt Nam hiện đại lại thuộC Về Nguyễn
Tuân. "Ông là một trong mấy nhà n lớn mở đường, đắp nền Cho Văn
XuÔi Việt Nam thế kỷ XX" (Nguyễn Ðình Thi). NÓi đến Nguyễn Tuân nÓi
đến một giá trị hiển nhiên, gợi nhắC một Vùng trời riêng, XÔn Xao thanh
âm ngÔn ngữ dân tộC. Sáng táC Của Ông tồn tại Vừa như những giá trị
thẩm mỹ độC lập Vừa gợi ý, kíCh thíCh tìm tÒi, sáng tạo nên CáC giá trị
mới.
a. Cuộc đời
-
Tiểu sử:
Nguyễn Tuân (1910- 1987), quê thÔn Thượng Đình, Xã Nhân MụC
(tên nÔm là làng MọC), nay thuộC phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân,
Nội. Ông Xuất thân trong một gia đình nhà nho khi Hán họC đã tàn,
Cha tài hoa bất đắC Chí, sinh bất phùng thời. thể nÓi mÔi trường gia
đình, đặC biệt người Cha ảnh hưởng sâu sắC tới tính Con người
Cá tính nghệ thuật Nguyễn Tuân. Tên tuỔi Của Ông nỔi lên trên Văn
đàn Vào Cuối thập niên 30 đầu 40 Với những trang Văn độC đáo Và tài
hoa.
-
Con người:
Nguyễn Tuân một trí thứC yêu nướC, giàu tinh thần dân tộC. Tình
yêu quê hương, đất nướC Ông những nét rất riêng biệt Với niềm yêu
bất tận trướC Cảnh người trên dải đất mình, s ng niu những giá trị
Văn hÓa truyền thống Của dân tộC Cùng tấm lÒng thiết tha Với ngÔn ngữ
dân tộC.
Nguyễn Tuân CÒn một người Cá tính Cùng độC đáo. Ông
quan niệm “đời một trường du ”, “sống Chơi Viết Cũng Chơi”.
Vậy ngh Viết Với Nguyễn một CuộC dạo Chơi nhưng Chơi đỉnh
Cao Chơi một CáCh nghệ thuật. người tự do, phÓng túng Và yêu thíCh
sự mới mẻ trong những CuộC phiêu lưu, Nguyễn Tuân đã nâng niềm ham
thíCh du lịCh thành thuyết - “Chủ nghĩa dịCh”.
KhÔng những Vậy n nhân họ Nguyễn CÒn Con người rất mựC tài
hoa uyên C. Ông Vốn sống phong p am hiểu nhiều ngành
Văn hÓa, nhiều bộ mÔn nghệ thuật kháC ngoài n Chương như hội họa,
điêu khắC, sân khấu, điện ảnh… Nhờ Vậy, Nguyễn Tuân luÔn biết Vận
dụng Con mắt Của nhiều ngành Văn hÓa, nghệ thuật kháC để tăng Cường
khả năng quan sát biểu hiện thế giới Của nghệ thuật ngÔn từ.
Ông một nhà Văn biết q trọng sự nghiệp Của nh. Theo Ông
lao động nghệ thuật hình thứC lao động nghiêm túC, thậm Chí “khỔ
hạnh”. Ông nhận thứC đượC “nhân CáCh Của nhà Văn Chính Văn CáCh
Của anh ta” Của Trần Dần) n dứt khoát phân biệt ngh Văn khỏi thÓi
Con buÔn Vụ lợi: “nghệ thuật Cái mà bọn Con buÔn Cho VÔ íCh. đâu
đồng tiền, đÓ Cái đẹp khÔng tồn tại” (Nguyễn Tuân).
b. Sự nghiệp văn học
-
Quá trình sáng táC CáC đề tài Chính:
Quá trình sáng C:
Nguyễn Tuân đã từng thử sứC Với rất nhiều thể loại Văn họC như
thơ, bút kí, truyện ngắn hiện thựC trào phúng. Nhưng thể i tùy bút
mới thể loại Văn họC sở trường Của Ông Với hàng loạt CáC táC phẩm Xuất
sắC như: “Một Chuyến đi”, “Vang bÓng một thời”, “ChiếC đồng mắt
Cua”…
CáC đề tài Chính:
TrướC CáCh mạng tháng m, Văn nhân tập trung đi Vào ba đề tài
Chính: “Chủ nghĩa dịCh”, V đẹp Của một thời CÒn Vang ng đời
sống trụy lạC.
Sau CáCh mạng tháng m, Ông gắn Chặt nh Với CuộC sống thời
đại đ tập trung phản ánh V đẹp Của đất nướC Và Con người Việt Nam
trong Chiến đấu lao động sản Xuất. ĐÓ khÔng Chỉ lời ngợi Ca Con
người Việt Nam anh ng, kiên ờng trong Chiến tranh Vệ quốC đại
qua CáC n phẩm: Tình Chiến dịCh”, “Hà Nội ta đánh giỏi” C
những Con người Việt Nam Cần Cù, i hoa trong CÔng CuộC y dựng đất
nướC qua tập y bút “SÔng Đà”.
-
Phong CáCh nghệ thuật:
Giáo Nguyễn Đăng Mạnh nhận định: “Hạt nhân Của phong CáCh
nghệ thuật Nguyễn Tuân thể gÓi gọn trong một Chữ ngÔng”. Thái đ
ngÔng trong Văn Chương đã giúp Tuấn Thừa SắC tạo ra Cho mình “giọng
điệu riêng” khÔng m thấy trong CỔ họng Của bất kì một nhà Cầm bút nào
kháC.
Nguyễn Tuân một Cây bút rất tài hoa uyên báC Vào hàng bậC
nhất Của Văn họC hiện đại Việt Nam. Chất tài hoa Của nhà Văn đượC thể
hiện trong ViệC dựng người, dựng Cảnh; trong ViệC biến hÓa CáC ngÔn từ
nghệ thuật; trong những trường so sánh, liên tưởng bất ngờ, thú Vị Với
hình nh sống động, gợi Cảm. Song hành Với Chất tài hoa, Vẻ uyên báC
luÔn hiện hữu trên từng áng Văn C Nguyễn. Nhà Văn luÔn biết Vận dụng
những tri thứC Của CáC lĩnh VựC, CáC ngành khoa họC, nghệ thuật kháC
nhau như lịCh sử, địa lí, hội họa, điện ảnh… để làm sống dậy hiện thựC
qua trang Viết Của mình. Văn Nguyễn Tuân khÔng Chỉ tính thẩm
Cao nội dung thÔng tin Cũng VÔ Cùng phong phú.
Nguyễn Đình Thi gọi Nguyễn Tuân “người suốt đời đi tìm Cái
Đẹp, Cái Thật”. Ông Cũng tự nhận mình là người “sinh ra để thờ Nghệ
Thuật Với hai Chữ Viết hoa”. CuộC đời ng táC Của Ông là hành trình đi
tìm Cái đẹp nên trong Con mắt Của nhà Văn mọi hình ảnh, mọi đối tượng
từ thiên nhiên đến Con người đều đượC miêu tả sÓng đÔi Cùng Chuẩn mựC
Của Cái đẹp. Văn nhân Chủ yếu khám phá thiên nhiên s Vật phương
diện Văn hÓa thẩm pháC họa Con người phương diện tài hoa, ngh
sĩ. TrướC Ch mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân đam Với Cái đẹp Của
quá khứ CÒn Vang bÓng lại, say a khám p thể hiện Vẻ đẹp Cội
nguồn Của n họC ng CỔ, đi sâu Vào lớp người đặC tuyển Của Xã hội,
những hình ợng siêu phàm như đao ph nghệ , Viết Chữ nghệ sĩ… Sau
năm 1945, Nguyễn Tuân dần tìm thấy Cây Cầu nối giữa Cái đẹp quá khứ,
hiện tại ơng lai. Cùng Với nhiều nhà n Chiến sĩ, Nguyễn hăm hở
tham gia kháng Chiến sáng táC Văn Chương để phụC V kháng Chiến.
Ông khÔng lấy Văn Chương làm CÔng C tuyên truyền một CáCh y mÓC
th hiện nhiệt huyết tình yêu đất ớC một phương diện kháC. ĐÓ
sự ngây nhất trướC Vẻ đẹp thiên nhiên Của non sÔng, đất ớC; niềm
ngợi Ca Vẻ đẹp người lao động bình d phi thường, trong đÓ nỔi bật
dÒng sÔng Đà Và người lái đÒ ng Đà.
Nguyễn Tuân ưa mạo hiểm, thíCh kháC biệt. Ông nhà Văn Của
những tính CáCh độC đáo, những tình Cảm, Cảm giáC mãnh liệt, Của những
phong Cảnh tuyệt Với núi Cao, rừng thiêng, g bão Và tháC ghềnh dữ dội.
Ông Chán ghét mọi sự nhợt nhạt, bằng phẳng Của Văn Chương.
Bên Cạnh đÓ Ông CÒn đượC Tố Hữu ưu ái gọi là “người thợ kim hoàn
Của Chữ”. Ông Cả một kho từ Vựng mới lạ, n ợng, giàu sứC biểu Cảm.
Từng Câu Văn XuÔi Ông Viết n thể biết Co duỗi nhịp nhàng ng đầy
nhạC điệu. ĐọC Văn Ông người ta khÔng Chỉ thấy hình tượng Văn họC như
nhảy múa, Cựa quậy trướC mắt người đọC mà CÒn thấy Chữ nghĩa tiếng
Việt giàu đẹp, biết bao.
2.
Tác phẩm
Người lái đò sông Đà
a. Vị trí
“SÔng Đà” một mốC son trong lộ trình nửa thế kỉ sáng táC, đánh
dấu ớC Chuyển quan trọng Của nhà VănNguyễn Tuân đi từ thế giới Của
Cái “tÔi” đến thế giới Của i “ta”. Hay nÓi như n thơ Pháp Êluya từ
Chân trời một người đến Chân trời tất Cả”. “Người i đÒ ng Đà một
trong những thiên tùy bút Xuất sắC, thêm một lần nữa khẳng định phong
CáCh tài hoa, uyên báC Của Nguyễn Tuân một minh Chứng tiêu biểu
Cho quá trình “ngÒi bút y đã đạt tới độ Chín mới Về tư tưởng nghệ
thuật”.
b. Xuất xứ hoàn cảnh sáng c
-
“Người lái đÒ SÔng Đà” bài tùy bút đượC in trong tập" SÔng Đà" Xuất
bản năm 1960.
-
“SÔng Đà” ra đời nhờ sự thai nghén Của Chuyến đi thựC tế gian khỔ
hào hứng tới miền Tây BắC Xa XÔi, rộng lớn Của Nguyễn Tuân. Hành trình
mới y khÔng Chỉ thỏa mãn khát khao “Xê dịCh” Của nhà thám hiểm tới
những miền đất lạ là n gieo Vào ng Nguyễn ấn tượng Về Vùng trời
Của Cái đẹp: “Đời sống Tây BắC ngày nay là một tấm ng tin tưởng khÔng
bờ bến, tin mình tin người, mấy ChụC dân tộC miền Cao đồng bằng tin
Cậy lẫn nhau, nhất là tin ChắC Vào Cái Chế đ đẹp sáng do tay mình đắp
Cao i lên trên Chỗ Cao nguyên tiềm tàng sứC sống này”. Trong miền đất
Chở những Cái đẹp, Nguyễn Tuân tìm thấy Chất Vàng Của thiên nhiên
“thứ Vàng mười đã qua thử lửa” tâm hồn những người lao động nơi đây.
Vậy Ông đã khai sinh ra tùy bút “Người lái đÒ SÔng Đà” i riêng tập
“SÔng Đà” nÓi Chung.
c. Chủ đề cảm hứng chủ đạo
-
Chủ đề: Qua hình ợng Con sÔng Đà hung bạo, trữ tình Và Ông lái đÒ
bình dị nhưng tài hoa, trí dũng, nhà Văn muốn ngợi Ca Vẻ đẹp Của thiên
nhiên Và Con người trên Vùng Tây BắC Của TỔ quốC.
-
Cảm hứng Chủ đạo: Tùy bút “Người i đÒ SÔng Đà” là áng Văn nhiệt
tình Ca ngợi non sÔng, đất ớC nhân dân Của một trái tim tràn đầy
hứng khởi khi đứng giữa TỔ quốC mình nhưng khÔng CÒn thấy “thiếu quê
hương”.
d. Thể loại: tùy t
CáC táC gi Của quyển Văn họC Việt Nam thế kỷ XX” (2004) Xếp
tùy bút Vào loại : “Ký một loại hình Văn họC trung gian nằm giữa báo
Chí Văn họC. bao gồm nhiều thể Chủ yếu dưới dạng Văn XuÔi t sự
như: bút ký, hồi ký, du ký, nhật ký, phÓng sự, y bút Cả hồi tự
truyện...” Theo định nghĩa này “Tùy bút một thể thuộC loại hình ký
lối Viết phÓng khoáng, t do Chủ quan nhất. Nét nỔi bật trong tùy bút
qua ViệC ghi Chép những Con người Và sự kiện Cụ thể CÓ thựC, táC giả
đặC biệt Chú ý đến ViệC bộC lộ Cảm XúC, suy nhận thứC đánh giá Của
mình Về Con người CuộC đời... So Với CáC tiểu loại kháC, y bút giàu
Chất trữ tình hơn Cả, tuy Vẫn khÔng ít yếu tố Chính luận Chất suy tưởng
triết ”.
phải Chăng Vì lối sống tự do, phÓng túng s y thứC sâu sắC Về
Cái i nhân đã khiến Nguyễn Tuân tìm đến thể tùy bút như một điều
tất yếu. Thể loại này trong trang văn của bậc thầy tùy bút lại có
những đặc điểm rất riêng.
-
Tuỳ bút Của Nguyễn Tuân mang tính Chất tự do Vốn Của th loại.
Trong Văn Nguyễn, mạCh Cảm XúC Cứ Chảy tràn, miên man, bất tận, nhởn
nhở trên Con đường Cảm thụ Cái đẹp, hết ngã rẽ này lại đến ngã kháC,
đi hết Con đường này, Văn nhân lại tìm Về Con đường kháC nhưng khÔng
bao giờ Ông đ mình sa đà Vào rẽ o Con đường ngoài Cái độC đáo Của
nghệ thuật.
-
Bên Cạnh đÓ tuỳ t Nguyễn Tuân nhiều yếu tố truyện. TrướC khi gặp
gỡ tùy bút tại giao l Văn Chương, Nguyễn Tuân đã bướC những bướC đầu
Với thể loại truyện. ĐọC truyện ngắn hay truyện dài Của Ông, người ta
thường thấy sự đan Xen Của tuỳ bút, ngượC lại, đọC tuỳ bút Của Ông
người ta lại thấy pha Chất truyện. N Văn ng nhiều đến trí tưởng
tượng để dựng Cảnh, dựng truyện mÔ tả tâm lí, khắC hoạ nh CáCh
nhân Vật đến một Chừng mựC nào đấy.
-
Tuỳ bút Nguyễn Tuân đồng thời lại mang đậm tính Chất , nghĩa ghi
Chép sự thật thÔng tin thời s Chính XáC. ng bởi Vốn Xuất thân
một nhà báo, một thÔng tín Viên Và Cũng từng Viết nhiều du , phÓng sự
đặC sắC, thêm C phong khảo Cứu đào sâu đã giúp Cho tuỳ bút Nguyễn
Tuân CÓ lượng thÔng tin đáng tin Cậy nhiều g trị liệu.
-
KhÔng những Vậy tuỳ bút Nguyễn Tuân ng rất giàu tính trữ tình.
Những dÒng Văn ng hỔi Cảm XúC thÔng qua Cái tÔi Chủ quan phản
ánh hiện thựC trong tùy bút Nguyễn Tuân lặng lẽ len Vào lÒng người đọC.
e. Tóm tắt tác phm
Thiên nhiên Tây BắC đượC điểm bởi Con ng Đà Vừa hung bạo
Vừa trữ tình. ng Đà lúC dịu dàng như người phụ n kiều diễm. NướC
sÔng Đà thay đỔi theo a, phản Chiếu trời Xuân nắng thu: Mùa Xuân
dÒng Xanh ngọC bíCh, a thu lừ lừ Chín đ như da mặt người bầm đi
rượu bữa”. DọC theo sÔng Đà, lắm tháC nhiều ghềnh, đá dựng VáCh
thành, đá tảng, đá hÒn bày thế thạCh trận, tạo nên Cửa sinh, Cửa tử.
NỔi bật trên bứC tranh thiên nhiên ng , đầy sứC sống đÓ hình ảnh
Ông lái đÒ sÔng Đà. ĐÓ một người mang Vẻ đẹp khỏe khoắn Của người
dân lao động Vùng sÔng ớC Với thân hình Cao to, ớC da rám nắng.
Ông làm ngh lái đÒ đã nhiều năm, từng gắn Với ng sÔng Đà, hiểu
đượC tính k Của nÓ. Ông thuộC nằm lÒng từng Con tháC lớn, tháC nhỏ,
từng VáCh đá, luồng nướC, từng Cửa sinh, Cửa t do thế thạCh trận tạo
nên. Ông đã dùng kinh nghiệm ngh nghiệp Cộng Với sự Cần gan d
đưa Con thuyền Vượt tháC nướC ng Đà đầy nguy hiểm. Ông đã đưa nhiều
Chuyến hàng V XuÔi an toàn để gÓp phần Vào CuộC sống. Sau khi Vượt
sÔng Đà, Ông lái đÒ trở Về CuộC sống đời thường thanh thản Của mình, Ông
neo thuyền Chỗ khúC sÔng bình lặng, nấu ống Cơm lam bàn tán Về Cá
anh Vũ, Cá dầm Xanh.
II.
TÌM HIỂU CHI TIẾT
1.
Tìm về lời đề từ trong “Người lái đò Sông Đà”
Người yêu Văn ChắC hẳn khÔng Xa lạ Với những lời đề t trong CáC
tiểu thuyết kinh điển trên thế giới n “Chạng Vạng”: “Những Cây hiểu
thiện biết áC t Chớ ăn, bất Cứ ngày nào người ăn o người sẽ phải
Chết” đến C truyện dài như “TuỔi thơ dữ dội” Của Phùng Quán: “Trừ
giặC, ba tuỔi Vẫn CÒn là muộn” hay những áng thơ trữ nh như Ngày gặp
gỡ” Của Hồ Dzếnh “Vẳng nghe tiếng ếCh bên tai/ Giật nh n tưởng
tiếng ai gọi đÒ”. Những điều ởng Chừng nh nhặt khÔng CÓ Chủ đíCh
như lời đ từ nhưng thật ra lại ý nghĩa n một ChiếC Chìa khÓa quan
trọng đ m Cánh Của ngÔn từ rộng lớn C phẩm. Theo Cuốn Từ điển
thuật ngữ Văn họC” lời đề t “là thành phần nằm ngoài Văn bản Của một
táC phẩm, đượC Viết đầu sáCh hoặC sau tiêu đ Của mỗi Chương trong
Cuốn Ch nhằm hướng người đọC Vào ý đồ nghệ thuật Của táC giả hoặC
tưởng Của táC phẩm”.
BướC Vào tùy bút “Người lái đÒ ng Đà” Của Nguyễn Tuân người
đọC d ng bị lÔi Cuốn bởi hai lời đ từ ng hấp dẫn giúp độC giả
hình dung ràng hơn Cảm hứng sáng táC phong CáCh nghệ thuật Của
Nguyễn Tuân.
Lời đề từ đầu tiên “Đẹp Vậy thay, tiếng hát trên dÒng sÔng!”.
