/28
lOMoARcPSD| 61573419
Chương 1 – KHÁI NIỆM, ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ Ý NGHĨA HỌC TẬP TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH
KHÁI NIỆM TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Theo Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2011): “Tư tưởng Hồ Chí Minh
là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại;tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của
Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”.
Chương 2 – CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
I – CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Cơ sở thực tiễn Quyết định sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
a) Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
Năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược Việt Nam. Triều đình Nguyễn lần lượt ký kết các hiệp
ước đầu hàng, từng bước trở thành tay sai của thực dân Pháp.
Từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX, các phong trào đấu tranh yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược liên tục
nổ ra khắp cả nước như khởi nghĩa của Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám,…
nhưng cuối cùng đều thất bại. Điều đó chứng tỏ tư tưởng phong kiến tỏ ra lỗi thời trước các nhiệm vụ lịch sử.
Sau hiệp ước Pa--nốt (1884), thực dân Pháp đã căn bản hoàn thành việc xâm lược và bình định Việt Nam
về mặt quân sự. Thông qua đó, chúng tiến hành các cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914), lần thứ hai
(19191929) khiến cho xã hội có sự biến đổi về cơ cấu giai cấp, tầng lớp:
Về kinh tế: duy trì nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 95% dân số là nông dân,
Về xã hội: xuất hiện các giai tầng mới như giai cấp tư sản, giai cấp công nhân và tầng lớp tiểu tư sản ở thành
thị. Đây là cơ sở dẫn đến những mâu thuẫn mới: mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân VN với giai cấp tư sản, mâu
thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp bên cạnh mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa giai cấp nông
dân với địa chủ phong kiến.
Đầu thế kỉ XX, trước ảnh hưởng của khuynh hướng dân chủ tư sản ở Trung Quốc (tư tưởng Tam Dân của Tôn
Trung Sơn), ở Nhật Bản (cuộc Duy tân minh trị của Thiên hoàng Minh Trị), tại Việt Nam xuất hiện các phong trào yêu
nước theo khuynh hướng dân chủ sản với sự dẫn dắt của các văn thân, phu yêu nước tiến bộ như: Phong trào
Đông Du (1905 1909) của Phan Bội Châu, phong trào Duy Tân (1906 1908) của Phan Châu Trinh, phong trào
Đông Kinh nghĩa thục (tháng 3 tháng 11/1907) do Lương Văn Can, Nguyễn Quyến một số nhân khác phát
động, Phong trào chống đi phu, chống sưu thuế ở Trung Kỳ năm 1908 nhưng vẫn rơi vào thất bại. Đó là do giai cấp tư
sản Việt Nam còn non yếu (nguyên nhân sâu xa), các tổ chức và người lãnh đạo các phong trào chưa có đường lối và
phương pháp cách mạng đúng đắn (nguyên nhân trực tiếp).
Sự ra đời của giai cấp công nhân phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam đã làm cho cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam xuất hiện dấu hiệu mới của một thời đại mới sắp ra đời. Công nhân Việt Nam
chịu ba tầng áp bức, bóc lột: thực dân, bản, phong kiến nên tinh thần đấu tranh. Phong trào công nhân các
phong trào yêu nước Việt Nam tạo điều kiện cho Chủ nghĩa Mác – Lênin xâm nhập và truyền bá vào đất nước ta.
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và dày công truyền Chủ nghĩa Mác Lênin vào phong trào công nhân phong
trào yêu nước của Việt Nam, thể hiện qua việc sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường
lối cách mạng Việt Nam thông qua việc lựa chọn con đường cứu nước theo khuynh hướng vô sản, thắng lợi của Cách
mạng tháng 8 (1945), khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, kháng chiến chống Pháp (1946-1954), kháng
chiến chống Mỹ (1954-1975). Đó là nhân tố góp phần bổ sung và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trên tất cả phương
diện.
b) Thực tiễn thế giới cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
Vào cuối TK XIX – đầu TK XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn
đế quốc chủ nghĩa thông qua độc quyền. Các nước đế quốc như Anh, Pháp,… đẩy mạnh xuất khẩu tư bản, xâm lược
thuộc địa để khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên, tận dụng nguồn lao động rẻ mạt và biến đã nước thuộc địa thành
thị trường tiêu thụ rộng lớn, đã chi phối toàn bộ tình hình thế giới. Phần lớn các nước Á, Phi và Mỹ Latinh trở thành
thuộc địa phụ thuộc vào các nước đế quốc. Tình hình đó làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản giai
cấp sản các nước tư bản; mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau; mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa
phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác Lênin một
nước lớn, đánh đổ giai cấp sản giai cấp địa chủ phong kiến, lập nên một hội mới hội hội chủ nghĩa,
lOMoARcPSD| 61573419
mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm
vi toàn thế giới, mở ra con đường giải phóng dân tộc cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Quốc tế Cộng sản ra đời ngày 2/3/1919 ở Mátxcơva trở thành Bộ tham mưu, lãnh đạo phong trào cách mạng
thế giới, thúc đẩy sự ra đời và hoạt động ngày càng mạnh mẽ của các Đảng Cộng sản ở nhiều nước.
Những điều này ảnh hưởng sâu sắc đến Hồ Chí Minh trên hành trình đi ra thế giới tìm mục tiêu và con đường
cứu nước.
2. Cơ sở lý luận
a) Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam Dẫn Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa yêu nước là giá trị xuyên suốt trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Đó là động
lực, sức mạnh giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại và vượt qua mọi khó khăn trong quá trình dựng nước, giữ nước, phát
triển. Chủ nghĩa yêu nước cũng nền tảng tưởng, điểm xuất phát động lực thúc đẩy Hồ CMinh ra đi tìm
đường cứu nước và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác – Lenin con đường cứu nước, cứu dân.
Hồ Chí Minh đã chú ý kế thừa, phát triển tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất độc lập, tự do của Tổ Quốc
nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia sự toàn vẹn lãnh thổ. Không có gì quý hơn độc lập, tự do chân lý lớn của thời
đại là một điểm cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, Hồ Chí Minh hết sức chú trọng việc kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp như: yêu
nước gắn liền với yêu dân, tinh thần đoàn kết, nhân ái, khoan dung trong cộng đồng hòa hiếu với các dân tộc lân
bang; cần cù, dũng cảm, sáng tạo, lạc quan, vì nghĩa, thương người của người Việt Nam. Những phẩm chất này được
thể hiện qua các câu ca dao, tục ngữ như: Lá lành đùm lá rách; Hiền tài là nguyên khí của quốc gia,… Trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định thành công của cách mạng.
Trong truyền thống dân tộc Việt Nam thường trực một niềm tự hào về lịch sử, trân trọng nền văn hóa, ngôn
ngữ, phong tục, tập quán và những giá trị tốt đẹp khác của dân tộc. Đó chính là cơ sở hình thành nên tư tưởng, phẩm
chất của nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh với chủ trương văn hóa là mục tiêu, động lực của cách mạng; cần giữ gìn
cốt cách văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng nền văn hóa mới của Việt Nam. Hồ
Chí Minh chính một biểu tượng cao đẹp của sự tích hợp tinh hoa văn hóa phương Đông phương Tây. b) Tinh
hoa văn hóa nhân loại Phát triển, nâng cấp quan điểm của Hồ Chí Minh lên một bước tiến lớn - Tinh hoa văn hóa
phương Đông:
Tinh hoa văn hóa, tư tưởng phương Đông kết tinh trong ba học thuyết lớn Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo.
Về Nho giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa và đổi mới tư tưởng dùng nhân trị, đức trị để quản lý hội; kế thừa
phát triển quan niệm của Nho giáo về việc xây dựng một hội tưởng trong đó công bằng, Người ái, nhân, nghĩa,
trí, dũng, tín, liêm được coi trọng để có thể đi đến một thế giới đại đồng với hòa bình, không có chiến tranh, các dân
tộc có quan hệ hữu nghị và hợp tác. Ngoài ra, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, đổi mới, phát triển tinh thần trọng đạo đức
trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của con người, trong công tác xây dựng Đảng về đạo đức.
(“Lời nói chẳng mất tiền mua”, “Công dung ngôn hạnh”, “Tam tòng tứ đức”,…)
Về Phật giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tưởng từ bi, vị tha, yêu thương con người, khuyến
khích làm việc thiện, chống điều ác; đề cao quyền bình đẳng của con người và chân lý; sống hòa đồng, gắn bó với đất
nước. Hồ Chí Minh chú trọng kế thừa, phát triển những tư tưởng nhân bản, đạo dức tích cực trong Phật giáo vào việc
xây dựng xã hội mới, con người mới Việt Nam hiện nay.
Về Lão giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng của Lão Tử, khuyên con người nên sống gắn bó
với thiên nhiên, hòa đồng với thiên nhiên và biết bảo vệ môi trường sống; tưởng thoát khỏi mọi ràng buộc của vòng
danh lợi.
Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn kế thừa phát triển nhiều ý tưởng của các trường phái khác nhau trong các nhà tư
tương phương Đông cổ đại như Mặc Tử, Hàn Phi Tử,… Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng chú ý tìm hiểu những trào lưu
tưởng tiến bộ thời cận hiện đại ở Ấn Độ, Trung Quốc như chủ nghĩa Găngđi, chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn.
Hồ Chí minh đã phát triển sáng tạo các quan điểm về dân tộc, dân quyền, dân sinh của Tôn Trung Sơn (dân tộc độc
lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc) trong cách mạng dân chủ tư sản thành tư tưởng đấu tranh cho Độc lập – Tự
do – Hạnh phúc.
- Tính hoa văn hóa phương Tây
Hồ Chí Minh đã quan tâm tìm hiểu những khẩu hiệu nổi tiếng trong các cuộc cách mạng tư sản ở Anh, Pháp,
Mỹ như khẩu hiệu Tự do – Bình đẳng – Người ái của Đại cách mạng Pháp năm 1789,
Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển những quan điểm nhân quyền, dân quyền trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776
của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1791 của Pháp, từ đó đề xuất những quan điểm về quyền mưu
cầu độc lập, tự do, hạnh phúc của các dân tộc,
Hồ Chí Minh đã hoạt động thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa nhân loại tại các
trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa lớnở các cường quốc thế giới như Mỹ, Anh, Pháp, Nga,…
lOMoARcPSD| 61573419
Hồ Chí Minh trực tiếp nghiên cứu tư tưởng nhân văn, dân chủ và nhà nước pháp quyền của các nhà khai sáng
phương Tây như Vonte, Rútxô, Môngtétxkiơ, tìm hiểu chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, đọc sách văn học của
William Shakespeare, LTấn, Hugo,
c) Chủ nghĩa Mác – Lênin (cũng là tinh hoa văn hóa nhân loại) Quyết định bản chất cách mạng, khoa học
Chủ nghĩa Mác Lênin chính là cơ sở lý luận quyết định bước phát triển mới về chất trong tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất,
chắc chắn nhất, cách mạng nhất chủ nghĩa Lênin.” Qua đó khẳng định được tính cách mạng nhân văn sâu sắc.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là thế giới quan, phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động cách mạng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là tiền đề lý luận quan trọng nhất, có vai trò quyết định trong việc hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa c Lenin quyết định bản chất thế giới quan khoa học Hồ Chí Minh, quyết định phương
pháp hành động biện chứng Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chúng tôi giành được thắng lợi đó do nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn
mạnh rằng - mà không phải chỉ nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh Lênin - chúng tôi giành được những thắng lợi
đó trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác – Lênin.”
tường HChí Minh sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lenin Việt Nam. Hồ Chí Minh không
những vận dụng sáng tạo, mà còn bổ sung, phát triển và làm phong phú thêm Chủ nghĩa Mác Lênin trong thời đại
mới.
3. Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh
a) Phẩm chất của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh là người có lý tưởng cao cả và hoài bão lớn cứu dân, cứu nước thoát khỏi cảnh lầm than, cơ cực
để theo kịp các nước tiên tiến trên thế giới.
Hồ Chí Minh là người có bản lĩnh tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, giàu tính phê phán, đổi mới và cách mạng.
Hồ Chí Minh là người có tầm nhìn chiến lược, bao quát thời đại, đã đưa cách mạng Việt Nam vào dòng chảy
chung của cách mạng thế giới.
Hồ Chí Minh là người suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân, người suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp
cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và của cách mạng thế giới.
Những phẩm chất cá nhân đó là một nhân tố quyết định những thành công của Hồ Chí Minh trong hoạt động
lý luận và thực tiễn cho dân tộc Việt Nam và nhân loại.
b) Tài năng hoạt động, tổng kết thực tiễn phát triển lý luận
Hồ CMinh người vốn sống thực tiễn cách mạng phong phú, phi thường qua quá trình hoạt động
cách mạng của Người. Người đã sống, học tập và hoạt động cách mạng gần 30 nước trên thế giới. Người hiểu sâu
sắc chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân và chế độ thực dân thông qua tìm hiểu tài liệu, sách, báo và thông qua cuộc
sống và hoạt động thực tiễn ở các cường quốc.
Hồ Chí Minh thấu hiểu về phong trào giải phóng dân tộc, về xây dựng chủ nghĩa hội, về xây dựng Đảng
Cộng sản,… không chỉ qua nghiên cứu lý luận mà còn qua việc tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, hoạt động ở
Trung Quốc, nghiên cứu đời sống xã hội ở Liên Xô,…
Hồ Chí Minh nhà tổ chức đại của cách mạng Việt Nam. Người đã hiện thực hóa tư tưởng, luận cách
mạng thành hiện thực sinh động; đồng thời tổng kết cách mạng, bổ sung, phát triển lý luận, tư tưởng cách mạng. Cùng
với việc tìm thấy mục tiêu, phương hướng cách mạng Việt Nam chủ nghĩa Mác - Lênin, Người tham gia sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp; chuẩn bị về nhiều mặt cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam – tổ chức lãnh đạo cách mạng
Việt Nam theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Người sáng lập Mặt trận dân tộc thống nhất; sáng lập Quân đội nhân dân Việt
Nam; khai sinh Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam.
Những phẩm chất nhân cùng những hoạt động thực tiễn phong phú trên nhiều lĩnh vực khác nhau trong
và ngoài nước là nhân tố chủ quan hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
II – QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH:
1. Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng tìm đường cứu nước mới
Trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh tiếp thu truyền thống tốt đẹp của quê hương, gia đình và của dân tộc để hình
thành nên tư tưởng yêu nước và tìm đường cứu nước.
Thứ nhất, Hồ Chí Minh tiếp thu truyền thống tốt đẹp của quê hương.
Hồ Chí Minh là người con của vùng đất Nghệ An – vùng đất địa linh nhân kiệt, giàu truyền thống yêu nước.
Đây cũng nơi sản sinh ra rất nhiều những nhân tài anh hùng yêu nước trong lịch sử dân tộc với tấm lòng yêu
nước, thương dân, đấu tranh kiên cường, bất khuất như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, … Thứ hai, Hồ Chí Minh
tiếp thu truyền thống tốt đẹp của gia đình.
lOMoARcPSD| 61573419
Hồ Chí Minh được sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu ớc. Cha cụ Nguyễn Sinh Sắc, từng đỗ phó
Bảng và đã làm quan, nhưng cụ luôn dạy con của mình “đừng lấy phong cách nhà quan làm phong cách nhà ta”. Tinh
thần yêu nước, thương dân và nhân cách của cụ Nguyễn Sinh Sắc có ảnh hưởng lớn lao đến tưởng và nhân cách của
Người thuở niên thiếu. Mẹ là cụ Hoàng Thị Loan, một người mẹ Việt Nam điển hình với đức tính nhân hậu, tần tảo,
đảm đang, luôn nhân hậu với bà con làng xóm. Tình cảm của cụ đã ảnh hưởng đến các con bằng tấm lòng nhân hậu
và mẫn cảm của người mẹ.
Thứ ba, Hồ Chí Minh tiếp thu truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Hồ Chí Minh sớm tưởng yêu nước thể hiện tưởng yêu nước trong hành động. Thông qua quá
trình theo học với các vị túc nho tiếp xúc với nhiều loại sách, báo tiến bộ, Người sớm hiểu tình cảnh nước nhà
bị giặc ngoại xâm đô hộ. Người tham gia phong trào chống thuế Trung K(1908), dành hết tâm huyết truyền thụ
cho học sinh lòng yêu nước những suy nghĩ về vận mệnh nước nhà trong suốt quá trình tham gia giảng dạy tại
trường Dục Thanh – Phan Thiết (1910).
Điểm đặc biệt của tuổi trẻ Hồ Chí Minh suy ngẫm sâu sắc về Tổ Quốc thời cuộc. Người sáng suốt phê
phán, không tán thành, không đi theo các phương pháp, khuynh hướng cứu nước của các vị tiền bối cách mạng.
Chính những điều này đã thôi thúc Người tìm hiểu những đằng sau sức mạnh của kẻ thù học hỏi kinh
nghiệm cách mạng trên thế giới. Ngày 5/6/1911, Hồ Chí Minh đi ra nước ngoài tìm con đường cứu nước, cứu dân.
2. Thời kỳ 1911-1920: Hình thành tưởng cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng sản
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản được hình thành
từng bước trong quá trình Người đi tìm mục tiêu và con đường cứu nước. Cụ thể, đó quá trình Người sinh sống, học
tập, làm việc, nghiên cứu lý luận và tham gia đấu tranh trong thực tế cách mạng tại nhiều nước trên thế giới:
Trước hết, Hồ Chí Minh xác định đúng bản chất, thủ đoạn, tội ác của chủ nghĩa thực dân tình cảnh nhân
dân các nước thuộc địa. Từ năm 1911 đến năm 1917, từ Pháp, Người đến nhiều nước trên thế giới. Người hình thành
một nhận thức mới: Nhân dân lao động các nước, trong đó giai cấp công nhân, đều bị bóc lột thể bạn của
nhau; chủ nghĩa đế quốc, bọn thực dân ở đâu cũng đều là kẻ bóc lột, kẻ thù của nhân dân lao động.
Hồ Chí Minh trở lại Pháp năm 1917, tham gia phong trào công nhân Pháp đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.
Hồ Chí Minh gia nhập Đảng Xã Hội của giai cấp công nhân Pháp năm 1919 vì Người cho rằng đây là tổ chức
theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại Cách Mạng Pháp: Tự do, bình đẳng, Người ái.
Hồ Chí Minh bước nhận thức mới về quyền tự do, dân chủ của nhân dân thông qua hoạt động thay mặt
những người Việt Nam yêu nước ở Pháp, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc gửi Yêu sách của nhân dân An Nam tới Hội nghị
Véc-xây ngày 18/6/1919 để đòi quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Đây là tiếng nói chính nghĩa đầu tiên
của đại biểu phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam trên diễn đàn quốc tế.
Hồ Chí Minh tìm thấy phương hướng đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng
sản qua nghiên cứu thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin
nhiều tài liệu liên quan đến Quốc tế Cộng sản vào tháng 7/1920.
Hồ Chí Minh đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản (Quốc tế thứ III) tại đại hội Tua (từ ngày 25 đến ngày
30/12/1920), tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đây là bước ngoặt
quan trọng trong cuộc đời của Hồ Chí Minh, bước ngoặt chủ nghĩa yêu nước kết hợp chặt chẽ với lập trường cách
mạng vô sản
3. Thời kỳ 1920-1930: Hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam cơ bản được hình thành trong giai đoạn 1920-1930 vì đây là
thời kỳ mục tiêu, phương hướng cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam từng bước được cụ thể hóa, thể hiện rõ trong
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Có thể khái quát theo các nội dung sau:
Hồ Chí Minh sử dụng báo chí như là một công cụ để lên án chủ nghĩa thực dân Pháp, thức tỉnh lương tri, khơi
gợi lòng yêu nước của nhân dân các dân tộc bị áp bức và kêu gọi sự đồng tình của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên
thế giới. Một số bài báo đáng chú ý như Vấn đề dân bản xứ đăng báo I’Humanite tháng 8/1919, Ở Đông Dương đăng
báo I’Humanite ngày 4/11/1920,… Năm 1921, Hồ Chí Minh tham gia sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa. Năm 1920,
Người được bầu trưởng tiểu ban nghiên cứu vấn đề dân tộc, thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp, sáng lập báo Le
Paria bằng tiếng Pháp.
Hồ Chí Minh đẩy mạnh hoạt động lý luận chính trị, tổ chức, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thông qua báo chí và các hoạt dộng thực tiễn, Người tích cực truyển bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Phương hướng của cách mạng giai phóng dân tộc trong các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam được Hồ
Chí Minh cụ thể hóa một bước trên sở phân tích sâu sắc bản chất, thủ đoạn của chủ nghĩa thực dân Pháp. Những
nội dung đó được thể hiện rõ trong nhiều bài báo của Người đăng trên các báo của Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng
lOMoARcPSD| 61573419
sản Liên Xô, của Quốc tể Cộng sản và trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp viết bằng tiểng Pháp, được xuất
bản lần đầu tiên ở Pari năm 1925.
Hồ Chí Minh sáng lập tố chức tiền thân của Đảng Cộng sản: Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (tháng
6/1925), ra báo Thanh niên bằng tiếng Việt, từng bưộc truyền chủ nghĩa Mác - Lênin luận cách mạng trong
những người yêu nước và công nhân.
Tổng kết kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư sản Anh, Pháp, Mỹ và nhất từ kinh nghiệm Cách mạng Tháng
Mười Nga, Hồ Chí Minh vạch rõ cách mạng Việt Nam phải có Đảng Cộng sản với chủ nghĩa Mác - Lênin làm cốt để
länh đạo; lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc là toàn thể nhân dân Việt Nam, trong đó nòng cốt là liên minh công
nông. Những nội dung đó được thể hiện qua tác phẩm Đường cách mệnh xuất bản năm 1927 Quảng Châu, Trung
Quốc.
Hồ Chí Minh khởi thảo các văn kiện được coi là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh chính trị đúng đắn và sáng tạo đã chấm dứt
cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước và tổ chức lãnh đạo cách mạng Việt Nam kéo dài suốt từ cuối thế kỷ XIX sang
đầu năm 1930.
Đây giai đoạn cho thấy sự đúng đắn, sáng tạo, thực tiễn, khoa học trong tưởng Hồ Chí Minh, thể hiện
trên các nội dung sau:
- Cách mạng Việt Nam phải có Đảng Cộng Sản với chủ nghĩa Mác – Lênin làm cốt để lãnh đạo.
- Lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc là toàn thể nhân dân Việt Nam, trong đó nòng cốt là liên minh
công nông
- Mục tiêu và con đường cách mạng là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi ti xã
hội cộng sản” (độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội)
- Khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
- Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới,
- Con đường cách mạng được vạch thông qua cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng, xác định cách
mạng Việt Nam phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
- Phương pháp cách mạng: dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.
4. Thời kỳ 1930-1941: Vượt qua thử thách, giữ vững đường lối, phương pháp cách mạng Việt Nam đúng đắn, sáng tạo
Những thử thách lớn với Hồ Chí Minh xuất hiện không chtừ phía kẻ thù, còn từ trong nội bộ những người
cách mạng.
Thứ nhất, thách thức từ phía kẻ thù.
Ngày 6/6/1931, Hồ Chí Minh bị quan anh và cảnh sát Trung Quốc bắt tại Hồng Kông và bị chúng vu cáo tội
làm tay sai của Liên Xô, có âm mưu phá hoại chính quyền Hồng Kông. Lúc này, luật sư Lôdơbi đã giúp đỡ, bào chữa
cho Người được trắng án và Người được trả tự do vào tháng 7/1932.