Nguyễn Tuân ChắC hẳn phải mê đắm lắm những thi hứng trên sÔng nướC
Của Broniewski Ông s CÒn mượn tiếp ý thơ Của nhà thơ người Ba Lan
khi miêu tả dÒng sÔng tuyến. Câu t mượn Cấu trúC Cảm thán để bộC l
Cảm XúC mãnh liệt đang trào dâng trong lÒng. Điều đã khiến thi sửng
sốt mà Cất lên “đẹp Vậy thay”, Vế thơ sau đã giãi bày nguyên do Của lời
ngợi Ca y: tiếng t trên dÒng ng”. ng nướC mênh mÔng n thơ
hữu tình đã làm say đắm bao trái tim nghệ để rồi trở thành một địa Chỉ
lớn Của nhạC họa Văn thơ. Xưa Broniewski mượn thơ để bày t tiếng Ca
ngưỡng m Của mình trướC dÒng ng say đắm lÒng người. Nay Nguyễn
Tuân ợn Chính ý thơ đÓ để Cất tiếng hát say mê, lời hoan Ca, phấn
khíCh khi đứng trướC Vẻ đẹp Của Đà giang. Broniewski tha thiết trướC
thiên nhiên Và n nhân họ Nguyễn ng Vậy. Tuy nhiên ý thơ Của táC giả
Ba Lan phải Chăng CÒn gợi CáCh Cảm kháC. Lời ngợi Ca Của thi nhân phải
Chăng dành Cho âm thanh Vang ra từ tiếng t trên dÒng ng”
Ông nghe thấy. ĐÓ tiếng t Của những người lao động lạC quan, yêu
đời trên sÔng nướC: Của người Chèo đÒ say em hát”, Của người Chài
lưới đang Vui mừng trướC thành quả lao động Của mình, Của người Vượt
tháC hÒ Vang trướC những đợt sÓng to… Trong tùy bút này, Ông lái đÒ
một trong hai hình tượng nghệ thuật Chính. Tiếng hát kia phải Chăng
Cũng tiếng t Của người anh hùng lao động ng nướC, Của ngh sĩ ba
giữa muÔn trùng tháC đá. Đặt ý thơ o táC phẩm Của mình, Cụ Nguyễn
muốn ngợi Ca nhân Vật Chính Của bản hùng Ca y. Đồng thời táC giả Cũng
sung sướng reo n quan niệm nghệ thuật mới Của nh sau CáCh mạng:
những Con người lặng thầm, bình dị, bất kể nơi đâu, trong bất kể
địa Vị nghề nghiệp nào, Chỉ Cần sống trọn Với sứ mệnh, tráCh nhiệm
Của mình đều đáng đượC ngưỡng mộ tÔn Vinh.
Lời đề từ thứ hai “Chúng thủy giai đÔng tẩu Đà giang độC bắC
lưu”. Tạm dịCh: “Mọi ng ng đều Chảy Về phía ĐÔng, duy Chỉ CÓ sÔng
Đà Chảy theo ớng BắC”. Hai Câu thơ Của Nguyễn Quang BíCh tương đối
hiển ngÔn giúp Cho Chúng ta ngay lần đầu tiên đọC tới thể phần nào
hiểu đượC t tính CáCh độC đáo, riêng biệt, những tương quan đối CựC
Của một hiện ợng địa Của miền Tây BắC TỔ quốC. Chính ớng Chảy
độC đáo kia Của sÔng Đà đã khơi gợi hứng thú Của Cái tÔi ngÔng nghênh
Với đời n Nguyễn Tuân. Một nhà Văn suốt đời đi tìm Cái đẹp, i thật,
ham dịCh để thay đỔi thựC đơn Cho tâm hồn mình như Nguyễn
Tuân đã mê mẩn ngay Với sự kháC biệt đÓ Của sÔng Đà. thế sÔng Đà
dưới ngÒi bút Nguyễn Tuân khÔng phải thiên nhiên tri giáC, mà
hiện n n một sinh thể phứC tạp, đa dạng CÓ CuộC sống riêng, CÓ đặC
điểm riêng khÔng thể trộn lẫn Với hai nét nh CáCh bản đối lập nhau:
hung bạo trữ nh. ĐÔi dÒng đề t th hai gợi Cho độC giả nhiều suy ,
người ta nghĩ rằng Nguyễn Tuân Cũng giống như Chính ng Đà giang ấy.
Trên hành trình đến Với thiên nhiên thú, nhà Văn đồng thời muốn
khẳng định ng sÔng n họC độC đáo Của mình một dÒng sÔng tính
Của Cái i uyên báC Và i hoa. MaXim Gorki từng i “Cái bình thường
Cõi Chết Của ngh thuật”, Vì Vậy Nguyễn Tuân luÔn muốn “Đã nhà Văn,
mỗi người phải CÓ Cái Vision riêng. Mất Cái riêng đÓ Cũng đồng nghĩa Với
ViệC t b thiên ChứC nghệ Của mình”. Giống như Ông lái đÒ đang Cố
gắng tìm đúng luồng sinh giữa n Cửa t trên Chiến trường sÔng Đà,
Văn nhân Cũng muốn tìm Cho đượC nguồn Cảm hứng “sống” giữa dÒng
tháC ngÔn từ ngỔn ngang. Và Ông đã m đượC ng Đà. Tờ hoa V sÔng
Đà Chính luồng sinh, gÓp phần khẳng định i bản Chính Nguyễn Tuân
giữa thế giới mênh mÔng biển người.
2.
Hình tượng con sông Đà
NhạC sĩ Trịnh CÔng n từng Chia sẻ: “MụC đíCh đầu tiên sau
Cùng Của Nghệ thuật Văn họC theo i mang đến Cái hay, Cái đẹp
Cho đời. Mầm mống Của khÔng bất C một sự u toan nào Cả. Hãy
Cho nÓ mãi mãi thanh thản tự do mãi i hiện thân Của điều thiện,
Của Cái đẹp.” ờng như đẹp ChứC năng hàng đầu, ưu tiên số một
Của Văn Chương nghệ thuật. LúC sinh thời, Cái đẹp Cũng trở thành mụC
tiêu m kiếm trong suốt CuộC đời Cầm bút Của Nguyễn Tuân. Ông đã đi
khắp dặm dài Ch
S,
thậm Chí Vượt biên Chỉ đ m kiếm Cái đẹp. Trên
Chặng đường Ông đi tới hiện lên i dấu Chân to, miền y BắC TỔ
quốC Với hình tượng thiên nhiên kì thù sÔng Đà.
Khám phá Về sÔng Đà dÒng Chảy dữ dội Của núi rừng Tây BắC
một thành CÔng đặC sắC Của Ông. Chỉ Nguyễn Tuân mới khÔng nhọC
CÔng đến ngọn nguồn lạCh sÔng, truy m đến tận nơi gốC tíCh khai
sinh ra sÔng Đà, đ biết Chỗ phát nguyên Của thuộC huyện Cảnh ĐÔng
thoạt thủy, dÒng sÔng mang những Cái tên Trung Hoa khá thơ
mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Cũng Chưa nhà Văn nào trướC Nguyễn
Tuân th kể tên Vanh VáCh 50/73 Con tháC lớn nh nằm nhÔ suốt một
dải ng t Lai Châu Về đến Chợ Bờ. Cũng khÔng ai n Nguyễn, đ CÓ
thể hạ bút Viết đúng ba Câu Về màu sắC nướC sÔng Đà đã phải mấy lần
bay ngang qua miền sÔng ấy. DÒng sÔng Đà trong Cảm nhận Của nhà Văn
như một sinh thể hai nét nh CáCh ởng như đối lập nhưng lại nhất
quán: hung bạo, dữ dằn trữ tình, thơ mộng.
2.1.
Sông Đà hung bạo
SÔng Đà hung bạo, lắm tháC, nhiều ghềnh đã từng bướC Vào Ca dao
Xưa:
“Đường n ờng Lễ bao Xa
Trăm bảy Cái tháC, trăm ba Cái ghềnh”
Với một nhà Văn ưa thíCh những Cảm giáC mạnh mẽ, những phong Cảnh
tuyệt mĩ, những dữ dội phải dữ dội tới tận Cùng, những lần dịCh phải
thử t Chơi mạo hiểm Cho đượC để tránh sự tầm thường, m nhạt
Ông hằng Chán ghét t “Cưỡi” lên sÔng Đà hung bạo trÒ Chơi mà Ông
khÔng th bỏ qua. Sự dữ dằn Của ng Đà khÔng Chỉ hiện ra những Con
tháC, CÒn quang Cảnh hùng Với V huyền bí, hoang Của dÒng
sÔng Chảy giữa điệp trùng rừng núi Tây BắC. N một nhà quay phim o
luyện, Vừa Cho người Xem thấy bao quát khung Cảnh ng Đà, thỉnh
thoảng táC gi lại dừng lại, Cho khán gi những pha cận cảnh thật tiêu
biểu V sự hung dữ Của Con sÔng này.
a. Đập vào mắt người đọc, ấn tượng đầu tiên về sự hung bạo của
Đà giang chính hình ảnh những cảnh đá bờ sông dựng vách
thành.
VáCh thành sÔng Đà Cảnh sừng sững án ngữ trướC mặt độC giả
ngay lần dạo Chơi mạo hiểm đầu tiên. Văn nhân khẳng định “Hùng Của
sÔng Đà khÔng phải Chỉ tháC đá. n những Cảnh đá bờ sÔng
dựng VáCh thành”. Ấn ợng trựC tiếp đến mắt người đọC đÓ Chính nh
ảnh ẩn d VáCh thành”. Ta Vẫn thường nhắC đến “thành” như một khối
kiến trúC quân s ng kiên Cố. CáC bậC anh minh Xưa thường Cho đắp
thành n một CÔng trình phÒng ngữ, một pháo đài hiểm. Thành quáCh
nơi bên ngoài quân địCh khÓ Xâm nhập Vào nhưng bên trong quân ta
lại nắm nội tình khi nhìn ra để rồi dễ dàng táC Chiến. Nguyễn Tuân Với
CáCh là kháCh tham quan trên sÔng Đà giống như người đang đứng
bên ngoài thành. Vì thế mọi thứu Với Ông VÔ Cùng bí ẩn. Những đợt hỗn
Chiến, tấn CÔng hiểm Cử đang rình rập đâu đây trên ng Đà như một
sự đe dọa đầu tiên Với Con người. Chỉ Với hai Chữ VáCh thành” nhà o
thuật ngÔn từ đã dựng lên trướC mắt người đọC VáCh đá sÔng Đà sao kiên
Cố, thâm nghiêm. KhÔng Ch Vậy những đợt hỗn Chiến, tấn CÔng hiểm
Cử đang rình rập đâu đây trên sÔng Đà như một sự đe dọa đầu tiên Với
Con người.
Đồng thời tuy khÔng i hết nhưng nhà Văn biết Vận dụng tối đa
năng lựC Chữ nghĩa đ Chỉ gọi “VáCh thành” thÔi nhưng gợi ra ấn ợng
nới bạn đọC Cả “thành Cao o sâu”. Từ đÓ người Chiêm ngưỡng Cảm nhận
đượC Ch đá hiện n như thành Cao, sÔng Đà Với VựC thẳm như hào u
hun t. Tất Cả ớC đầu dần kéo người đọC Vào trùng y liên tưởng
Choáng ngợp, i hùng. Chính bởi thành trì ấy Cao thăm thẳm, sâu hun
hút mà “đúng ngọ mới CÓ mặt trời”. “Đứng ngọ” thời điểm giữa trưa.
Đây lúC b mặt trái đất nhận đượC nhiệt lượng lớn nhất từ mặt trời. Ta
đã bắt gặp ánh nắng tinh nghịCh trong bao Vần t Về ng nướC “nắng
Chiếu sÔng như trong thơ Tố Hữu hay nắng Xuống” trong t Huy
Cận. Ánh nắng ChÓi Chang soi Chiếu Vạn Vật nhưng trong ấn ợng Của
nhà Văn họ Nguyễn Chỉ khi lên thiên đỉnh nắng mới đượC le lÓi trên lÒng
sÔng Đà. Phải Chăng, VáCh đá quá Cao, VựC ng quá u đến độ nắng
khÔng th Chiếu Xiên ngang mà Chỉ thể hắt Xuống từng giọt hiếm hoi
như Vậy.
Cao, u thÔi Chưa đủ Cụ Nguyễn CÒn muốn đưa người đọC đến sự
hung bạo tột Cùng Của Cảnh đá b sÔng qua độ hẹp Của sÔng Đà. Dưới
ngÒi bút Của Nguyễn Tuân hai bên bờ ng như đang XíCh lại gần nhau:
“CÓ Ch đá thành Chẹt ng sÔng Đà như một Cái yết hầu. Đứng bên này
bờ nhẹ tay ném hÒn đá qua n kia VáCh. quãng Con nai, Con hỔ đã CÓ
lần Vọt từ bờ này sang bờ kia”. Đá sÔng Đà đượC so nh như “Cái yết
hầu” gợi liên tưởng Cảm nhận qua Chính C giáC Của người đọC. Đ hẹp
lÒng sÔng bị VáCh đá Chèn ép tới mứC nghẹt thở. Qua động từ “Chẹt”
người đọC Cảm tưởng như VáCh thành đã lấn át hết Cả bờ sÔng ghê rợn,
hãi ng. Những Chi tiết miêu t tưởng Chừng như bâng quơ Của Cụ
Nguyễn nhưng lại mang sứC biểu đạt hiệu quả VÔ Cùng. Chỉ nh động
đơn giản Của nai hỔ, ném nhẹ Chơi đùa Của Con người lại thướC đo
tài tình hơn bất Cứ Con số Chuẩn XáC nào. Sự nguy hiểm Của dÒng sÔng
gợi ra ngày một đậm, một nơi hẹp như thế, lưu tốC dÒng ớC Vốn nhanh
giờ lại Xiết hơn. C thử tưởng ợng Con thuyền nào mà kẹt Vào Cái khe ấy
thì tiến khÔng đượC, lùi ng khÔng Xong Chỉ Chờ sÓng nướC Và đá đập
Cho tan XáC thÔi.
Ấn tượng Về độ Cao, sâu Của VáCh đá bờ sÔng dÒng Chảy nhỏ hẹp
Càng đượC đậm thêm qua một Chi tiết tiêu biểu lối liên ởng bất
ngờ, thiên nhiên hoang gần Với đời sống hiện đại Của Con người: “Ngồi
trong khoang đÒ qua quãng y, đang mùa Cũng thấy lạnh, Cảm
thấy nh như đứng một Cái ngõ mà... ngÓng Vọng lên một khung
Cửa sỔ nào từ Cái tầng nhà thứ mấy nào Vừa tắt phụt đèn điện”. Nhà Văn
Chẳng những sử dụng thị giáC, CÒn kết hợp sử dụng CáC giáC quan
kháC Với những so sánh thật mới mẻ táo bạo. Ân tượng phi Của XúC
giáC ngày giữa mùa hiện ra. Đang giữa mùa Văn nhân lại Cảm
nhận như trong mùa băng giá. Phải Chăng đÓ khÔng phải Cái lạnh da
thịt do thời tiết mang đến Cái lạnh trong lÒng, rợn tÓC gáy, sởn
gai C do sÔng Đà mang tới. Tuy nhiên Cụ Nguyễn đâu giống người
thường, nguy hiểm Vẫn dậm Cho đượC thêm Cảm giáC hãi hùng Về
độ Cao rợn ngợp Của VáCh đá sÔng Đà, qua từ ngữ khÔng XáC định “nào,
mấy”, qua độ hẹp Của hè phố sự phụt tắt bất thình nh Của đèn điện
làm thÓt tim người quan sát khi đi Vào khúC sÔng tối tăm này.
Tất C đã đem đến hình dung ban đầu Về dÒng sÔng, quy tụ tất Cả
tính từ đo lường nguy hiểm nhất: Cao thăm thẳm, sâu hun hút, hẹp đến
khÔng th nỔi bất thình lình rơi Vào tăm tối n muốn nuốt Chửng Con
người.
b. Tính chất hung bạo còn thể hiện qua cái dữ dằn của mặt ghềnh
Hát Loóng.
Sự hung bạo Của Đà giang n sự kết hợp Của quần th những
tháC đá, sÓng nướC. Máy quay Của người ngh sĩ đã Chuyển từ VáCh thành
qua Cái dữ dội mặt ghềnh Hát LoÓng: “dài ng Cây số nướC đá, đá
ng, sÓng giÓ, Cuồn Cuộn luồng giÓ gùn ghè suốt năm”. Chỉ Với hai
Câu Văn nhưng bằng sự biến ảo Của ngÔn từ trong CáC thủ pháp nghệ
thuật, tính hung bạo Của Đà giang hiện ra Với nh nh động đậy trướC
mắt độC giả.
Đội quân sÓng, nướC, giÓ trên sÔng Đà đang bắt tay nhau tạo trận
địa uy hiếp Con người. Nhịp Văn ngắn, nhanh, mạnh, dồn dập như đang
muốn tạo Cơn Cuồng phong bão tố. Hình ảnh điệp nối tiếp luân Chuyển
nhau, ng g sÔng Đà C thế gối lên nhau, lần lượt uy hiếp Con người.
Cụ Nguyễn đã đặt Vào ba Vế u ba điệp t “XÔ đ Cộng ởng Cho
những đợt đánh liên hoàn dữ dội Của sÓng nướC tháC đá.
Đà giang như Con thủy quái đầm lầy đang Cuồng nộ, bẳn tính, gắt
gỏng C giận dỗi Với Con người. Chúng “gùn ghè” đe dọa Con người
như thÓi quen thường ngày Của nÓ. NÓ sẵn ng tiêu diệt, nuốt trọn bất
Cứ tay lái khinh suất nào: “Quãng này khinh suất tay lái thì Cũng d
lật ngửa bụng thuyền ra”.
KhÔng biết nh hay C ý, Chuyên Viên tiếng Việt” đã kết hợp
giữa n địa danh Với đặC điểm Của sÔng Đà quãng sÔng này? Luồng g
“gùn ghè” lại nằm đúng Vị t mặt ghềnh Hát LoÓng. Cái tên địa danh đọC
đã phải tốn sứC nén hơi, uốn ỡi như Chính khÓ khăn Nguyễn Tuân
Vừa đi qua Chỗ nướC giữ, Với ng, Với đá, Với ghềnh tháC Của sÔng Đà.
TrướC tài năng Của Nguyễn Tuân mọi Cảm giáC thật dường như đượC trải
qua rõ ràng dưới phong ba ngÔn từ.
c.
Hung bạo n nữa những i hút nước khủng khiếp quãng
Tà Mường t pa ới Sơn La.
Dưới bàn tay ma thuật Của Văn sĩ, sÔng Đà hung bạo tiếp tụC
nghênh Chiến Với người đọC qua đội quân hút nướC dữ dằn. Hút ớC hiện
ra trướC mặt độC giả qua hình ảnh “Cái giếng tÔng thả Xuống sÔng đ
Chuẩn bị làm ng Cầu”, qua âm thanh g rợn Của “Cửa Cống Cái bị sặC”
Với sự Cộng hưởng đến đáng sợ giữa Cả hình ảnh âm thanh “nướC ặC ặC
lên như Vừa rÓt dầu i Vào”. Miêu t Cảnh những Cái hút nướC trên sÔng,
Nguyễn Tuân đã sử dụng đến đ thành thạo CáC biện pháp tu từ nghệ
thuật. Biện pháp nhân hÓa khiến nướC biết ‘thở” “kêu” khiến người ta
sợ đến rùng mình nhưng như thế Chưa đ Với một người ưa thíCh Chơi
mãnh liệt đến tột đỉnh như Nguyễn Tuân. Người khỔng lồ trên dÒng tháC
ngÔn từ tiếp tụC bẩy thêm nghệ thuật so sánh o miêu tả khiến người
đọC thêm khiếp Vía. ĐộC giả n đượC đeo ChiếC kính Xem phim thựC tế ảo
bây Ch muốn nhắm tịt mắt, bịt Chặt tai kinh sợ. Phân Cảnh phim nối
tiếp nhau Chiếu lên Cái hút nướC độ sâu “Xoáy tít đáy” như i giếng
sâu dÒng ớC đang Cuộn trào, Xiết lại khÔng CÓ dấu hiệu ngừng đến
độ dày trong “giếng tÔng” khÔng CÔng phá nỔi hay độ rộng “Cánh
quạ đàn”. Hiểm nguy đang rình rập khắp ba Chiều khÔng gian Cùng âm
thanh dữ dội đầy ẩn. Đứng trướC sứC hút ngÔn từ Nguyễn, khÔng Chỉ
độC giả, đồng nghiệp Văn Chương Chính Cả những nhà phê bình nhiều
khi Cũng thấy bật lựC khi phát hiện ra Vốn từ Của mình sao nghèo n,
Chẳng thể nghĩ tới sự miêu tả lạ lùng, thú như Nguyễn Cũng Chẳng
biết dùng Chữ nghĩa nào để bình Về đ Chính XáC tinh tế Của ngÒi bút
Nguyễn. Người ta Chỉ biết gật đầu bảo nhau rằng: sÔng Đà quả thựC
một Con quái Vật đang trong một Cơn Cuồng nộ đầy ghê sợ.
Thế nhưng tài liên tưởng Của Nguyễn Tuân khÔng dừng lại đÓ, bộ
phim hành động do Ông đạo diễn tiếp tụC đưa người đọC Vào mÔn thể thao
tốC độ mạo hiểm. Đi thuyền qua quãng sÔng này, nhà thám hiểm Cảm
nhận y như Ô sang số n ga Cho nhanh đ t qua quãng đường
mượn Cạp ra ngoài b VựC”. Chưa bao gi người đọC lại tưởng tượng thấy
Cảm giáC đáng sợ Của đường sÔng rõ ràng như Vậy qua Cái hình dung V
đường bộ. Chèo thuyền men gần hút nướC này ChắC Chỉ người thíCh phiêu
lưu như Nguyễn Tuân hay ng Cảm như Ông lái đÒ mới dám thử. CÒn
người đọC Chỉ mới mường tượng ra Viễn Cảnh tương lai qua sự miêu tả Cụ
thể, ràng ấy Của Văn nhân thÔi đã thấy hãi hùng rồi.
Ghê s Vậy nhưng Tuấn Thừa SắC Vẫn muốn tÔ đậm thêm sự nguy
hiểm Cho Cái t nướC ng Đà. Phối hợp giữa “tả” “kể” Ông muốn
Cùng người đọC đi tới Cái hung bạo đến tột Cùng Của Đà. Đi hết những u
Văn miêu tả Ông tìm đến những Câu Văn thiên V kể: Nhiều bè gỗ rừng đi
nghênh ngang ý những Cái giếng y lÔi tuột Xuống… thuyền
trồng ngay Cây Chuối ngượC rồi Vụt biến đi tan XáC khuỷnh sÔng
dưới”. N Văn như muốn đưa người đọC thoát li thựC tế để tìm tới Vùng
đất nh mÔng Của trí ởng ợng bằng những hình ảnh đầy Chất hiện
thựC mà ai Cũng thể hình dung đượC. ng Đà như Cái động khÔng đáy
lúC nào Cũng nhăm nhe nuốt Chửng tất C mọi thứ. một dÒng sÔng
từng Cuốn đi nhiều thứ như thế trong táC phẩm “Thời Xa Vắng” Của
Lựu. DÒng sÔng Về mùa khiến dân làng từng thiết hại nhiều “nướC sÔng
đã ăn lên lem lém nuốt Chửng Cả Cánh i Xanh non mênh mÔng lúa lốC
Vừng”. ĐÓ điều khÔng thể tránh đượC nhưng Chỉ trong mỗi mùa lụt
Về ngÔi làng Hạ Vi. Tự nhiên bất ngờ ập tới khi người ta CÒn “bừa bộn
ngỔn ngang”. Thế nhưng khi mùa lụt qua đi, mọi thứ lại trở Về bình
thường. SÔng trong “Thời Xa Vắng” Vậy phần nào Vẫn mang V hiền
hÒa Của ng quê Chứ khÔng ranh mãnh như ng Đà. Con thủy quái ấy
đặt những Cái bẫy Chết người Chỉ Cần người i đÒ lơ tay Chèo, lập
tứC sẽ bị hút Xuống. n nhẫn Chẳng Chịu buÔng tha Cho bất C th
qua đÓ.
Tuy nhiên kẻ săn m Cái đẹp muốn khai tháC Cho kì hết Cái nguồn
thẩm Vốn Của sÔng Đà. N sáng tạo đã Vận dụng triệt để kiến thứC
liên ngành trong b mÔn nghệ thuật thứ bảy điện ảnh để tha hồ lật Xoay
ngắm nghía sÔng Đà từ mọi gÓC độ. Ông đột ngột tung ra giả tưởng li kì
kéo người đọC Xuống tận đáy hút nướC Xoáy tít. Cảm giáC Chân thật đến
từng mi-li-mét hiện ra Cùng đợt sÓng hãi ng p tới. N Văn biến mình
thành anh thợ quay phim o tợn tợn muốn truyền Cho người đọC Cảm
giáC lạ đã dũng Cảm ngồi Vào một ChiếC thuyền thúng rồi thả mình,
thuyền máy quay ng Xuống Cái hút nướC sÔng Đà. Lia ngượC máy lên
thành hút nướC nh ảnh “thành giếng Xây toàn bằng nướC sÔng Xanh
Ve một áng thủy tinh khối đúC dày” như “sắp Vỡ tan ụp Vào” Cả người
quay lẫn người Xem. ChiếC CốC khỔng l đượC khuấy n hình ảnh gợi
người ta Cái liên tưởng ràng nhất. Vì Vậy người Xem phim sự Của nhà
đạo diễn tài ba Nguyễn Tuân Cứ run lên sợ hãi. Người ta phải bám lấy
mép một ChiếC rừng Vừa Vứt Vào trong CốC đ trấn tĩnh bản thân tạo
điểm bám Vững ChắC Cho Cơ th mình khỏi bị Văng ra, bị Cuốn Vào làn
nướC d dội kia. Sự uyên báC V CáC lĩnh VựC đời sống như giao thÔng hay
CáC ngành ngh thuật như điện ảnh khiến trang Văn Của Nguyễn bung nở.
Để tận hưởng hết Vẻ đẹp kì thù Của tờ hoa y người đọC khÔng CáCh o
kháC ngoài ởng tượng bởi s thưởng lãm trong tâm tưởng nhiều khi CÒn
thú n Cả sự miêu tả lại bằng ngÔn từ.
d. Nhưng hãi hùng nhất lẽ cảnh những thác đá dữ dội trên
sông Đà.
SÔng Đà đang dần l ra tâm địa Của “thứ kẻ thù số một” Của Con
người. Con thủy quái khÔng lồ dùng hết tất C những siêu năng lựC Của
mình đ dẫn d Và rồi Chặn bắt thuyền qua lại đây.
Thác đá khi xa
Âm thanh nướC tháC ngay từ đằng Xa mang hình nh một Con người
nham hiểm “Tiếng nướC tháC nghe như oán tráCh gì, rồi lại như Van
Xin, rồi lại n khiêu khíCh, giọng gằn mà Chế nhạo.” KháC Với Cái
“tiếng nướC ầm ầm rung Chuyển n bom” trong “Thời Xa Vắng” Của Lê
Lựu hay “nướC ng Cuồn Cuộn sÔi lên sùng sụC trong “Bến khÔng
Chồng” Của ơng Hướng, Con ng Đà hiện ra n một k lắm mưu,
nhiều kế đ khiêu khíCh người lái đÒ. NÓ mang muÔn Vàn trạng thái Của
Con người “oán tráCh, Van Xin, khiêu khíCh”. Khi thì kíCh trí mÒ, khi
Vang lời mời gọi, C tháCh thứC người Chèo thuyền tiến Vào.
Để rồi khi gần Vào sâu bên trong, phÓng dàn loa Của mình lên
hết C “Thế rồi rống như tiếng một ngàn Con trâu mộng đang lồng lộn
giữa rừng Vầu rừng tre nứa n lửa, đang phá tuÔng rừng lửa, rừng lửa
Cùng gầm thét Với đàn trâu da Cháy bùng ng”. Thiên nhiên như đang
đỉnh điểm Của sự phấn khíCh mạnh mẽ. Chưa bao giờ người ta thấy một
nhà Văn lấy rừng đ tả nướC, Vật hÓa âm thanh tháC nướC thành tiếng
gầm Của đàn trâu. Nghệ thuật so sánh, nhân hÓa tài ba Cùng những liên
tưởng “rất đắt”, Nguyễn Tuân đã Cho thấy một Cảnh tượng tháC nướC
hùng Vĩ, nguy hiểm tận độ. Hai nguyên t sứC hủy diệt rất lớn lại luÔn
tương khắC Với nhau, CÓ ớC thì khÔng lửa, ngượC lại, lửa thì khÔng
nướC. Vậy Nguyễn Tuân đã tìm ra sự tương giao giữa Chúng như
một nghệ bậC thầy. TrướC mắt người đọC Cả một rừng Vầu, tre nứa
hàng ngàn Cây đang bị đốt Cháy phát ra tiếng nỔ nhưng Chưa hết,
trong khu rừng Vầu, rừng tre đang Cháy ấy lại đượC thả Vào đÓ hàng ngàn
Con trâu mộng to khỏe, nên khi da Của Chúng bị đốt Cháy nÓng bỏng
khiến Chúng lồng lộn phá tan rồi tìm đường thoát thân. Khi Chạy đàn
trâu Va đập mạnh Vào những Cây tre, Cây nứa tạo nên những tiếng nỔ lớn,
liên hoàn như âm thanh Vang não bạt, kinh thiên động địa. Ai khÔng biết
lại tưởng rằng nơi đây đang diễn ra một trận động đất rừng thời tiền sử.
Tất Cả táC động mạnh mẽ n thần kinh người đọC để mang đến Cảm giáC
Chân thựC sống động nhất Về âm thanh tháC nướC sÔng Đà khi Xa.
Thác đá khi tới gần
Nhà Văn ngÔng nghênh Với đời, ưa mạo hiểm, mạnh m trướC Cảnh
hãi ng, hung bao Ông lại Cất lời reo Vui khi đượC tiếp Cận “Tới i
tháC rồi”.
Cái d dằn Của tháC đá Đà giang khi tới gần hiện ra qua ấn ợng
Về hình ảnh ng tháC ng bầy thạCh tinh hung hãn. Phối hợp Với sÓng
nướC Với tiếng tháC ầm ầm là “sÓng bọt đã trắng XÓa Cả một Chân trời
đá”. Những bọt ớC đang trào i mãnh liệt. Tính t trắng a” đã
đậm Cho đượC s mênh mÔng khÔng biết đâu bờ Của sÓng tháC. Mặt
sÔng dường như Chẳng C o Chẳng Chỗ nào tại khúC ng này yên lặng.
Chúng khÔng thÔi o thét Cùng bạt ngạt những đá. Người ta hãi hùng Vì
sÓng tháC n kinh sợ bởi bãi đá ng đá. Lộ ra ới những Con sÓng
kia Choáng ngợp những đá. Đá đây t ngàn năm Vẫn mai phụC hết
trong lÒng sÔng. Mặt hÒn đá nào trÔng ng ngỗ ngượC, hÒn o Cũng
nhăn nhúm méo hơn Cả Cái mặt ớC Chỗ y”. SÔng Đà đã giao ViệC
Cho mỗi hÒn, để Chúng phối hợp lại thành ba trùng Vi nguy hiểm.
Kiến thứC Của nhà quận sự đượC Vận dụng, trận địa thạCh tinh hiện
ra.
Trùng vi th nht:
SÔng Đà bày ra năm Cửa trận, bốn Cửa tử,
một Cửa sinh, Cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sÔng. Hàng tiền Vệ, hai
hÒn Canh một Cửa đá trÔng như hở, thựC Chất Chúng đÓng Vai trÒ dụ
ChiếC thuyền Vào tuyến giữa. trùng Vi th nhất này sÓng nướC đÓng Vai
trÒ Chính để tiêu diệt ChiếC thuyền. Vừa o trận địa, Chúng tấn CÔng
ChiếC thuyền tới tấp: Mặt nướC hÒ la Vang dậy quanh mình, ùa Vào mà bẻ
gãy Cán Chèo Võ k trên Cánh tay mình. SÓng nướC n thể quân liều
mạng Vào sát náCh đá trái thúC gối Vào bụng hÔng thuyền. CÓ
lúC Chúng đội C thuyền n. NướC bám lấy thuyền như đÔ Vật túm thắt
lưng Ông đÒ đÒi lật ngửa mình ra giữa trận ớC Vang trời thanh la não
nạt. SÓng tháC đã đánh đến miếng đÒn hiểm độC nhất, Cả Cái luồng nướC
sở bất C y bÓp Chặt lấy hạ bộ người lái đÒ”. Trận Chiến đầu, sÓng
nướC là tu binh mà Con sÔng tung ra đ thử tháCh người lái đÒ. Chúng
Chẳng nề đ ra những đÒn hiểm áC, quyết liệt ngay t những miếng
đầu tiên.
Vượt qua trùng Vây thứ nhất, Ông lái đÒ phải đương đầu Với
trùng
vi th hai
: Tăng thêm nhiều Cửa tử để đánh lừa Con thuyền Vào, Cửa
sinh lại b trí lệCh qua phía bờ hữu ngạn. DÒng tháC m beo hồng hộC tế
mạnh trên ng đá đánh khuýp quật Vu hồi ChiếC thuyền”. Tại trận Chiến
đánh giáp y, Chúng quyết sinh quyết tử Với Ông lái đÒ. Khi ChiếC
thuyền đã Vượt qua, bọn sÓng ớC Cửa tử Vẫn khÔng ngớt khiêu
khíCh, mặC dầu i thằng đá tướng đứng Chiến Cửa Vào đã tiu nghỉu Cái
mặt Xanh thất Vọng”. Bọn đá, sÓng nướC dở những n đÒn hiểm độC
tinh Vi nhất. Chúng giống như mụ phù thủy luÔn tìm CáCh tiêu diệt Con
người.
Đến trùng vi th ba:
“Ít Cửa n, bên phải bên trái đều luồng
Chết Cả. Cái luồng sống Chặng ba này lại ngay giữa bọn đá hậu V Của
Con tháC.” Tại đây những boong-ke Chìm pháo đài đá nỔi đầu Chân
tháC phải đánh tan Cái thuyền. Để rồi một trận đấu bÓng quyết liệt đã
diễn ra.
Con SÔng Đà như một loài thủy quái, hung ng, bạo ngượC biết
bày thạCh trận, thủy trận hÒng tiêu diệt thuyền trên ng ớC. NÓ
khÔng Chỉ mang tâm địa nham hiểm CÒn CÓ bộ mặt dữ tợn mặt hÒn
nào trÔng Cũng ngỗ ngượC, hÒn nào Cũng nhăn nhúm, méo n C Cái
mặt ớC Chỗ này”. Sự tạo hình ngẫu nhiên Của tạo hÓa dưới bàn tay Của
Nguyễn Tuân đã trở thành thế trận đượC sắp đặt đầy toan tính. Chúng
phân sẵn CÓ V t Cao thấp tướng sĩ, CÓ C địa bàn ẩn nấp trên Và
dưới, khi Chúng ẩn giấu tâm địa đ đánh lừa Con người, C lại Vênh Váo
tháCh thứC kiểu du CÔn “anh Chị”. Sự hung bạo Chưa bao gi rõ ràng như
lúC này. Chúng khÔng Chỉ âm thanh mà nỔi hẳn thành hình khối. Trong
những khúC đại giang Của Văn họC Cũng khÔng ít những hiểm trở, gập
ghềnh nhưng đượC đặt trong thế tĩnh. Sự Chuyển động hÓa những hiểm
nguy Đà giang ChắC Chỉ Văn Chương bậC tài nhân như C Nguyễn.
Dưới ngÒi bút Của người nghệ ngÔn từ, V đẹp man dại, sứC mạnh
huyền bí Của sÔng Đà đã hiện ra nhiều gÓC đ kháC nhau. Đấy Chính
tiềm ng to lớn Của Đà giang khi đượC Con người Chinh phụC. Đấy
“Vàng trắng” quý báu Của đất nướC Chúng ta. Chính Vì Vậy, Nguyễn
Tuân ng tới hình ảnh Của những tuốC bin thủy điện. Điều đÓ Cũng CÓ
nghĩa n Văn ng tới Vai trÒ, V t Của sÔng Đà trong sự nghiệp ng
nghiệp hÓa đất ớC.
Ngày mai
ChiếC đập lớn nối liền hai khối núi
Biển sẽ nằm bỡ ng giữa Cao nguyên
SÔng Đà gửi ánh sáng đi muÔn ngả
Từ CÔng trình thuỷ điện lớn đầu tiên”
2.2.
Sông Đà tr tình
Giáo Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận Xét Về Nguyễn Tuân như
sau: “mỗi khi Cầm bút dường như lại đặt mình trong u Cầu: phải Chứng
tỏ đượC Cái tài hoa, uyên báC hơn đời Của mình. Ông CÓ thÓi quen nhìn sự
Vật mặt mĩ thuật Của nÓ, C tìm Cho ra đấy những n họa, nên thơ.
Đồng thời mỗi đối tượng quan sát Của Ông một đối tượng khảo sát đến
Cùng”. Vậy CÔng trình thuật sÔng Đà đâu Chỉ CÓ nét tính CáCh
hung bạo, đây CÒn một dÒng sÔng tuyệt Vời t mộng. Khi mái Chèo Của
Ông đÒ Vừa ngừng, dÒng sÔng Vặn mình Vào một bến CáC Cái hang
lạnh” bỗng nhiên đỔi Vẻ. Từ mạn TháC Bờ V XuÔi, Đà giâng mang Vẻ
dịu dàng, đằm thắm như bất một dÒng sÔng nào Vùng đồng bằng.
Vốn Văn hÓa, Vốn t Vựng giàu CÓ, trí ởng tượng bay bỔng Của n Văn
thả sứC tung hoành, tạo nên những đoạn Văn ợt như những bài thơ.
a.
Hình dáng Đà giang
Văn họC nghệ thuật nhiệm Vụ dẫn người đọC ớC Vào “X sở Của
Cái đẹp”. N Văn mang sứ mệnh người khai phá sáng tạo Cái đẹp
trong táC phẩm Của mình. Nhưng khám phá Cái đẹp như thế nào mới
người nghệ đíCh thựC? Nguyễn Tuân đã làm đượC điều đÓ bởi Ông khám
phá Cái đẹp bằng một “tấm lÒng Vàng”. N Văn đã dụng ng bay tạt
qua sÔng Đà mấy lần đ Cái nhìn bao quát nhất Về ng Vẻ sÔng Đà.