Tháng 8/1932, Người bí mật rời Hương Cảng để tránh mật thám Pháp, Người định đi Anh nhưng vừa dặt chân
đến Singapore đã bị bắt trả về Hồng Kông. Ngày 19/1/1933, Người lại tiếp tục bị vu cáo tội đi vào thuộc địa
không có giấy phép, và bị nhà cầm quyền Hương Cảng bắt giam một lần nữa. Người lại được luật sư Lôdơbi giúp đỡ,
và ngày 22/1/1933, Người cải trang thành thương gia Trung Quốc, với sự hỗ trợ từ thư ký của luật sư, bí mật rời Hồng
Kông, đến Hạ Môn ngày 25/1/1933.
Thoát khỏi nhà tù của thực dân Anh năm 1934, Hồ Chí Minh trở lại Liên Xô.
Thứ hai, thách thức từ trong nội bộ của Quốc tế Cộng sản.
Sự nhìn nhận sai lầm từ một số người trong Quốc tế Cộng sản Đảng Cộng sản Đông Dương do chịu ảnh
hưởng từ quan điểm giáo điều tả khuynh xuất hiện trong Đại hội VI Quốc tế Cộng sản. Tư tưởng mới mẻ, đúng đắn,
sáng tạo của Người không được hiểu còn bị coi “hữu khuynh”, “dân tộc chủ nghĩa”. (Điều này được thể hiện
bằng việc Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định “thủ tiêu Chánh cương, Sách lược và Điều lệ Đảng”, “bỏ tên Đảng
Cộng sản Việt Nam” do Người sáng lập).
Trong 4 năm từ 1934-1938, Người vẫn bị hiểu lầm về một số hoạt động thực tế và quan điểm cách mạng.
Tuy gặp nhiều thách thức như thế, Hồ Chí Minh đã vượt lên trên tất cả bằng ý chí và nghị lực kiên cường của
mình:
Ngày 6/6/1938, Người đã gửi thư cho một lãnh đạo Quốc tế Cộng sản, đề nghị cho phép trở về nước hoạt
động.
Tháng 10/1938, Người rời Liên Xô, qua Trung Quốc để vViệt Nam
lOMoARcPSD| 61573419
Tháng 12/1940, Người về gần biên giới Việt Nam Trung Quốc, liên lạc với Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương và trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam.
Đặc biệt, tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng Cộng sản Đông Dương khẳng định, trở thành yếu tố chỉ đạo cách
mạng Việt Nam từ Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ Tám tháng 5/1941. Trong hội nghị này, Người khẳng định
“Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn
Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng.”
Tạm thời gác lại khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, chủ trương thành lập Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa để lập Mặt trận Việt Minh; thực hiện đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh côngnông là nòng
cốt; xác định được phương hướng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
Những quan điểm cơ bản nhất về đường lối cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam của Hồ CMinh đã được
đưa vào thực tiễn tổ chức nhân dân biến thành các phong trào cách mạng để dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945.
5. Thời kỳ 1941-1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng
nhân dân ta
Q: Hãy nêu một số giá trị mà Tư tưởng Hồ Chí Minh đã góp phần trong công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ
quốc sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945?
Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng trong thời kỳ này cơ bản là thống nhất. Người đã đưa ra nhiều
quan điểm sáng tạo, đi trước thời gian, càng ngày càng được Đảng ta làm sáng tỏ tiếp tục phát triển soi sáng con
đường cách mạng Việt Nam.
Ngày 19/5/1941, Hồ Chí Minh sáng lập mặt trận Việt Minh. Ngày 22/12/1944, sáng lập Đội Việt Nam Tuyên
truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 18/8/1945, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi Tổng
khởi nghĩa giành chính quyền. Năm 1945, Cách mạng Tháng 8 thành công đây là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đánh dấu một thời đại mới trong lịch sử dân tộc: thời đại độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội.
Từ 2/9/1945-19/12/1946, HChí Minh đề ra chiến lược, sách lược cách mạng sáng suốt, lãnh đạo Đảng
chính quyền cách mạng non trẻ vượt qua giai đoạn ngàn cân treo sợi tóc.
Từ năm 1946-1954, Hồ Chí Minh là linh hồn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Ngày 19/12/1946,
Người ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, khái quát đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp, vừa lời thề
thiêng liêng bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam. “Thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm lệ”. Trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh hoàn thiện lý luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
từng bước hoàn thành tư tưởng về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Từ năm 1954-1969, Hồ Chí Minh xác định và lãnh đạo thực hiện đường lối cùng một lúc thi hành hai nhiệm
vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam: xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam. Trong thời kỳ này, HChí Minh bổ sung hoàn thiện hệ thống quan điểm bản của
cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, đạo đức, đối ngoại…
Trước khi đi xa, Người để lại bản Di chúc, một văn kiện lịch sử vô giá, kết tinh tư tưởng, trí tuệ, tâm hồn, văn
hóa, đạo đức, phong cách của một nhà lãnh tụ cách mạng, anh hùng dân tộc đại, nhà tư tưởng lỗi lạc, nhà văn hóa
kiệt xuất, suốt đời, vì dân, vì nước.
Từ năm 1969 đến nay, TTHCM tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng và phát triển trong thực tiễn
cách mạng Việt Nam.
III – GIÁ TRỊ CỦATƯỞNG HỒ CHÍ MINH:
tưởng Hồ Chí Minh đã mang lại những giá trị tốt đẹp đối với cách mạng Việt Nam và sự hạnh phúc, tiến
bộ của nhân loại, thế giới: 1. Đối với cách mạng Việt Nam
a) Tư tưởng Hồ Chí Minh đưa cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đến thắng lợi và bắt đầu xây dựng một xã hội
mới trên đất nước ta
Hồ Chí Minh tìm thấy con đường cứu nước mới cho dân tộc Việt Nam, sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng
ta thành một đảng chân chính, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân và lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập dân
tộc thể hiện qua sự thắng lợi của Cách mạng Tháng tám năm 1945 đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc
Việt Nam – kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh cùng Đảng ta lãnh đạo nhân dân tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954), thắng
lợi đánh dấu bằng chiến thắng Điện Biên Phủ, buộc Pháp phải hiệp định Giơ-ne-vơ (21/7/1954), tôn trọng các
quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam và rút hết quân về nước.
lOMoARcPSD| 61573419
Sau đó, tiến hành 2 nhiệm vụ từ năm 1954-1975: lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
và cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam chống đế quốc Mĩ. Sau chiến thắng của chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử ngày 30/4/1975, nước ta đã hoàn thành công cuộc thống nhất đất nước về mặt lãnh thổ, tổ quốc ta đã sum
vầy một mối. Thắng lợi to lớn đó là bi có tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền với sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng
ta biến tư tưởng Hồ Chí Minh thành hiện thực.
tưởng Hồ Chí Minh tkhi ra đời đã trở thành ngọn cờ tư tưởng dẫn đường cách mạng Việt Nam đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác, khẳng định sự đúng đắn và sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh.
tưởng Hồ Chí Minh một hệ thống mở đầy sức sống được Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục vận dụng,
sáng tạo, bổ sung, phát triển trong sự nghiệp đổi mới hiện nay và tương lai.
b) Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam
tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục soi đường cho Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam trên con đường
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh. tưởng Hồ Chí Minh ánh sáng soi
đường, là kim chỉ nam giúp Đảng và nhân dân nhận thức đúng những vấn đề lớn liên quan đến việc bảo vệ nền độc
lập dân tộc, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo tự do và hạnh phúc cho con người, tiến tới xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là chỗ dựa vững chắc để Đảng vạch ra đường lối cách mạng đúng đắn, dẫn đường
cho toàn Đảng, toàn dân Việt Nam đi tới thắng lợi. Tư tưởng Hồ Chí Minh trường tồn, bất diệt cùng với sự phát triển
vững mạnh của dân tộc Việt Nam.
Đại hội XIII của Đảng (25/1 – 1/2/2021) tiếp tục khẳng định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định
đường lối đổi mi của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Điều đó càng khẳng định vai trò nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời đại mới.
Hiện nay kẻ thù vẫn âm mưu phá hoại đất nước bằng các luận điệu xuyên tạc, “diễn biến hòa bình”, bạo loạn
lật đổ nhằm xóa bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhưng trên hết, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn luôn là điểm tựa vững chắc để nhân dân ta giữ vững lập trường chính trị,
kiên định với con đường cách mạng của Đảng. Mỗi người dân sẽ luôn là người chiến sĩ trên mặt trận bảo vệ Tổ quốc
dù là trong quá khứ, hiện tại, hay tương lai.
2. Đối với sự phát triển tiến bộ của nhân loại
a) Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần mở ra cho các dân tộc thuộc địa con đường giải phóng dân tộc gắn với sự tiến bộ
xã hội
Cống hiến luận lớn đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh là về cách mạng giải phóng dân tộc. Cách mạng giải
phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng sản, được tiến hành bởi toàn dân với liên minh
công nông làm nòng cốt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Cách mạng giải phóng dân tộc được tiến hành bằng phương pháp bạo
lực của quần chúng nhân dân: kết hợp giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang sao cho linh hoạt, phù hợp.
Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần bổ sung, phát triển kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, đặc biệt là
về vấn đề dân tộc và thuộc địa, dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, về cách mạng giải phóng dân
tộc gắn với giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Hồ Chí Minh là người tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc, làm sụp đổ hệ thống thuộc địa của ch
nghĩa thực dân, được thế giới tôn vinh là Anh hùng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay.
Các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới thể kể đến như: Năm 1960 được gọi "Năm châu
Phi" vì đây là năm này đánh dấu bước ngoặt của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân châu Phi với
17 quốc gia giành được độc lập từ tay chủ nghĩa thực dân dưới những hình thức và mức độ khác nhau. Thắng lợi của
cách mạng Cuba là lá cờ đầu của phong trào giải phóng dân tộc ở Mỹ Latinh, từ năm 60-70, phong trào chống Mĩ và
độc tài thân Mĩ phát triển và giành được nhiều thắng lợi, các quốc gia ở Mỹ Latinh lần lượt giành được độc lập. Thế
kỷ XX trở thành thế kỷ giải trừ chủ nghĩa thực dân. Năm 1975, thắng lợi của nhân dân -dăm-bích Ăng-go-la
đánh dấu chủ nghĩa thực dân cũ ở Châu Phi cơ bản tan rã.
tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc được đặt trên cơ sở hiện thực của Việt Nam nhưng
có ý nghĩa lớn đối với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên thế gii.
b) Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần tích cc vào cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc dân tộc, dân chủ, hòa bình, hợp
tác và phát triển trên thế giới.
Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên khẳng định hợp tác quốc tế là xu thế tất yếu của thời đại, mở đường
cho sự phát triển, liên kết các dân tộc trong cuộc đấu tranh độc lập, dân chủ, hòa bình, hợp tác tiến bộ hội.
Gắn cách mạng Việt Nam với phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân và cộng sản quốc tế. Hợp tác quốc
tế không những vì độc lập dân tộc mà còn là vì để xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, tiến kịp với sự phát triển của nhân loại.
lOMoARcPSD| 61573419
Hợp tác quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng cùng có lợi.
Theo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI đã nêu lên chính sách đối ngoại: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động tích cực hội nhập quốc tế; bạn, đối
tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam
xã hội chủ nghĩa giàu mạnh.
Theo Hồ CMinh, chủ trương “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chvà không gây thù oán với một ai” nội
dung lớn trong đường lối thực hiện chính sách ngoại giao, đoàn kết quốc tế.
Nhận thức rõ chủ trương này, Đảng ta đã nỗ lực trong việc ngoại giao, duy trì mối quan hệ hòa bình, hợp tác
cùng phát triển với các nước trên thế giới. Cho đến nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 192 (một trăm chín mươi
hai) ớc, trong đó tất cả các nước lớn, quan hệ kinh tế với hơn 221 (hơn hai trăm hai mươi mốt) thị trường
nước ngoài vàthành viên của nhiều tổ chức và diễn đàn quốc tế. Các tổ chức, diễn đàn Việt Nam tham gia có thể kể
đến như ASEAN (1995), Diễn đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM) (1996), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế khu vực châu Á- Thái
Bình Dương (APEC) (1998), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) (2006) Ngày 11 tháng 7 năm 1995, Tổng thống
Hợp chúng quốc Hoa Kỳ Bill Clinton tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Ngày 5 tháng 8
năm 1995, quan chức ngoại giao hai nước ký kết thỏa thuận mở Đại sứ quán tại thủ đô của hai nước. Đại sứ quán Hoa
Kỳ tại Hà Nội mcửa ngày 6 tháng 8 năm 1995 với Đại sứ L. Desaix Anderson. Việt Nam đã giải quyết ổn thỏa
nhiều tranh chấp biên giới, lãnh thổ, biển đảo, giữ vững môi trường hòa bình; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
khu vực.
Chương 3 – TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
I – TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
Độc lập quyền bất khả xâm phạm của một đất nước, một quốc gia, một dân tộc bởi chính người dân sinh
sống ở đó, có nghĩa là có chủ quyền tối cao. Độc lập còn có thể hiểu "sự không phụ thuộc" từ cá nhân, tập thể, xã
hội, quốc gia hay dân tộc nào vào cá nhân, tập thể, xã hội, quốc gia hay dân tộc khác.
1. Vấn đề độc lập dân tộc
a) Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc
Thứ nhất, Hồ Chí Minh tiếp cận quyền độc lập tự do từ chân lý thời đại đã được các nước lớn thừa nhận:
“Quyền sống”, “Quyền bình đẳng”, “Quyền sung sướng” “Quyền tự do” đều quyền của con người, “những
quyền không ai thể xâm phạm được” đã được ghi nhận trong các văn bản quốc tế như “Tuyên ngôn độc lập”
của Mỹ năm 1776 “Tuyên ngôn Nhân quyền Dân quyền” của Pháp năm 1791. Quyền con người được hiểu
những quyền tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các
thỏa thuận pháp lý quốc tế. Tức là, đây đều là những quyền mà được cả thế giới trong đó có cả những nước lớn công
nhận và đồng tình.
Hồ Chí Minh đã cho thấy sự hình thành tư tưởng về quyền tự do và bình đẳng khi thay mặt những người Việt
Nam yêu nước gữi tới Hội nghị Véc-xây bản Yêu sách của nhân dân An Nam, bao gồm 8 điểm với hai nội dung chính
là đòi quyền bình đẳng về mặt pháp lý và đòi các quyền tự do, dân chủ của người dân Đông Dương.
Thứ hai, Hồ Chí Minh phát triển suy rộng từ những quyền của con người tinh hoa của thế giới thành
những quyền mà mọi dân tộc đều phải được hưởng. Đó là quyền bình đẳng, quyền độc lập, quyền tự do, quyền hạnh
phúc, “đó là những lẽ không ai chối cãi được”.
Thứ ba, Khát vọng được hưởng độc lập tự do khát vọng ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Trong đó, Hồ
Chí Minh khẳng định khát vọng của cá nhân cũng là khát vọng của dân tộc Việt Nam: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là
đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập”.
Thứ tư, Hồ Chí Minh khẳng định độc lập dân tộc và tự do cho nhân dân là vấn đề xuyên suốt trong phong trào
cách mạng Việt Nam:
Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng (năm 1930), Hồ Chí Minh xác định mục tiêu chính của cách mạng là:
“Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”
lOMoARcPSD| 61573419
Năm 1941, trong Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8 (5/1941), Hồ Chí Minh khẳng định:
“Trong lúc này nếu không giành được độc lập cho dân tộc thì chẳng những quốc gia dân tộc phải chịu mãi kiếp ngựa,
trâu mà quyền lợi bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”
Năm 1945, Người đã đúc kết ý chí đấu tranh cho độc lập dân tộc tự do cho nhân dân cả dân tộc Việt
Nam mong muốn hướng đến: “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho
được độc lập”.
Nặm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên
ngôn độc lập để trịnh trọng tuyên btrước đồng bào cả nước thế giới về quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, nhân dân Việt Nam quyết giữ vững quyền tự do độc lập ấy. Điều
này thể hiện sự cương quyết ý nhắc nhở, cảnh báo các nước đế quốc nếu như ý định muốn xâm lược Việt
Nam thì phải suy xét lại vì “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do
độc lập” cũng như ý chí quyết tâm giữ vững nền độc lập ấy: “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc cũng được thể hiện trong Kháng chiến chống Pháp. Hồ Chí Minh từng
khẳng định: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến
đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: Toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc độc lập dân tộc cho đất
nước.”
Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Hồ Chí Minh từng thể hiện rất rõ quyết tâm sắt đá chống thực dân
Pháp xâm lược nước ta lần thứ 2 nhằm bảo vệ cho bằng đượcnền độc lập dân tộc – giá trị thiêng liêng mà nhân dân ta
đã giành được: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm
lệ”
Trong kháng chiến chống Mỹ, Hồ Chí Minh đã nêu lên một chân lý thời đại, một tuyên ngôn bất hủ của các dân tộc
khao khát nền độc lập, tự do trên thế giới:Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Nhờ vậy, nhân dân Việt Nam đã đánh
thắng đế quốc Mỹ xâm lược, buộc chúng phải ký kết Hiệp định Pari, cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của
nhân dân Việt Nam, rút quân về nước.
b) Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân
Thứ nhất, Hồ Chí Minh khẳng định vấn đề độc lập gắn liền với tự do là chân lý của thời đại.
Người cho rằng đây là lẽ đương nhiên trong đấu tranh cách mạng của các dân tộc. Người dẫn bản Tuyên ngôn
Nhân quyền Dân quyền của Cách mạng Pháp (1791): “Người ta sinh ra tự do bình đẳng về quyền lợi, phải
luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” khẳng định dân tộc Việt Nam cũng phải được tự do bình đẳng về quyền
lợi. “Đó là lẽ phải không ai chối cãi được”. Người cũng đánh giá cao học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc
lập và tự do: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.
Trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi đến hội nghị Véc-xây (1919), Người đề nghị các nước đế quốc
thắng trận tôn trọng quyền tự do, trong đó có “Tự do báo chí và tự do ngôn luận. Tự do lập hội và hội họp. Tự do
trú nước ngoài tự do xuất dương. Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật chuyên nghiệp tất cả các tỉnh
cho người bản xứ”
Thứ hai, Độc lập gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân dân là bản chất, mục tiêu của cách
mạng Việt Nam.
Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930, Người xác định mục tiêu của đấu tranh cách mạng là “Làm
cho nước Nam được hoàn toàn độc lập… dân chúng được tự do… Thủ tiêu hếtc thứ quốc trái… Thâu hết ruộng đất
của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo. Bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo… Thi hành luật ngày
làm 8 giờ”.
Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, Người một lần nữa độc lập phải gắn với tự do, hạnh phúc: “Nước
độc lập dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng nghĩa gì” Ngay sau thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, để đảm bảo độc lập phải gắn với hạnh phúc của nhân dân, trong bối cảnh nhân dân đói
rét, chữ, Người đã yêu cầu: “Làm cho dân ăn. Làm cho dân mặc. Làm cho dân chỗ ở. Làm cho dân
học hành”.
Người từng bộc bạch: “Tôi chỉ một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, làm sao cho ớc ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. c) Độc lập
dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
Q: Vì sao để các dân tộc được bình đẳng, các dân tộc ấy phải được hưởng nền độc lập thật sự?
Thứ nhất, thực dân đế quốc luôn tung chiêu bài mị dân, “độc lập, tự do” giả hiệu để che đậy bản chất bóc lột,
“ăn cướp” và “giết người” của mình.
Thứ hai, theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải độc lập thật sự, hoàn toàn, triệt để trên tất cả các lĩnh vực:
lOMoARcPSD| 61573419
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,.. Người từng nhấn mạnh: độc lập mà người dân không có quyền tự quyết về ngoại
giao, không có quân đội riêng, không có nền tài chính riêng… thì độc lập đó chẳng có ý nghĩa gì. Biện pháp: Để bảo
vệ nền độc lập non trẻ của dân tộc, Người Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng a đã thực hiện biện pháp ngoại
giao (Hiệp định bộ 6/3/1946, Bản Tạm ước 14/9). Kết quả đấu tranh bước đầu của tư tưởng độc lập thực sự Hồ Chí
Minh vì Pháp công nhân Việt Nam là một quốc gia tự do có chính phủ, có quân đội, nghị viện riêng… d) Độc lập dân
tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Q: Vì sao chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ điều kiện để đảm bảo nền độc lập dân tộc của nước
nhà?
Thứ nhất, xuất phát từ bối cảnh nước nhà trong lịch sử. Thực dân Pháp khi xâm lược đã chia đất nước ta ra ba
kỳ, mỗi kỳ có chế độ cai trị riêng. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, miền Bắc bị quân Tưởng Gii Thạch chiếm
đóng, miền Nam bị thực dân Pháp xâm lược và sau khi độc chiếm thì bày ra cái gọi là “Nam kỳ tự trị” chia cắt lâu dài
nước ta.
Thứ hai, đó là từ quyết tâm giữ vững nền độc lập dân tộc mà Hồ Chí Minh thể hiện trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Trong Thư gửi đồng bào Nam Bộ (1946), Người khẳng định: “Đồng bào Nam
Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”. Sau khi ký Hiệp
định Giơ-ne-vơ, Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền nhưng Người vẫn kiên trì, tiếp tục đấu tranh với ý chí
sắt đá, không gì lay chuyển: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, không ai có thể chia cắt được”
Trong Di chúc (1969), Người cũng thể hiện niềm tin tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng, sự thống nhất
nước nhà: “khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống
nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”
Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ là tư tưởng xuyên suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
Q: Từ việc phân tích những luận điểm trong tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, anh/chị hãy liên hệ đến
sự vận dụng của Đảng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nước ta hiện nay?
Phân tích 4 đặc điểm trong tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc. Tiến
hành liên hệ.
Kế thừa truyền thống giữ nước quý báu của dân tộc, trên sở quán triệt, vận dụng phát triển sáng tạo quan
điểm Chủ nghĩa Mác-Lênin,tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; đồng thời, từ thực tiễn lãnh
đạo cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua, trong dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XII trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, đã khẳng định: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến
tranh, xung đột từ sớm, từ xa”. Đây là bước phát triển mới trong tư duy của Đảng về phương thức bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mi.
Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng khẳng định “Có kế sách ngăn ngừa các nguy chiến tranh, xung đột từ
sớm, từ xa” là sự kế thừa truyền thống của dân tộc ta, là bài học xương máu “giữ nước từ khi nước chưa nguy”.
Tư tưởng “giữ nước từ khi nước chưa nguy” trong lịch sử dân tộc, quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa được Đảng ta vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp xây dựng và bảo v
Tổ quốc, nhất là từ khi đổi mới đất nước.
Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX và Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới là những vấn đề lý luận cơ bản về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Từ thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc, Đảng ta nhận thức rõ hơn về vai trò quan trọng của an ninh, đối ngoại, trong đó có đối ngoại quốc phòng; về nội
hàm xây dựng nền quốc phòng toàn dân; nhấn mạnh việc kiên trì đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân
dân, xây dựng “thế trận lòng dân” trong thời kỳ phát triển và hội nhập. Đến Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định:
“Có kế sách phòng ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt
tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”.
Tư duy về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa của Đảng đã có sự phát triển mới. Đây vừa là quan điểm, vừa là phương
châm chỉ đạo của Đảng, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng về quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
Nội hàm của bảo vệ Tổ quốc không chỉ hiểu theo nghĩa hẹp và bảo vệ bên ngoài biên giới, lãnh thổ, mà cần hiểu theo
nghĩa rộng bao gồm cả bên trong; không chỉ chiến đấu bảo vệ khi kẻ thù xâm lược, phải tổ chức phòng thủ,
phòng ngừa từ trước, chủ động chuẩn bị về mọi mặt, bao gồm cả chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại...,
ngay từ thời bình
Xây dựng bảo vệ Tổ quốc nước ta hiện nay đang diễn ra trong bối cảnh hội nhập quốc tế.Trải qua 35 năm
thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, tư duy lý luận, nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của Đảng về mối quan
hệ giữa xây dựng bảo vệ Tổ quốc XHCN đã phát triển toàn diện, sâu sắc hơn, góp phần đưa sự nghiệp đổi mới
giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
lOMoARcPSD| 61573419
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
ta, bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, đã và đang đặt ra những yêu cầu mới và đứng trước không ít khó khăn, thách
thức cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng và an ninh, đối ngoại.