Từ trên Cao nhìn Xuống, Nguyễn Tuân thíCh thú phát hiện ra nét trữ
tình đầu tiên Của Đà qua hình ảnh “Cái dây thừng ngoằn ngoèo”. ng Đà
như Ca dao Xưa Cong Cong uốn ợn như hình Con long trên núi. DÒng
sÔng bỗng mềm đi, uyển Chuyển, nhẹ nhàng thả mình trÔi quanh những
dãy núi, triền đê. Vẻ đẹp ấy Của Đà giang khiến Văn nhân ờng như
khÔng tin Vào mắt mình. Đến đây tất Cả sự dữ dằn Của Con thủy quái
Cuồng n Với Ông đÒ, Con sÔng d dội trong Câu đồng dao “Núi Cao sÔng
hãy n dài Năm m o oán đời đời đánh ghen” dần biến mất. Văn
phong Nguyễn Tuân Cứ bồng bềnh trÔi theo từng nhánh sÔng lững lờ
“từng nét ng i ra trên đại dương đá l lờ bÓng mây dưới Chân mình”.
ĐặC biệt nhà Cầm bút họ Nguyễn n thấy dáng điệu trữ tình, uốn
lượn Của Đà giang giống như i tÓC Của người Con gái kiều diễm. Để rồi
từ đÓ đấng tài hoa phẩy bút V lên bứC tranh thủy mặC Vẹn trÒn trong một
Câu Văn khÔng Chỉ Chứa họa CÒn đậm nhạC, lai láng thơ: “Con sÔng Đà
tuÔn i tuÔn dài như một áng tÓC trữ tình, đầu tÓC Chân tÓC ẩn hiện
trong mây trời y BắC bung n hoa ban hoa gạo tháng hai Cuồn Cuộn
khÓi núi Mèo đốt ơng Xuân”. KhÔng phải Cớ “người thợ kim
hoàn Của Chữ” lại đặt Vào Câu Văn hai nh từ “tuÔn dài”. Càng khÔng
phải tình Cơ, Ông thận trọng đặt Vào trong u Văn dài Chỉ duy nhất một
dấu ngắt. Nếu điệp t tuÔn dài tuÔn i” gợi Về áng C mun huyền thoại
“dài ngàn ngàn, Vạn Vạn sải” thì sự kết hợp Với dấu ngắt u duy nhất
mang tới Vẻ miên man, bất tận, nối liền, khÔng dứt Của dÒng sÔng dọC
khắp Chiều dài biên giới phía Tây Của T quốC. CÒn nhớ trong “Ai đã đặt
tên Cho dÒng sÔng?” nhà Cầm Hoàng Phủ NgọC Tường khi Viết Về sự
phÓng khoáng, mam dại Của Hương giang đã lấy “CÔ gái Digan” làm
Chuẩn mựC. Thiên tính nữ ấy khÔng Chỉ hiện Về Linh giang trướC đÓ
đã từng ẩn nh trong sÔng Đà. Sự mềm mại Của Đà giang đượC như
mái tÓC mượt mà, nữ tính Của người Con gái. Một CÔ gái Với i C đen
dài buÔng Xõa điểm Cài mấy bÔng hoa ban, hoa gạo sắC sỡ yêu kiều,
duyên dáng, làm đắm say bao tâm hồn độC giả. Một u n dài bốn hai
âm tiết thì tới hai Chín thanh bằng, Câu Văn đọC ra êm ru dÒng
sÔng hiện Về ng thêm hiền hÒa Xiết bao. ĐặC biệt trong CáCh miêu tả
trên nh Văn CÒn p Vẻ đẹp đậm Chất t người Con i y BắC ấy. Nhà
sáng tạo đã đem “áng thơ” đặt Vào “áng tÓC” một Ch Chơi từ hiếm
thấy trong Văn họC. Phải Chăng sÔng Đà thơ mộng đến đ khiến Cụ
Nguyễn muốn đề t Vào ng nướC. N Văn đã ng Cọ mẫu Vẽ lên mấy
nét khiến bứC họa hiện n Xao động lÒng người Vừa nhuốm màu thơ, dậm
màu họa, nữ nh e ấp như gái đáng yêu. Bởi CÒn đượC phủ lên
tấm khăn Voan mỏng Của n khÓi làm thi Vị, hư ảo đến lạ lùng. SÔng Đà
gÓC độ này đã gom nhặt tất C những là đẹp đẽ nhất, thơ mộng nhất,
huyền ảo nhất Của mây trời Tây BắC, những trẻ trung Của hoa ban
trắng Và nét gần gũi m áp Của CuộC sống đời thường.
b. Màu nước sông Đà
Với nh Cảm trìu mến thiết tha, nhà Văn đã phát hiện đượC một
CáCh tinh tế màu sắC Của dÒng ng biến đỔi theo từng mùa. Một lần nữa
“tấm lÒng Vàng Của Văn lại đượC thể hiện. Sự q trọng nhà nghiệp
khiến Ông dấn thân sâu n Vào CuộC đời, ngụp lặn sâu hơn trong đời
sống, phải dụng ng nghiên Cứu kĩ ỡng để miêu tả đượC hai mùa nướC
đẹp nhất trên sÔng Đà.
Văn nhân say sưa đắm Chìm trong sắC Xanh Của làn nướC mùa Xuân.
Ông trân trọng gọi “dÒng Xanh ngọC bíCh” trong Xanh, q phái Và
êm nhẹ. Nếu Hoàng Phủ NgọC Tường dành Cho ng Hương niềm tự o
khi thuộC V một thành ph duy nhất thì Nguyễn Tuân lại dành niềm
thiên V Cho ng Đà khi so sánh dÒng ngọC bíCh trong trẻo ấy Với màu
Xanh Canh hến lờ đụC Của sÔng Gâm, sÔng . ĐÓ biểu hiện Của niềm
yêu, m hồn thíCh thị tài, khoe uyên báC.
Sự uyên báC CÒn đượC n ngÔn từ Vận dụng đ đặC tả màu nướC
sÔng Đà V mùa thu “l lừ Chín đỏ như da mặt một người bần đi Vì rượu
bữa bất mãn, bựC bội mỗi độ thu Về”. Xanh trong, dịu dàng Vào mùa
Xuân Vậy nhưng Vào thu Đà giang ngay lập tứC Chuyển sang sắC tím đỏ
giận dỗi. Thế mới biết tính k Của Con sÔng kia Cũng thất thường lắm,
nÓng nảy lắm. Câu Văn khÔng Chỉ gợi ra sắC u, n gợi ra tốC đ
Chậm i Của dÒng sÔng đ nặng phù sa khi thu Về. Nhà t Trần Quang
Quý trong thi phẩm “SÔng Đà” đã Cất lời ngợi Ca Vẻ đẹp màu mỡ ấy:
“SÔng Đà ng n những qu đồi đất đỏ trung du
tÔi Ôm dÒng sÔng nghe giai điệu trầm ngàn a
kể Chuyện
gáC lên sÔng những ờn Cong nhớ
mÔi phù sa khép bÓng hoàng hÔn
mãi khuấy trong i nhịp những Con thuyền”.
("SÔng Đà", Trần Quang Quý)
DÒng phù sa nặng nề đang Chảy. P sa ăm ắp sÔng Đà đã đang Và sẽ đỔ
đi khắp ruộng lúC, bờ dâu, bãi mía…đ gÓp phần điểm Cho sự trù phú
Của TỔ quốC.
Bằng hiểu biết Của mình, Nguyễn Tuân Chỉ ra rằng nướC sÔng Đà
Chưa bao giờ đen như thựC dân Pháp đã đè ngửa Con sÔng ta ra đỔ mựC
tây o mà gọi bằng Cái n Tây o lếu”. Văn nhân bựC bội khi bọn thựC
dân ớp nướC lại gọi một Ch thÔ bạo sÔng Đà dÒng sÔng Đen - sÔng
màu đen. Luận điệu báC bỏ như một lời khẳng định, lời tố Cáo luận
điệu Xảo trá Của bọn thựC dân. Ông muốn tr lại Vẻ trữ tình Vốn Cho
sÔng Đà khÔng Ch bởi tình u mến Với Đà giang CÒn bởi ý thứC Về
Chủ quyền dân tộC, niềm tự hào Với quê ơng Xứ sở.
c.
Cố nhân ng Đà
Làm sao CÓ thể khÔng yêu Cho đượC lối Viết đầy thi Vị Của Nguyễn
trọng đoạn Ông “nhìn sÔng Đà như một C nhân”. Ngay đầu đoạn Văn
Nguyễn Tuân đã nh tặng lời khen Cho sÔng Đà “Con sÔng Đà gợi Cảm”.
Vẻ đẹp Của người Con gái ấy đã làm đắm say bao người nhưng mỗi người
lại bị Cuốn hút theo một CáCh kháC nhau. Với Nguyễn Tuân sống Đà
níu kéo lÒng Ông bởi là một “Cố nhân”. Mảnh đất Con người miền
Tây đã để lại trong Ông những tràng Cảm XúC đẹp. Thế nhưng trong số
những điều diệu tạo hÓa đã ban tặng phía Tây BắC TỔ quốC sÔng
Đà Vương Vấn Ông nhiều. Ông đã từng sững sốt khi lần đầu đứng trướC
sÔng Đà. Ông Cũng đà từng tạt qua sÔng Đà mấy lần. Ông Cũng từng ngồi
Chèo trên mặt nướC ấy. Biết sÔng Đà từ trên Cao hay từ Xa lại đều
những trải nghiệm Của Ông. Vậy sÔng Đà giống như một người bạn Cũ.
Nên Ông gọi sÔng Đà Cố nhân” một điều d hiểu, Vừa quen thuộC,
gần gửi lại Vừa CỔ kính, trang trọng.
Tình huống đượC nhà Văn miêu tả sau một Chuyến đi rừng lâu ngày
đã thể hiện dÒng XúC Cảm trào dâng Của Văn nhân Về người bạn sÔng
Đà. LúC ấy nhà Văn Cảm giáC hồ Về sự “thèm Chỗ thoáng”- muốn
tìm một Chỗ khoáng đạt, rộng rãi, nhà Văn Cứ đi thậm Chí “quên đi mất
mình ắp đỔ ra sÔng Đà”. Mải bám gÓt anh liên lạC trở Về, đ rồi khi
nhìn thấy Con ng Đà hiện ra bao nhiêu ứC kỷ niệm lại ùa V
ngÒi bút Của Nguyễn Tuân một lần nữa thựC sự thăng hoa. Trong miêu tả
Của Nguyễn Tuân dường như sÔng Đà Chỉ hiện ra một Chút thÔi “thấy
loang loáng như trẻ Con nghịCh Chiếu gương Vào mắt mình rồi bỏ Chạy”.
TrÒ nghịCh ngợm Chiếu gương thuở CÒn thơ ChắC hẳn khÔng Xa lạ
Với mỗi người Chúng ta. Cái tÔi độC đáo Nguyễn Tuân đã lấy thú Vui u
thíCh thời thơ u để hình dung Về hình ảnh sÔng Đà trong giây phút gặp
lại. ĐÓ Cái nhìn Chân thật Của Con người phải bộ hành trong rừng Cây,
đi bộ trên đèo dốC. N Văn thậm C CÒn Chưa đi ra ngoài Cửa rừng, n
Ông Chỉ nhìn thấy sÔng Đà từ Xa thấp thoáng qua mấy hàng Cây. Người
nghệ ấy ắt hẳn phải say mê V đẹp sÔng Đà lắm mới nhanh ChÓng nhận
ra dÒng sÔng đến Vậy.
“Cái miếng sáng nhà Văn nhìn thấy phải dÒng ánh sáng
ChÓi Chang từ mặt trời phản Xuống lÒng sÔng, ánh ng lấp nh Của ng
sÔng hắt qua từng khoảng Cây, kẽ lá, đập o mặt n thám hiểm. Trong
khoảnh khắC y, Văn nhân ngẩn ngơ khi thấy dải nướC sÔng Đà “lÓe lên
một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há ơng Châu”.
Nguyễn Tuân yêu “hoa” “t Đường”. Trong i nhìn Của Ông, đÓ
một CÔng trình nghệ thuật tuyệt đỉnh, tuyệt Vời Của tạo h một CÔng
trình nghệ thuật tuyệt đỉnh, tuyệt Vời Của Con người, tr thành biểu tượng
Của trạng thái nhân sinh. Vậy những hình dung từ thường Xuyên đượC
Ông sử dụng để tạo nghĩa Cho nh tượng T quốC ơi đẹp. Ông gọi Con
đường mới mở y BắC “Một bài thơ Đường”. Ông ng thấy u
nướC sÔng Đà ánh lên “màu nắng tháng ba Đường thi”. Câu t đầy gợi
Cảm Của BạCh nÓi Về buỔi tiễn Mạnh Hạo Nhiên bên sÔng (Giữa
tháng ba mùa hoa khÓi XuÔi (thuyền) Về Dương Châu). Sự ảo Của hoa
khÓi Cùng sắC ấm rựC rỡ Của nắng Xuân làm Xao Xuyến bao tầm hồn Con
người. KhÔng gian như đượC đẩy Về ng thời gian Xa Xăm, miên Viễn.
đÓ nhà thơ phát hiện màu sắC thứ ba Của sÔng Đà một sắC màu khÔng
hề trong hội họa một sắC màu Ch nảy sinh khi Cảm XúC đặC biệt
thăng hoa.
rồi niềm Vui gặp lại “Cố nhân” bật ra thành nhịp điệu hối hả,
mau lẹ trong niềm sung sướng đang trào dâng: “B sÔng Đà, bãi sÔng Đà,
Chuồn Chuồn bươm bướm trên sÔng Đà”. Gặp lại sÔng Đà Văn nhân háo
hứC say mê, khÔng kiềm lÒng đượC để rồi bị Cuốn Vào khÔng gian khoáng
đạt, t mộng, ngập tràn u sắC. Văn nhân khÔng phải giấu đi những
Cảm XúC Của mình. Ông quá nhiều điều muốn nÓi nhưng do Cuống quýt
tận hưởng Vẻ đẹp Của Đà giang quên mất phải thể hiện bằng ngÔn
từ.
thế Câu Văn sau Văn nhân đ th l nỗi lÒng nh “Vui như thấy
nắng giÒn tan sau kì mưa dầm, Vui như nối lại Chiêm bao đứt quãng”.
Chiêm bao những mộng mơ dẹp đẽ Của Con người. Mỗi người th
nhiều giấC Chiêm báo nhưng mỗi một giấC ờng n khÔng giống
nhau. Nguyễn Tuân nÓi “nối lại Chiêm bao đứt quãng” qu ViệC thật
khÓ khăn. SÔng Đà Với Ông phải Chăng là một giấC đẹp. Gặp lại sÔng
Đà sau bao Xa CáCh Chính hiện thựC Cho những điều hi hữu, hiếm
trong CuộC đời. Vậy Văn nhân mới Vui mừng, sung sướng. N Vậy ít
nhiều ta Cũng hiểu Vì sao niềm Vui gặp lại sÔng Đà lại là niềm hạnh phúC
khi nối lại Chiêm bao. Nhưng người ta sẽ thấy thật k khăn đ hiểu Cái
hạnh phúC khi “thấy nắng giÒn tan”. Sau Cơn mưa rầm rề, ẩm ướt, tối trời
tối đất, ViệC thấy nắng một niềm Vui. Nhưng Cảm nhận thựC thở
hình ấy Và tưởng tượng ra giÒn tan thì ChắC Chỉ Nguyễn Tuân mới
làm đượC. ĐộC giả Ch biết rằng đÓ tia nắng thật đẹp Và q giá, tuy dễ
Vỡ nhưng lại ao ướC lớn Của nhà ngÔn từ. CÒn để đánh giá Về i hay
Của ba Chữ ấy thì thật khÓ, Chỉ biết khÔng Ch o hay bằng, thay thế
đượC Cho nÓ. Niềm Vui Của sự hân hoan mãn nguyện sau bao nỗi đợi
Chờ đã đượC Cụ thể hÓa qua những so nh thật độC đáo.
SÔng Đà Với Nguyễn Tuân như một V “C nhân”, nhưng khỔ nỗi C
nhân này lại “lắm bệnh lắm Chứng, ChốC dịu dàng đấy rồi ChốC lại bẳn
tính, tháC lũ, gắt gỏng ngay đấy”. Thế nhưng khi đượC gặp lại “Cố nhân”,
Văn lại trào dâng một Cảm giáC “đằm đằm, ấm ấm” Của nắng Xuân Cứ
thế thấm thía thêm niềm hạnh phúC trong lÒng mỗi người. Phải Chăng bởi
Con ng kia quá gợi Cảm quyến như một người tình nhân Chưa
quen biết”, rất quen nhưng Cũng rất mới, khiến người ta khao khát
đượC ngắm nhìn, đượC làm thân.
d. Cảnh vật hai bên bờ ng
hạ u, ng sÔng mở rộng, độ dốC khÔng CÒn, nướC Chảy hiền hÒa
giữa đÔi bờ tiền sử. Nguyễn Tuân dành những đoạn Văn hay nhất tả Cảnh

Preview text:

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ Nguyễn Tuân
Người lái đò Sông Đà là một áng Văn đẹp đượC làm nên từ tình yêu
đất nướC say đắm, thiết tha Của một Con người muốn dùng Văn Chương để
Ca ngợi Vẻ đẹp Vừa kì Vĩ, hào hùng Vừa trữ tình thơ mộng Của thiên nhiên
Và nhất là Của Con người lao động bình dị ở miền Tây BắC. TáC phẩm CÒn
Cho thấy CÔng phu lao động nghệ thuật khÓ nhọC Cùng sự tài hoa, uyên
báC Của Nguyễn Tuân trong ViệC dùng Chữ nghĩa để tái tạo những kì CÔng
Của tạo hÓa Và những kì tíCh lao động Của Con người.
I. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ TÁC PHẨM
1. Tác giả Nguyễn Tuân
Cho đến nay Và mãi nhiều năm Về sau nữa, ChắC Chắn khÔng ai nghi
ngờ Vị trí hàng đầu trong làng Văn Việt Nam hiện đại lại thuộC Về Nguyễn
Tuân. "Ông là một trong mấy nhà Văn lớn mở đường, đắp nền Cho Văn
XuÔi Việt Nam thế kỷ XX" (Nguyễn Ðình Thi). NÓi đến Nguyễn Tuân là nÓi
đến một giá trị hiển nhiên, gợi nhắC một Vùng trời riêng, XÔn Xao thanh
âm ngÔn ngữ dân tộC. Sáng táC Của Ông tồn tại Vừa như những giá trị
thẩm mỹ độC lập Vừa gợi ý, kíCh thíCh tìm tÒi, sáng tạo nên CáC giá trị mới. a. Cuộc đời - Tiểu sử:
Nguyễn Tuân (1910- 1987), quê ở thÔn Thượng Đình, Xã Nhân MụC
(tên nÔm là làng MọC), nay thuộC phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân,
Hà Nội. Ông Xuất thân trong một gia đình nhà nho khi Hán họC đã tàn,
Cha tài hoa bất đắC Chí, sinh bất phùng thời. CÓ thể nÓi mÔi trường gia
đình, đặC biệt là người Cha CÓ ảnh hưởng sâu sắC tới Cá tính Con người
Và Cá tính nghệ thuật Nguyễn Tuân. Tên tuỔi Của Ông nỔi lên trên Văn
đàn Vào Cuối thập niên 30 Và đầu 40 Với những trang Văn độC đáo Và tài hoa. - Con người:
Nguyễn Tuân là một trí thứC yêu nướC, giàu tinh thần dân tộC. Tình
yêu quê hương, đất nướC ở Ông CÓ những nét rất riêng biệt Với niềm yêu
bất tận trướC Cảnh Và người trên dải đất mình, sự nâng niu những giá trị
Văn hÓa truyền thống Của dân tộC Cùng tấm lÒng thiết tha Với ngÔn ngữ dân tộC.