Để tiếp tục nhận thức và xử lý tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh toàn cầu hóa
và hội nhập quốc tế hiện nay, cần phải nắm vững và thực hiện tốt những vấn đề chủ yếu sau đây:
Một là, tiếp tục nhận thức và xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng, giữa hợp tác và đấu tranh
trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Khi đất nước đang hội nhập quốc tế sâu rộng thì mối quan hệ giữa đối tác-đối tượng
càng trở nên đa dạng, phức tạp và có những hình thức thể hiện mới trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
Hai là, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hóa, hội với tăng cường quốc phòng, an ninh (QPAN)….
Thực hiện đổi mới hình tăng trưởng gắn với cấu lại nền kinh tế, coi đây vừa tiền đề, vừa hệ quả của hội
nhập kinh tế quốc tế, là giải pháp có tính quyết định để nâng cao nội lực nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức
của giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế mới.
Ba là, kết hợp chặt chẽ QPAN và đối ngoại. Tiếp tục hiện thực hóa tư duy mới của Đảng về mối quan hệ giữa
QPAN và đối ngoại trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Bốn là, kịp thời thể chế hóa quan điểm của Đảng về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cho phù
hợp với bối cảnh mới của hội nhập quốc tế.
Tiếp tục quán triệt tổ chức thực hiện tốt chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chiến lược quân sự, chiến lược quốc
phòng, chiến lược an ninh và các chiến lược chuyên ngành khác nhằm bảo vệ đất nước;
Giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy, bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức
mạnh của thời đại.
Xây dựng, củng cố lòng tin chiến lược với các nước, nhất là các nước láng giềng, các nước lớn, bạn bè truyền
thống, tạo thế và lực mới cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Q: sinh viên HCMUE, Anh/chị sẽ làm để góp phần vào công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN, chống lại những âm mưu xâm phạm đến độc lập, chủ quyền lãnh thổ của quốc gia?
Khi đất nước đang phát triển được hưởng nền độc lập hòa bình, sinh viên càng phải luôn thấm nhuần,
biết ơn những anh hùng dân tộc đã hy sinh cho Tổ quốc. Chúng ta có thể góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước bằng
những biện pháp như sau:
Tích cực học tập, rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh, bảo vệ sức khoẻ.
Trung thành với Tổ quốc, với chế độ xã hội chủ nghĩa.
Cảnh giác trước âm mưu chia rẽ, xuyên tạc của các thế lực thù địch; phê phán, đấu tranh với những thái độ,
việc làm gây tổn hại đến an ninh quốc gia, xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Chấp hành, tuân thủ đường lối chủ trương, chính sách của Đảng Nhà nước, pháp luật, cụ thể, đó là việc xây
dựng bản thân trở thành một công dân tốt, công dân chân chính, không tham gia tệ nạn hội, tích cực hỗ trợ, tham
gia các phong trào hỗ trợ cộng đồng như các chiến dịch tình nguyện, hiến máu nhân đạo, chiến dịch Mùa Xanh,
Xuân tình nguyện,…
Tích cực tham gia các hoạt động an ninh, quốc phòng ở địa phương; tham gia hoạt động đền ơn đáp nghĩa…
Có ý thức xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp, giữ gìn cảnh quan, tham gia trồng cây, gây rừng để phủ xanh
nơi ở.
Phối hợp với chính quyền địa phương thực hiện đấu tranh đẩy lùi, phòng chống vi phạm pháp.
Nâng cao nhận thức về trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn biển đảo thông qua các diễn đàn, các buổi sinh
hoạt công dân hay các thông báo tuyên truyền trên các kênh chính thống.
Tham gia đăng tham gia huấn luyện nghĩa vụ quân sự khi đến tuổi; sẵn sàng lên đường làm nghĩa vụ bảo
vệ
Tổ quốc.
Vận động bạn bè, người thân thực hiện tốt nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.
Tham gia đầy đủ các buổi học của các học phần Giáo dục Quốc phòng - An ninh và các học phần lý luận chính
trị nhằm tự củng cố và bổ sung, bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước.
Sống chân thành, dung dị, hòa nhã với mọi người xung quanh; Hiếu thảo với ông bà, cha mẹ; Có ý thức xây
dựng gia đình vững mạnh làm nền tảng cho một xã hội tốt đẹp.
Q: Hãy phân tích câu nói sau của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc
lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”?
Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng”,
ký tên Hồ Chí Minh; đăng trên Báo Cứu quốc, số ra ngày 17-10-1945.
Độc lập dân tộc là quyền bất khả xâm phạm của một dân tộc bởi chính người dân sinh sống ở đó, có nghĩa có
chủ quyền tối cao. Độc lập dân tộc còn có thể hiểu là “sự không phụ thuộc” từ cá nhân, tập thể, xã hội, quốc gia hay
lOMoARcPSD| 61573419
dân tộc nào vào dân tộc khác. Độc lập sẽ giúp cho nhân dân sống trong ấm no hạnh phúc, không sợ hãi về những gì
chiến tranh, sự xung đột, bạo loạn gây ra.
Phân tích luận điểm 1: Khẳng định sao muốn “độc lập dân tộc” thì phải gắn liền với “tự do, hạnh phúc
của nhân dân”.
Phân tích luận điểm 2: Độc lập dân tộc là điều kiện và mục đích để giúp cho nhân dân tự do, hạnh phúc. Tự
do, hạnh phúc cho nhân dân muốn xây dựng được thì phải có được độc lập dân tộc.
Tuy nhiên, khi có được độc lập dân tộc không đảm bảo cho dân “ai cũng có cơm ăn, áo mặc…ai cũng được
học hành” thì độc lập đó là bằng thừa.
Không phải cứ độc lập dân tộc thì dân sẽ có thể tự do, hạnh phúc ngay lập tức.
Cần phải gắn độc lập dân tộc với việc xây dựng và đảm bảo tự do, hạnh phúc cho nhân dân
Q: Hồ Chí Minh đã từng nói: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Anh/chị có đồng ý hay không.
Chứng minh?
Trình bày khái niệm “độc lập dân tộc” và “tự do dân tộc”
Theo nhà triết học Locke (1632-1704) “Tự do là khả năng con người có thể làm bất cứ điều gì mà mình mong
muốn mà không gặp bất kỳ cản trở nào".
Quyền tự do của một quốc gia là quyền dân tộc tự quyết. Quyền này bao gồm quyền thành lập chính phủ, th
chế quốc gia và hệ thống luật pháp.
Khẳng định rằng “độc lập, tự do” chính quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm đối với mỗi dân tộc. Phân
tích luận điểm 1 chứng minh: Muốn cho các dân tộc được bình đẳng thì phải đảm bảo nền độc lập ấy phải là nền
độc lập thực sự, triệt để. Phân tích luận điểm 3 và chứng minh
Ngoài ra, nền độc lập đó phải mang lại cuộc sống hạnh phúc, ấm no cho nhân dân. Phân tích và chứng minh
luận điểm 2
Nền độc lập ấy phải gắn với chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Phân tích và chứng minh luận điểm 4
Lưu ý: Muốn bình đẳng dân tộc thì các dân tộc thuộc địa phải được giải phóng khỏi chủ nghĩa thực dân.
Nền độc lập dân tộc phải thể hiện ở 3 điểm sau:
- Dân tộc đó phải được độc lập toàn diện về chính trị, kinh tế, an ninh, toàn vẹn lãnh thổ quan trọng nhất
là độc lập về chính trị.
- Mọi vấn đề chủ quyền quốc gia phải do người dân nước đó tự quyết định.
- Nền độc lập thực sự phải được thể hiện ở cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của người dân.
Vì thế, nền độc lập của Việt nam phải theo nguyên tắc nước Việt nam của người Việt Nam, mọi vấn đề về chủ
quyền quốc gia phải do người dân Việt Nam tự quyết định, không có sự can thiệp của nước ngoài.
Quyền độc lập, bình đẳng dân tộc là quyền thiêng liêng, quý giá nhấtbất khả xâm phạm. “Không có gì quý
hơn độc lập tự do” là lẽ sống, là triết lý Cách mạng Hồ Chí Minh và của dân tộc VIệt Nam. Đó cũng là nguồn cổ
to lớn đối với các dân tộc bị áp bức, đấu tranh cho một nền độc lập tự do, thống nhất đất nước, dân chủ, ấm no, hạnh
phúc của người dân.
Q: Phân tích để làm quan điểm sau của Hồ Chí Minh trong tác phẩm Tuyên ngôn độc lập (1945): “Tất cả
các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng quyền tự do……
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”? 4 nội dung, chú trọng 2 nội dung đầu.
2. Về cách mạng giải phóng dân tộc
a) Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản
Q: Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”? Chỉ ra sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn con đường này?
Nguyên nhân thứ nhất, Hồ Chí Minh lựa chọn con đường cách mạng vô sản vì dựa trên việc tìm hiểu, đánh
giá các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đã xảy ra ở Việt Nam.
Cách mạng giải phóng dân tộc cuộc cách mạng nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập
dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết và thành lập nhà nước dân tộc.
Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến cuối TK XIX đầu TK XX như phong trào Cần
Vương, phong trào nông dân Yên Thế, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục thất bại vì còn mang nặng cốt cách phong
kiến. Điều đó chứng tỏ khuynh hướng phong kiến lỗi thời, lạc hậu. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân
chủ tư sản của các sĩ phu tiến bộ như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,… cũng đi đến thất bại vì đường lối sai lầm.
Vì thế, Hồ Chí Minh quyết định đi ra nước ngoài để tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc ta, “Sau khi xem xét họ
làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”.
Nguyên nhân thứ hai, Hồ Chí Minh lựa chọn con đường cách mạng vô sản vì tính triệt để, tính phù hợp của
nó trong điều kiện thực tiễn Việt Nam.
lOMoARcPSD| 61573419
Cách mạng sản là một cuộc cách mạng hội trong đó giai cấp công nhân cố gắng lật đổ giai cấp tư sản.
Các cuộc cách mạng vô sản nói chung được những người theo chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản và hầu hết những
người vô chính phủ ủng hộ.
Người không lựa chọn con đường cách mạng sản một số do, trong đó nổi bật tính không triệt để,
không đến nơi của nó: Người nói: “Cách mạng bản, cách mạng không đến nơi, tiếng cộng hòa dân chủ, kỳ
thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”; “Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp
hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức”. Hồ Chí Minh nhận thấy rằng con đường
cách mạng tư sản không triệt để, chỉ đem lại lợi ích cho một bộ phận nhỏ trong xã hội.
Người đã tìm thấy con đường cứu nước mới cho dân tộc Việt Nam: con đường cách mạng vô sản. Sự thành
công của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã ảnh hưởng sâu sắc đến việc lựa chọn con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc của Người. Người cho rằng Cách mạng Tháng Mười Nga là triệt để, thành công đến nơi vì “dân chúng
được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp
khoe khoang bên An Nam”.
Năm 1920, sau khi đọc thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc vấn đề thuộc địa của
V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở đó con đường cứu nước giải phóng dân tộc, Người đã lựa chọn con đường
cách mạng vô sản, khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách
mạng sản”. Người cho rằng đây con đường cách mạng triệt để nhất phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt
Nam. Đó là con đường giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp trên cơ sở độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
hội. Người phải thốt lên: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường
giải phóng chúng ta!”
Điểm sáng tạo trong chủ trương lựa chọn con đường cách mạng vô sản.
Sáng tạo được hiểu hoạt động tạo ra bất cứ cái đồng thời tính mới tính ích lợi (trong phạm vi áp
dụng cụ thể). Khi nhắc đến “sáng tạo”, tức là việc tạo ra một thứ chưa từng có trước đây, thứ được tạo ra phải có giá
trị đối với cuộc sống, xã hội, nhân loại.
Trong chủ trương giải phóng dân tộc mà Hồ Chí Minh nhận định thể hiện sự sáng tạo vì:
Người cho rằng: giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, trong đó giải phóng dân tộc là trước hết, trên
hết. Từ cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, con đường cách mạng vô sản ở châu Âu là đi từ giải phóng giai cấp
giải phóng dân tộc giải phóng hội giải phóng con người. Đây sự lựa chọn phù hợp với tình hình của các
nước phương Tây. Nhưng Người lại cho rằng, phải là giải phóng dân tộc – giải phóng hội giải phóng giai cấp
giải phóng con người. Quan điểm này của Người hoàn toàn phù hợp với cơ sở thực tiễn ở các nước các nước thuộc địa
Việt Nam do hoàn cảnh lịch sử khác các nước châu Âu.
Theo Quốc tế Cộng sản, hai nhiệm vụ chống đế quốc chống phong kiến phải được thực hiện đồng thời,
khăng khít với nhau, nương tựa vào nhau. Thế nhưng, xuất phát từ một nước thuộc địa, Hồ Chí Minh không coi hai
nhiệm vụ đó nhất loạt phải thực hiện ngang nhau, mà đặt lên hàng đầu nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc,
còn nhiệm vụ chống phong kiến, mang lại ruộng đất cho nông dân sẽ từng bước thực hiện. Cho nên, trong Chánh
cương vắn tắt của Đảng, Người chỉ nêu “thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công, chia cho dân cày
nghèo” mà chưa tiến tới “người cày có ruộng”.
Điều này thể hiện rõ ràng việc Hồ Chí Minh đã học hỏi, kế thừa Chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của Quốc
tế Cộng sản làm cơ sở lý luận, bên cạnh đó, Người dựa trên cơ sở thực tiễn của Việt Nam để phát triển, sáng tạo nên
phương hướng, con đường phù hợp nhất với tình hình thực tiễn đất nước. Hồ Chí Minh khẳng định phương hướng
chiến lược cách mạng Việt Nam: làm tư sản dân quyền cách mạng (cách mạng dân tộc dân chủ) và thổ địa cách mạng
(cách mạng ruộng đất) để đi tới xã hội cộng sản (cách mạng xã hội chủ nghĩa). Đó là sự kết hợp giữa độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội.
Với quan điểm sáng tạo này, thực tiễn chứng minh Hồ Chí Minh đã lãnh đạo cách mạng tháng Tám năm
1945 thành công, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước đầu tiên ở Đông Nam Á dành được độc
lập dưới sự lãnh đạo của một chính đảng của giai cấp vô sản. Cùng với đó, sau khi thực hiện giải phóng miền Bắc,
nhân dân đã bắt tay vào việc thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa và đã đạt được những thành tựu bước đầu.
Những thắng lợi này phù hợp với xu thế của thời đại giải quyết triệt để yêu cầu mà cách mạng Việt Nam
đặt ra, thể hiện nét đặc sắc, độc đáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh
b) Cách mạng giải phóng dân tộc, trong điều kiện của Việt Nam, muốn thắng lợi, phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo Q:
Vì sao cách mạng Việt Nam muốn thắng lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo?
Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định: Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân
hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Giai cấp công nhân phải tổ chức ra chính đảng, đảng đó phải thuyết phục, giác
ngộ và tập hợp đông đảo quần chúng, huấn luyện quần chúng và đưa quần chúng ra đấu tranh.
lOMoARcPSD| 61573419
Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga dưới sự lãnh đạo Đảng Bolshevik Nga với
sức mạnh về trí tuệ, về tưởng chính trị và tổ chức của mình đã khẳng định nhân tố quyết định làm nên thắng lợi của
cách mạng chính sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản chân chính, tuyệt đối trung thành với Chủ nghĩa MácLênin,
có lập trường kiên định, đường lối đúng đắn và nghệ thuật lãnh đạo tài tình, hết lòng vì lợi ích và hạnh phúc của nhân
dân. Trong hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam một nước thuộc địa phong kiến, trong Báo cáo chính trị tại Đại hội II
của Đảng (1951) Người cũng viết: “Chính Đảng Lao động Việt Nam đảng của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam.
Đây là hai cơ sở quan trọng để Hồ Chí Minh vận dụng và khẳng định về tầm quan trọng của Đảng Cộng sản.
Người khẳng định trong tác phẩm Đường Kách Mệnh (1927) rằng cách mạng phải đảng cách mệnh để “trong thì
vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững
cách mệnh mới thành công”.
Hồ Chí Minh khẳng định về tầm quan trọng và tính tất yếu của Đảng Cộng sản trong việc hoàn thành sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân: Đảng sẽ đề ra đường lối chủ trương, chính trị cho giai cấp công nhân giác ngộ , tập hợp,
đoàn kết quần chúng nhân dân hình thành sức mạnh to lớn của dân tộc. Đảng Cộng sản vừa là đội tiên phong của giai
cấp công nhân vừa là đội tiên phong của nhân dân lao động, kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm
tận lực phụng sự Tổ quốc. Đó còn là Đảng của cả dân tộc Việt Nam. Đảng tổ chức thực hiện đường lối vào thực tiễn,
biến đường lối thành phong trào quần chúng.
c) Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy liên minh công – nông làm
nền tảng
Q: Vì sao lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc toàn dân, trong đó lấy liên minh công nông làm
nền tảng?
sở luận: Chủ nghĩa Mác Lênin cho rằng: cách mạng sự nghiệp của quần chúng nhân dân; quần chúng
nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Nếu không thì “cách mạng vô sản không thể thực hiện được” (V.I.Lênin).
Cơ sở thực tiễn: Cách mạng Tháng 10 Nga huy động các lực lượng trong xã hội để tiến hành cách mạng: công nhân,
nông dân, binh lính,… (V.I.Lênin chỉ rõ: “Nếu không liên minh với nông dân thì không thể có được chính quyền của
giai cấp vô sản, không thể nghĩ được đến việc duy trì chính quyền đó... Nguyên tắc cao nhất của chuyên chính là duy
trì khối liên minh giữa giai cấp vô sản và nông dân để giai cấp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo và chính quyền
nhà nước”.)
Vì thế, Hồ Chí Minh kế thừa tưởng quan niệm: dân tất cả, trên đời này không quý bằng dân, được
lòng dân thì được tất cả, mất lòng dân thì mất tất cả. Người khẳng định: “Cách mệnh là việc chung cả dân chúng ch
không phải việc một hai người”. Vậy nên phải tập hợp và đoàn kết nhân dân thì cách mạng mới thành công.
Trong Sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh xác định lực lượng cách mạng bao gồm toàn dân: Đảng phải thu phục
đại bộ phận giai cấp công nhân, tập hợp đại bộ phận dân cày và phải dựa vào dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng;
liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông… đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam chưa rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm cho họ trung lập.
Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), Người đã thiết tha kêu gọi mọi người không phân biệt
tôn giáo, dân tộc, giai tầng, đảng phái,… đứng lên cùng chống thực dân Pháp: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người
già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để
cứu Tổ quốc”.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh khẳng định không được quên “công nông người chủ cách mệnh… gốc cách
mệnh” vì giai cấp công nhân và nông dân hai giai cấp đông đảo nhất nhưng cũng bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất,
“nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc”.
Kết quả thực tiễn: Đường lối chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân trên nền tảng liên minh công –
nông trí thông qua mặt trận Liên Việt trong 30 năm kháng chiến chống Pháp và Mỹ thể hiện rất rõ chủ trương hiện
thực hóa việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong đấu tranh bảo vTổ quốc.
d) Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở
chính quốc
Q: Chứng minh tính sáng tạo trong luận điểm của Hồ Chí Minh: Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến
hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc?
Sáng tạo được hiểu hoạt động tạo ra bất cứ cái đồng thời tính mới tính ích lợi (trong phạm vi áp
dụng cụ thể). Khi nhắc đến “sáng tạo”, tức là việc tạo ra một thứ chưa từng có trước đây, thứ được tạo ra phải có giá
trị đối với cuộc sống, xã hội, nhân loại.
Cơ sở lý luận: Quốc tế Cộng sản vì đánh giá chưa đúng tiềm lực và khả năng to lớn của cách mạng thuộc địa
nên có lúc xem nhẹ vai trò của cách mạng thuộc địa, cho rằng cách mạng thuộc địa phải phụ thuộc vào cách mạng vô
sản chính quốc. Những luận cương về phong trào cách mạng trong các nước thuộc địa và nửa thuộc địa có đoạn viết:
lOMoARcPSD| 61573419
chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các nước thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các
nước tư bản tiên tiến. Quan điểm này làm giảm đi tính sáng tạo của nhân dân các nước thuộc địa trong đấu tranh chống
chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập cho dân tộc. Đó là vì Quốc tế Cộng sản chưa thấy, chưa hiểu nhiều về cơ sở thực tiễn
tình hình thuộc địa ở Đông Dương.
Xuất phát từ tư tưởng của Lênin về mối quan hệ chặt chẽ của cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng
thuộc địa, Hồ Chí Minh chỉ mối quan hệ khăng khít, tác động qua lại lẫn nhau giữa cách mạng thuộc đia cách
mạng vô sản ở chính quốc – mối quan hệ bình đẳng, không lệ thuộc, phụ thuộc vào nhau.
Người khẳng định của việc đặt cách mạng thuộc địa ngang với cách mạng sản chính quốc thông qua bóc
trần bản chất tàn ác của chế độ thực dân: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở
chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta
phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp
sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”.
Người từng dự báo trong bài báo Đông Dương (1921): “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát
và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực
lượng khổng lồ qua việc thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, sẽ
có thể giúp cho những người anh em của họ ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”. Từ đó, Người càng
khẳng định cách mạng ở thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà còn có thể
giành thắng lợi trước.
Người cho rằng: cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà
có thể giành thắng lợi trước. Luận điểm này mang tính sáng tạo dựa trên các cơ sở:
Thứ nhất, xuất phát từ sở thực tiễn: thuộc địa một vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt đối với ch
nghĩa đế quốc, nơi duy trì sự tồn tại, phát triển, món mồi “béo bở” cho chủ nghĩa đế quốc. Thuộc địa là nơi mà
chủ nghĩa đế quốc thực hiện xuất khẩu tư bản, khai thác nguyên liệu và là thị trường độc quyền của chúng,… Người
từng nói: “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc”;
nếu thờ ơ thì sẽ như “đánh chết rắn đằng đuôi”.
Thứ hai, tinh thần đấu tranh cách mạng hết sức quyết liệt của các dân tộc thuộc địa, mà theo Người sẽ bùng
lên mạnh mẽ, hình thành một “lực lượng khổng lồ” khi được tập hợp, hướng dẫn giác ngộ cách mạng. Giai cấp
công nhân có khả năng tự giải phóng bản thân. Người từng viết: “Hỡi anh em các dân tộc thuộc địa… công cuộc giải
phóng anh, em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”.
Kết quả thực tiễn: Thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 tại Việt Nam cũng như thắng lợi của phong trào
giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX, với hơn 100 quốc gia mới được hình thành. Năm 1960 năm châu Phi, với 17
nước giành độc lập. Sự thắng lợi của cách mạng Cuba của các quốc gia Mỹ Latinh đã biến Mỹ Latinh thành “lục
địa bùng cháy”. Thế kỷ XX trở thành thế kỷ giải trừ của chủ nghĩa thực dân.
Sự thắng lợi của cách mạng thuộc địa khi cách mạng vô sản ở chính quốc chưa nổ ra đã chứng minh luận điểm
của Hồ Chí Minh là độc đáo, sáng tạo và có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn.