Nguyễn Tuân CÒn là một người CÓ Cá tính VÔ Cùng độC đáo. Ông
quan niệm “đời là một trường du hí”, “sống là Chơi mà Viết Cũng là Chơi”.
Vì Vậy nghề Viết Với Nguyễn là một CuộC dạo Chơi nhưng là Chơi ở đỉnh
Cao – Chơi một CáCh nghệ thuật. Là người tự do, phÓng túng Và yêu thíCh
sự mới mẻ trong những CuộC phiêu lưu, Nguyễn Tuân đã nâng niềm ham
thíCh du lịCh thành lý thuyết - “Chủ nghĩa Xê dịCh”.
KhÔng những Vậy Văn nhân họ Nguyễn CÒn là Con người rất mựC tài
hoa Và uyên báC. Ông CÓ Vốn sống phong phú Và am hiểu nhiều ngành
Văn hÓa, nhiều bộ mÔn nghệ thuật kháC ngoài Văn Chương như hội họa,
điêu khắC, sân khấu, điện ảnh… Nhờ Vậy, Nguyễn Tuân luÔn biết Vận
dụng Con mắt Của nhiều ngành Văn hÓa, nghệ thuật kháC để tăng Cường
khả năng quan sát Và biểu hiện thế giới Của nghệ thuật ngÔn từ.
Ông là một nhà Văn biết quý trọng sự nghiệp Của mình. Theo Ông
lao động nghệ thuật là hình thứC lao động nghiêm túC, thậm Chí “khỔ
hạnh”. Ông nhận thứC đượC “nhân CáCh Của nhà Văn Chính là Văn CáCh
Của anh ta” (ý Của Trần Dần) nên dứt khoát phân biệt nghề Văn khỏi thÓi
Con buÔn Vụ lợi: “nghệ thuật là Cái mà bọn Con buÔn Cho là VÔ íCh. Ở đâu
CÓ đồng tiền, ở đÓ Cái đẹp khÔng tồn tại” (Nguyễn Tuân).
b. Sự nghiệp văn học
- Quá trình sáng táC Và CáC đề tài Chính: ➢ Quá trình sáng táC:
Nguyễn Tuân đã từng thử sứC Với rất nhiều thể loại Văn họC như
thơ, bút kí, truyện ngắn hiện thựC trào phúng. Nhưng CÓ thể nÓi tùy bút
mới là thể loại Văn họC sở trường Của Ông Với hàng loạt CáC táC phẩm Xuất
sắC như: “Một Chuyến đi”, “Vang bÓng một thời”, “ChiếC lư đồng mắt Cua”… ➢ CáC đề tài Chính:
TrướC CáCh mạng tháng Tám, Văn nhân tập trung đi Vào ba đề tài
Chính: “Chủ nghĩa Xê dịCh”, Vẻ đẹp Của một thời CÒn Vang bÓng Và đời sống trụy lạC.
Sau CáCh mạng tháng Tám, Ông gắn Chặt mình Với CuộC sống thời
đại để tập trung phản ánh Vẻ đẹp Của đất nướC Và Con người Việt Nam
trong Chiến đấu Và lao động sản Xuất. ĐÓ khÔng Chỉ là lời ngợi Ca Con
người Việt Nam anh dũng, kiên Cường trong Chiến tranh Vệ quốC Vĩ đại
qua CáC Văn phẩm: “Tình Chiến dịCh”, “Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi” mà Cả
những Con người Việt Nam Cần Cù, tài hoa trong CÔng CuộC Xây dựng đất
nướC qua tập tùy bút “SÔng Đà”. - Phong CáCh nghệ thuật:
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh nhận định: “Hạt nhân Của phong CáCh
nghệ thuật Nguyễn Tuân CÓ thể gÓi gọn trong một Chữ ngÔng”. Thái độ
ngÔng trong Văn Chương đã giúp Tuấn Thừa SắC tạo ra Cho mình “giọng
điệu riêng” khÔng tìm thấy trong CỔ họng Của bất kì một nhà Cầm bút nào kháC.
Nguyễn Tuân là một Cây bút rất tài hoa Và uyên báC Vào hàng bậC
nhất Của Văn họC hiện đại Việt Nam. Chất tài hoa Của nhà Văn đượC thể
hiện trong ViệC dựng người, dựng Cảnh; trong ViệC biến hÓa CáC ngÔn từ
nghệ thuật; trong những trường so sánh, liên tưởng bất ngờ, thú Vị Với
hình ảnh sống động, gợi Cảm. Song hành Với Chất tài hoa, Vẻ uyên báC
luÔn hiện hữu trên từng áng Văn Cụ Nguyễn. Nhà Văn luÔn biết Vận dụng
những tri thứC Của CáC lĩnh VựC, CáC ngành khoa họC, nghệ thuật kháC
nhau như lịCh sử, địa lí, hội họa, điện ảnh… để làm sống dậy hiện thựC
qua trang Viết Của mình. Văn Nguyễn Tuân khÔng Chỉ CÓ tính thẩm mĩ
Cao mà nội dung thÔng tin Cũng VÔ Cùng phong phú.
Nguyễn Đình Thi gọi Nguyễn Tuân là “người suốt đời đi tìm Cái
Đẹp, Cái Thật”. Ông Cũng tự nhận mình là người “sinh ra để thờ Nghệ
Thuật Với hai Chữ Viết hoa”. CuộC đời sáng táC Của Ông là hành trình đi
tìm Cái đẹp nên trong Con mắt Của nhà Văn mọi hình ảnh, mọi đối tượng
từ thiên nhiên đến Con người đều đượC miêu tả sÓng đÔi Cùng Chuẩn mựC
Của Cái đẹp. Văn nhân Chủ yếu khám phá thiên nhiên Và sự Vật ở phương
diện Văn hÓa thẩm mĩ Và pháC họa Con người ở phương diện tài hoa, nghệ
sĩ. TrướC CáCh mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân đam mê Với Cái đẹp Của
quá khứ CÒn Vang bÓng lại, say sưa khám phá Và thể hiện Vẻ đẹp Cội
nguồn Của Văn họC sùng CỔ, đi sâu Vào lớp người đặC tuyển Của Xã hội,
những hình tượng siêu phàm như đao phủ nghệ sĩ, Viết Chữ nghệ sĩ… Sau
năm 1945, Nguyễn Tuân dần tìm thấy Cây Cầu nối giữa Cái đẹp ở quá khứ,
hiện tại Và tương lai. Cùng Với nhiều nhà Văn Chiến sĩ, Nguyễn hăm hở
tham gia kháng Chiến Và sáng táC Văn Chương để phụC Vụ kháng Chiến.
Ông khÔng lấy Văn Chương làm CÔng Cụ tuyên truyền một CáCh máy mÓC
mà thể hiện nhiệt huyết Và tình yêu đất nướC ở một phương diện kháC. ĐÓ
là sự ngây nhất trướC Vẻ đẹp thiên nhiên Của non sÔng, đất nướC; niềm
ngợi Ca Vẻ đẹp người lao động bình dị mà phi thường, trong đÓ nỔi bật là
dÒng sÔng Đà Và người lái đÒ sÔng Đà.
Nguyễn Tuân ưa mạo hiểm, thíCh kháC biệt. Ông là nhà Văn Của
những tính CáCh độC đáo, những tình Cảm, Cảm giáC mãnh liệt, Của những
phong Cảnh tuyệt mĩ Với núi Cao, rừng thiêng, giÓ bão Và tháC ghềnh dữ dội.
Ông Chán ghét mọi sự nhợt nhạt, bằng phẳng Của Văn Chương.
Bên Cạnh đÓ Ông CÒn đượC Tố Hữu ưu ái gọi là “người thợ kim hoàn
Của Chữ”. Ông CÓ Cả một kho từ Vựng mới lạ, ấn tượng, giàu sứC biểu Cảm.
Từng Câu Văn XuÔi Ông Viết như thể biết Co duỗi nhịp nhàng màng đầy
nhạC điệu. ĐọC Văn Ông người ta khÔng Chỉ thấy hình tượng Văn họC như
nhảy múa, Cựa quậy trướC mắt người đọC mà CÒn thấy Chữ nghĩa tiếng
Việt giàu đẹp, biết bao.
2. Tác phẩm Người lái đò sông Đà a. Vị trí
“SÔng Đà” là một mốC son trong lộ trình nửa thế kỉ sáng táC, đánh
dấu bướC Chuyển quan trọng Của nhà VănNguyễn Tuân đi từ thế giới Của
Cái “tÔi” đến thế giới Của Cái “ta”. Hay nÓi như nhà thơ Pháp Êluya “từ
Chân trời một người đến Chân trời tất Cả”. “Người lái đÒ SÔng Đà” là một
trong những thiên tùy bút Xuất sắC, thêm một lần nữa khẳng định phong
CáCh tài hoa, uyên báC Của Nguyễn Tuân Và là một minh Chứng tiêu biểu
Cho quá trình “ngÒi bút ấy đã đạt tới độ Chín mới Về tư tưởng Và nghệ thuật”.
b. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
- “Người lái đÒ SÔng Đà” là bài tùy bút đượC in trong tập" SÔng Đà" Xuất bản năm 1960.
- “SÔng Đà” ra đời là nhờ sự thai nghén Của Chuyến đi thựC tế gian khỔ Và
hào hứng tới miền Tây BắC Xa XÔi, rộng lớn Của Nguyễn Tuân. Hành trình
mới ấy khÔng Chỉ thỏa mãn khát khao “Xê dịCh” Của nhà thám hiểm tới
những miền đất lạ là mà CÒn gieo Vào lÒng Nguyễn ấn tượng Về Vùng trời
Của Cái đẹp: “Đời sống Tây BắC ngày nay là một tấm lÒng tin tưởng khÔng
bờ bến, tin mình tin người, mấy ChụC dân tộC miền Cao Và đồng bằng tin
Cậy lẫn nhau, Và nhất là tin ChắC Vào Cái Chế độ đẹp sáng do tay mình đắp
Cao mãi lên trên Chỗ Cao nguyên tiềm tàng sứC sống này”. Trong miền đất
Chở những Cái đẹp, Nguyễn Tuân tìm thấy Chất Vàng Của thiên nhiên Và
“thứ Vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn những người lao động nơi đây.
Vì Vậy Ông đã khai sinh ra tùy bút “Người lái đÒ SÔng Đà” nÓi riêng Và tập “SÔng Đà” nÓi Chung.
c. Chủ đề và cảm hứng chủ đạo
- Chủ đề: Qua hình tượng Con sÔng Đà hung bạo, trữ tình Và Ông lái đÒ
bình dị nhưng tài hoa, trí dũng, nhà Văn muốn ngợi Ca Vẻ đẹp Của thiên
nhiên Và Con người trên Vùng Tây BắC Của TỔ quốC.
- Cảm hứng Chủ đạo: Tùy bút “Người lái đÒ SÔng Đà” là áng Văn nhiệt
tình Ca ngợi non sÔng, đất nướC Và nhân dân Của một trái tim tràn đầy
hứng khởi khi đứng giữa TỔ quốC mình nhưng khÔng CÒn thấy “thiếu quê hương”.
d. Thể loại: tùy bút
CáC táC giả Của quyển “Văn họC Việt Nam thế kỷ XX” (2004) Xếp
tùy bút Vào loại ký: “Ký là một loại hình Văn họC trung gian nằm giữa báo
Chí Và Văn họC. Ký bao gồm nhiều thể Chủ yếu dưới dạng Văn XuÔi tự sự
như: bút ký, hồi ký, du ký, nhật ký, phÓng sự, tùy bút Và Cả hồi ký tự
truyện. .” Theo định nghĩa này “Tùy bút là một thể thuộC loại hình ký CÓ
lối Viết phÓng khoáng, tự do Và Chủ quan nhất. Nét nỔi bật trong tùy bút
là qua ViệC ghi Chép những Con người Và sự kiện Cụ thể CÓ thựC, táC giả
đặC biệt Chú ý đến ViệC bộC lộ Cảm XúC, suy tư Và nhận thứC đánh giá Của
mình Về Con người Và CuộC đời. . So Với CáC tiểu loại kháC, tùy bút giàu
Chất trữ tình hơn Cả, tuy Vẫn khÔng ít yếu tố Chính luận Và Chất suy tưởng triết lý”.
Và phải Chăng Vì lối sống tự do, phÓng túng Và sự y thứC sâu sắC Về
Cái tÔi Cá nhân đã khiến Nguyễn Tuân tìm đến thể tùy bút như một điều
tất yếu. Thể loại này trong trang văn của bậc thầy tùy bút lại có
những đặc điểm rất riêng.
- Tuỳ bút Của Nguyễn Tuân mang tính Chất tự do Vốn CÓ Của thể loại.
Trong Văn Nguyễn, mạCh Cảm XúC Cứ Chảy tràn, miên man, bất tận, nhởn
nhở trên Con đường Cảm thụ Cái đẹp, hết ngã rẽ này lại đến ngã rã kháC,
đi hết Con đường này, Văn nhân lại tìm Về Con đường kháC nhưng khÔng
bao giờ Ông để mình sa đà Vào rẽ Vào Con đường ngoài Cái độC đáo Của nghệ thuật.
- Bên Cạnh đÓ tuỳ bút Nguyễn Tuân CÓ nhiều yếu tố truyện. TrướC khi gặp
gỡ tùy bút tại giao lộ Văn Chương, Nguyễn Tuân đã bướC những bướC đầu
Với thể loại truyện. ĐọC truyện ngắn hay truyện dài Của Ông, người ta
thường thấy CÓ sự đan Xen Của tuỳ bút, Và ngượC lại, đọC tuỳ bút Của Ông
người ta lại thấy CÓ pha Chất truyện. Nhà Văn dùng nhiều đến trí tưởng
tượng để dựng Cảnh, dựng truyện Và CÓ mÔ tả tâm lí, khắC hoạ tính CáCh
nhân Vật đến một Chừng mựC nào đấy.
- Tuỳ bút Nguyễn Tuân đồng thời lại mang đậm tính Chất ký, nghĩa là ghi
Chép sự thật Và thÔng tin thời sự Chính XáC. Cũng bởi Vốn Xuất thân là
một nhà báo, một thÔng tín Viên Và Cũng từng Viết nhiều du ký, phÓng sự
đặC sắC, thêm táC phong khảo Cứu đào sâu đã giúp Cho tuỳ bút Nguyễn
Tuân CÓ lượng thÔng tin đáng tin Cậy Và CÓ nhiều giá trị tư liệu.
- KhÔng những Vậy tuỳ bút Nguyễn Tuân Cũng rất giàu tính trữ tình.
Những dÒng Văn nÓng hỔi Cảm XúC thÔng qua Cái tÔi Chủ quan mà phản
ánh hiện thựC trong tùy bút Nguyễn Tuân lặng lẽ len Vào lÒng người đọC.
e. Tóm tắt tác phẩm
Thiên nhiên Tây BắC đượC tÔ điểm bởi Con sÔng Đà Vừa hung bạo
Vừa trữ tình. SÔng Đà CÓ lúC dịu dàng như người phụ nữ kiều diễm. NướC
sÔng Đà thay đỔi theo mùa, phản Chiếu trời Xuân nắng thu: “Mùa Xuân
dÒng Xanh ngọC bíCh, mùa thu lừ lừ Chín đỏ như da mặt người bầm đi Vì
rượu bữa”. DọC theo sÔng Đà, CÓ lắm tháC nhiều ghềnh, CÓ đá dựng VáCh
thành, CÓ đá tảng, đá hÒn bày thế thạCh trận, tạo nên Cửa sinh, Cửa tử.
NỔi bật trên bứC tranh thiên nhiên hùng Vĩ, đầy sứC sống đÓ là hình ảnh
Ông lái đÒ sÔng Đà. ĐÓ là một người mang Vẻ đẹp khỏe khoắn Của người
dân lao động Vùng sÔng nướC Với thân hình Cao to, nướC da rám nắng.
Ông làm nghề lái đÒ đã nhiều năm, từng gắn bÓ Với dÒng sÔng Đà, hiểu
đượC tính khí Của nÓ. Ông thuộC nằm lÒng từng Con tháC lớn, tháC nhỏ,
từng VáCh đá, luồng nướC, từng Cửa sinh, Cửa tử do thế thạCh trận tạo
nên. Ông đã dùng kinh nghiệm nghề nghiệp Cộng Với sự Cần Cù gan dạ
đưa Con thuyền Vượt tháC nướC sÔng Đà đầy nguy hiểm. Ông đã đưa nhiều
Chuyến hàng Về XuÔi an toàn để gÓp phần Vào CuộC sống. Sau khi Vượt
sÔng Đà, Ông lái đÒ trở Về CuộC sống đời thường thanh thản Của mình, Ông
neo thuyền Chỗ khúC sÔng bình lặng, nấu ống Cơm lam Và bàn tán Về Cá anh Vũ, Cá dầm Xanh. II. TÌM HIỂU CHI TIẾT
1. Tìm về lời đề từ trong “Người lái đò Sông Đà”

Người yêu Văn ChắC hẳn khÔng Xa lạ gì Với những lời đề từ trong CáC
tiểu thuyết kinh điển trên thế giới như “Chạng Vạng”: “Những Cây hiểu
thiện biết áC thì Chớ ăn, Vì bất Cứ ngày nào người ăn Vào người sẽ phải
Chết” đến CáC truyện dài như “TuỔi thơ dữ dội” Của Phùng Quán: “Trừ
giặC, ba tuỔi Vẫn CÒn là muộn” hay những áng thơ trữ tình như “Ngày gặp
gỡ” Của Hồ Dzếnh “Vẳng nghe tiếng ếCh bên tai/ Giật mình CÒn tưởng
tiếng ai gọi đÒ”. Những điều tưởng Chừng nhỏ nhặt Và khÔng CÓ Chủ đíCh
như lời đề từ nhưng thật ra lại CÓ ý nghĩa như một ChiếC Chìa khÓa quan
trọng để mở Cánh Của ngÔn từ rộng lớn là táC phẩm. Theo Cuốn “Từ điển
thuật ngữ Văn họC” lời đề từ “là thành phần nằm ngoài Văn bản Của một
táC phẩm, đượC Viết ở đầu sáCh hoặC sau tiêu đề Của mỗi Chương trong
Cuốn sáCh nhằm hướng người đọC Vào ý đồ nghệ thuật Của táC giả hoặC tư tưởng Của táC phẩm”.
BướC Vào tùy bút “Người lái đÒ SÔng Đà” Của Nguyễn Tuân người
đọC dễ dàng bị lÔi Cuốn bởi hai lời đề từ VÔ Cùng hấp dẫn giúp độC giả
hình dung rõ ràng hơn Cảm hứng sáng táC Và phong CáCh nghệ thuật Của Nguyễn Tuân.
Lời đề từ đầu tiên “Đẹp Vậy thay, tiếng hát trên dÒng sÔng!”.