đ) Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bạo lực cách mạng
Q: sao cách mạng giải phóng dân tộc phải dùng bạo lực cách mạng? Hình thức hình thái của bạo lực
cách mạng ra sao?
Bạo lực cách mạng của giai cấp bị trị đối trọng với bạo lực phản cách mạng của giai cấp thống thống trị
bằng sức mạnh hành động của quần chúng với sự lãnh đạo của giai cấp cách mạng bằng một đường lối chính trị tiên
tiến hướng dẫn, lãnh đạo vượt qua giới hạn pháp luật của giai cấp thống trị đương thời để cưỡng chế, cưỡng bức giai
cấp phản động nhằm buộc chúng phải phục tùng ý chí của giai cấp cách mạng, lật độ nhà nước lỗi thời và xác lập nhà
nước của giai cấp cách mạng.
Cơ sở để Hồ Chí Minh quyết định chọn con đường bạo lực cách mạng.
Cơ sở lý luận: C.Mác từng nói: “Bạo lực là bà đỡ của một chế độ xã hội cũ đang thai nghén một chế độ mới.”
Ph.Ăngghen nhấn mạnh: “Bạo lực còn đóng một vai trò khác trong lịch sử, vai trò cách mạng: nói theo Mác, bạo lực
còn là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới. V.I.Lênin tiếp tục khẳng định tính tất yếu của bạo lực
cách mạng, làm sáng tỏ hơn vấn đề bạo lực cách mạng trong học thuyết về cách mạng vô sản: không có bạo lực cách
mạng thì không thể thay thế nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản được, trên cơ sở thực tiễn của Cách mạng Tháng
Mười Nga.
sở thực tiễn: Cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi bằng con đường cách mạng bạo lực của quần chúng
nhân dân. Thực tiễn Việt Nam: bọn thực dân đế quốc đã thực hiện chế độ cai trị vô cùng tàn bạo: dùng bạo lực để đàn
áp dã man các phong trào yêu nước, thủ tiêu mọi quyền tự do, dân chủ của nhân dân, bóc lột và đẩy người dân thuộc
địa vào bước đường cùng.
lOMoARcPSD| 61573419
Từ hai sở đó, Hồ Chí Minh nhận thấy tất yếu phải sử dụng bạo lực cách mạng, đó tất yếu để chống lại
bạo lực phản cách mạng của kẻ thù. Người đã vận dụng sáng tạo phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.
Người từng viết: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực
cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền bảo vệ chính quyền” bởi vì: “Chế độ thực
dân, tự bản thân nó đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”.
Hình thức của bạo lực cách mạng.
Hình thức bạo lực cách mạng: theo Hồ Chí Minh, bạo lực cách mạng ở đây là bạo lực của quần chúng, được
thực hiện với hai lực lượng chính trị và quân sự, hai hình thức đấu tranh: đấu tranh chính trị đấu tranh vũ trang. Cần
căn cứ vào tình hình, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể mà áp dụng các hình thức đấu tranh phù hợp.
Việc sử dụng bạo lực cách mạng theo tinh thần linh hoạt. Người viết: “Tuỳ tình hình cụ thể quyết định
những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang, đấu
tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng”.
Thực tiễn chứng minhch mạng Tháng Tám năm 1945, hình thức tổng khởi nghĩa của quần chúng nhân n
trong cả nước, chủ yếu dựa vào lực lượng chính trị, kết hợp với lực lượng trang, nhân dân ta đã thắng lợi giành
chính quyền về tay nhân dân.
Quán triệtvận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng, xuất phát từ thực tế so sánh lực
lượng, cục diện trên chiến trường sau khi Mỹ rút khỏi miền Nam, tháng 7 năm 1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
đã tổ chức Hội nghị lần thứ 21 đề ra phương châm kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao tiếp tục khẳng
định: Con đường cách mạng của miền Nam là con đường bạo lực cách mạng.
Q: Tại sao Hồ Chí Minh khẳng định, trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thì việc sử dụng bạo lực là cần
thiết? Bạo lực cách mạng trong tưởng Hồ Chí Minh khác với tưởng bạo lực của các thế lực hiếu chiến như thế
nào?
SV tiến hành lý giải về tính tất yếu của việc sử dụng bạo lực cách mạng theo tưởng Hồ Chí Minh. Phân tích
nội dung 5.
Lưu ý: Việc tiến hành chiến tranh cách mạng là giải pháp cuối cùng, tức là việc sử dụng bạo lực cách mạng là
việc bắt buộc khi các biện pháp thỏa hiệp, thương lượng, hòa bình đã không thành công.
Người cũng đã khẳng định: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân
nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất
cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ…”
SV thực hiện so sánh giữa “bạo lực cách mạng” và “bạo lực phản cách mạng”: (SV chỉ tham khảo cơ bản, có
thể bổ sung, phát triển thêm).
Tiêu chí so sánh
Bạo lực cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Bạo lực cách mạng với tư
tưởng chủ nghĩa thực dân
Mục đích
Đấu tranh chống kẻ thù giai cấp (địa chủ), dân
tộc (thực dân Pháp).
Dùng bạo lực để giành chính quyền bảo vệ
chính quyền
Đấu tranh để xâm chiếm thuộc địa
Dùng bạo lực để thống trị, chèn ép, bóc lột
nhân dân thuộc địa.
Lực lượng
Toàn dân trong đó liên minh công –
nông là nòng cốt
Đế quốc, phong kiến, tư sản phản cách mạng và
tay sai
Chủ trương
Dùng bạo lực nhằm đánh bại ý chí xâm lược
của đế quốc.
Dùng bạo lực để xâm lược
Tính chất
Toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến, tự
lực cánh sinh và nhân đạo hòa bình.
Nhằm thực hiện âm mưu xâm lược và thống trị
thuộc địa
Q: Nêu giá trị lý luận thực tiễn củatưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc đối với sự nghiệp cách
mạng Việt Nam?
SV trình bày khái niệm “Cách mạng giải phóng dân tộc”.
SV trình bày bản tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc. (SV thể nêu ra những nội
dung chính và phân tích ngắn gọn).
SV thực hiện yêu cầu của đề bài:
Giá trị lý luận: Làm phong phú học thuyết Mác Lênin về cách mạng thuộc địa
lOMoARcPSD| 61573419
Về luận cách mạng giải phóng dân tộc: Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác Lênin, khẳng định con
đường cách mạng vô sản trong lựa chọn con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam Đây là con đường mới, không
phải đã tồn tại từ trước.
Hồ Chí Minh kết hợp hài hòa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai
cấp và giải quyết vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc gắn độc lập dân tộc với phương hướng xã hội chủ nghĩa.
Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc: Hồ Chí Minh đã xây dựng nên luận về phương
pháp khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân.
Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò, vị trí và khả năng giành thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc đối
với cách mạng vô sản ở chính quốc.
Giá trị thực tiễn:
Làm chuyển hóa phong trào yêu nước Việt Nam, tạo điều kiện cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam: đây là
ánh sáng soi đường cho lớp thanh niên yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX đang đi tìm chân lý.
Tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Xam
Đặt sở để xây dựng nên đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng
Là cơ sở hình thành Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng.
Là cơ sở để phát triển và hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội
qua ba giai đoạn chiến lược.
Là cơ sở của đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện
Soi đường thắng lợi cho cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam
II TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨAHỘI VÀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨAHỘI VIỆT NAM
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
a) Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Q: Phân tích nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội?
Khái niệm: “Chủ nghĩa xã hội” là một chế độ xã hội tốt đẹp, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa.
Nguồn gốc sâu xa: chủ nghĩa yêu nước, truyền thống nhân ái và tinh thần cộng đồng làng xã Việt Nam, được
hình thành từ lâu đời trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Cách tiếp cận: Người không đưa ra một định nghĩa cụ thể nhưng định nghĩa “chủ nghĩa xã hội” được tiếp cận
từ nhiều phương diện
Thứ nhất, Hồ Chí Minh tiếp cận tư tưởng về CNXH từ phương diện kinh tế: Hồ Chí Minh đã tiếp thu những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng sáng tạo và đưa ra nhiều kiến giải mới phù hợp với Việt Nam.
Người khẳng định vai tquyết định của sức sản xuất đối với sự phát triển của xã hội cũng như đối với sự chuyển biến
từ xã hội nọ sang xã hội kia. Trên cơ sở nền tảng kinh tế mới, chủ nghĩa xã hội sẽ xác lập một hệ thống các giá trị đặc
thù mang tính nhân bản thấm sâu vào các quan hệ xã hội. Người cũng khẳng định, trong lịch sử loài người có 5 hình
thức quan hệ sản xuất chính, và nhấn mạnh “ không phải quốc gia dân tộc nào cũng đều trải qua các bước phát triển
tuần tự như vậy”. Người sớm đến với tư tưởng quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn tư bản
chủ nghĩa.
Thứ hai, Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ văn hoá, đưa văn hoá thâm nhập vào chính trị, kinh tế tạo
nên sự thống nhất biện chứng giữa văn hoá, kinh tế và chính trị.
Thứ ba, Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ phương diện đạo đức. Chủ nghĩa xã hội là đối lập với chủ
nghĩa cá nhân.
Thứ tư, Hồ Chí Minh tiếp cận CNXH từ chủ nghĩa yêu nước và truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc.
Thứ năm, Hồ Chí Minh tiếp cận CNXH từ yêu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam và xu hướng phát triển
của thời đại. Cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX đặt ra yêu cầu khách quan là tìm một ý thức hệ mới đủ sức vạch ra
đường lối phương pháp cách mạng đúng đắn đem lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. Cách mạng tháng mười
Nga giành thắng lợi đã mở ra con đường hiện thực cho giải phóng dân tộc phương Đông: độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH và Nguyễn Ái Quốc đã bắt đầu truyền bá tư tưởng CNXH trong dân.
Thứ sáu, Hồ Chí Minh đến với CNXH từ tư duy độc lập sáng tạo tự chủ. Đặc điểm của định hướng tư duy tự
chủ sáng tạo là: định hướng duy trên sở thực tiễn; luôn tìm tận gốc của sự vật, hiện tượng; kết hợp trí khoa
học và tình cảm cách mạng. Tư duy của Hồ Chí Minh là tư duy rộng mở và văn hoá.
Hồ CMinh nhận thức về chủ nghĩa hội kết quả tác động tổng hợp của các nhân tố: truyền thống
hiện đại; dân tộc và quốc tế; kinh tế, chính trị, đạo đức, văn hoá. Hồ Chí Minh đã làm phong phú thêm cách tiếp cận
về chủ nghĩa xã hội, đóng góp vào phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
lOMoARcPSD| 61573419
Từ đây, Hồ Chí Minh đưa ra một cách hiểu dung dị về “chủ nghĩa xã hội”: “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc,
chủ nghĩa xã hội trước hết là làm cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm,
được ấm no và được sống đời hạnh phúc”.
Chủ nghĩa xã hội theo Hồ Chí Minh sẽ có một đặc trưng như sau:
Về đặc trưng trên một số lĩnh vực: ở góc độ khát vọng của dân tộc khi đất nước còn là thuộc địa, ở đặc trưng
chính trị là xã hội “dân chủ”, kinh tế có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, về xã hội là bình đẳng, tự do,..
Về mục tiêu: “nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no
được sống đời hạnh phúc"
Về mối quan hệ lợi ích: lợi ích cá nhân hài hòa với lợi ích tập thể. Lợi ích nhân nằm trong lợi ích tập thể, là
một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi ích riêng của cá nhân mới có điều kiện
được thỏa mãn
(“Trong xã hội có giai cấp bóc lột thống trị, chỉ có lợi ích cá nhân của một số rất ít người thuộc giai cấp thống
trị là được thỏa mãn, còn lợi ích cá nhân của quần chúng lao động thì bị giày xéo.”)
Về mục đích của cách mạng Việt Nam: tiến đến chủ nghĩa xã hội, rồi đến chủ nghĩa cộng sản.
Về bản chất: sức sản xuất đã phát triển cao; nền tảng kinh tế thì liệu sản xuất đều của chung; không có
giai cấp áp bức bóc lột.
Chù nghĩa cộng sản có hai giai đoạn. Giai đoạn thấp tức là chủ nghĩa xã hội; giai đoạn cao tức là chủ nghĩa
cộng sản. Hai giai đoạn ấy giống nhau ở chỗ: Sức sản xuất đã phát triển cao; nền tảng kinh tế thì tư liệu sản xuất đều
là của chung; không có giai cấp áp bức bóc lột. Hai giai đoạn ấy khác nhau ở chỗ: chủ nghĩa xã hội vẫn còn chút vết
tích xã hội cũ. Xã hội cộng sản thì hoàn toàn không còn vết tích của xã hội cũ.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh: Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội ở giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Mặc dù còn tồn đọng tàn dư của xã hội nhưng xã hội xã hội chủ nghĩa không còn áp bức, bóc lột, xã hội do nhân
dân lao động làm chủ, trong đó con người sống ấm no, tự do, hạnh phúc, quyền lợi của cá nhân và tập thể vừa thống
nhất, vừa gắn bó chặt chẽ với nhau.
b) Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan
Q: Hiện nay có nhận định cho rằng, Việt Nam tiến lên CNXH bỏ qua CNTB là trái với quy luật lịch sử. Anh
chị có đồng ý với nhận định trên không? Hãy giải thích dưới góc độ của tư tưởng Hồ Chí Minh?
Khái niệm: “Chủ nghĩa xã hội” là một chế độ xã hội tốt đẹp, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa.
Nhận định trên là hoàn toàn sai lầm vì:
Cơ sở lý luận:
Thứ nhất, Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác lịch sử loài người trải qua 5 HT KT-XH. Sự phát
triển của các HT KT-XH là một quá trình lịch sử - tự nhiên bao gồm cả sự phát triển tuần tự và không tuần tự trải qua
các HT KT-XH. Điều này tùy thuộc vào điều kiện lịch sử - cụ thể của mỗi quốc gia. Vì thế có thể bỏ qua một vài HT
KT-XH để tiến đến HT KT-XH cao hơn.
Thứ hai, Quan điểm về hai hình thức quá độ của V.I.Lênin: thực hiện quá độ trực tiếp đối với các nước có
chủ nghĩa tư bản phát triển cao, thực hiện quá độ gián tiếp từ CNTB lên CNXH đối với các nước chưa trải qua
CNTB phát triển. Vì thế, Việt Nam thực hiện được dù chưa trải qua thời kỳ phát triển của CNTB.
Hồ Chí Minh đã kế thừa tưởng từ những nhà luận trước đó khẳng định tiến lên chủ nghĩa hội
một tất yếu khách quan:
Người cho rằng: “Cách sản xuất và sức sản xuất phát triển và biến đổi mãi, do đó mà tư tưởng của người, chế
độ xã hội, v.v., cũng phát triển và biến đổi. Chúng ta đều biết từ đời xưa đến đời nay, cách sản xuất từ chỗ dùng cành
cây, búa đá phát triển dần đến máy móc, sức điện, sức nguyên tử. Chế độ hội cũng phát triển từ cộng sản nguyên
thuỷ đến chế độ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản chủ nghĩa và ngày nay gần một nửa loài người đang
tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ cộng sản chủ nghĩa. Sự phát triển và tiến bộ đó không ai ngǎn cản được.”
Đó là quy luật sản xuất vật chất.
Tuy nhiên, Người cũng nhấn mạnh: Tùy hoàn cảnh các dân tộc phát triển theo những con đường khác nhau.
Những nước đã trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa sẽ “đi thẳng” lên chủ nghĩa xã hội như Liên Xô.
Những nước chưa qua giai đoạn phát triển này có thể đi lên chủ nghĩa xã hội khi kinh qua chế độ dân chủ mới chế
độ dưới sự lãnh đạo của Đảng và giai cấp công nhân, nhân dân đánh đổ đế quốc phong kiến trên nền tảng liên minh
công nông, nhân dân lao động làm chủ, nhân dân dân chủ chuyên chính theo chủ nghĩa Mác Lênin như các nước
Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng vừa là tất yếu của lịch sử,
vừa đáp ứng được khát vọng của các dân tộc bị áp bức và các lực lượng tiến bộ.
Cơ sở thực tiễn: phù hợp với điều kiện của Việt Nam lúc bấy gi
lOMoARcPSD| 61573419
Thuận lợi:
Khó khăn
+ Có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Có sự giúp đỡ của các lực lượng tiến bộ.
+ Phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
+ Có sự đồng lòng, thống nhất của cả dân tộc.
+ Tác động của bối cảnh toàn cầu hóa, cách mạng công
nghiệp lần thứ tư
+ Nền kinh tế thấp kém do trải qua chiến tranh kéo dài, tàn
phá nặng nề.
+Trình độ dân trí thấp.
+Tàn dư chế độ cũ còn nhiều.
Người cũng nhấn mạnh: “Chỉ chủ nghĩa hội mới nguồn gốc của tự do, bình đẳng, Người ái, xóa bỏ
những bức tường dài ngăn cản con người đoàn kết, yêu thương nhau” c) Một số đặc trưng bản của hội hội
chủ nghĩa
Q: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?
Khái niệm: “Chủ nghĩa xã hội” là một chế độ xã hội tốt đẹp, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa.
Thứ nhất, về chính trị: Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội do nhân dân làm chủ.
Trước hết, đó là xã hội do nhân dân làm chủ, nhân dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng trên nền tảng của liên
minh công nông. Trong xã hội hội chủ nghĩa địa vị cao nhất là nhân dân. Nnước của dân, do dân, dân.
Mọi quyền lợi, quyền lực, quyền hạn đều thuộc về nhân dân. Mọi hoạt động xây dựng, bảo vệ Tổ quốc cũng là của
dân.
Những tư tưởng cơ bản đó thể hiện tính nhân văn và sự nhận thức sâu sắc của Hồ Chí Minh về vai trò và địa
vị của nhân dân trong công cuộc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, về kinh tế: Xã hội xã hội chủ nghĩa có nền kinh tế phát triển cao da trên cơ sở lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa hội chế độ xã hội phát triển cao hơn chủ nghĩa bản nên hội hội
chủ nghĩa phải có nền kinh tế phát triển cao hơn nền kinh tế của xã hội tư bản chủ nghĩa, dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ sở hữu tư liệu sản xuất tiến bộ.
Lực lượng sản xuất hiện đại trong chủ nghĩa xã hội biểu hiện: công cụ lao động, phương tiện lao động trong
quá trình sản xuất đã “phát triển dần đến máy móc, sức điện, sức nguyên tử”.
Quan hệ sản xuất trong hội hội chủ nghĩa được Hồ Chí Minh diễn đạt: Lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng,…
làm của chung; là tư liệu sản xuất thuộc về nhân dân.
Thứ ba, về văn hóa, đạo đức và các quan hệ xã hội: Xã hội xã hội chủ nghĩa có trình độ phát triển cao về văn
hóa đạo đức, đảm bảo sự công bằng, hợp lý trong các quan hệ xã hội.
Biểu hiện: xã hội không còn hiện tượng người bóc lột người; con người được tôn trọng, được bảo đảm công
bằng, bình đẳng và các dân tộc đoàn kết, gắn bó với nhau.
Hồ Chí Minh khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa hội mới “chú ý xem xét những lợi ích nhân đúng đắn và bảo
đảm cho được thỏa mãn”, “mỗi người mới điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách
riêng và sở trường riêng của mình”.
Chủ nghĩa xã hội là cơ sở, tiền đề để tiến tới chế độ xã hội hòa bình, đoàn kết, ấm no, tự do, hạnh phúc, bình
đẳng, Người ái; không còn phân biệt chủng tộc, không còn gì gì có thể ngăn cản những người lao động hiểu nhau và
thương yêu nhau.
Chủ nghĩa hội bảo đảm tính công bằng hợp trong quan hệ hội: quyền bình đẳng trước pháp luật
cho mọi công dân theo nguyên tắc: làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít, không làm thì không ởng, tất
nhiên trừ những người chưa có khả năng lao động hoặc không còn khả năng lao động. Điều đó thể hiện sự nhân văn
và nhân đạo.
Thứ tư, về chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa - Chế độ của nhân dân, do nhân dân làm chủ, lợi ích của cá nhân gắn liền với
lợi ích của chế độ xã hội. Vì thế, chính nhân dân là chủ thể, là lực lượng quyết định tốc độ xây dựng và sự vững mạnh
của chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh từng nói: “Cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai cấp
công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”.
Q: Là sinh viên HCMUE, em sẽ làm gì để góp phần xây dựng các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở nước ta?
(SV có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, có thể tham khảo một số gợi ý dưới đây)
Thực hiện học tập không ngừng, học thường xuyên, học không hạn chế để làm giàu vốn sống, tri thức cho bản
thân.
lOMoARcPSD| 61573419
Tham gia đóng góp ý kiến tại các buổi gặp mặt, buổi lấy ý kiến đại chúng để góp phần quản nhà nước
phát triển xã hội.
Tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, phẩm chất, lối sống theo gương Người Hồ vĩ đại.
Tích cực tham gia các hoạt động rèn luyện sức khỏe, hoạt động xã hội.
Thường xuyên theo dõi, thực hiện công tác giữ gìn trật tự tại địa phương.
Giữ gìn những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Đẩy mạnh tham gia các hoạt động phát triển kỹ năng sống cho bản thân.
Tuân thủ chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách phát luật của Đảng và Nhà nước.
Tôn trọng, yêu thương, hiếu thảo với ông bà cha mẹ.
Đẩy mạnh tăng gia sản xuất tại gia đình, phụ giúp những công việc phù hợp với bản thân.
Sống chan hòa, yêu thương, tôn trọng mọi người: hòa nhã với bạn bè, tôn trọng người lớn tuổi.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
a) Mục tiêu chủ nghĩa xã hội Việt Nam
Thứ nhất, mục tiêu về chế độ chính trị: Phải xây dựng được chế độ dân chủ.
Hồ CMinh đã từng khẳng định về “chế độ dân chủ”: “Chế độ ta chế độ dân chủ. Tức nhân dân làm
chủ”, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”.
Người khẳng định quyền lợi quyền hạn, trách nhiệm và địa vị của nhân dân: Tất cả lợi ích đều dân, tất
cả quyền hạn đều của dân, công cuộc đổi mi là trách nhiệm của dân, sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước là công
việc của dân, các cấp chính quyền do dân cử ra, các tổ chức đoàn thể do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và
lực lượng đều ở nơi dân.
Thứ hai, mục tiêu về kinh tế: Phải xây dựng được nền kinh tế phát triển cao gắn bó mật thiết với mục tiêu về
chính trị.
Hồ Chí Minh xác định: Đây phải là nền kinh tế phát triển cao “với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa
học và kỹ thuật tiên tiến”, là “nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể”.
Mục tiêu về kinh tế phải gắn bó mật thiết với mục tiêu về chính trị.
Theo Hồ Chí Minh, trong cơ cấu nền kinh tế thì kinh tế quốc doanh lãnh đạo nền kinh tế quốc dân và kinh tế
hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Nhà nước phải đảm bảo ưu tiên cho kinh tế quốc doanh
phát triển và phải đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn, giúp đỡ kinh tế hợp tác xã.
Thứ ba, mục tiêu về văn hóa: Phải xây dựng được nền văn hóa mang tính dân tộc, khoa học, đại chúng và
tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Hồ Chí Minh cho rằng: Mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị và kinh tế là mối quan hệ biện chứng. Chế độ
chính trị và kinh tế nền tảng và quyết định tính chất của văn hóa; còn văn hóa góp phần thực hiện mục tiêu chính tr
và kinh tế.
Người từng nói: “Xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy”, Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo: vì thế kinh
tế phải đi trước.
Vai trò của văn hóa: Người khẳng địn: “đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế”, “phát triển dân chủ”, “xây
dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất độc lập, dân chủ và giàu mạnh”, “là điều kiện cho nhân dân tiến
bộ”.
Muốn được như thế, yêu cầu: “…văn hóa phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức”, “phải
triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa ảnh ởng dịch của văn hóa đế quốc”, “… phát triển những truyền thống
tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt
Nam có tính chất khoa học, dân tộc, đại chúng.
Thứ tư, mục tiêu về quan hệ xã hội: Phải bảo đảm dân chủ, công bằng, văn minh.
Theo Hồ Chí Minh: Nhân dân phải làm tròn nhiệm vụ của người chủ để xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó
mọi người đều quyền làm việc; quyền nghỉ ngơi; có quyền học tập; có quyền tự do thân thể; có quyền tự do ngôn
luận, báo chí, hội họp, lập hội, biểu tình; quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào; quyền
bầu cử, ứng cử. Mọi công dân đều được bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước đảm bảo quyền tự do, dân chủ cho công
dân nhưng nghiêm cấm lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của nhân dân.
Như vậy, hội hội chủ nghĩa nhân dân ta xây dựng hội dân chủ, công bằng văn minh, tôn
trọng con người, hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể. b) Động lực của chủ nghĩa xã hộiViệt Nam
Theo Hồ Chí Minh, quan niệm động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là hợp lực gồm nhiều yếu tố: động
lực cả trong quá khứ, hiện tại tương lai, cả về vật chất, tinh thần, nội lực, ngoại lực,… tất cả các lĩnh vực như
kinh tế, chính trị, văn hóa,
Trong đó, vai trò quyết định nhất là nội lực dân tộc, là nhân dân, do vậy, cần đảm bảo các động lực hàng đầu
là lợi ích của dân, dân chủ của dân, sức mạnh đoàn kết toàn dân.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61573419
Chương 1 – KHÁI NIỆM, ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ Ý NGHĨA HỌC TẬP TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
KHÁI NIỆM TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Theo Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2011): “Tư tưởng Hồ Chí Minh
là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của
Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”.
Chương 2 – CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
I – CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Cơ sở thực tiễn  Quyết định sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
a) Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
Năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược Việt Nam. Triều đình Nguyễn lần lượt ký kết các hiệp
ước đầu hàng, từng bước trở thành tay sai của thực dân Pháp.
Từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX, các phong trào đấu tranh yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược liên tục
nổ ra khắp cả nước như khởi nghĩa của Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám,…
nhưng cuối cùng đều thất bại. Điều đó chứng tỏ tư tưởng phong kiến tỏ ra lỗi thời trước các nhiệm vụ lịch sử.
Sau hiệp ước Pa-tơ-nốt (1884), thực dân Pháp đã căn bản hoàn thành việc xâm lược và bình định Việt Nam
về mặt quân sự. Thông qua đó, chúng tiến hành các cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914), lần thứ hai
(19191929) khiến cho xã hội có sự biến đổi về cơ cấu giai cấp, tầng lớp:
Về kinh tế: duy trì nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 95% dân số là nông dân,…
Về xã hội: xuất hiện các giai tầng mới như giai cấp tư sản, giai cấp công nhân và tầng lớp tiểu tư sản ở thành
thị. Đây là cơ sở dẫn đến những mâu thuẫn mới: mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân VN với giai cấp tư sản, mâu
thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp bên cạnh mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa giai cấp nông
dân với địa chủ phong kiến.
Đầu thế kỉ XX, trước ảnh hưởng của khuynh hướng dân chủ tư sản ở Trung Quốc (tư tưởng Tam Dân của Tôn
Trung Sơn), ở Nhật Bản (cuộc Duy tân minh trị của Thiên hoàng Minh Trị), tại Việt Nam xuất hiện các phong trào yêu
nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản với sự dẫn dắt của các văn thân, sĩ phu yêu nước tiến bộ như: Phong trào
Đông Du (1905 – 1909) của Phan Bội Châu, phong trào Duy Tân (1906 – 1908) của Phan Châu Trinh, phong trào
Đông Kinh nghĩa thục (tháng 3 – tháng 11/1907) do Lương Văn Can, Nguyễn Quyến và một số nhân sĩ khác phát
động, Phong trào chống đi phu, chống sưu thuế ở Trung Kỳ năm 1908 nhưng vẫn rơi vào thất bại. Đó là do giai cấp tư
sản Việt Nam còn non yếu (nguyên nhân sâu xa), các tổ chức và người lãnh đạo các phong trào chưa có đường lối và
phương pháp cách mạng đúng đắn (nguyên nhân trực tiếp).
Sự ra đời của giai cấp công nhân và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam đã làm cho cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam xuất hiện dấu hiệu mới của một thời đại mới sắp ra đời. Công nhân Việt Nam
chịu ba tầng áp bức, bóc lột: thực dân, tư bản, phong kiến nên có tinh thần đấu tranh. Phong trào công nhân và các
phong trào yêu nước Việt Nam tạo điều kiện cho Chủ nghĩa Mác – Lênin xâm nhập và truyền bá vào đất nước ta.
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và dày công truyền bá Chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào công nhân và phong
trào yêu nước của Việt Nam, thể hiện qua việc sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường
lối cách mạng Việt Nam thông qua việc lựa chọn con đường cứu nước theo khuynh hướng vô sản, thắng lợi của Cách
mạng tháng 8 (1945), khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, kháng chiến chống Pháp (1946-1954), kháng
chiến chống Mỹ (1954-1975). Đó là nhân tố góp phần bổ sung và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trên tất cả phương diện.
b) Thực tiễn thế giới cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
Vào cuối TK XIX – đầu TK XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn
đế quốc chủ nghĩa thông qua độc quyền. Các nước đế quốc như Anh, Pháp,… đẩy mạnh xuất khẩu tư bản, xâm lược
thuộc địa để khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên, tận dụng nguồn lao động rẻ mạt và biến đã nước thuộc địa thành
thị trường tiêu thụ rộng lớn, đã chi phối toàn bộ tình hình thế giới. Phần lớn các nước Á, Phi và Mỹ Latinh trở thành
thuộc địa và phụ thuộc vào các nước đế quốc. Tình hình đó làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai
cấp vô sản ở các nước tư bản; mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau; mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và
phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác – Lênin ở một
nước lớn, đánh đổ giai cấp tư sản và giai cấp địa chủ phong kiến, lập nên một xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa, lOMoAR cPSD| 61573419
mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm
vi toàn thế giới, mở ra con đường giải phóng dân tộc cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Quốc tế Cộng sản ra đời ngày 2/3/1919 ở Mátxcơva trở thành Bộ tham mưu, lãnh đạo phong trào cách mạng
thế giới, thúc đẩy sự ra đời và hoạt động ngày càng mạnh mẽ của các Đảng Cộng sản ở nhiều nước.
Những điều này ảnh hưởng sâu sắc đến Hồ Chí Minh trên hành trình đi ra thế giới tìm mục tiêu và con đường cứu nước. 2. Cơ sở lý luận
a) Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam  Dẫn Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa yêu nước là giá trị xuyên suốt trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Đó là động
lực, sức mạnh giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại và vượt qua mọi khó khăn trong quá trình dựng nước, giữ nước, phát
triển. Chủ nghĩa yêu nước cũng là nền tảng tư tưởng, điểm xuất phát và động lực thúc đẩy Hồ Chí Minh ra đi tìm
đường cứu nước và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác – Lenin con đường cứu nước, cứu dân.
Hồ Chí Minh đã chú ý kế thừa, phát triển tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất vì độc lập, tự do của Tổ Quốc
nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ. Không có gì quý hơn độc lập, tự do – chân lý lớn của thời
đại là một điểm cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, Hồ Chí Minh hết sức chú trọng việc kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp như: yêu
nước gắn liền với yêu dân, có tinh thần đoàn kết, nhân ái, khoan dung trong cộng đồng và hòa hiếu với các dân tộc lân
bang; cần cù, dũng cảm, sáng tạo, lạc quan, vì nghĩa, thương người của người Việt Nam. Những phẩm chất này được
thể hiện qua các câu ca dao, tục ngữ như: Lá lành đùm lá rách; Hiền tài là nguyên khí của quốc gia,… Trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định thành công của cách mạng.
Trong truyền thống dân tộc Việt Nam thường trực một niềm tự hào về lịch sử, trân trọng nền văn hóa, ngôn
ngữ, phong tục, tập quán và những giá trị tốt đẹp khác của dân tộc. Đó chính là cơ sở hình thành nên tư tưởng, phẩm
chất của nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh với chủ trương văn hóa là mục tiêu, động lực của cách mạng; cần giữ gìn
cốt cách văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng nền văn hóa mới của Việt Nam. Hồ
Chí Minh chính là một biểu tượng cao đẹp của sự tích hợp tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây. b) Tinh
hoa văn hóa nhân loại  Phát triển, nâng cấp quan điểm của Hồ Chí Minh lên một bước tiến lớn - Tinh hoa văn hóa phương Đông:
Tinh hoa văn hóa, tư tưởng phương Đông kết tinh trong ba học thuyết lớn Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo.
Về Nho giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa và đổi mới tư tưởng dùng nhân trị, đức trị để quản lý xã hội; kế thừa
và phát triển quan niệm của Nho giáo về việc xây dựng một xã hội lý tưởng trong đó công bằng, Người ái, nhân, nghĩa,
trí, dũng, tín, liêm được coi trọng để có thể đi đến một thế giới đại đồng với hòa bình, không có chiến tranh, các dân
tộc có quan hệ hữu nghị và hợp tác. Ngoài ra, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, đổi mới, phát triển tinh thần trọng đạo đức
trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của con người, trong công tác xây dựng Đảng về đạo đức.
(“Lời nói chẳng mất tiền mua”, “Công dung ngôn hạnh”, “Tam tòng tứ đức”,…)
Về Phật giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng từ bi, vị tha, yêu thương con người, khuyến
khích làm việc thiện, chống điều ác; đề cao quyền bình đẳng của con người và chân lý; sống hòa đồng, gắn bó với đất
nước. Hồ Chí Minh chú trọng kế thừa, phát triển những tư tưởng nhân bản, đạo dức tích cực trong Phật giáo vào việc
xây dựng xã hội mới, con người mới Việt Nam hiện nay.
Về Lão giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng của Lão Tử, khuyên con người nên sống gắn bó
với thiên nhiên, hòa đồng với thiên nhiên và biết bảo vệ môi trường sống; tư tưởng thoát khỏi mọi ràng buộc của vòng danh lợi.
Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn kế thừa phát triển nhiều ý tưởng của các trường phái khác nhau trong các nhà tư
tương phương Đông cổ đại như Mặc Tử, Hàn Phi Tử,… Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng chú ý tìm hiểu những trào lưu
tư tưởng tiến bộ thời cận hiện đại ở Ấn Độ, Trung Quốc như chủ nghĩa Găngđi, chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn.
Hồ Chí minh đã phát triển sáng tạo các quan điểm về dân tộc, dân quyền, dân sinh của Tôn Trung Sơn (dân tộc độc
lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc) trong cách mạng dân chủ tư sản thành tư tưởng đấu tranh cho Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.
- Tính hoa văn hóa phương Tây
Hồ Chí Minh đã quan tâm tìm hiểu những khẩu hiệu nổi tiếng trong các cuộc cách mạng tư sản ở Anh, Pháp,
Mỹ như khẩu hiệu Tự do – Bình đẳng – Người ái của Đại cách mạng Pháp năm 1789,…
Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển những quan điểm nhân quyền, dân quyền trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776
của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1791 của Pháp, từ đó đề xuất những quan điểm về quyền mưu
cầu độc lập, tự do, hạnh phúc của các dân tộc,
Hồ Chí Minh đã hoạt động thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa nhân loại tại các
trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa lớnở các cường quốc thế giới như Mỹ, Anh, Pháp, Nga,… lOMoAR cPSD| 61573419
Hồ Chí Minh trực tiếp nghiên cứu tư tưởng nhân văn, dân chủ và nhà nước pháp quyền của các nhà khai sáng
phương Tây như Vonte, Rútxô, Môngtétxkiơ, tìm hiểu chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, đọc sách văn học của
William Shakespeare, Lỗ Tấn, Hugo, …
c) Chủ nghĩa Mác – Lênin (cũng là tinh hoa văn hóa nhân loại)  Quyết định bản chất cách mạng, khoa học
Chủ nghĩa Mác – Lênin chính là cơ sở lý luận quyết định bước phát triển mới về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất,
chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin.” Qua đó khẳng định được tính cách mạng và nhân văn sâu sắc.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là thế giới quan, phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động cách mạng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là tiền đề lý luận quan trọng nhất, có vai trò quyết định trong việc hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác – Lenin quyết định bản chất thế giới quan khoa học Hồ Chí Minh, quyết định phương
pháp hành động biện chứng Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chúng tôi giành được thắng lợi đó là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn
mạnh rằng - mà không phải chỉ nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh Lênin - chúng tôi giành được những thắng lợi
đó trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác – Lênin.”
Tư tường Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lenin ở Việt Nam. Hồ Chí Minh không
những vận dụng sáng tạo, mà còn bổ sung, phát triển và làm phong phú thêm Chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời đại mới.
3. Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh
a) Phẩm chất của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh là người có lý tưởng cao cả và hoài bão lớn cứu dân, cứu nước thoát khỏi cảnh lầm than, cơ cực
để theo kịp các nước tiên tiến trên thế giới.
Hồ Chí Minh là người có bản lĩnh tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, giàu tính phê phán, đổi mới và cách mạng.
Hồ Chí Minh là người có tầm nhìn chiến lược, bao quát thời đại, đã đưa cách mạng Việt Nam vào dòng chảy
chung của cách mạng thế giới.
Hồ Chí Minh là người suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân, là người suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp
cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và của cách mạng thế giới.
Những phẩm chất cá nhân đó là một nhân tố quyết định những thành công của Hồ Chí Minh trong hoạt động
lý luận và thực tiễn cho dân tộc Việt Nam và nhân loại.
b) Tài năng hoạt động, tổng kết thực tiễn phát triển lý luận
Hồ Chí Minh là người có vốn sống và thực tiễn cách mạng phong phú, phi thường qua quá trình hoạt động
cách mạng của Người. Người đã sống, học tập và hoạt động cách mạng ở gần 30 nước trên thế giới. Người hiểu sâu
sắc chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân và chế độ thực dân thông qua tìm hiểu tài liệu, sách, báo và thông qua cuộc
sống và hoạt động thực tiễn ở các cường quốc.
Hồ Chí Minh thấu hiểu về phong trào giải phóng dân tộc, về xây dựng chủ nghĩa xã hội, về xây dựng Đảng
Cộng sản,… không chỉ qua nghiên cứu lý luận mà còn qua việc tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, hoạt động ở
Trung Quốc, nghiên cứu đời sống xã hội ở Liên Xô,…
Hồ Chí Minh là nhà tổ chức vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Người đã hiện thực hóa tư tưởng, lý luận cách
mạng thành hiện thực sinh động; đồng thời tổng kết cách mạng, bổ sung, phát triển lý luận, tư tưởng cách mạng. Cùng
với việc tìm thấy mục tiêu, phương hướng cách mạng Việt Nam ở chủ nghĩa Mác - Lênin, Người tham gia sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp; chuẩn bị về nhiều mặt cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam – tổ chức lãnh đạo cách mạng
Việt Nam theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Người sáng lập Mặt trận dân tộc thống nhất; sáng lập Quân đội nhân dân Việt
Nam; khai sinh Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam.
Những phẩm chất cá nhân cùng những hoạt động thực tiễn phong phú trên nhiều lĩnh vực khác nhau ở trong
và ngoài nước là nhân tố chủ quan hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
II – QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH:
1. Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng tìm đường cứu nước mới
Trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh tiếp thu truyền thống tốt đẹp của quê hương, gia đình và của dân tộc để hình
thành nên tư tưởng yêu nước và tìm đường cứu nước.
Thứ nhất, Hồ Chí Minh tiếp thu truyền thống tốt đẹp của quê hương.
Hồ Chí Minh là người con của vùng đất Nghệ An – vùng đất địa linh nhân kiệt, giàu truyền thống yêu nước.
Đây cũng là nơi sản sinh ra rất nhiều những nhân tài và anh hùng yêu nước trong lịch sử dân tộc với tấm lòng yêu
nước, thương dân, đấu tranh kiên cường, bất khuất như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, … Thứ hai, Hồ Chí Minh
tiếp thu truyền thống tốt đẹp của gia đình. lOMoAR cPSD| 61573419
Hồ Chí Minh được sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước. Cha là cụ Nguyễn Sinh Sắc, từng đỗ phó
Bảng và đã làm quan, nhưng cụ luôn dạy con của mình “đừng lấy phong cách nhà quan làm phong cách nhà ta”. Tinh
thần yêu nước, thương dân và nhân cách của cụ Nguyễn Sinh Sắc có ảnh hưởng lớn lao đến tư tưởng và nhân cách của
Người thuở niên thiếu. Mẹ là cụ Hoàng Thị Loan, một người mẹ Việt Nam điển hình với đức tính nhân hậu, tần tảo,
đảm đang, luôn nhân hậu với bà con làng xóm. Tình cảm của cụ đã ảnh hưởng đến các con bằng tấm lòng nhân hậu
và mẫn cảm của người mẹ.
Thứ ba, Hồ Chí Minh tiếp thu truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Hồ Chí Minh sớm có tư tưởng yêu nước và thể hiện rõ tư tưởng yêu nước trong hành động. Thông qua quá
trình theo học với các vị túc nho và tiếp xúc với nhiều loại sách, báo tiến bộ, Người sớm hiểu rõ tình cảnh nước nhà
bị giặc ngoại xâm đô hộ. Người tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kỳ (1908), dành hết tâm huyết truyền thụ
cho học sinh lòng yêu nước và những suy nghĩ về vận mệnh nước nhà trong suốt quá trình tham gia giảng dạy tại
trường Dục Thanh – Phan Thiết (1910).
Điểm đặc biệt của tuổi trẻ Hồ Chí Minh là suy ngẫm sâu sắc về Tổ Quốc và thời cuộc. Người sáng suốt phê
phán, không tán thành, không đi theo các phương pháp, khuynh hướng cứu nước của các vị tiền bối cách mạng.
Chính những điều này đã thôi thúc Người tìm hiểu những gì đằng sau sức mạnh của kẻ thù và học hỏi kinh
nghiệm cách mạng trên thế giới. Ngày 5/6/1911, Hồ Chí Minh đi ra nước ngoài tìm con đường cứu nước, cứu dân.
2. Thời kỳ 1911-1920: Hình thành tư tưởng cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản được hình thành
từng bước trong quá trình Người đi tìm mục tiêu và con đường cứu nước. Cụ thể, đó là quá trình Người sinh sống, học
tập, làm việc, nghiên cứu lý luận và tham gia đấu tranh trong thực tế cách mạng tại nhiều nước trên thế giới:
Trước hết, Hồ Chí Minh xác định đúng bản chất, thủ đoạn, tội ác của chủ nghĩa thực dân và tình cảnh nhân
dân các nước thuộc địa. Từ năm 1911 đến năm 1917, từ Pháp, Người đến nhiều nước trên thế giới. Người hình thành
một nhận thức mới: Nhân dân lao động các nước, trong đó có giai cấp công nhân, đều bị bóc lột có thể là bạn của
nhau; chủ nghĩa đế quốc, bọn thực dân ở đâu cũng đều là kẻ bóc lột, kẻ thù của nhân dân lao động.
Hồ Chí Minh trở lại Pháp năm 1917, tham gia phong trào công nhân Pháp đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.
Hồ Chí Minh gia nhập Đảng Xã Hội của giai cấp công nhân Pháp năm 1919 vì Người cho rằng đây là tổ chức
theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại Cách Mạng Pháp: Tự do, bình đẳng, Người ái.
Hồ Chí Minh có bước nhận thức mới về quyền tự do, dân chủ của nhân dân thông qua hoạt động thay mặt
những người Việt Nam yêu nước ở Pháp, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc gửi Yêu sách của nhân dân An Nam tới Hội nghị
Véc-xây ngày 18/6/1919 để đòi quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Đây là tiếng nói chính nghĩa đầu tiên
của đại biểu phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam trên diễn đàn quốc tế.
Hồ Chí Minh tìm thấy phương hướng đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô
sản qua nghiên cứu Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin và
nhiều tài liệu liên quan đến Quốc tế Cộng sản vào tháng 7/1920.
Hồ Chí Minh đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản (Quốc tế thứ III) tại đại hội Tua (từ ngày 25 đến ngày
30/12/1920), tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đây là bước ngoặt
quan trọng trong cuộc đời của Hồ Chí Minh, bước ngoặt chủ nghĩa yêu nước kết hợp chặt chẽ với lập trường cách mạng vô sản
3. Thời kỳ 1920-1930: Hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam cơ bản được hình thành trong giai đoạn 1920-1930 vì đây là
thời kỳ mục tiêu, phương hướng cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam từng bước được cụ thể hóa, thể hiện rõ trong
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Có thể khái quát theo các nội dung sau:
Hồ Chí Minh sử dụng báo chí như là một công cụ để lên án chủ nghĩa thực dân Pháp, thức tỉnh lương tri, khơi
gợi lòng yêu nước của nhân dân các dân tộc bị áp bức và kêu gọi sự đồng tình của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên
thế giới. Một số bài báo đáng chú ý như Vấn đề dân bản xứ đăng báo I’Humanite tháng 8/1919, Ở Đông Dương đăng
báo I’Humanite ngày 4/11/1920,… Năm 1921, Hồ Chí Minh tham gia sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa. Năm 1920,
Người được bầu là trưởng tiểu ban nghiên cứu vấn đề dân tộc, thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp, sáng lập báo Le Paria bằng tiếng Pháp.
Hồ Chí Minh đẩy mạnh hoạt động lý luận chính trị, tổ chức, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thông qua báo chí và các hoạt dộng thực tiễn, Người tích cực truyển bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Phương hướng của cách mạng giai phóng dân tộc trong các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam được Hồ
Chí Minh cụ thể hóa một bước trên cơ sở phân tích sâu sắc bản chất, thủ đoạn của chủ nghĩa thực dân Pháp. Những
nội dung đó được thể hiện rõ trong nhiều bài báo của Người đăng trên các báo của Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng lOMoAR cPSD| 61573419
sản Liên Xô, của Quốc tể Cộng sản và trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp viết bằng tiểng Pháp, được xuất
bản lần đầu tiên ở Pari năm 1925.
Hồ Chí Minh sáng lập tố chức tiền thân của Đảng Cộng sản: Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (tháng
6/1925), ra báo Thanh niên bằng tiếng Việt, từng bưộc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và lý luận cách mạng trong
những người yêu nước và công nhân.
Tổng kết kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư sản Anh, Pháp, Mỹ và nhất là từ kinh nghiệm Cách mạng Tháng
Mười Nga, Hồ Chí Minh vạch rõ cách mạng Việt Nam phải có Đảng Cộng sản với chủ nghĩa Mác - Lênin làm cốt để
länh đạo; lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc là toàn thể nhân dân Việt Nam, trong đó nòng cốt là liên minh công
nông. Những nội dung đó được thể hiện qua tác phẩm Đường cách mệnh xuất bản năm 1927 ở Quảng Châu, Trung Quốc.
Hồ Chí Minh khởi thảo các văn kiện được coi là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh chính trị đúng đắn và sáng tạo đã chấm dứt
cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước và tổ chức lãnh đạo cách mạng Việt Nam kéo dài suốt từ cuối thế kỷ XIX sang đầu năm 1930.