Nguyễn Tuân ChắC hẳn phải mê đắm lắm những thi hứng trên sÔng nướC
Của Broniewski Vì Ông sẽ CÒn mượn tiếp ý thơ Của nhà thơ người Ba Lan
khi miêu tả dÒng sÔng tuyến. Câu thơ mượn Cấu trúC Cảm thán để bộC lộ
Cảm XúC mãnh liệt đang trào dâng trong lÒng. Điều gì đã khiến thi sĩ sửng
sốt mà Cất lên “đẹp Vậy thay”, Vế thơ sau đã giãi bày nguyên do Của lời
ngợi Ca ấy: “tiếng hát trên dÒng sÔng”. SÔng nướC mênh mÔng nên thơ
hữu tình đã làm say đắm bao trái tim nghệ sĩ để rồi trở thành một địa Chỉ
lớn Của nhạC họa Văn thơ. Xưa Broniewski mượn thơ để bày tỏ tiếng Ca
ngưỡng mộ Của mình trướC dÒng sÔng say đắm lÒng người. Nay Nguyễn
Tuân mượn Chính ý thơ đÓ để Cất tiếng hát say mê, lời hoan Ca, phấn
khíCh khi đứng trướC Vẻ đẹp Của Đà giang. Broniewski tha thiết trướC
thiên nhiên Và Văn nhân họ Nguyễn Cũng Vậy. Tuy nhiên ý thơ Của táC giả
Ba Lan phải Chăng CÒn gợi CáCh Cảm kháC. Lời ngợi Ca Của thi nhân phải
Chăng là dành Cho âm thanh Vang ra từ “tiếng hát trên dÒng sÔng” mà
Ông nghe thấy. ĐÓ là tiếng hát Của những người lao động lạC quan, yêu
đời trên sÔng nướC: Của người Chèo đÒ “mê say em hát”, Của người Chài
lưới đang Vui mừng trướC thành quả lao động Của mình, Của người Vượt
tháC hÒ Vang trướC những đợt sÓng to… Trong tùy bút này, Ông lái đÒ là
một trong hai hình tượng nghệ thuật Chính. Tiếng hát kia phải Chăng
Cũng là tiếng hát Của người anh hùng lao động sÔng nướC, Của nghệ sĩ ba
lê giữa muÔn trùng tháC đá. Đặt ý thơ Vào táC phẩm Của mình, Cụ Nguyễn
muốn ngợi Ca nhân Vật Chính Của bản hùng Ca ấy. Đồng thời táC giả Cũng
sung sướng reo lên quan niệm nghệ thuật mới Của mình sau CáCh mạng:
những Con người dù lặng thầm, bình dị, dù ở bất kể nơi đâu, trong bất kể
địa Vị Và nghề nghiệp nào, Chỉ Cần sống trọn Với sứ mệnh, tráCh nhiệm
Của mình đều đáng đượC ngưỡng mộ Và tÔn Vinh.
Lời đề từ thứ hai “Chúng thủy giai đÔng tẩu – Đà giang độC bắC
lưu”. Tạm dịCh: “Mọi dÒng sÔng đều Chảy Về phía ĐÔng, duy Chỉ CÓ sÔng
Đà Chảy theo hướng BắC”. Hai Câu thơ Của Nguyễn Quang BíCh tương đối
hiển ngÔn giúp Cho Chúng ta ngay lần đầu tiên đọC tới CÓ thể phần nào
hiểu đượC nét tính CáCh độC đáo, riêng biệt, những tương quan đối CựC
Của một hiện tượng địa lí Của miền Tây BắC TỔ quốC. Chính hướng Chảy
độC đáo kia Của sÔng Đà đã khơi gợi hứng thú Của Cái tÔi ngÔng nghênh
Với đời như Nguyễn Tuân. Một nhà Văn suốt đời đi tìm Cái đẹp, Cái thật,
ham mê Xê dịCh để thay đỔi thựC đơn Cho tâm hồn mình như Nguyễn
Tuân đã mê mẩn ngay Với sự kháC biệt đÓ Của sÔng Đà. Vì thế sÔng Đà
dưới ngÒi bút Nguyễn Tuân khÔng phải là thiên nhiên VÔ tri VÔ giáC, mà
hiện lên như một sinh thể phứC tạp, đa dạng CÓ CuộC sống riêng, CÓ đặC
điểm riêng khÔng thể trộn lẫn Với hai nét tính CáCh Cơ bản đối lập nhau:
hung bạo Và trữ tình. ĐÔi dÒng đề từ thứ hai gợi Cho độC giả nhiều suy tư,
người ta nghĩ rằng Nguyễn Tuân Cũng giống như Chính dÒng Đà giang ấy.
Trên hành trình đến Với thiên nhiên kì thú, nhà Văn đồng thời muốn
khẳng định dÒng sÔng Văn họC độC đáo Của mình – một dÒng sÔng Cá tính
Của Cái tÔi uyên báC Và tài hoa. MaXim Gorki từng nÓi “Cái bình thường là
Cõi Chết Của nghệ thuật”, Vì Vậy Nguyễn Tuân luÔn muốn “Đã là nhà Văn,
mỗi người phải CÓ Cái Vision riêng. Mất Cái riêng đÓ Cũng đồng nghĩa Với
ViệC từ bỏ thiên ChứC nghệ sĩ Của mình”. Giống như Ông lái đÒ đang Cố
gắng tìm đúng luồng sinh giữa VÔ Vàn Cửa tử trên Chiến trường sÔng Đà,
Văn nhân Cũng muốn tìm Cho kì đượC nguồn Cảm hứng “sống” giữa dÒng
tháC ngÔn từ ngỔn ngang. Và Ông đã tìm đượC sÔng Đà. Tờ hoa Về sÔng
Đà Chính là luồng sinh, gÓp phần khẳng định Cái bản Chính Nguyễn Tuân
giữa thế giới mênh mÔng biển người.
2. Hình tượng con sông Đà
NhạC sĩ Trịnh CÔng Sơn từng Chia sẻ: “MụC đíCh đầu tiên Và sau
Cùng Của Nghệ thuật Và Văn họC theo tÔi là mang đến Cái hay, Cái đẹp
Cho đời. Mầm mống Của nÓ khÔng CÓ bất Cứ một sự mưu toan nào Cả. Hãy
Cho nÓ mãi mãi thanh thản tự do Và mãi mãi là hiện thân Của điều thiện,
Của Cái đẹp.” Dường như đẹp là ChứC năng hàng đầu, là ưu tiên số một
Của Văn Chương nghệ thuật. LúC sinh thời, Cái đẹp Cũng trở thành mụC
tiêu tìm kiếm trong suốt CuộC đời Cầm bút Của Nguyễn Tuân. Ông đã đi
khắp dặm dài Chữ S, thậm Chí Vượt biên Chỉ để tìm kiếm Cái đẹp. Trên
Chặng đường Ông đi tới hiện lên Cái dấu Chân to, rõ ở miền Tây BắC TỔ
quốC Với hình tượng thiên nhiên kì thù – sÔng Đà.
Khám phá Về sÔng Đà dÒng Chảy dữ dội Của núi rừng Tây BắC là
một thành CÔng đặC sắC Của Ông. Chỉ CÓ Nguyễn Tuân mới khÔng nhọC
CÔng dÒ đến ngọn nguồn lạCh sÔng, truy tìm đến tận nơi gốC tíCh khai
sinh ra sÔng Đà, để biết Chỗ phát nguyên Của nÓ thuộC huyện Cảnh ĐÔng
Và thoạt kì thủy, dÒng sÔng mang những Cái tên Trung Hoa khá thơ
mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Cũng Chưa CÓ nhà Văn nào trướC Nguyễn
Tuân CÓ thể kể tên Vanh VáCh 50/73 Con tháC lớn nhỏ nằm lÔ nhÔ suốt một
dải sÔng từ Lai Châu Về đến Chợ Bờ. Cũng khÔng CÓ ai như Nguyễn, để CÓ
thể hạ bút Viết đúng ba Câu Về màu sắC nướC sÔng Đà đã phải CÓ mấy lần
bay ngang qua miền sÔng ấy. DÒng sÔng Đà trong Cảm nhận Của nhà Văn
như một sinh thể CÓ hai nét tính CáCh tưởng như đối lập nhưng lại nhất
quán: hung bạo, dữ dằn Và trữ tình, thơ mộng.
2.1. Sông Đà hung bạo
SÔng Đà hung bạo, lắm tháC, nhiều ghềnh đã từng bướC Vào Ca dao Xưa:
“Đường lên Mường Lễ bao Xa
Trăm bảy Cái tháC, trăm ba Cái ghềnh”
Với một nhà Văn ưa thíCh những Cảm giáC mạnh mẽ, những phong Cảnh
tuyệt mĩ, những dữ dội phải dữ dội tới tận Cùng, những lần Xê dịCh phải
thử trÒ Chơi mạo hiểm Cho kì đượC để tránh sự tầm thường, mờ nhạt mà
Ông hằng Chán ghét thì “Cưỡi” lên sÔng Đà hung bạo là trÒ Chơi mà Ông
khÔng thể bỏ qua. Sự dữ dằn Của sÔng Đà khÔng Chỉ hiện ra ở những Con
tháC, mà CÒn ở quang Cảnh hùng Vĩ Với Vẻ huyền bí, hoang sơ Của dÒng
sÔng Chảy giữa điệp trùng rừng núi Tây BắC. Như một nhà quay phim lão
luyện, Vừa Cho người Xem thấy bao quát khung Cảnh sÔng Đà, thỉnh
thoảng táC giả lại dừng lại, Cho khán giả những pha “cận cảnh” thật tiêu
biểu Về sự hung dữ Của Con sÔng này.
a. Đập vào mắt người đọc, ấn tượng đầu tiên về sự hung bạo của
Đà giang chính là hình ảnh những cảnh đá bờ sông dựng vách thành.

VáCh thành sÔng Đà là Cảnh sừng sững án ngữ trướC mặt độC giả
ngay lần dạo Chơi mạo hiểm đầu tiên. Văn nhân khẳng định “Hùng Vĩ Của
sÔng Đà khÔng phải Chỉ CÓ tháC đá. Mà nÓ CÒn là những Cảnh đá bờ sÔng
dựng VáCh thành”. Ấn tượng trựC tiếp đến mắt người đọC đÓ Chính là hình
ảnh ẩn dụ “VáCh thành”. Ta Vẫn thường nhắC đến “thành” như một khối
kiến trúC quân sự VÔ Cùng kiên Cố. CáC bậC anh minh Xưa thường Cho đắp
thành như một CÔng trình phÒng ngữ, một pháo đài hiểm. Thành quáCh là
nơi bên ngoài quân địCh khÓ mà Xâm nhập Vào nhưng bên trong quân ta
lại nắm rõ nội tình khi nhìn ra để rồi dễ dàng táC Chiến. Nguyễn Tuân Với
tư CáCh là kháCh tham quan trên sÔng Đà giống như người đang đứng ở
bên ngoài thành. Vì thế mọi thứu Với Ông là VÔ Cùng bí ẩn. Những đợt hỗn
Chiến, tấn CÔng bí hiểm Cử đang rình rập đâu đây trên sÔng Đà như một
sự đe dọa đầu tiên Với Con người. Chỉ Với hai Chữ “VáCh thành” nhà ảo
thuật ngÔn từ đã dựng lên trướC mắt người đọC VáCh đá sÔng Đà sao kiên
Cố, thâm nghiêm. KhÔng Chỉ Vậy những đợt hỗn Chiến, tấn CÔng bí hiểm
Cử đang rình rập đâu đây trên sÔng Đà như một sự đe dọa đầu tiên Với Con người.
Đồng thời tuy khÔng nÓi hết nhưng nhà Văn biết Vận dụng tối đa
năng lựC Chữ nghĩa để Chỉ gọi “VáCh thành” thÔi nhưng gợi ra ấn tượng
nới bạn đọC Cả “thành Cao hào sâu”. Từ đÓ người Chiêm ngưỡng Cảm nhận
đượC VáCh đá hiện lên như thành Cao, sÔng Đà Với VựC thẳm như hào sâu
hun hút. Tất Cả bướC đầu dần kéo người đọC Vào trùng Vây liên tưởng
Choáng ngợp, hãi hùng. Chính bởi thành trì ấy Cao thăm thẳm, sâu hun
hút mà “đúng ngọ mới CÓ mặt trời”. “Đứng ngọ” là thời điểm giữa trưa.
Đây là lúC bề mặt trái đất nhận đượC nhiệt lượng lớn nhất từ mặt trời. Ta
đã bắt gặp ánh nắng tinh nghịCh trong bao Vần thơ Về sÔng nướC “nắng
Chiếu sÔng LÔ” như trong thơ Tố Hữu hay “nắng Xuống” trong thơ Huy
Cận. Ánh nắng ChÓi Chang soi Chiếu Vạn Vật nhưng trong ấn tượng Của
nhà Văn họ Nguyễn Chỉ khi lên thiên đỉnh nắng mới đượC le lÓi trên lÒng
sÔng Đà. Phải Chăng, VáCh đá quá Cao, VựC sÔng quá sâu đến độ nắng
khÔng thể Chiếu Xiên ngang mà Chỉ CÓ thể hắt Xuống từng giọt hiếm hoi như Vậy.
Cao, sâu thÔi Chưa đủ Cụ Nguyễn CÒn muốn đưa người đọC đến sự
hung bạo tột Cùng Của Cảnh đá bờ sÔng qua độ hẹp Của sÔng Đà. Dưới
ngÒi bút Của Nguyễn Tuân hai bên bờ sÔng như đang XíCh lại gần nhau:
“CÓ VáCh đá thành Chẹt lÒng sÔng Đà như một Cái yết hầu. Đứng bên này
bờ nhẹ tay ném hÒn đá qua bên kia VáCh. CÓ quãng Con nai, Con hỔ đã CÓ
lần Vọt từ bờ này sang bờ kia”. Đá sÔng Đà đượC so sánh như “Cái yết
hầu” gợi liên tưởng Cảm nhận qua Chính XúC giáC Của người đọC. Độ hẹp
lÒng sÔng bị VáCh đá Chèn ép tới mứC nghẹt thở. Qua động từ “Chẹt”
người đọC Cảm tưởng như VáCh thành đã lấn át hết Cả bờ sÔng ghê rợn,
hãi hùng. Những Chi tiết miêu tả tưởng Chừng như bâng quơ Của Cụ
Nguyễn nhưng lại mang sứC biểu đạt hiệu quả VÔ Cùng. Chỉ hành động
đơn giản Của nai hỔ, Cú ném nhẹ Chơi đùa Của Con người lại là thướC đo
tài tình hơn bất Cứ Con số Chuẩn XáC nào. Sự nguy hiểm Của dÒng sÔng
gợi ra ngày một đậm, một nơi hẹp như thế, lưu tốC dÒng nướC Vốn nhanh
giờ lại Xiết hơn. Cứ thử tưởng tượng Con thuyền nào mà kẹt Vào Cái khe ấy
thì tiến khÔng đượC, lùi Cũng khÔng Xong Chỉ Chờ sÓng nướC Và đá đập Cho tan XáC mà thÔi.
Ấn tượng Về độ Cao, sâu Của VáCh đá bờ sÔng Và dÒng Chảy nhỏ hẹp
Càng đượC tÔ đậm thêm qua một Chi tiết tiêu biểu Và lối liên tưởng bất
ngờ, thiên nhiên hoang sơ gần Với đời sống hiện đại Của Con người: “Ngồi
trong khoang đÒ qua quãng ấy, đang mùa hè mà Cũng thấy lạnh, Cảm
thấy mình như đứng ở hè một Cái ngõ mà. . ngÓng Vọng lên một khung
Cửa sỔ nào từ Cái tầng nhà thứ mấy nào Vừa tắt phụt đèn điện”. Nhà Văn
Chẳng những sử dụng thị giáC, mà CÒn kết hợp sử dụng CáC giáC quan
kháC Với những so sánh thật mới mẻ Và táo bạo. Ân tượng phi lý Của XúC
giáC ngày giữa mùa hè hiện ra. Đang giữa mùa hè mà Văn nhân lại CÓ Cảm
nhận như trong mùa băng giá. Phải Chăng đÓ khÔng phải là Cái lạnh da
thịt do thời tiết mang đến mà là Cái lạnh ở trong lÒng, rợn tÓC gáy, sởn
gai ốC do sÔng Đà mang tới. Tuy nhiên Cụ Nguyễn đâu giống người
thường, nguy hiểm mà Vẫn dậm tÔ Cho kì đượC thêm Cảm giáC hãi hùng Về
độ Cao rợn ngợp Của VáCh đá sÔng Đà, qua từ ngữ khÔng XáC định “nào,
mấy”, qua độ hẹp Của hè phố Và sự phụt tắt bất thình lình Của đèn điện
làm thÓt tim người quan sát khi đi Vào khúC sÔng tối tăm này.
Tất Cả đã đem đến hình dung ban đầu Về dÒng sÔng, quy tụ tất Cả
tính từ đo lường nguy hiểm nhất: Cao thăm thẳm, sâu hun hút, hẹp đến
khÔng thở nỔi Và bất thình lình rơi Vào tăm tối như muốn nuốt Chửng Con người.
b. Tính chất hung bạo còn thể hiện qua cái dữ dằn của mặt ghềnh Hát Loóng.
Sự hung bạo Của Đà giang CÒn là sự kết hợp Của quần thể những
tháC đá, sÓng nướC. Máy quay Của người nghệ sĩ đã Chuyển từ VáCh thành
qua Cái dữ dội ở mặt ghềnh Hát LoÓng: “dài hàng Cây số nướC XÔ đá, đá
XÔ sÓng, sÓng XÔ giÓ, Cuồn Cuộn luồng giÓ gùn ghè suốt năm”. Chỉ Với hai
Câu Văn nhưng bằng sự biến ảo Của ngÔn từ trong CáC thủ pháp nghệ
thuật, tính hung bạo Của Đà giang hiện ra Với hình ảnh động đậy trướC mắt độC giả.
Đội quân sÓng, nướC, giÓ trên sÔng Đà đang bắt tay nhau tạo trận
địa uy hiếp Con người. Nhịp Văn ngắn, nhanh, mạnh, dồn dập như đang
muốn tạo Cơn Cuồng phong bão tố. Hình ảnh điệp nối tiếp luân Chuyển
nhau, sÓng giÓ sÔng Đà Cứ thế gối lên nhau, lần lượt uy hiếp Con người.
Cụ Nguyễn đã đặt Vào ba Vế Câu ba điệp từ “XÔ” để Cộng hưởng Cho
những đợt đánh liên hoàn dữ dội Của sÓng nướC tháC đá.
Đà giang như Con thủy quái đầm lầy đang Cuồng nộ, bẳn tính, gắt
gỏng VÔ Cớ giận dỗi Với Con người. Chúng “gùn ghè” đe dọa Con người
như thÓi quen thường ngày Của nÓ. NÓ sẵn sàng tiêu diệt, nuốt trọn bất
Cứ tay lái khinh suất nào: “Quãng này mà khinh suất tay lái thì Cũng dễ
lật ngửa bụng thuyền ra”.
KhÔng biết là VÔ tình hay Cố ý, “Chuyên Viên tiếng Việt” đã kết hợp
giữa tên địa danh Với đặC điểm Của sÔng Đà ở quãng sÔng này? Luồng giÓ
“gùn ghè” lại nằm đúng Vị trí mặt ghềnh Hát LoÓng. Cái tên địa danh đọC
đã phải tốn sứC nén hơi, uốn lưỡi như Chính khÓ khăn mà Nguyễn Tuân
Vừa đi qua Chỗ nướC giữ, Với sÓng, Với đá, Với ghềnh tháC Của sÔng Đà.
TrướC tài năng Của Nguyễn Tuân mọi Cảm giáC thật dường như đượC trải
qua rõ ràng dưới phong ba ngÔn từ.
c. Hung bạo hơn nữa là những cái hút nước khủng khiếp ở quãng
Tà Mường Vát phía dưới Sơn La.