Đây là giai đoạn cho thấy sự đúng đắn, sáng tạo, thực tiễn, khoa học trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thể hiện trên các nội dung sau: -
Cách mạng Việt Nam phải có Đảng Cộng Sản với chủ nghĩa Mác – Lênin làm cốt để lãnh đạo. -
Lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc là toàn thể nhân dân Việt Nam, trong đó nòng cốt là liên minh công nông -
Mục tiêu và con đường cách mạng là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản” (độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội) -
Khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. -
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, -
Con đường cách mạng được vạch rõ thông qua cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng, xác định cách
mạng Việt Nam phải đi theo con đường cách mạng vô sản. -
Phương pháp cách mạng: dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.
4. Thời kỳ 1930-1941: Vượt qua thử thách, giữ vững đường lối, phương pháp cách mạng Việt Nam đúng đắn, sáng tạo
Những thử thách lớn với Hồ Chí Minh xuất hiện không chỉ từ phía kẻ thù, mà còn từ trong nội bộ những người cách mạng.
Thứ nhất, thách thức từ phía kẻ thù.
Ngày 6/6/1931, Hồ Chí Minh bị sĩ quan anh và cảnh sát Trung Quốc bắt tại Hồng Kông và bị chúng vu cáo tội
làm tay sai của Liên Xô, có âm mưu phá hoại chính quyền Hồng Kông. Lúc này, luật sư Lôdơbi đã giúp đỡ, bào chữa
cho Người được trắng án và Người được trả tự do vào tháng 7/1932.
Tháng 8/1932, Người bí mật rời Hương Cảng để tránh mật thám Pháp, Người định đi Anh nhưng vừa dặt chân
đến Singapore đã bị bắt và trả về Hồng Kông. Ngày 19/1/1933, Người lại tiếp tục bị vu cáo tội đi vào thuộc địa mà
không có giấy phép, và bị nhà cầm quyền Hương Cảng bắt giam một lần nữa. Người lại được luật sư Lôdơbi giúp đỡ,
và ngày 22/1/1933, Người cải trang thành thương gia Trung Quốc, với sự hỗ trợ từ thư ký của luật sư, bí mật rời Hồng
Kông, đến Hạ Môn ngày 25/1/1933.
Thoát khỏi nhà tù của thực dân Anh năm 1934, Hồ Chí Minh trở lại Liên Xô.
Thứ hai, thách thức từ trong nội bộ của Quốc tế Cộng sản.
Sự nhìn nhận sai lầm từ một số người trong Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Đông Dương do chịu ảnh
hưởng từ quan điểm giáo điều tả khuynh xuất hiện trong Đại hội VI Quốc tế Cộng sản. Tư tưởng mới mẻ, đúng đắn,
sáng tạo của Người không được hiểu mà còn bị coi là “hữu khuynh”, “dân tộc chủ nghĩa”. (Điều này được thể hiện
bằng việc Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định “thủ tiêu Chánh cương, Sách lược và Điều lệ Đảng”, “bỏ tên Đảng
Cộng sản Việt Nam” do Người sáng lập).
Trong 4 năm từ 1934-1938, Người vẫn bị hiểu lầm về một số hoạt động thực tế và quan điểm cách mạng.
Tuy gặp nhiều thách thức như thế, Hồ Chí Minh đã vượt lên trên tất cả bằng ý chí và nghị lực kiên cường của mình:
Ngày 6/6/1938, Người đã gửi thư cho một lãnh đạo Quốc tế Cộng sản, đề nghị cho phép trở về nước hoạt động.
Tháng 10/1938, Người rời Liên Xô, qua Trung Quốc để về Việt Nam lOMoAR cPSD| 61573419
Tháng 12/1940, Người về gần biên giới Việt Nam – Trung Quốc, liên lạc với Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương và trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam.
Đặc biệt, tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng Cộng sản Đông Dương khẳng định, trở thành yếu tố chỉ đạo cách
mạng Việt Nam từ Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ Tám tháng 5/1941. Trong hội nghị này, Người khẳng định
“Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn
Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng.”
Tạm thời gác lại khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, chủ trương thành lập Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa để lập Mặt trận Việt Minh; thực hiện đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công – nông là nòng
cốt; xác định được phương hướng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
Những quan điểm cơ bản nhất về đường lối cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam của Hồ Chí Minh đã được
đưa vào thực tiễn tổ chức nhân dân biến thành các phong trào cách mạng để dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
5. Thời kỳ 1941-1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta
Q: Hãy nêu một số giá trị mà Tư tưởng Hồ Chí Minh đã góp phần trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945?
Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng trong thời kỳ này cơ bản là thống nhất. Người đã đưa ra nhiều
quan điểm sáng tạo, đi trước thời gian, càng ngày càng được Đảng ta làm sáng tỏ và tiếp tục phát triển soi sáng con
đường cách mạng Việt Nam.
Ngày 19/5/1941, Hồ Chí Minh sáng lập mặt trận Việt Minh. Ngày 22/12/1944, sáng lập Đội Việt Nam Tuyên
truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 18/8/1945, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi Tổng
khởi nghĩa giành chính quyền. Năm 1945, Cách mạng Tháng 8 thành công – đây là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đánh dấu một thời đại mới trong lịch sử dân tộc: thời đại độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Từ 2/9/1945-19/12/1946, Hồ Chí Minh đề ra chiến lược, sách lược cách mạng sáng suốt, lãnh đạo Đảng và
chính quyền cách mạng non trẻ vượt qua giai đoạn ngàn cân treo sợi tóc.
Từ năm 1946-1954, Hồ Chí Minh là linh hồn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Ngày 19/12/1946,
Người ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, khái quát đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp, vừa là lời thề
thiêng liêng bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam. “Thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ”. Trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh hoàn thiện lý luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và
từng bước hoàn thành tư tưởng về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Từ năm 1954-1969, Hồ Chí Minh xác định và lãnh đạo thực hiện đường lối cùng một lúc thi hành hai nhiệm
vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam. Trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh bổ sung hoàn thiện hệ thống quan điểm cơ bản của
cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, đạo đức, đối ngoại…
Trước khi đi xa, Người để lại bản Di chúc, một văn kiện lịch sử vô giá, kết tinh tư tưởng, trí tuệ, tâm hồn, văn
hóa, đạo đức, phong cách của một nhà lãnh tụ cách mạng, anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà tư tưởng lỗi lạc, nhà văn hóa
kiệt xuất, suốt đời, vì dân, vì nước.
Từ năm 1969 đến nay, TTHCM tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng và phát triển trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.
III – GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH:
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã mang lại những giá trị tốt đẹp đối với cách mạng Việt Nam và sự hạnh phúc, tiến
bộ của nhân loại, thế giới: 1. Đối với cách mạng Việt Nam
a) Tư tưởng Hồ Chí Minh đưa cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đến thắng lợi và bắt đầu xây dựng một xã hội mới trên đất nước ta
Hồ Chí Minh tìm thấy con đường cứu nước mới cho dân tộc Việt Nam, sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng
ta thành một đảng chân chính, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân và lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập dân
tộc thể hiện qua sự thắng lợi của Cách mạng Tháng tám năm 1945 đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc
Việt Nam – kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh cùng Đảng ta lãnh đạo nhân dân tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954), thắng
lợi đánh dấu bằng chiến thắng Điện Biên Phủ, buộc Pháp phải ký hiệp định Giơ-ne-vơ (21/7/1954), tôn trọng các
quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam và rút hết quân về nước. lOMoAR cPSD| 61573419
Sau đó, tiến hành 2 nhiệm vụ từ năm 1954-1975: lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
và cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam chống đế quốc Mĩ. Sau chiến thắng của chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử ngày 30/4/1975, nước ta đã hoàn thành công cuộc thống nhất đất nước về mặt lãnh thổ, tổ quốc ta đã sum
vầy một mối. Thắng lợi to lớn đó là bởi có tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền với sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng
ta biến tư tưởng Hồ Chí Minh thành hiện thực.
Tư tưởng Hồ Chí Minh từ khi ra đời đã trở thành ngọn cờ tư tưởng dẫn đường cách mạng Việt Nam đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác, khẳng định sự đúng đắn và sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống mở đầy sức sống được Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục vận dụng,
sáng tạo, bổ sung, phát triển trong sự nghiệp đổi mới hiện nay và tương lai.
b) Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục soi đường cho Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam trên con đường
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là ánh sáng soi
đường, là kim chỉ nam giúp Đảng và nhân dân nhận thức đúng những vấn đề lớn có liên quan đến việc bảo vệ nền độc
lập dân tộc, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo tự do và hạnh phúc cho con người, tiến tới xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là chỗ dựa vững chắc để Đảng vạch ra đường lối cách mạng đúng đắn, dẫn đường
cho toàn Đảng, toàn dân Việt Nam đi tới thắng lợi. Tư tưởng Hồ Chí Minh trường tồn, bất diệt cùng với sự phát triển
vững mạnh của dân tộc Việt Nam.
Đại hội XIII của Đảng (25/1 – 1/2/2021) tiếp tục khẳng định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định
đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Điều đó càng khẳng định vai trò nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời đại mới.
Hiện nay kẻ thù vẫn âm mưu phá hoại đất nước bằng các luận điệu xuyên tạc, “diễn biến hòa bình”, bạo loạn
lật đổ nhằm xóa bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhưng trên hết, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn luôn là điểm tựa vững chắc để nhân dân ta giữ vững lập trường chính trị,
kiên định với con đường cách mạng của Đảng. Mỗi người dân sẽ luôn là người chiến sĩ trên mặt trận bảo vệ Tổ quốc
dù là trong quá khứ, hiện tại, hay tương lai.
2. Đối với sự phát triển tiến bộ của nhân loại
a) Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần mở ra cho các dân tộc thuộc địa con đường giải phóng dân tộc gắn với sự tiến bộ xã hội
Cống hiến lý luận lớn đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh là về cách mạng giải phóng dân tộc. Cách mạng giải
phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản, được tiến hành bởi toàn dân với liên minh
công nông làm nòng cốt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Cách mạng giải phóng dân tộc được tiến hành bằng phương pháp bạo
lực của quần chúng nhân dân: kết hợp giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang sao cho linh hoạt, phù hợp.
Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần bổ sung, phát triển kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, đặc biệt là
về vấn đề dân tộc và thuộc địa, dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, về cách mạng giải phóng dân
tộc gắn với giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Hồ Chí Minh là người tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc, làm sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ
nghĩa thực dân, được thế giới tôn vinh là Anh hùng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay.
Các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới có thể kể đến như: Năm 1960 được gọi là "Năm châu
Phi" vì đây là năm này đánh dấu bước ngoặt của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân châu Phi với
17 quốc gia giành được độc lập từ tay chủ nghĩa thực dân dưới những hình thức và mức độ khác nhau. Thắng lợi của
cách mạng Cuba là lá cờ đầu của phong trào giải phóng dân tộc ở Mỹ Latinh, từ năm 60-70, phong trào chống Mĩ và
độc tài thân Mĩ phát triển và giành được nhiều thắng lợi, các quốc gia ở Mỹ Latinh lần lượt giành được độc lập. Thế
kỷ XX trở thành thế kỷ giải trừ chủ nghĩa thực dân. Năm 1975, thắng lợi của nhân dân Mô-dăm-bích và Ăng-go-la
đánh dấu chủ nghĩa thực dân cũ ở Châu Phi cơ bản tan rã.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc được đặt trên cơ sở hiện thực của Việt Nam nhưng
có ý nghĩa lớn đối với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới.
b) Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc dân tộc, dân chủ, hòa bình, hợp
tác và phát triển trên thế giới.
Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên khẳng định hợp tác quốc tế là xu thế tất yếu của thời đại, mở đường
cho sự phát triển, liên kết các dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập, dân chủ, hòa bình, hợp tác và tiến bộ xã hội.
Gắn cách mạng Việt Nam với phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân và cộng sản quốc tế. Hợp tác quốc
tế không những vì độc lập dân tộc mà còn là vì để xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, tiến kịp với sự phát triển của nhân loại. lOMoAR cPSD| 61573419
Hợp tác quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng cùng có lợi.
Theo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI đã nêu lên chính sách đối ngoại: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối
tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam
xã hội chủ nghĩa giàu mạnh.
Theo Hồ Chí Minh, chủ trương “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai” là nội
dung lớn trong đường lối thực hiện chính sách ngoại giao, đoàn kết quốc tế.
Nhận thức rõ chủ trương này, Đảng ta đã nỗ lực trong việc ngoại giao, duy trì mối quan hệ hòa bình, hợp tác
cùng phát triển với các nước trên thế giới. Cho đến nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 192 (một trăm chín mươi
hai) nước, trong đó có tất cả các nước lớn, có quan hệ kinh tế với hơn 221 (hơn hai trăm hai mươi mốt) thị trường
nước ngoài và là thành viên của nhiều tổ chức và diễn đàn quốc tế. Các tổ chức, diễn đàn Việt Nam tham gia có thể kể
đến như ASEAN (1995), Diễn đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM) (1996), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế khu vực châu Á- Thái
Bình Dương (APEC) (1998), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) (2006) Ngày 11 tháng 7 năm 1995, Tổng thống
Hợp chúng quốc Hoa Kỳ Bill Clinton tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Ngày 5 tháng 8
năm 1995, quan chức ngoại giao hai nước ký kết thỏa thuận mở Đại sứ quán tại thủ đô của hai nước. Đại sứ quán Hoa
Kỳ tại Hà Nội mở cửa ngày 6 tháng 8 năm 1995 với Đại sứ là L. Desaix Anderson. Việt Nam đã giải quyết ổn thỏa
nhiều tranh chấp biên giới, lãnh thổ, biển đảo, giữ vững môi trường hòa bình; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Chương 3 – TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
I – TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
Độc lập là quyền bất khả xâm phạm của một đất nước, một quốc gia, một dân tộc bởi chính người dân sinh
sống ở đó, có nghĩa là có chủ quyền tối cao. Độc lập còn có thể hiểu là "sự không phụ thuộc" từ cá nhân, tập thể, xã
hội, quốc gia hay dân tộc nào vào cá nhân, tập thể, xã hội, quốc gia hay dân tộc khác.
1. Vấn đề độc lập dân tộc
a) Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc
Thứ nhất, Hồ Chí Minh tiếp cận quyền độc lập tự do từ chân lý thời đại đã được các nước lớn thừa nhận:
“Quyền sống”, “Quyền bình đẳng”, “Quyền sung sướng” và “Quyền tự do” đều là quyền của con người, là “những
quyền mà không ai có thể xâm phạm được” đã được ghi nhận trong các văn bản quốc tế như “Tuyên ngôn độc lập”
của Mỹ năm 1776 và “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Pháp năm 1791. Quyền con người được hiểu là
những quyền tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các
thỏa thuận pháp lý quốc tế. Tức là, đây đều là những quyền mà được cả thế giới trong đó có cả những nước lớn công nhận và đồng tình.
Hồ Chí Minh đã cho thấy sự hình thành tư tưởng về quyền tự do và bình đẳng khi thay mặt những người Việt
Nam yêu nước gữi tới Hội nghị Véc-xây bản Yêu sách của nhân dân An Nam, bao gồm 8 điểm với hai nội dung chính
là đòi quyền bình đẳng về mặt pháp lý và đòi các quyền tự do, dân chủ của người dân Đông Dương.
Thứ hai, Hồ Chí Minh phát triển và suy rộng từ những quyền của con người và tinh hoa của thế giới thành
những quyền mà mọi dân tộc đều phải được hưởng. Đó là quyền bình đẳng, quyền độc lập, quyền tự do, quyền hạnh
phúc, “đó là những lẽ không ai chối cãi được”.
Thứ ba, Khát vọng được hưởng độc lập và tự do là khát vọng ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Trong đó, Hồ
Chí Minh khẳng định khát vọng của cá nhân cũng là khát vọng của dân tộc Việt Nam: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là
đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập”.
Thứ tư, Hồ Chí Minh khẳng định độc lập dân tộc và tự do cho nhân dân là vấn đề xuyên suốt trong phong trào cách mạng Việt Nam:
Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng (năm 1930), Hồ Chí Minh xác định mục tiêu chính của cách mạng là:
“Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập” lOMoAR cPSD| 61573419
Năm 1941, trong Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8 (5/1941), Hồ Chí Minh khẳng định:
“Trong lúc này nếu không giành được độc lập cho dân tộc thì chẳng những quốc gia dân tộc phải chịu mãi kiếp ngựa,
trâu mà quyền lợi bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”
Năm 1945, Người đã đúc kết ý chí đấu tranh cho độc lập dân tộc và tự do cho nhân dân mà cả dân tộc Việt
Nam mong muốn hướng đến: “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Nặm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên
ngôn độc lập để trịnh trọng tuyên bố trước đồng bào cả nước và thế giới về quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, nhân dân Việt Nam quyết giữ vững quyền tự do và độc lập ấy. Điều
này thể hiện sự cương quyết và có ý nhắc nhở, cảnh báo các nước đế quốc nếu như có ý định muốn xâm lược Việt
Nam thì phải suy xét lại vì “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và
độc lập” cũng như ý chí quyết tâm giữ vững nền độc lập ấy: “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc cũng được thể hiện trong Kháng chiến chống Pháp. Hồ Chí Minh từng
khẳng định: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến
đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: Toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập dân tộc cho đất nước.”
Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Hồ Chí Minh từng thể hiện rất rõ quyết tâm sắt đá chống thực dân
Pháp xâm lược nước ta lần thứ 2 nhằm bảo vệ cho bằng đượcnền độc lập dân tộc – giá trị thiêng liêng mà nhân dân ta
đã giành được: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”
Trong kháng chiến chống Mỹ, Hồ Chí Minh đã nêu lên một chân lý thời đại, một tuyên ngôn bất hủ của các dân tộc
khao khát nền độc lập, tự do trên thế giới: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Nhờ vậy, nhân dân Việt Nam đã đánh
thắng đế quốc Mỹ xâm lược, buộc chúng phải ký kết Hiệp định Pari, cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của
nhân dân Việt Nam, rút quân về nước.
b) Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân
Thứ nhất, Hồ Chí Minh khẳng định vấn đề độc lập gắn liền với tự do là chân lý của thời đại.
Người cho rằng đây là lẽ đương nhiên trong đấu tranh cách mạng của các dân tộc. Người dẫn bản Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp (1791): “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải
luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” khẳng định dân tộc Việt Nam cũng phải được tự do và bình đẳng về quyền
lợi. “Đó là lẽ phải không ai chối cãi được”. Người cũng đánh giá cao học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc
lập và tự do: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.
Trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi đến hội nghị Véc-xây (1919), Người đề nghị các nước đế quốc
thắng trận tôn trọng quyền tự do, trong đó có “Tự do báo chí và tự do ngôn luận. Tự do lập hội và hội họp. Tự do cư
trú ở nước ngoài và tự do xuất dương. Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ”
Thứ hai, Độc lập gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân dân là bản chất, mục tiêu của cách mạng Việt Nam.
Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930, Người xác định mục tiêu của đấu tranh cách mạng là “Làm
cho nước Nam được hoàn toàn độc lập… dân chúng được tự do… Thủ tiêu hết các thứ quốc trái… Thâu hết ruộng đất
của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo. Bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo… Thi hành luật ngày làm 8 giờ”.
Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, Người một lần nữa độc lập phải gắn với tự do, hạnh phúc: “Nước
độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” Ngay sau thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, để đảm bảo độc lập phải gắn với hạnh phúc của nhân dân, trong bối cảnh nhân dân đói
rét, mù chữ, Người đã yêu cầu: “Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành”.
Người từng bộc bạch: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. c) Độc lập
dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
Q: Vì sao để các dân tộc được bình đẳng, các dân tộc ấy phải được hưởng nền độc lập thật sự?
Thứ nhất, thực dân đế quốc luôn tung chiêu bài mị dân, “độc lập, tự do” giả hiệu để che đậy bản chất bóc lột,
“ăn cướp” và “giết người” của mình.
Thứ hai, theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải độc lập thật sự, hoàn toàn, triệt để trên tất cả các lĩnh vực: lOMoAR cPSD| 61573419
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,.. Người từng nhấn mạnh: độc lập mà người dân không có quyền tự quyết về ngoại
giao, không có quân đội riêng, không có nền tài chính riêng… thì độc lập đó chẳng có ý nghĩa gì. Biện pháp: Để bảo
vệ nền độc lập non trẻ của dân tộc, Người và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thực hiện biện pháp ngoại
giao (Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946, Bản Tạm ước 14/9). Kết quả đấu tranh bước đầu của tư tưởng độc lập thực sự Hồ Chí
Minh vì Pháp công nhân Việt Nam là một quốc gia tự do có chính phủ, có quân đội, nghị viện riêng… d) Độc lập dân
tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Q: Vì sao chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là điều kiện để đảm bảo nền độc lập dân tộc của nước nhà?
Thứ nhất, xuất phát từ bối cảnh nước nhà trong lịch sử. Thực dân Pháp khi xâm lược đã chia đất nước ta ra ba
kỳ, mỗi kỳ có chế độ cai trị riêng. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, miền Bắc bị quân Tưởng Giới Thạch chiếm
đóng, miền Nam bị thực dân Pháp xâm lược và sau khi độc chiếm thì bày ra cái gọi là “Nam kỳ tự trị” chia cắt lâu dài nước ta.
Thứ hai, đó là từ quyết tâm giữ vững nền độc lập dân tộc mà Hồ Chí Minh thể hiện trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Trong Thư gửi đồng bào Nam Bộ (1946), Người khẳng định: “Đồng bào Nam
Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”. Sau khi ký Hiệp
định Giơ-ne-vơ, Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền nhưng Người vẫn kiên trì, tiếp tục đấu tranh với ý chí
sắt đá, không gì lay chuyển: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, không ai có thể chia cắt được”
Trong Di chúc (1969), Người cũng thể hiện niềm tin tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng, sự thống nhất
nước nhà: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống
nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”
Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ là tư tưởng xuyên suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
Q: Từ việc phân tích những luận điểm trong tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, anh/chị hãy liên hệ đến
sự vận dụng của Đảng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nước ta hiện nay?
Phân tích 4 đặc điểm trong tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc. Tiến hành liên hệ.
Kế thừa truyền thống giữ nước quý báu của dân tộc, trên cơ sở quán triệt, vận dụng và phát triển sáng tạo quan
điểm Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; đồng thời, từ thực tiễn lãnh
đạo cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua, trong dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XII trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, đã khẳng định: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến
tranh, xung đột từ sớm, từ xa”. Đây là bước phát triển mới trong tư duy của Đảng về phương thức bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng khẳng định “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ
sớm, từ xa” là sự kế thừa truyền thống của dân tộc ta, là bài học xương máu “giữ nước từ khi nước chưa nguy”.
Tư tưởng “giữ nước từ khi nước chưa nguy” trong lịch sử dân tộc, quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa được Đảng ta vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, nhất là từ khi đổi mới đất nước.
Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX và Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới là những vấn đề lý luận cơ bản về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Từ thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc, Đảng ta nhận thức rõ hơn về vai trò quan trọng của an ninh, đối ngoại, trong đó có đối ngoại quốc phòng; về nội
hàm xây dựng nền quốc phòng toàn dân; nhấn mạnh việc kiên trì đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân
dân, xây dựng “thế trận lòng dân” trong thời kỳ phát triển và hội nhập. Đến Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định:
“Có kế sách phòng ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt
tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”.
Tư duy về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa của Đảng đã có sự phát triển mới. Đây vừa là quan điểm, vừa là phương
châm chỉ đạo của Đảng, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng về quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
Nội hàm của bảo vệ Tổ quốc không chỉ hiểu theo nghĩa hẹp và bảo vệ bên ngoài biên giới, lãnh thổ, mà cần hiểu theo
nghĩa rộng bao gồm cả bên trong; không chỉ chiến đấu bảo vệ khi có kẻ thù xâm lược, mà phải tổ chức phòng thủ,
phòng ngừa từ trước, chủ động chuẩn bị về mọi mặt, bao gồm cả chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại..., ngay từ thời bình
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta hiện nay đang diễn ra trong bối cảnh hội nhập quốc tế.Trải qua 35 năm
thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, tư duy lý luận, nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của Đảng về mối quan
hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN đã phát triển toàn diện, sâu sắc hơn, góp phần đưa sự nghiệp đổi mới
giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. lOMoAR cPSD| 61573419
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
ta, bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, đã và đang đặt ra những yêu cầu mới và đứng trước không ít khó khăn, thách
thức cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng và an ninh, đối ngoại.
Để tiếp tục nhận thức và xử lý tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh toàn cầu hóa
và hội nhập quốc tế hiện nay, cần phải nắm vững và thực hiện tốt những vấn đề chủ yếu sau đây:
Một là, tiếp tục nhận thức và xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng, giữa hợp tác và đấu tranh
trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Khi đất nước đang hội nhập quốc tế sâu rộng thì mối quan hệ giữa đối tác-đối tượng
càng trở nên đa dạng, phức tạp và có những hình thức thể hiện mới trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
Hai là, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh (QPAN)….
Thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, coi đây vừa là tiền đề, vừa là hệ quả của hội
nhập kinh tế quốc tế, là giải pháp có tính quyết định để nâng cao nội lực nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức
của giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế mới.
Ba là, kết hợp chặt chẽ QPAN và đối ngoại. Tiếp tục hiện thực hóa tư duy mới của Đảng về mối quan hệ giữa
QPAN và đối ngoại trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Bốn là, kịp thời thể chế hóa quan điểm của Đảng về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cho phù
hợp với bối cảnh mới của hội nhập quốc tế.
Tiếp tục quán triệt và tổ chức thực hiện tốt chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chiến lược quân sự, chiến lược quốc
phòng, chiến lược an ninh và các chiến lược chuyên ngành khác nhằm bảo vệ đất nước;
Giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy, bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại.
Xây dựng, củng cố lòng tin chiến lược với các nước, nhất là các nước láng giềng, các nước lớn, bạn bè truyền
thống, tạo thế và lực mới cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Q: Là sinh viên HCMUE, Anh/chị sẽ làm gì để góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN, chống lại những âm mưu xâm phạm đến độc lập, chủ quyền lãnh thổ của quốc gia?
Khi đất nước đang phát triển và được hưởng nền độc lập và hòa bình, sinh viên càng phải luôn thấm nhuần,
biết ơn những anh hùng dân tộc đã hy sinh cho Tổ quốc. Chúng ta có thể góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước bằng
những biện pháp như sau:
Tích cực học tập, rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh, bảo vệ sức khoẻ.
Trung thành với Tổ quốc, với chế độ xã hội chủ nghĩa.
Cảnh giác trước âm mưu chia rẽ, xuyên tạc của các thế lực thù địch; phê phán, đấu tranh với những thái độ,
việc làm gây tổn hại đến an ninh quốc gia, xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Chấp hành, tuân thủ đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, pháp luật, cụ thể, đó là việc xây
dựng bản thân trở thành một công dân tốt, công dân chân chính, không tham gia tệ nạn xã hội, tích cực hỗ trợ, tham
gia các phong trào hỗ trợ cộng đồng như các chiến dịch tình nguyện, hiến máu nhân đạo, chiến dịch Mùa hè Xanh, Xuân tình nguyện,…
Tích cực tham gia các hoạt động an ninh, quốc phòng ở địa phương; tham gia hoạt động đền ơn đáp nghĩa…
Có ý thức xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp, giữ gìn cảnh quan, tham gia trồng cây, gây rừng để phủ xanh nơi ở.
Phối hợp với chính quyền địa phương thực hiện đấu tranh đẩy lùi, phòng chống vi phạm pháp.
Nâng cao nhận thức về trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn biển đảo thông qua các diễn đàn, các buổi sinh
hoạt công dân hay các thông báo tuyên truyền trên các kênh chính thống.
Tham gia đăng kí tham gia huấn luyện nghĩa vụ quân sự khi đến tuổi; sẵn sàng lên đường làm nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.
Vận động bạn bè, người thân thực hiện tốt nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.
Tham gia đầy đủ các buổi học của các học phần Giáo dục Quốc phòng - An ninh và các học phần lý luận chính
trị nhằm tự củng cố và bổ sung, bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước.
Sống chân thành, dung dị, hòa nhã với mọi người xung quanh; Hiếu thảo với ông bà, cha mẹ; Có ý thức xây
dựng gia đình vững mạnh làm nền tảng cho một xã hội tốt đẹp.
Q: Hãy phân tích câu nói sau của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc
lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”?
Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng”,
ký tên Hồ Chí Minh; đăng trên Báo Cứu quốc, số ra ngày 17-10-1945.
Độc lập dân tộc là quyền bất khả xâm phạm của một dân tộc bởi chính người dân sinh sống ở đó, có nghĩa có
chủ quyền tối cao. Độc lập dân tộc còn có thể hiểu là “sự không phụ thuộc” từ cá nhân, tập thể, xã hội, quốc gia hay lOMoAR cPSD| 61573419
dân tộc nào vào dân tộc khác. Độc lập sẽ giúp cho nhân dân sống trong ấm no hạnh phúc, không sợ hãi về những gì
chiến tranh, sự xung đột, bạo loạn gây ra.
Phân tích luận điểm 1: Khẳng định vì sao muốn “độc lập dân tộc” thì phải gắn liền với “tự do, hạnh phúc của nhân dân”.
Phân tích luận điểm 2: Độc lập dân tộc là điều kiện và là mục đích để giúp cho nhân dân tự do, hạnh phúc. Tự
do, hạnh phúc cho nhân dân muốn xây dựng được thì phải có được độc lập dân tộc.
Tuy nhiên, khi có được độc lập dân tộc mà không đảm bảo cho dân “ai cũng có cơm ăn, áo mặc…ai cũng được
học hành” thì độc lập đó là bằng thừa.
Không phải cứ độc lập dân tộc thì dân sẽ có thể tự do, hạnh phúc ngay lập tức.
Cần phải gắn độc lập dân tộc với việc xây dựng và đảm bảo tự do, hạnh phúc cho nhân dân
Q: Hồ Chí Minh đã từng nói: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Anh/chị có đồng ý hay không. Chứng minh?
Trình bày khái niệm “độc lập dân tộc” và “tự do dân tộc”
Theo nhà triết học Locke (1632-1704) “Tự do là khả năng con người có thể làm bất cứ điều gì mà mình mong
muốn mà không gặp bất kỳ cản trở nào".
Quyền tự do của một quốc gia là quyền dân tộc tự quyết. Quyền này bao gồm quyền thành lập chính phủ, thể
chế quốc gia và hệ thống luật pháp.
Khẳng định rằng “độc lập, tự do” chính là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm đối với mỗi dân tộc. Phân
tích luận điểm 1 và chứng minh: Muốn cho các dân tộc được bình đẳng thì phải đảm bảo nền độc lập ấy phải là nền
độc lập thực sự, triệt để. Phân tích luận điểm 3 và chứng minh
Ngoài ra, nền độc lập đó phải mang lại cuộc sống hạnh phúc, ấm no cho nhân dân. Phân tích và chứng minh luận điểm 2
Nền độc lập ấy phải gắn với chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Phân tích và chứng minh luận điểm 4
Lưu ý: Muốn có bình đẳng dân tộc thì các dân tộc thuộc địa phải được giải phóng khỏi chủ nghĩa thực dân.
Nền độc lập dân tộc phải thể hiện ở 3 điểm sau:
- Dân tộc đó phải được độc lập toàn diện về chính trị, kinh tế, an ninh, toàn vẹn lãnh thổ và quan trọng nhất
là độc lập về chính trị.
- Mọi vấn đề chủ quyền quốc gia phải do người dân nước đó tự quyết định.
- Nền độc lập thực sự phải được thể hiện ở cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của người dân.
Vì thế, nền độc lập của Việt nam phải theo nguyên tắc nước Việt nam của người Việt Nam, mọi vấn đề về chủ
quyền quốc gia phải do người dân Việt Nam tự quyết định, không có sự can thiệp của nước ngoài.
Quyền độc lập, bình đẳng dân tộc là quyền thiêng liêng, quý giá nhất và bất khả xâm phạm. “Không có gì quý
hơn độc lập tự do” là lẽ sống, là triết lý Cách mạng Hồ Chí Minh và của dân tộc VIệt Nam. Đó cũng là nguồn cổ vũ
to lớn đối với các dân tộc bị áp bức, đấu tranh cho một nền độc lập tự do, thống nhất đất nước, dân chủ, ấm no, hạnh phúc của người dân.
Q: Phân tích để làm rõ quan điểm sau của Hồ Chí Minh trong tác phẩm Tuyên ngôn độc lập (1945): “Tất cả
các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do……
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”? 4 nội dung, chú trọng 2 nội dung đầu.
2. Về cách mạng giải phóng dân tộc
a) Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản
Q: Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”? Chỉ ra sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn con đường này?
Nguyên nhân thứ nhất, Hồ Chí Minh lựa chọn con đường cách mạng vô sản vì dựa trên việc tìm hiểu, đánh
giá các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đã xảy ra ở Việt Nam.
Cách mạng giải phóng dân tộc là cuộc cách mạng nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập
dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết và thành lập nhà nước dân tộc.
Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến cuối TK XIX – đầu TK XX như phong trào Cần
Vương, phong trào nông dân Yên Thế, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục thất bại vì còn mang nặng cốt cách phong
kiến. Điều đó chứng tỏ khuynh hướng phong kiến lỗi thời, lạc hậu. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân
chủ tư sản của các sĩ phu tiến bộ như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,… cũng đi đến thất bại vì đường lối sai lầm.
Vì thế, Hồ Chí Minh quyết định đi ra nước ngoài để tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc ta, “Sau khi xem xét họ
làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”.
Nguyên nhân thứ hai, Hồ Chí Minh lựa chọn con đường cách mạng vô sản vì tính triệt để, tính phù hợp của
nó trong điều kiện thực tiễn Việt Nam. lOMoAR cPSD| 61573419
Cách mạng vô sản là một cuộc cách mạng xã hội trong đó giai cấp công nhân cố gắng lật đổ giai cấp tư sản.
Các cuộc cách mạng vô sản nói chung được những người theo chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản và hầu hết những
người vô chính phủ ủng hộ.
Người không lựa chọn con đường cách mạng tư sản vì một số lý do, trong đó nổi bật là tính không triệt để,
không đến nơi của nó: Người nói: “Cách mạng tư bản, cách mạng không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ
thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”; “Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp
hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức”. Hồ Chí Minh nhận thấy rằng con đường
cách mạng tư sản không triệt để, chỉ đem lại lợi ích cho một bộ phận nhỏ trong xã hội.
Người đã tìm thấy con đường cứu nước mới cho dân tộc Việt Nam: con đường cách mạng vô sản. Sự thành
công của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã ảnh hưởng sâu sắc đến việc lựa chọn con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc của Người. Người cho rằng Cách mạng Tháng Mười Nga là triệt để, thành công đến nơi vì “dân chúng
được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”.
Năm 1920, sau khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở đó con đường cứu nước và giải phóng dân tộc, Người đã lựa chọn con đường
cách mạng vô sản, khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản”. Người cho rằng đây là con đường cách mạng triệt để nhất phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt
Nam. Đó là con đường giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp trên cơ sở độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Người phải thốt lên: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”
Điểm sáng tạo trong chủ trương lựa chọn con đường cách mạng vô sản.
Sáng tạo được hiểu là hoạt động tạo ra bất cứ cái gì có đồng thời tính mới và tính ích lợi (trong phạm vi áp
dụng cụ thể). Khi nhắc đến “sáng tạo”, tức là việc tạo ra một thứ chưa từng có trước đây, thứ được tạo ra phải có giá
trị đối với cuộc sống, xã hội, nhân loại.
Trong chủ trương giải phóng dân tộc mà Hồ Chí Minh nhận định thể hiện sự sáng tạo vì:
Người cho rằng: giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, trong đó giải phóng dân tộc là trước hết, trên
hết. Từ cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, con đường cách mạng vô sản ở châu Âu là đi từ giải phóng giai cấp
– giải phóng dân tộc – giải phóng xã hội – giải phóng con người. Đây là sự lựa chọn phù hợp với tình hình của các
nước phương Tây. Nhưng Người lại cho rằng, phải là giải phóng dân tộc – giải phóng xã hội – giải phóng giai cấp –
giải phóng con người. Quan điểm này của Người hoàn toàn phù hợp với cơ sở thực tiễn ở các nước các nước thuộc địa
và Việt Nam do hoàn cảnh lịch sử khác các nước châu Âu.
Theo Quốc tế Cộng sản, hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến phải được thực hiện đồng thời,
khăng khít với nhau, nương tựa vào nhau. Thế nhưng, xuất phát từ một nước thuộc địa, Hồ Chí Minh không coi hai
nhiệm vụ đó nhất loạt phải thực hiện ngang nhau, mà đặt lên hàng đầu nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc,
còn nhiệm vụ chống phong kiến, mang lại ruộng đất cho nông dân sẽ từng bước thực hiện. Cho nên, trong Chánh
cương vắn tắt của Đảng, Người chỉ nêu “thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công, chia cho dân cày
nghèo” mà chưa tiến tới “người cày có ruộng”.
Điều này thể hiện rõ ràng việc Hồ Chí Minh đã học hỏi, kế thừa Chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của Quốc
tế Cộng sản làm cơ sở lý luận, bên cạnh đó, Người dựa trên cơ sở thực tiễn của Việt Nam để phát triển, sáng tạo nên
phương hướng, con đường phù hợp nhất với tình hình thực tiễn đất nước. Hồ Chí Minh khẳng định phương hướng
chiến lược cách mạng Việt Nam: làm tư sản dân quyền cách mạng (cách mạng dân tộc dân chủ) và thổ địa cách mạng
(cách mạng ruộng đất) để đi tới xã hội cộng sản (cách mạng xã hội chủ nghĩa). Đó là sự kết hợp giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Với quan điểm sáng tạo này, thực tiễn chứng minh Hồ Chí Minh đã lãnh đạo cách mạng tháng Tám năm
1945 thành công, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước đầu tiên ở Đông Nam Á dành được độc
lập dưới sự lãnh đạo của một chính đảng của giai cấp vô sản. Cùng với đó, sau khi thực hiện giải phóng miền Bắc,
nhân dân đã bắt tay vào việc thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa và đã đạt được những thành tựu bước đầu.
Những thắng lợi này phù hợp với xu thế của thời đại và giải quyết triệt để yêu cầu mà cách mạng Việt Nam
đặt ra, thể hiện nét đặc sắc, độc đáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh
b) Cách mạng giải phóng dân tộc, trong điều kiện của Việt Nam, muốn thắng lợi, phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo Q:
Vì sao cách mạng Việt Nam muốn thắng lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo?
Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định: Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân
hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Giai cấp công nhân phải tổ chức ra chính đảng, đảng đó phải thuyết phục, giác
ngộ và tập hợp đông đảo quần chúng, huấn luyện quần chúng và đưa quần chúng ra đấu tranh. lOMoAR cPSD| 61573419
Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga dưới sự lãnh đạo Đảng Bolshevik Nga với
sức mạnh về trí tuệ, về tư tưởng chính trị và tổ chức của mình đã khẳng định nhân tố quyết định làm nên thắng lợi của
cách mạng chính là có sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản chân chính, tuyệt đối trung thành với Chủ nghĩa MácLênin,
có lập trường kiên định, đường lối đúng đắn và nghệ thuật lãnh đạo tài tình, hết lòng vì lợi ích và hạnh phúc của nhân
dân. Trong hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam là một nước thuộc địa – phong kiến, trong Báo cáo chính trị tại Đại hội II
của Đảng (1951) Người cũng viết: “Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam.
Đây là hai cơ sở quan trọng để Hồ Chí Minh vận dụng và khẳng định về tầm quan trọng của Đảng Cộng sản.
Người khẳng định trong tác phẩm Đường Kách Mệnh (1927) rằng cách mạng phải có đảng cách mệnh để “trong thì
vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững
cách mệnh mới thành công”.
Hồ Chí Minh khẳng định về tầm quan trọng và tính tất yếu của Đảng Cộng sản trong việc hoàn thành sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân: Đảng sẽ đề ra đường lối chủ trương, chính trị cho giai cấp công nhân và giác ngộ , tập hợp,
đoàn kết quần chúng nhân dân hình thành sức mạnh to lớn của dân tộc. Đảng Cộng sản vừa là đội tiên phong của giai
cấp công nhân vừa là đội tiên phong của nhân dân lao động, kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm
tận lực phụng sự Tổ quốc. Đó còn là Đảng của cả dân tộc Việt Nam. Đảng tổ chức thực hiện đường lối vào thực tiễn,
biến đường lối thành phong trào quần chúng.
c) Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy liên minh công – nông làm nền tảng
Q: Vì sao lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc là toàn dân, trong đó lấy liên minh công – nông làm nền tảng?
Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân; quần chúng
nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Nếu không thì “cách mạng vô sản không thể thực hiện được” (V.I.Lênin).
Cơ sở thực tiễn: Cách mạng Tháng 10 Nga huy động các lực lượng trong xã hội để tiến hành cách mạng: công nhân,
nông dân, binh lính,… (V.I.Lênin chỉ rõ: “Nếu không liên minh với nông dân thì không thể có được chính quyền của
giai cấp vô sản, không thể nghĩ được đến việc duy trì chính quyền đó... Nguyên tắc cao nhất của chuyên chính là duy
trì khối liên minh giữa giai cấp vô sản và nông dân để giai cấp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo và chính quyền nhà nước”.)
Vì thế, Hồ Chí Minh kế thừa tư tưởng và quan niệm: có dân là có tất cả, trên đời này không gì quý bằng dân, được
lòng dân thì được tất cả, mất lòng dân thì mất tất cả. Người khẳng định: “Cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ
không phải việc một hai người”. Vậy nên phải tập hợp và đoàn kết nhân dân thì cách mạng mới thành công.
Trong Sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh xác định lực lượng cách mạng bao gồm toàn dân: Đảng phải thu phục
đại bộ phận giai cấp công nhân, tập hợp đại bộ phận dân cày và phải dựa vào dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng;
liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông… đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm cho họ trung lập.
Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), Người đã thiết tha kêu gọi mọi người không phân biệt
tôn giáo, dân tộc, giai tầng, đảng phái,… đứng lên cùng chống thực dân Pháp: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người
già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh khẳng định không được quên “công nông là người chủ cách mệnh… là gốc cách
mệnh” vì giai cấp công nhân và nông dân là hai giai cấp đông đảo nhất nhưng cũng bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất,
“nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc”.
Kết quả thực tiễn: Đường lối chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân trên nền tảng liên minh công –
nông trí thông qua mặt trận Liên Việt trong 30 năm kháng chiến chống Pháp và Mỹ thể hiện rất rõ chủ trương hiện
thực hóa việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong đấu tranh bảo vệ Tổ quốc.
d) Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
Q: Chứng minh tính sáng tạo trong luận điểm của Hồ Chí Minh: Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến
hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc?
Sáng tạo được hiểu là hoạt động tạo ra bất cứ cái gì có đồng thời tính mới và tính ích lợi (trong phạm vi áp
dụng cụ thể). Khi nhắc đến “sáng tạo”, tức là việc tạo ra một thứ chưa từng có trước đây, thứ được tạo ra phải có giá
trị đối với cuộc sống, xã hội, nhân loại.
Cơ sở lý luận: Quốc tế Cộng sản vì đánh giá chưa đúng tiềm lực và khả năng to lớn của cách mạng thuộc địa
nên có lúc xem nhẹ vai trò của cách mạng thuộc địa, cho rằng cách mạng thuộc địa phải phụ thuộc vào cách mạng vô
sản ở chính quốc. Những luận cương về phong trào cách mạng trong các nước thuộc địa và nửa thuộc địa có đoạn viết: lOMoAR cPSD| 61573419
chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các nước thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các
nước tư bản tiên tiến. Quan điểm này làm giảm đi tính sáng tạo của nhân dân các nước thuộc địa trong đấu tranh chống
chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập cho dân tộc. Đó là vì Quốc tế Cộng sản chưa thấy, chưa hiểu nhiều về cơ sở thực tiễn
tình hình thuộc địa ở Đông Dương.
Xuất phát từ tư tưởng của Lênin về mối quan hệ chặt chẽ của cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng
thuộc địa, Hồ Chí Minh chỉ rõ mối quan hệ khăng khít, tác động qua lại lẫn nhau giữa cách mạng thuộc đia và cách
mạng vô sản ở chính quốc – mối quan hệ bình đẳng, không lệ thuộc, phụ thuộc vào nhau.
Người khẳng định của việc đặt cách mạng thuộc địa ngang với cách mạng vô sản chính quốc thông qua bóc
trần bản chất tàn ác của chế độ thực dân: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở
chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta
phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô
sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”.
Người từng dự báo trong bài báo Đông Dương (1921): “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát
và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực
lượng khổng lồ và qua việc thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, sẽ
có thể giúp cho những người anh em của họ ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”. Từ đó, Người càng
khẳng định cách mạng ở thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà còn có thể
giành thắng lợi trước.
Người cho rằng: cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà
có thể giành thắng lợi trước. Luận điểm này mang tính sáng tạo dựa trên các cơ sở:
Thứ nhất, xuất phát từ cơ sở thực tiễn: thuộc địa có một vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt đối với chủ
nghĩa đế quốc, là nơi duy trì sự tồn tại, phát triển, là món mồi “béo bở” cho chủ nghĩa đế quốc. Thuộc địa là nơi mà
chủ nghĩa đế quốc thực hiện xuất khẩu tư bản, khai thác nguyên liệu và là thị trường độc quyền của chúng,… Người
từng nói: “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc”;
nếu thờ ơ thì sẽ như “đánh chết rắn đằng đuôi”.
Thứ hai, tinh thần đấu tranh cách mạng hết sức quyết liệt của các dân tộc thuộc địa, mà theo Người nó sẽ bùng
lên mạnh mẽ, hình thành một “lực lượng khổng lồ” khi được tập hợp, hướng dẫn và giác ngộ cách mạng. Giai cấp
công nhân có khả năng tự giải phóng bản thân. Người từng viết: “Hỡi anh em các dân tộc thuộc địa… công cuộc giải
phóng anh, em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”.
Kết quả thực tiễn: Thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 tại Việt Nam cũng như thắng lợi của phong trào
giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX, với hơn 100 quốc gia mới được hình thành. Năm 1960 là năm châu Phi, với 17
nước giành độc lập. Sự thắng lợi của cách mạng Cuba và của các quốc gia Mỹ Latinh đã biến Mỹ Latinh thành “lục
địa bùng cháy”. Thế kỷ XX trở thành thế kỷ giải trừ của chủ nghĩa thực dân.
Sự thắng lợi của cách mạng thuộc địa khi cách mạng vô sản ở chính quốc chưa nổ ra đã chứng minh luận điểm
của Hồ Chí Minh là độc đáo, sáng tạo và có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn.
đ) Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bạo lực cách mạng
Q: Vì sao cách mạng giải phóng dân tộc phải dùng bạo lực cách mạng? Hình thức và hình thái của bạo lực cách mạng ra sao?