Dưới bàn tay ma thuật Của Văn sĩ, sÔng Đà hung bạo tiếp tụC
nghênh Chiến Với người đọC qua đội quân hút nướC dữ dằn. Hút nướC hiện
ra trướC mặt độC giả qua hình ảnh “Cái giếng bê tÔng thả Xuống sÔng để
Chuẩn bị làm mÓng Cầu”, qua âm thanh ghê rợn Của “Cửa Cống Cái bị sặC”
Với sự Cộng hưởng đến đáng sợ giữa Cả hình ảnh Và âm thanh “nướC ặC ặC
lên như Vừa rÓt dầu sÔi Vào”. Miêu tả Cảnh những Cái hút nướC trên sÔng,
Nguyễn Tuân đã sử dụng đến độ thành thạo CáC biện pháp tu từ nghệ
thuật. Biện pháp nhân hÓa khiến nướC biết ‘thở” Và “kêu” khiến người ta
sợ đến rùng mình nhưng như thế là Chưa đủ Với một người ưa thíCh Chơi
mãnh liệt đến tột đỉnh như Nguyễn Tuân. Người khỔng lồ trên dÒng tháC
ngÔn từ tiếp tụC bẩy thêm nghệ thuật so sánh Vào miêu tả khiến người
đọC thêm khiếp Vía. ĐộC giả như đượC đeo ChiếC kính Xem phim thựC tế ảo
bây Chỉ muốn nhắm tịt mắt, bịt Chặt tai Vì kinh sợ. Phân Cảnh phim nối
tiếp nhau Chiếu lên Cái hút nướC ở độ sâu “Xoáy tít đáy” – như Cái giếng
sâu mà dÒng nướC đang Cuộn trào, Xiết lại khÔng CÓ dấu hiệu ngừng đến
độ dày trong “giếng bê tÔng” khÔng gì CÔng phá nỔi hay độ rộng ở “Cánh
quạ đàn”. Hiểm nguy đang rình rập khắp ba Chiều khÔng gian Cùng âm
thanh dữ dội đầy bí ẩn. Đứng trướC sứC hút ngÔn từ ở Nguyễn, khÔng Chỉ
độC giả, đồng nghiệp Văn Chương mà Chính Cả những nhà phê bình nhiều
khi Cũng thấy bật lựC khi phát hiện ra Vốn từ Của mình sao nghèo nàn,
Chẳng thể nghĩ tới sự miêu tả lạ lùng, kì thú như Nguyễn Và Cũng Chẳng
biết dùng Chữ nghĩa nào để bình Về độ Chính XáC Và tinh tế Của ngÒi bút
Nguyễn. Người ta Chỉ biết gật đầu mà bảo nhau rằng: sÔng Đà quả thựC
là một Con quái Vật đang trong một Cơn Cuồng nộ đầy ghê sợ.
Thế nhưng tài liên tưởng Của Nguyễn Tuân khÔng dừng lại ở đÓ, bộ
phim hành động do Ông đạo diễn tiếp tụC đưa người đọC Vào mÔn thể thao
tốC độ mạo hiểm. Đi thuyền qua quãng sÔng này, nhà thám hiểm Cảm
nhận “y như là Ô tÔ sang số ấn ga Cho nhanh để Vút qua quãng đường
mượn Cạp ra ngoài bờ VựC”. Chưa bao giờ người đọC lại tưởng tượng thấy
Cảm giáC đáng sợ Của đường sÔng rõ ràng như Vậy qua Cái hình dung Về
đường bộ. Chèo thuyền men gần hút nướC này ChắC Chỉ người thíCh phiêu
lưu như Nguyễn Tuân hay dũng Cảm như Ông lái đÒ mới dám thử. CÒn
người đọC Chỉ mới mường tượng ra Viễn Cảnh tương lai qua sự miêu tả Cụ
thể, rõ ràng ấy Của Văn nhân thÔi đã thấy hãi hùng rồi.
Ghê sợ là Vậy nhưng Tuấn Thừa SắC Vẫn muốn tÔ đậm thêm sự nguy
hiểm Cho Cái hút nướC sÔng Đà. Phối hợp giữa “tả” Và “kể” Ông muốn
Cùng người đọC đi tới Cái hung bạo đến tột Cùng Của Đà. Đi hết những Câu
Văn miêu tả Ông tìm đến những Câu Văn thiên Về kể: “Nhiều bè gỗ rừng đi
nghênh ngang VÔ ý là những Cái giếng ấy nÓ lÔi tuột Xuống… thuyền
trồng ngay Cây Chuối ngượC rồi Vụt biến đi… tan XáC ở khuỷnh sÔng
dưới”. Nhà Văn như muốn đưa người đọC thoát li thựC tế để tìm tới Vùng
đất mênh mÔng Của trí tưởng tượng bằng những hình ảnh đầy Chất hiện
thựC mà ai Cũng CÓ thể hình dung đượC. SÔng Đà như Cái động khÔng đáy
lúC nào Cũng nhăm nhe nuốt Chửng tất Cả mọi thứ. CÓ một dÒng sÔng
từng Cuốn đi nhiều thứ như thế trong táC phẩm “Thời Xa Vắng” Của Lê
Lựu. DÒng sÔng Về mùa lũ khiến dân làng từng thiết hại nhiều “nướC sÔng
đã ăn lên lem lém nuốt Chửng Cả Cánh bãi Xanh non mênh mÔng lúa lốC
Và Vừng”. ĐÓ là điều khÔng thể tránh đượC nhưng Chỉ trong mỗi mùa lụt
Về ở ngÔi làng Hạ Vi. Tự nhiên bất ngờ ập tới khi người ta CÒn “bừa bộn
ngỔn ngang”. Thế nhưng khi mùa lụt qua đi, mọi thứ lại trở Về bình
thường. SÔng lũ trong “Thời Xa Vắng” Vì Vậy phần nào Vẫn mang Vẻ hiền
hÒa Của sÔng quê Chứ khÔng ranh mãnh như sÔng Đà. Con thủy quái ấy
đặt những Cái bẫy Chết người mà Chỉ Cần người lái đÒ lơ là tay Chèo, lập
tứC sẽ bị hút Xuống. NÓ tàn nhẫn Chẳng Chịu buÔng tha Cho bất Cứ thứ gì qua đÓ.
Tuy nhiên kẻ săn tìm Cái đẹp muốn khai tháC Cho kì hết Cái nguồn
thẩm mĩ Vốn CÓ Của sÔng Đà. Nhà sáng tạo đã Vận dụng triệt để kiến thứC
liên ngành trong bộ mÔn nghệ thuật thứ bảy – điện ảnh để tha hồ lật Xoay
ngắm nghía sÔng Đà từ mọi gÓC độ. Ông đột ngột tung ra giả tưởng li kì
kéo người đọC Xuống tận đáy hút nướC Xoáy tít. Cảm giáC Chân thật đến
từng mi-li-mét hiện ra Cùng đợt sÓng hãi hùng ập tới. Nhà Văn biến mình
thành anh thợ quay phim táo tợn tợn muốn truyền Cho người đọC Cảm
giáC lạ đã dũng Cảm ngồi Vào một ChiếC thuyền thúng rồi thả mình,
thuyền Và máy quay Văng Xuống Cái hút nướC sÔng Đà. Lia ngượC máy lên
thành hút nướC là hình ảnh “thành giếng Xây toàn bằng nướC sÔng Xanh
Ve một áng thủy tinh khối đúC dày” như “sắp Vỡ tan ụp Vào” Cả người
quay lẫn người Xem. ChiếC CốC khỔng lồ đượC khuấy lên là hình ảnh gợi
người ta Cái liên tưởng rõ ràng nhất. Vì Vậy người Xem phim kí sự Của nhà
đạo diễn tài ba Nguyễn Tuân Cứ run lên Vì sợ hãi. Người ta phải bám lấy
mép một ChiếC lá rừng Vừa Vứt Vào trong CốC để trấn tĩnh bản thân Và tạo
điểm bám Vững ChắC Cho Cơ thể mình khỏi bị Văng ra, bị Cuốn Vào làn
nướC dữ dội kia. Sự uyên báC Về CáC lĩnh VựC đời sống như giao thÔng hay
CáC ngành nghệ thuật như điện ảnh khiến trang Văn Của Nguyễn bung nở.
Để tận hưởng hết Vẻ đẹp kì thù Của tờ hoa ấy người đọC khÔng CáCh nào
kháC ngoài tưởng tượng bởi sự thưởng lãm trong tâm tưởng nhiều khi CÒn
kì thú hơn Cả sự miêu tả lại bằng ngÔn từ.
d. Nhưng hãi hùng nhất có lẽ là cảnh những thác đá dữ dội trên sông Đà.
SÔng Đà đang dần lộ ra tâm địa Của “thứ kẻ thù số một” Của Con
người. Con thủy quái khÔng lồ dùng hết tất Cả những siêu năng lựC Của
mình để dẫn dụ Và rồi Chặn bắt thuyền bè qua lại ở đây.
Thác đá khi ở xa
Âm thanh nướC tháC ngay từ đằng Xa mang hình ảnh một Con người
nham hiểm “Tiếng nướC tháC nghe như là oán tráCh gì, rồi lại như là Van
Xin, rồi lại như là khiêu khíCh, giọng gằn mà Chế nhạo.” KháC Với Cái
“tiếng nướC ầm ầm rung Chuyển như bom” trong “Thời Xa Vắng” Của Lê
Lựu hay “nướC sÔng Cuồn Cuộn sÔi lên sùng sụC” trong “Bến khÔng
Chồng” Của Dương Hướng, Con sÔng Đà hiện ra như một kẻ lắm mưu,
nhiều kế để khiêu khíCh người lái đÒ. NÓ mang muÔn Vàn trạng thái Của
Con người “oán tráCh, Van Xin, khiêu khíCh”. Khi thì nÓ kíCh trí tÒ mÒ, khi
nÓ Vang lời mời gọi, lúC nÓ tháCh thứC người Chèo thuyền tiến Vào.
Để rồi khi gần Vào sâu bên trong, nÓ phÓng dàn loa Của mình lên
hết Cỡ “Thế rồi nÓ rống như tiếng một ngàn Con trâu mộng đang lồng lộn
giữa rừng Vầu rừng tre nứa nỔ lửa, đang phá tuÔng rừng lửa, rừng lửa
Cùng gầm thét Với đàn trâu da Cháy bùng bùng”. Thiên nhiên như đang ở
đỉnh điểm Của sự phấn khíCh mạnh mẽ. Chưa bao giờ người ta thấy một
nhà Văn lấy rừng để tả nướC, Vật hÓa âm thanh tháC nướC thành tiếng
gầm Của đàn trâu. Nghệ thuật so sánh, nhân hÓa tài ba Cùng những liên
tưởng “rất đắt”, Nguyễn Tuân đã Cho thấy một Cảnh tượng tháC nướC
hùng Vĩ, nguy hiểm tận độ. Hai nguyên tố CÓ sứC hủy diệt rất lớn lại luÔn
tương khắC Với nhau, CÓ nướC thì khÔng CÓ lửa, ngượC lại, CÓ lửa thì khÔng
CÓ nướC. Vậy mà Nguyễn Tuân đã tìm ra sự tương giao giữa Chúng như
một nghệ sĩ bậC thầy. TrướC mắt người đọC là Cả một rừng Vầu, tre nứa
hàng ngàn Cây đang bị đốt Cháy Và phát ra tiếng nỔ nhưng Chưa hết,
trong khu rừng Vầu, rừng tre đang Cháy ấy lại đượC thả Vào đÓ hàng ngàn
Con trâu mộng to khỏe, nên khi da Của Chúng bị đốt Cháy Và nÓng bỏng
khiến Chúng lồng lộn mà phá tan rồi tìm đường thoát thân. Khi Chạy đàn
trâu Va đập mạnh Vào những Cây tre, Cây nứa tạo nên những tiếng nỔ lớn,
liên hoàn như âm thanh Vang não bạt, kinh thiên động địa. Ai khÔng biết
lại tưởng rằng nơi đây đang diễn ra một trận động đất rừng thời tiền sử.
Tất Cả táC động mạnh mẽ lên thần kinh người đọC để mang đến Cảm giáC
Chân thựC Và sống động nhất Về âm thanh tháC nướC sÔng Đà khi ở Xa.
Thác đá khi tới gần
Nhà Văn ngÔng nghênh Với đời, ưa mạo hiểm, mạnh mẽ trướC Cảnh
hãi hùng, hung bao Ông lại Cất lời reo Vui khi đượC tiếp Cận nÓ “Tới Cái tháC rồi”.
Cái dữ dằn Của tháC đá Đà giang khi tới gần hiện ra qua ấn tượng
Về hình ảnh sÓng tháC Cùng bầy thạCh tinh hung hãn. Phối hợp Với sÓng
nướC Với tiếng tháC ầm ầm là “sÓng bọt đã trắng XÓa Cả một Chân trời
đá”. Những bọt nướC đang trào sÔi mãnh liệt. Tính từ “trắng XÓa” đã tÔ
đậm Cho kì đượC sự mênh mÔng khÔng biết đâu là bờ Của sÓng tháC. Mặt
sÔng dường như Chẳng lúC nào Chẳng Chỗ nào tại khúC sÔng này yên lặng.
Chúng khÔng thÔi gào thét Cùng bạt ngạt những đá. Người ta hãi hùng Vì
sÓng tháC Và CÒn kinh sợ bởi bãi đá sÔng đá. Lộ ra dưới những Con sÓng
kia là Choáng ngợp những đá. “Đá ở đây từ ngàn năm Vẫn mai phụC hết
trong lÒng sÔng. Mặt hÒn đá nào trÔng Cũng ngỗ ngượC, hÒn nào Cũng
nhăn nhúm méo mÓ hơn Cả Cái mặt nướC Chỗ này”. SÔng Đà đã giao ViệC
Cho mỗi hÒn, để Chúng phối hợp lại thành ba trùng Vi nguy hiểm.
Kiến thứC Của nhà quận sự đượC Vận dụng, trận địa thạCh tinh hiện ra.
Trùng vi thứ nhất: SÔng Đà bày ra năm Cửa trận, CÓ bốn Cửa tử,
một Cửa sinh, Cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sÔng. Hàng tiền Vệ, CÓ hai
hÒn Canh một Cửa đá trÔng như là sơ hở, thựC Chất Chúng đÓng Vai trÒ dụ
ChiếC thuyền Vào tuyến giữa. Ở trùng Vi thứ nhất này sÓng nướC đÓng Vai
trÒ Chính để tiêu diệt ChiếC thuyền. Vừa Vào trận địa, Chúng tấn CÔng
ChiếC thuyền tới tấp: “Mặt nướC hÒ la Vang dậy quanh mình, ùa Vào mà bẻ
gãy Cán Chèo Võ khí trên Cánh tay mình. SÓng nướC như thể quân liều
mạng Vào sát náCh mà đá trái mà thúC gối Vào bụng Và hÔng thuyền. CÓ
lúC Chúng đội Cả thuyền lên. NướC bám lấy thuyền như đÔ Vật túm thắt
lưng Ông đÒ đÒi lật ngửa mình ra giữa trận nướC Vang trời thanh la não
nạt. SÓng tháC đã đánh đến miếng đÒn hiểm độC nhất, Cả Cái luồng nướC
VÔ sở bất Chí ấy bÓp Chặt lấy hạ bộ người lái đÒ”. Trận Chiến đầu, sÓng
nướC là tuệ binh mà Con sÔng tung ra để thử tháCh người lái đÒ. Chúng
Chẳng nề hà gì để ra những đÒn hiểm áC, quyết liệt ngay từ những miếng Võ đầu tiên.
Vượt qua trùng Vây thứ nhất, Ông lái đÒ phải đương đầu Với trùng
vi thứ hai: “Tăng thêm nhiều Cửa tử để đánh lừa Con thuyền Vào, Và Cửa
sinh lại bố trí lệCh qua phía bờ hữu ngạn. DÒng tháC hùm beo hồng hộC tế
mạnh trên sÔng đá đánh khuýp quật Vu hồi ChiếC thuyền”. Tại trận Chiến
đánh giáp lá Cà này, Chúng quyết sinh quyết tử Với Ông lái đÒ. Khi ChiếC
thuyền đã Vượt qua, bọn sÓng nướC Cửa tử “Vẫn khÔng ngớt khiêu
khíCh, mặC dầu Cái thằng đá tướng đứng Chiến ở Cửa Vào đã tiu nghỉu Cái
mặt Xanh lè thất Vọng”. Bọn đá, sÓng nướC dở những mÓn đÒn hiểm độC
Và tinh Vi nhất. Chúng giống như mụ phù thủy luÔn tìm CáCh tiêu diệt Con người.
Đến trùng vi thứ ba: “Ít Cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng
Chết Cả. Cái luồng sống ở Chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu Vệ Của
Con tháC.” Tại đây những boong-ke Chìm Và pháo đài đá nỔi ở đầu Chân
tháC phải đánh tan Cái thuyền. Để rồi một trận đấu bÓng quyết liệt đã diễn ra.
Con SÔng Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngượC biết
bày thạCh trận, thủy trận hÒng tiêu diệt thuyền bè trên dÒng nướC. NÓ
khÔng Chỉ mang tâm địa nham hiểm mà CÒn CÓ bộ mặt dữ tợn “mặt hÒn
nào trÔng Cũng ngỗ ngượC, hÒn nào Cũng nhăn nhúm, méo mÓ hơn Cả Cái
mặt nướC Chỗ này”. Sự tạo hình ngẫu nhiên Của tạo hÓa dưới bàn tay Của
Nguyễn Tuân đã trở thành thế trận đượC sắp đặt đầy toan tính. Chúng
phân sẵn CÓ Vị trí Cao thấp CÓ tướng Và Võ sĩ, CÓ Cả địa bàn ẩn nấp trên Và
dưới, khi Chúng ẩn giấu tâm địa để đánh lừa Con người, lúC lại Vênh Váo
tháCh thứC kiểu du CÔn “anh Chị”. Sự hung bạo Chưa bao giờ rõ ràng như
lúC này. Chúng khÔng Chỉ là âm thanh mà nỔi hẳn thành hình khối. Trong
những khúC đại giang Của Văn họC Cũng CÓ khÔng ít những hiểm trở, gập
ghềnh nhưng đượC đặt trong thế tĩnh. Sự Chuyển động hÓa những hiểm
nguy ở Đà giang ChắC Chỉ CÓ ở Văn Chương bậC tài nhân như Cụ Nguyễn.
⇨ Dưới ngÒi bút Của người nghệ sĩ ngÔn từ, Vẻ đẹp man dại, sứC mạnh
huyền bí Của sÔng Đà đã hiện ra ở nhiều gÓC độ kháC nhau. Đấy Chính là
tiềm năng to lớn Của Đà giang khi nÓ đượC Con người Chinh phụC. Đấy
là “Vàng trắng” quý báu Của đất nướC Chúng ta. Chính Vì Vậy, Nguyễn
Tuân nghĩ tới hình ảnh Của những tuốC bin thủy điện. Điều đÓ Cũng CÓ
nghĩa là nhà Văn nghĩ tới Vai trÒ, Vị trí Của sÔng Đà trong sự nghiệp CÔng nghiệp hÓa đất nướC. “Ngày mai
ChiếC đập lớn nối liền hai khối núi
Biển sẽ nằm bỡ ngỡ giữa Cao nguyên
SÔng Đà gửi ánh sáng đi muÔn ngả
Từ CÔng trình thuỷ điện lớn đầu tiên”
2.2. Sông Đà trữ tình
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận Xét Về Nguyễn Tuân như
sau: “mỗi khi Cầm bút dường như lại đặt mình trong yêu Cầu: phải Chứng
tỏ đượC Cái tài hoa, uyên báC hơn đời Của mình. Ông CÓ thÓi quen nhìn sự
Vật ở mặt mĩ thuật Của nÓ, Cố tìm Cho ra ở đấy những gì nên họa, nên thơ.
Đồng thời mỗi đối tượng quan sát Của Ông là một đối tượng khảo sát đến
kì Cùng”. Vì Vậy CÔng trình mĩ thuật sÔng Đà đâu Chỉ CÓ nét tính CáCh
hung bạo, đây CÒn là một dÒng sÔng tuyệt Vời thơ mộng. Khi mái Chèo Của
Ông đÒ Vừa ngừng, dÒng sÔng “Vặn mình Vào một bến CáC CÓ Cái hang
lạnh” Và bỗng nhiên đỔi Vẻ. Từ mạn TháC Bờ Về XuÔi, Đà giâng mang Vẻ
dịu dàng, đằm thắm như bất kì một dÒng sÔng nào ở Vùng đồng bằng.
Vốn Văn hÓa, Vốn từ Vựng giàu CÓ, trí tưởng tượng bay bỔng Của nhà Văn
thả sứC tung hoành, tạo nên những đoạn Văn mượt mà như những bài thơ.
a. Hình dáng Đà giang
Văn họC nghệ thuật CÓ nhiệm Vụ dẫn người đọC bướC Vào “Xứ sở Của
Cái đẹp”. Nhà Văn mang sứ mệnh là người khai phá Và sáng tạo Cái đẹp
trong táC phẩm Của mình. Nhưng khám phá Cái đẹp như thế nào mới là
người nghệ sĩ đíCh thựC? Nguyễn Tuân đã làm đượC điều đÓ bởi Ông khám
phá Cái đẹp bằng một “tấm lÒng Vàng”. Nhà Văn đã dụng CÔng bay tạt
qua sÔng Đà mấy lần để CÓ Cái nhìn bao quát nhất Về dáng Vẻ sÔng Đà.
Từ trên Cao nhìn Xuống, Nguyễn Tuân thíCh thú phát hiện ra nét trữ
tình đầu tiên Của Đà qua hình ảnh “Cái dây thừng ngoằn ngoèo”. SÔng Đà
như Ca dao Xưa Ví Cong Cong uốn lượn như hình Con long trên núi. DÒng
sÔng bỗng mềm đi, uyển Chuyển, nhẹ nhàng thả mình trÔi quanh những
dãy núi, triền đê. Vẻ đẹp ấy Của Đà giang khiến Văn nhân dường như
khÔng tin Vào mắt mình. Đến đây tất Cả sự dữ dằn Của Con thủy quái
Cuồng nộ Với Ông đÒ, Con sÔng dữ dội trong Câu đồng dao “Núi Cao sÔng
hãy CÒn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen” dần biến mất. Văn
phong Nguyễn Tuân Cứ bồng bềnh trÔi theo từng nhánh sÔng lững lờ
“từng nét sÔng tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bÓng mây dưới Chân mình”.
ĐặC biệt nhà Cầm bút họ Nguyễn CÒn thấy dáng điệu trữ tình, uốn
lượn Của Đà giang giống như mái tÓC Của người Con gái kiều diễm. Để rồi
từ đÓ đấng tài hoa phẩy bút Vẽ lên bứC tranh thủy mặC Vẹn trÒn trong một
Câu Văn khÔng Chỉ Chứa họa mà CÒn đậm nhạC, lai láng thơ: “Con sÔng Đà
tuÔn dài tuÔn dài như một áng tÓC trữ tình, đầu tÓC Chân tÓC ẩn hiện
trong mây trời Tây BắC bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai Và Cuồn Cuộn
mù khÓi núi Mèo đốt mương Xuân”. KhÔng phải VÔ Cớ “người thợ kim
hoàn Của Chữ” lại đặt Vào Câu Văn hai tính từ “tuÔn dài”. Và Càng khÔng
phải tình Cơ, Ông thận trọng đặt Vào trong Câu Văn dài Chỉ duy nhất một
dấu ngắt. Nếu điệp từ “tuÔn dài tuÔn dài” gợi Về áng tÓC mun huyền thoại
“dài ngàn ngàn, Vạn Vạn sải” thì sự kết hợp Với dấu ngắt Câu duy nhất
mang tới Vẻ miên man, bất tận, nối liền, khÔng dứt Của dÒng sÔng dọC
khắp Chiều dài biên giới phía Tây Của TỔ quốC. CÒn nhớ trong “Ai đã đặt
tên Cho dÒng sÔng?” nhà Cầm kí Hoàng Phủ NgọC Tường khi Viết Về sự
phÓng khoáng, mam dại Của Hương giang đã lấy “CÔ gái Digan” làm
Chuẩn mựC. Thiên tính nữ ấy khÔng Chỉ hiện Về ở Linh giang mà trướC đÓ
đã từng ẩn mình trong sÔng Đà. Sự mềm mại Của Đà giang đượC Ví như
mái tÓC mượt mà, nữ tính Của người Con gái. Một CÔ gái Với mái tÓC đen
dài buÔng Xõa CÓ điểm Cài mấy bÔng hoa ban, hoa gạo sắC sỡ yêu kiều,
duyên dáng, làm đắm say bao tâm hồn độC giả. Một Câu Văn dài bốn hai
âm tiết thì CÓ tới hai Chín thanh bằng, Câu Văn đọC ra êm ru mà dÒng
sÔng hiện Về Cùng thêm hiền hÒa Xiết bao. ĐặC biệt trong CáCh miêu tả
trên nhầ Văn CÒn phú Vẻ đẹp đậm Chất thơ người Con gái Tây BắC ấy. Nhà
sáng tạo đã đem “áng thơ” đặt Vào “áng tÓC” – một CáCh Chơi từ hiếm
thấy trong Văn họC. Phải Chăng Vì sÔng Đà thơ mộng đến độ khiến Cụ
Nguyễn muốn đề thơ Vào sÔng nướC. Nhà Văn đã dùng Cọ mẫu Vẽ lên mấy
nét khiến bứC họa hiện lên Xao động lÒng người Vừa nhuốm màu thơ, dậm
tÔ màu họa, nữ tính e ấp như CÔ gái đáng yêu. Bởi nÓ CÒn đượC phủ lên
tấm khăn Voan mỏng Của làn khÓi làm thi Vị, hư ảo đến lạ lùng. SÔng Đà ở
gÓC độ này đã gom nhặt tất Cả những gì là đẹp đẽ nhất, thơ mộng nhất,
huyền ảo nhất Của mây trời Tây BắC, những gì trẻ trung Của hoa ban
trắng Và nét gần gũi Và ấm áp Của CuộC sống đời thường.
b. Màu nước sông Đà
Với tình Cảm trìu mến thiết tha, nhà Văn đã phát hiện đượC một
CáCh tinh tế màu sắC Của dÒng sÔng biến đỔi theo từng mùa. Một lần nữa
“tấm lÒng Vàng” Của Văn sĩ lại đượC thể hiện. Sự quý trọng nhà nghiệp
khiến Ông dấn thân sâu hơn Vào CuộC đời, ngụp lặn sâu hơn trong đời
sống, phải dụng CÔng nghiên Cứu kĩ lưỡng để miêu tả đượC hai mùa nướC
đẹp nhất trên sÔng Đà.
Văn nhân say sưa đắm Chìm trong sắC Xanh Của làn nướC mùa Xuân.
Ông trân trọng gọi nÓ là “dÒng Xanh ngọC bíCh” trong Xanh, quý phái Và
êm nhẹ. Nếu Hoàng Phủ NgọC Tường dành Cho sÔng Hương niềm tự hào
khi thuộC Về một thành phố duy nhất thì Nguyễn Tuân lại dành niềm
thiên Vị Cho sÔng Đà khi so sánh dÒng ngọC bíCh trong trẻo ấy Với màu
Xanh Canh hến lờ đụC Của sÔng Gâm, sÔng LÔ. ĐÓ là biểu hiện Của niềm
yêu, tâm hồn thíCh thị tài, khoe uyên báC.
Sự uyên báC CÒn đượC nhà ngÔn từ Vận dụng để đặC tả màu nướC
sÔng Đà Về mùa thu “lừ lừ Chín đỏ như da mặt một người bần đi Vì rượu
bữa bất mãn, bựC bội gì mỗi độ thu Về”. Xanh trong, dịu dàng Vào mùa
Xuân là Vậy nhưng Vào thu Đà giang ngay lập tứC Chuyển sang sắC tím đỏ
giận dỗi. Thế mới biết tính khí Của Con sÔng kia Cũng thất thường lắm,
nÓng nảy lắm. Câu Văn khÔng Chỉ gợi ra sắC màu, mà CÒn gợi ra tốC độ
Chậm rãi Của dÒng sÔng đỏ nặng phù sa khi thu Về. Nhà thơ Trần Quang
Quý trong thi phẩm “SÔng Đà” đã Cất lời ngợi Ca Vẻ đẹp màu mỡ ấy:
“SÔng Đà dâng lên những quả đồi đất đỏ trung du
tÔi Ôm dÒng sÔng nghe giai điệu bè trầm ngàn Xưa kể Chuyện
gáC lên sÔng những lườn Cong nhớ
mÔi phù sa khép bÓng hoàng hÔn
mãi khuấy trong tÔi nhịp những Con thuyền”.
("SÔng Đà", Trần Quang Quý)
DÒng phù sa nặng nề đang Chảy. Phù sa ăm ắp sÔng Đà đã đang Và sẽ đỔ
đi khắp ruộng lúC, bờ dâu, bãi mía…để gÓp phần tÔ điểm Cho sự trù phú Của TỔ quốC.
Bằng hiểu biết Của mình, Nguyễn Tuân Chỉ ra rằng “nướC sÔng Đà
Chưa bao giờ đen như thựC dân Pháp đã đè ngửa Con sÔng ta ra đỔ mựC
tây Vào mà gọi bằng Cái tên Tây láo lếu”. Văn nhân bựC bội khi bọn thựC
dân Cướp nướC lại gọi một CáCh thÔ bạo sÔng Đà là dÒng sÔng Đen - sÔng
CÓ màu đen. Luận điệu báC bỏ như một lời khẳng định, lời tố Cáo luận
điệu Xảo trá Của bọn thựC dân. Ông muốn trả lại Vẻ trữ tình Vốn CÓ Cho
sÔng Đà khÔng Chỉ bởi tình yêu mến Với Đà giang mà CÒn bởi ý thứC Về
Chủ quyền dân tộC, niềm tự hào Với quê hương Xứ sở.
c. Cố nhân sông Đà
Làm sao CÓ thể khÔng yêu Cho đượC lối Viết đầy thi Vị Của Nguyễn
trọng đoạn Ông “nhìn sÔng Đà như một Cố nhân”. Ngay ở đầu đoạn Văn
Nguyễn Tuân đã dành tặng lời khen Cho sÔng Đà “Con sÔng Đà gợi Cảm”.
Vẻ đẹp Của người Con gái ấy đã làm đắm say bao người nhưng mỗi người
lại bị Cuốn hút theo một CáCh kháC nhau. Và Với Nguyễn Tuân sống Đà
níu kéo lÒng Ông bởi nÓ là một “Cố nhân”. Mảnh đất Và Con người miền
Tây đã để lại trong Ông những tràng Cảm XúC đẹp. Thế nhưng trong số
những điều diệu kí tạo hÓa đã ban tặng ở phía Tây BắC TỔ quốC CÓ sÔng
Đà là Vương Vấn Ông nhiều. Ông đã từng sững sốt khi lần đầu đứng trướC
sÔng Đà. Ông Cũng đà từng tạt qua sÔng Đà mấy lần. Ông Cũng từng ngồi
Chèo trên mặt nướC ấy. Biết sÔng Đà từ trên Cao hay rõ từ Xa lại đều là
những trải nghiệm Của Ông. Vì Vậy sÔng Đà giống như một người bạn Cũ.
Nên Ông gọi sÔng Đà là “Cố nhân” là một điều dễ hiểu, Vừa quen thuộC,
gần gửi lại Vừa CỔ kính, trang trọng.
Tình huống đượC nhà Văn miêu tả sau một Chuyến đi rừng lâu ngày
đã thể hiện dÒng XúC Cảm trào dâng Của Văn nhân Về người bạn Cũ – sÔng
Đà. LúC ấy nhà Văn CÓ Cảm giáC mơ hồ Về sự “thèm Chỗ thoáng”- muốn
tìm một Chỗ khoáng đạt, rộng rãi, nhà Văn Cứ đi Và thậm Chí “quên đi mất
là mình ắp đỔ ra sÔng Đà”. Mải bám gÓt anh liên lạC trở Về, để rồi khi
nhìn thấy Con sÔng Đà hiện ra bao nhiêu ký ứC Và kỷ niệm lại ùa Về Và
ngÒi bút Của Nguyễn Tuân một lần nữa thựC sự thăng hoa. Trong miêu tả
Của Nguyễn Tuân dường như sÔng Đà Chỉ hiện ra một Chút thÔi “thấy
loang loáng như trẻ Con nghịCh Chiếu gương Vào mắt mình rồi bỏ Chạy”.
TrÒ nghịCh ngợm Chiếu gương thuở CÒn thơ bé ChắC hẳn khÔng Xa lạ gì
Với mỗi người Chúng ta. Cái tÔi độC đáo Nguyễn Tuân đã lấy thú Vui yêu
thíCh thời thơ ấu để hình dung Về hình ảnh sÔng Đà trong giây phút gặp
lại. ĐÓ là Cái nhìn Chân thật Của Con người phải bộ hành trong rừng Cây,
đi bộ trên đèo dốC. Nhà Văn thậm Chí CÒn Chưa đi ra ngoài Cửa rừng, nên
Ông Chỉ nhìn thấy sÔng Đà từ Xa thấp thoáng qua mấy hàng Cây. Người
nghệ sĩ ấy ắt hẳn phải say mê Vẻ đẹp sÔng Đà lắm mới nhanh ChÓng nhận ra dÒng sÔng đến Vậy.
“Cái miếng sáng” mà nhà Văn nhìn thấy CÓ phải là dÒng ánh sáng
ChÓi Chang từ mặt trời phản Xuống lÒng sÔng, ánh sáng lấp lánh Của dÒng
sÔng hắt qua từng khoảng Cây, kẽ lá, đập Vào mặt nhà thám hiểm. Trong
khoảnh khắC ấy, Văn nhân ngẩn ngơ khi thấy dải nướC sÔng Đà “lÓe lên
một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”.
Nguyễn Tuân yêu “hoa” Và “thơ Đường”. Trong Cái nhìn Của Ông, đÓ là
một CÔng trình nghệ thuật tuyệt đỉnh, tuyệt Vời Của tạo hoá Và một CÔng
trình nghệ thuật tuyệt đỉnh, tuyệt Vời Của Con người, trở thành biểu tượng
Của trạng thái nhân sinh. Vì Vậy những hình dung từ thường Xuyên đượC
Ông sử dụng để tạo nghĩa Cho hình tượng TỔ quốC tươi đẹp. Ông gọi Con
đường mới mở ở Tây BắC là “Một bài thơ Đường”. Và Ông Cũng thấy màu
nướC sÔng Đà ánh lên “màu nắng tháng ba Đường thi”. Câu thơ đầy gợi
Cảm Của Lí BạCh nÓi Về buỔi tiễn Mạnh Hạo Nhiên ở bên sÔng (Giữa
tháng ba mùa hoa khÓi XuÔi (thuyền) Về Dương Châu). Sự hư ảo Của hoa
khÓi Cùng sắC ấm rựC rỡ Của nắng Xuân làm Xao Xuyến bao tầm hồn Con
người. KhÔng gian như đượC đẩy Về dÒng thời gian Xa Xăm, miên Viễn. Ở
đÓ nhà thơ phát hiện màu sắC thứ ba Của sÔng Đà – một sắC màu khÔng
hề CÓ trong hội họa – một sắC màu Chỉ nảy sinh khi Cảm XúC đặC biệt thăng hoa.
Và rồi niềm Vui gặp lại “Cố nhân” bật ra thành nhịp điệu hối hả,
mau lẹ trong niềm sung sướng đang trào dâng: “Bờ sÔng Đà, bãi sÔng Đà,
Chuồn Chuồn bươm bướm trên sÔng Đà”. Gặp lại sÔng Đà Văn nhân háo
hứC say mê, khÔng kiềm lÒng đượC để rồi bị Cuốn Vào khÔng gian khoáng
đạt, thơ mộng, ngập tràn màu sắC. Văn nhân khÔng phải giấu đi những
Cảm XúC Của mình. Ông CÓ quá nhiều điều muốn nÓi nhưng do Cuống quýt
tận hưởng Vẻ đẹp Của Đà giang mà quên mất phải thể hiện nÓ bằng ngÔn từ.
Vì thế ở Câu Văn sau Văn nhân để thỔ lộ nỗi lÒng mình “Vui như thấy
nắng giÒn tan sau kì mưa dầm, Vui như nối lại Chiêm bao đứt quãng”.
Chiêm bao là những mộng mơ dẹp đẽ Của Con người. Mỗi người CÓ thể CÓ
nhiều giấC Chiêm báo nhưng mỗi một giấC mơ dường như là khÔng giống
nhau. Nguyễn Tuân nÓi “nối lại Chiêm bao đứt quãng” quả là ViệC thật
khÓ khăn. SÔng Đà Với Ông phải Chăng là một giấC mơ đẹp. Gặp lại sÔng
Đà sau bao Xa CáCh Chính là hiện thựC Cho những điều hi hữu, hiếm CÓ
trong CuộC đời. Vì Vậy Văn nhân mới Vui mừng, sung sướng. Như Vậy ít
nhiều ta Cũng hiểu Vì sao niềm Vui gặp lại sÔng Đà lại là niềm hạnh phúC
khi nối lại Chiêm bao. Nhưng người ta sẽ thấy thật khÓ khăn để hiểu Cái
hạnh phúC khi “thấy nắng giÒn tan”. Sau Cơn mưa rầm rề, ẩm ướt, tối trời
tối đất, ViệC thấy nắng là một niềm Vui. Nhưng Cảm nhận rõ thựC thở VÔ
hình ấy Và tưởng tượng ra nÓ “giÒn tan” thì ChắC Chỉ Nguyễn Tuân mới
làm đượC. ĐộC giả Chỉ biết rằng đÓ là tia nắng thật đẹp Và quý giá, tuy dễ
Vỡ nhưng lại là ao ướC lớn Của nhà ngÔn từ. CÒn để đánh giá Về Cái hay
Của ba Chữ ấy thì thật khÓ, Chỉ biết khÔng CÓ Chữ nào hay bằng, thay thế
đượC Cho nÓ. Niềm Vui Của sự hân hoan Và mãn nguyện sau bao nỗi đợi
Chờ đã đượC Cụ thể hÓa qua những so sánh thật độC đáo.
SÔng Đà Với Nguyễn Tuân như một Vị “Cố nhân”, nhưng khỔ nỗi Cố
nhân này lại “lắm bệnh lắm Chứng, ChốC dịu dàng đấy rồi ChốC lại bẳn
tính, tháC lũ, gắt gỏng ngay đấy”. Thế nhưng khi đượC gặp lại “Cố nhân”,
Văn sĩ lại trào dâng một Cảm giáC “đằm đằm, ấm ấm” Của nắng Xuân Cứ
thế thấm thía thêm niềm hạnh phúC trong lÒng mỗi người. Phải Chăng bởi
Con sÔng kia quá gợi Cảm Và quyến rũ như một “người tình nhân Chưa
quen biết”, dù rất quen nhưng Cũng rất mới, khiến người ta khao khát
đượC ngắm nhìn, đượC làm thân.
d. Cảnh vật hai bên bờ sông
Ở hạ lưu, lÒng sÔng mở rộng, độ dốC khÔng CÒn, nướC Chảy hiền hÒa
giữa đÔi bờ tiền sử. Nguyễn Tuân dành những đoạn Văn hay nhất tả Cảnh