Bạo lực cách mạng là của giai cấp bị trị đối trọng với bạo lực phản cách mạng của giai cấp thống thống trị
bằng sức mạnh hành động của quần chúng với sự lãnh đạo của giai cấp cách mạng bằng một đường lối chính trị tiên
tiến hướng dẫn, lãnh đạo vượt qua giới hạn pháp luật của giai cấp thống trị đương thời để cưỡng chế, cưỡng bức giai
cấp phản động nhằm buộc chúng phải phục tùng ý chí của giai cấp cách mạng, lật độ nhà nước lỗi thời và xác lập nhà
nước của giai cấp cách mạng.
Cơ sở để Hồ Chí Minh quyết định chọn con đường bạo lực cách mạng.
Cơ sở lý luận: C.Mác từng nói: “Bạo lực là bà đỡ của một chế độ xã hội cũ đang thai nghén một chế độ mới.”
Ph.Ăngghen nhấn mạnh: “Bạo lực còn đóng một vai trò khác trong lịch sử, vai trò cách mạng: nói theo Mác, bạo lực
còn là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới. V.I.Lênin tiếp tục khẳng định tính tất yếu của bạo lực
cách mạng, làm sáng tỏ hơn vấn đề bạo lực cách mạng trong học thuyết về cách mạng vô sản: không có bạo lực cách
mạng thì không thể thay thế nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản được, trên cơ sở thực tiễn của Cách mạng Tháng Mười Nga.
Cơ sở thực tiễn: Cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi bằng con đường cách mạng bạo lực của quần chúng
nhân dân. Thực tiễn Việt Nam: bọn thực dân đế quốc đã thực hiện chế độ cai trị vô cùng tàn bạo: dùng bạo lực để đàn
áp dã man các phong trào yêu nước, thủ tiêu mọi quyền tự do, dân chủ của nhân dân, bóc lột và đẩy người dân thuộc
địa vào bước đường cùng. lOMoAR cPSD| 61573419
Từ hai cơ sở đó, Hồ Chí Minh nhận thấy tất yếu phải sử dụng bạo lực cách mạng, đó là tất yếu để chống lại
bạo lực phản cách mạng của kẻ thù. Người đã vận dụng sáng tạo phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.
Người từng viết: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực
cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền” bởi vì: “Chế độ thực
dân, tự bản thân nó đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”.
Hình thức của bạo lực cách mạng.
Hình thức bạo lực cách mạng: theo Hồ Chí Minh, bạo lực cách mạng ở đây là bạo lực của quần chúng, được
thực hiện với hai lực lượng chính trị và quân sự, hai hình thức đấu tranh: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Cần
căn cứ vào tình hình, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể mà áp dụng các hình thức đấu tranh phù hợp.
Việc sử dụng bạo lực cách mạng theo tinh thần linh hoạt. Người viết: “Tuỳ tình hình cụ thể mà quyết định
những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang, đấu
tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng”.
Thực tiễn chứng minh Cách mạng Tháng Tám năm 1945, hình thức tổng khởi nghĩa của quần chúng nhân dân
trong cả nước, chủ yếu dựa vào lực lượng chính trị, kết hợp với lực lượng vũ trang, nhân dân ta đã thắng lợi giành
chính quyền về tay nhân dân.
Quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng, xuất phát từ thực tế so sánh lực
lượng, cục diện trên chiến trường sau khi Mỹ rút khỏi miền Nam, tháng 7 năm 1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
đã tổ chức Hội nghị lần thứ 21 đề ra phương châm kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao và tiếp tục khẳng
định: Con đường cách mạng của miền Nam là con đường bạo lực cách mạng.
Q: Tại sao Hồ Chí Minh khẳng định, trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thì việc sử dụng bạo lực là cần
thiết? Bạo lực cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh khác với tư tưởng bạo lực của các thế lực hiếu chiến như thế nào?
SV tiến hành lý giải về tính tất yếu của việc sử dụng bạo lực cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Phân tích nội dung 5.
Lưu ý: Việc tiến hành chiến tranh cách mạng là giải pháp cuối cùng, tức là việc sử dụng bạo lực cách mạng là
việc bắt buộc khi các biện pháp thỏa hiệp, thương lượng, hòa bình đã không thành công.
Người cũng đã khẳng định: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân
nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất
cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ…”
SV thực hiện so sánh giữa “bạo lực cách mạng” và “bạo lực phản cách mạng”: (SV chỉ tham khảo cơ bản, có
thể bổ sung, phát triển thêm).
Bạo lực cách mạng với tư
Tiêu chí so sánh Bạo lực cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh tưởng chủ nghĩa thực dân
Đấu tranh chống kẻ thù giai cấp (địa chủ), dân Đấu tranh để xâm chiếm thuộc địa tộc (thực dân Pháp). Mục đích
Dùng bạo lực để giành chính quyền và bảo vệ Dùng bạo lực để thống trị, chèn ép, bóc lột chính quyền nhân dân thuộc địa.
Toàn dân trong đó liên minh công –
Đế quốc, phong kiến, tư sản phản cách mạng và Lực lượng nông là nòng cốt tay sai
Dùng bạo lực nhằm đánh bại ý chí xâm lược Chủ trương
Dùng bạo lực để xâm lược của đế quốc.
Toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến, tự Nhằm thực hiện âm mưu xâm lược và thống trị Tính chất
lực cánh sinh và nhân đạo hòa bình. thuộc địa
Q: Nêu giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam?
SV trình bày khái niệm “Cách mạng giải phóng dân tộc”.
SV trình bày cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc. (SV có thể nêu ra những nội
dung chính và phân tích ngắn gọn).
SV thực hiện yêu cầu của đề bài:
Giá trị lý luận: Làm phong phú học thuyết Mác Lênin về cách mạng thuộc địa lOMoAR cPSD| 61573419
Về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc: Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, khẳng định con
đường cách mạng vô sản trong lựa chọn con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam  Đây là con đường mới, không
phải đã tồn tại từ trước.
Hồ Chí Minh kết hợp hài hòa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai
cấp và giải quyết vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc gắn độc lập dân tộc với phương hướng xã hội chủ nghĩa.
Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc: Hồ Chí Minh đã xây dựng nên lý luận về phương
pháp khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân.
Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò, vị trí và khả năng giành thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc đối
với cách mạng vô sản ở chính quốc. Giá trị thực tiễn:
Làm chuyển hóa phong trào yêu nước Việt Nam, tạo điều kiện cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam: đây là
ánh sáng soi đường cho lớp thanh niên yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX đang đi tìm chân lý.
Tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Xam
Đặt cơ sở để xây dựng nên đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng
Là cơ sở hình thành Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng.
Là cơ sở để phát triển và hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội
qua ba giai đoạn chiến lược.
Là cơ sở của đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện
Soi đường thắng lợi cho cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam
II – TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
a) Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Q: Phân tích nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội?
Khái niệm: “Chủ nghĩa xã hội” là một chế độ xã hội tốt đẹp, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Nguồn gốc sâu xa: chủ nghĩa yêu nước, truyền thống nhân ái và tinh thần cộng đồng làng xã Việt Nam, được
hình thành từ lâu đời trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Cách tiếp cận: Người không đưa ra một định nghĩa cụ thể nhưng định nghĩa “chủ nghĩa xã hội” được tiếp cận từ nhiều phương diện
Thứ nhất, Hồ Chí Minh tiếp cận tư tưởng về CNXH từ phương diện kinh tế: Hồ Chí Minh đã tiếp thu những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng sáng tạo và đưa ra nhiều kiến giải mới phù hợp với Việt Nam.
Người khẳng định vai trò quyết định của sức sản xuất đối với sự phát triển của xã hội cũng như đối với sự chuyển biến
từ xã hội nọ sang xã hội kia. Trên cơ sở nền tảng kinh tế mới, chủ nghĩa xã hội sẽ xác lập một hệ thống các giá trị đặc
thù mang tính nhân bản thấm sâu vào các quan hệ xã hội. Người cũng khẳng định, trong lịch sử loài người có 5 hình
thức quan hệ sản xuất chính, và nhấn mạnh “ không phải quốc gia dân tộc nào cũng đều trải qua các bước phát triển
tuần tự như vậy”. Người sớm đến với tư tưởng quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ văn hoá, đưa văn hoá thâm nhập vào chính trị, kinh tế tạo
nên sự thống nhất biện chứng giữa văn hoá, kinh tế và chính trị.
Thứ ba, Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ phương diện đạo đức. Chủ nghĩa xã hội là đối lập với chủ nghĩa cá nhân.
Thứ tư, Hồ Chí Minh tiếp cận CNXH từ chủ nghĩa yêu nước và truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc.
Thứ năm, Hồ Chí Minh tiếp cận CNXH từ yêu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam và xu hướng phát triển
của thời đại. Cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX đặt ra yêu cầu khách quan là tìm một ý thức hệ mới đủ sức vạch ra
đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn đem lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. Cách mạng tháng mười
Nga giành thắng lợi đã mở ra con đường hiện thực cho giải phóng dân tộc ở phương Đông: độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH và Nguyễn Ái Quốc đã bắt đầu truyền bá tư tưởng CNXH trong dân.
Thứ sáu, Hồ Chí Minh đến với CNXH từ tư duy độc lập sáng tạo tự chủ. Đặc điểm của định hướng tư duy tự
chủ sáng tạo là: định hướng tư duy trên cơ sở thực tiễn; luôn tìm tận gốc của sự vật, hiện tượng; kết hợp lý trí khoa
học và tình cảm cách mạng. Tư duy của Hồ Chí Minh là tư duy rộng mở và văn hoá.
Hồ Chí Minh nhận thức về chủ nghĩa xã hội là kết quả tác động tổng hợp của các nhân tố: truyền thống và
hiện đại; dân tộc và quốc tế; kinh tế, chính trị, đạo đức, văn hoá. Hồ Chí Minh đã làm phong phú thêm cách tiếp cận
về chủ nghĩa xã hội, đóng góp vào phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. lOMoAR cPSD| 61573419
Từ đây, Hồ Chí Minh đưa ra một cách hiểu dung dị về “chủ nghĩa xã hội”: “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc,
chủ nghĩa xã hội trước hết là làm cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm,
được ấm no và được sống đời hạnh phúc”.
Chủ nghĩa xã hội theo Hồ Chí Minh sẽ có một đặc trưng như sau:
Về đặc trưng trên một số lĩnh vực: ở góc độ khát vọng của dân tộc khi đất nước còn là thuộc địa, ở đặc trưng
chính trị là xã hội “dân chủ”, kinh tế có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, về xã hội là bình đẳng, tự do,..
Về mục tiêu: “nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và
được sống đời hạnh phúc"
Về mối quan hệ lợi ích: lợi ích cá nhân hài hòa với lợi ích tập thể. Lợi ích cá nhân nằm trong lợi ích tập thể, là
một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi ích riêng của cá nhân mới có điều kiện được thỏa mãn
(“Trong xã hội có giai cấp bóc lột thống trị, chỉ có lợi ích cá nhân của một số rất ít người thuộc giai cấp thống
trị là được thỏa mãn, còn lợi ích cá nhân của quần chúng lao động thì bị giày xéo.”)
Về mục đích của cách mạng Việt Nam: tiến đến chủ nghĩa xã hội, rồi đến chủ nghĩa cộng sản.
Về bản chất: sức sản xuất đã phát triển cao; nền tảng kinh tế thì tư liệu sản xuất đều là của chung; không có
giai cấp áp bức bóc lột.
Chù nghĩa cộng sản có hai giai đoạn. Giai đoạn thấp tức là chủ nghĩa xã hội; giai đoạn cao tức là chủ nghĩa
cộng sản. Hai giai đoạn ấy giống nhau ở chỗ: Sức sản xuất đã phát triển cao; nền tảng kinh tế thì tư liệu sản xuất đều
là của chung; không có giai cấp áp bức bóc lột. Hai giai đoạn ấy khác nhau ở chỗ: chủ nghĩa xã hội vẫn còn chút vết
tích xã hội cũ. Xã hội cộng sản thì hoàn toàn không còn vết tích của xã hội cũ.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh: Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội ở giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Mặc dù còn tồn đọng tàn dư của xã hội cũ nhưng xã hội xã hội chủ nghĩa không còn áp bức, bóc lột, xã hội do nhân
dân lao động làm chủ, trong đó con người sống ấm no, tự do, hạnh phúc, quyền lợi của cá nhân và tập thể vừa thống
nhất, vừa gắn bó chặt chẽ với nhau.
b) Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan
Q: Hiện nay có nhận định cho rằng, Việt Nam tiến lên CNXH bỏ qua CNTB là trái với quy luật lịch sử. Anh
chị có đồng ý với nhận định trên không? Hãy giải thích dưới góc độ của tư tưởng Hồ Chí Minh?
Khái niệm: “Chủ nghĩa xã hội” là một chế độ xã hội tốt đẹp, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Nhận định trên là hoàn toàn sai lầm vì: Cơ sở lý luận:
Thứ nhất, Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác lịch sử loài người trải qua 5 HT KT-XH. Sự phát
triển của các HT KT-XH là một quá trình lịch sử - tự nhiên bao gồm cả sự phát triển tuần tự và không tuần tự trải qua
các HT KT-XH. Điều này tùy thuộc vào điều kiện lịch sử - cụ thể của mỗi quốc gia. Vì thế có thể bỏ qua một vài HT
KT-XH để tiến đến HT KT-XH cao hơn.
Thứ hai, Quan điểm về hai hình thức quá độ của V.I.Lênin: thực hiện quá độ trực tiếp đối với các nước có
chủ nghĩa tư bản phát triển cao, thực hiện quá độ gián tiếp từ CNTB lên CNXH đối với các nước chưa trải qua
CNTB phát triển. Vì thế, Việt Nam thực hiện được dù chưa trải qua thời kỳ phát triển của CNTB.
Hồ Chí Minh đã kế thừa tư tưởng từ những nhà lý luận trước đó và khẳng định tiến lên chủ nghĩa xã hội là
một tất yếu khách quan:
Người cho rằng: “Cách sản xuất và sức sản xuất phát triển và biến đổi mãi, do đó mà tư tưởng của người, chế
độ xã hội, v.v., cũng phát triển và biến đổi. Chúng ta đều biết từ đời xưa đến đời nay, cách sản xuất từ chỗ dùng cành
cây, búa đá phát triển dần đến máy móc, sức điện, sức nguyên tử. Chế độ xã hội cũng phát triển từ cộng sản nguyên
thuỷ đến chế độ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản chủ nghĩa và ngày nay gần một nửa loài người đang
tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ cộng sản chủ nghĩa. Sự phát triển và tiến bộ đó không ai ngǎn cản được.”
Đó là quy luật sản xuất vật chất.
Tuy nhiên, Người cũng nhấn mạnh: Tùy hoàn cảnh mà các dân tộc phát triển theo những con đường khác nhau.
Những nước đã trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa sẽ “đi thẳng” lên chủ nghĩa xã hội như Liên Xô.
Những nước chưa qua giai đoạn phát triển này có thể đi lên chủ nghĩa xã hội khi kinh qua chế độ dân chủ mới – chế
độ dưới sự lãnh đạo của Đảng và giai cấp công nhân, nhân dân đánh đổ đế quốc và phong kiến trên nền tảng liên minh
công nông, nhân dân lao động làm chủ, nhân dân dân chủ chuyên chính theo chủ nghĩa Mác – Lênin như các nước
Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng vừa là tất yếu của lịch sử,
vừa đáp ứng được khát vọng của các dân tộc bị áp bức và các lực lượng tiến bộ.
Cơ sở thực tiễn: phù hợp với điều kiện của Việt Nam lúc bấy giờ lOMoAR cPSD| 61573419 Thuận lợi: Khó khăn
+ Có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Nền kinh tế thấp kém do trải qua chiến tranh kéo dài, tàn
+ Có sự giúp đỡ của các lực lượng tiến bộ. phá nặng nề.
+ Phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
+Trình độ dân trí thấp.
+ Có sự đồng lòng, thống nhất của cả dân tộc.
+Tàn dư chế độ cũ còn nhiều.
+ Tác động của bối cảnh toàn cầu hóa, cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Người cũng nhấn mạnh: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới là nguồn gốc của tự do, bình đẳng, Người ái, xóa bỏ
những bức tường dài ngăn cản con người đoàn kết, yêu thương nhau” c) Một số đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa
Q: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?
Khái niệm: “Chủ nghĩa xã hội” là một chế độ xã hội tốt đẹp, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Thứ nhất, về chính trị: Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội do nhân dân làm chủ.
Trước hết, đó là xã hội do nhân dân làm chủ, nhân dân là chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng trên nền tảng của liên
minh công – nông. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa địa vị cao nhất là nhân dân. Nhà nước là của dân, do dân, vì dân.
Mọi quyền lợi, quyền lực, quyền hạn đều thuộc về nhân dân. Mọi hoạt động xây dựng, bảo vệ Tổ quốc cũng là của dân.
Những tư tưởng cơ bản đó thể hiện tính nhân văn và sự nhận thức sâu sắc của Hồ Chí Minh về vai trò và địa
vị của nhân dân trong công cuộc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, về kinh tế: Xã hội xã hội chủ nghĩa có nền kinh tế phát triển cao dựa trên cơ sở lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản nên xã hội xã hội
chủ nghĩa phải có nền kinh tế phát triển cao hơn nền kinh tế của xã hội tư bản chủ nghĩa, dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ sở hữu tư liệu sản xuất tiến bộ.
Lực lượng sản xuất hiện đại trong chủ nghĩa xã hội biểu hiện: công cụ lao động, phương tiện lao động trong
quá trình sản xuất đã “phát triển dần đến máy móc, sức điện, sức nguyên tử”.
Quan hệ sản xuất trong xã hội xã hội chủ nghĩa được Hồ Chí Minh diễn đạt: Lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng,…
làm của chung; là tư liệu sản xuất thuộc về nhân dân.
Thứ ba, về văn hóa, đạo đức và các quan hệ xã hội: Xã hội xã hội chủ nghĩa có trình độ phát triển cao về văn
hóa đạo đức, đảm bảo sự công bằng, hợp lý trong các quan hệ xã hội.
Biểu hiện: xã hội không còn hiện tượng người bóc lột người; con người được tôn trọng, được bảo đảm công
bằng, bình đẳng và các dân tộc đoàn kết, gắn bó với nhau.
Hồ Chí Minh khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới “chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo
đảm cho nó được thỏa mãn”, “mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách
riêng và sở trường riêng của mình”.
Chủ nghĩa xã hội là cơ sở, tiền đề để tiến tới chế độ xã hội hòa bình, đoàn kết, ấm no, tự do, hạnh phúc, bình
đẳng, Người ái; không còn phân biệt chủng tộc, không còn gì gì có thể ngăn cản những người lao động hiểu nhau và thương yêu nhau.
Chủ nghĩa xã hội bảo đảm tính công bằng và hợp lý trong quan hệ xã hội: quyền bình đẳng trước pháp luật
cho mọi công dân theo nguyên tắc: làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít, không làm thì không hưởng, tất
nhiên là trừ những người chưa có khả năng lao động hoặc không còn khả năng lao động. Điều đó thể hiện sự nhân văn và nhân đạo.
Thứ tư, về chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa - Chế độ của nhân dân, do nhân dân làm chủ, lợi ích của cá nhân gắn liền với
lợi ích của chế độ xã hội. Vì thế, chính nhân dân là chủ thể, là lực lượng quyết định tốc độ xây dựng và sự vững mạnh
của chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh từng nói: “Cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai cấp
công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”.
Q: Là sinh viên HCMUE, em sẽ làm gì để góp phần xây dựng các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở nước ta?
(SV có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, có thể tham khảo một số gợi ý dưới đây)
Thực hiện học tập không ngừng, học thường xuyên, học không hạn chế để làm giàu vốn sống, tri thức cho bản thân. lOMoAR cPSD| 61573419
Tham gia đóng góp ý kiến tại các buổi gặp mặt, buổi lấy ý kiến đại chúng để góp phần quản lý nhà nước và phát triển xã hội.
Tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, phẩm chất, lối sống theo gương Người Hồ vĩ đại.
Tích cực tham gia các hoạt động rèn luyện sức khỏe, hoạt động xã hội.
Thường xuyên theo dõi, thực hiện công tác giữ gìn trật tự tại địa phương.
Giữ gìn những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Đẩy mạnh tham gia các hoạt động phát triển kỹ năng sống cho bản thân.
Tuân thủ chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách phát luật của Đảng và Nhà nước.
Tôn trọng, yêu thương, hiếu thảo với ông bà cha mẹ.
Đẩy mạnh tăng gia sản xuất tại gia đình, phụ giúp những công việc phù hợp với bản thân.
Sống chan hòa, yêu thương, tôn trọng mọi người: hòa nhã với bạn bè, tôn trọng người lớn tuổi.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
a) Mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Thứ nhất, mục tiêu về chế độ chính trị: Phải xây dựng được chế độ dân chủ.
Hồ Chí Minh đã từng khẳng định về “chế độ dân chủ”: “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm
chủ”, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”.
Người khẳng định quyền lợi và quyền hạn, trách nhiệm và địa vị của nhân dân: Tất cả lợi ích đều vì dân, tất
cả quyền hạn đều của dân, công cuộc đổi mới là trách nhiệm của dân, sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước là công
việc của dân, các cấp chính quyền do dân cử ra, các tổ chức đoàn thể do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và
lực lượng đều ở nơi dân.
Thứ hai, mục tiêu về kinh tế: Phải xây dựng được nền kinh tế phát triển cao gắn bó mật thiết với mục tiêu về chính trị.
Hồ Chí Minh xác định: Đây phải là nền kinh tế phát triển cao “với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa
học và kỹ thuật tiên tiến”, là “nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể”.
Mục tiêu về kinh tế phải gắn bó mật thiết với mục tiêu về chính trị.
Theo Hồ Chí Minh, trong cơ cấu nền kinh tế thì kinh tế quốc doanh lãnh đạo nền kinh tế quốc dân và kinh tế
hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Nhà nước phải đảm bảo ưu tiên cho kinh tế quốc doanh
phát triển và phải đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn, giúp đỡ kinh tế hợp tác xã.
Thứ ba, mục tiêu về văn hóa: Phải xây dựng được nền văn hóa mang tính dân tộc, khoa học, đại chúng và
tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Hồ Chí Minh cho rằng: Mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị và kinh tế là mối quan hệ biện chứng. Chế độ
chính trị và kinh tế là nền tảng và quyết định tính chất của văn hóa; còn văn hóa góp phần thực hiện mục tiêu chính trị và kinh tế.
Người từng nói: “Xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy”, Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo: vì thế kinh tế phải đi trước.
Vai trò của văn hóa: Người khẳng địn: “đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế”, “phát triển dân chủ”, “xây
dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất độc lập, dân chủ và giàu mạnh”, “là điều kiện cho nhân dân tiến bộ”.
Muốn được như thế, yêu cầu: “…văn hóa phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức”, “phải
triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc”, “… phát triển những truyền thống
tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt
Nam có tính chất khoa học, dân tộc, đại chúng.
Thứ tư, mục tiêu về quan hệ xã hội: Phải bảo đảm dân chủ, công bằng, văn minh.
Theo Hồ Chí Minh: Nhân dân phải làm tròn nhiệm vụ của người chủ để xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó
mọi người đều có quyền làm việc; có quyền nghỉ ngơi; có quyền học tập; có quyền tự do thân thể; có quyền tự do ngôn
luận, báo chí, hội họp, lập hội, biểu tình; có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào; có quyền
bầu cử, ứng cử. Mọi công dân đều được bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước đảm bảo quyền tự do, dân chủ cho công
dân nhưng nghiêm cấm lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của nhân dân.
Như vậy, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội dân chủ, công bằng và văn minh, tôn
trọng con người, hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể. b) Động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Theo Hồ Chí Minh, quan niệm động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là hợp lực gồm nhiều yếu tố: động
lực cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai, cả về vật chất, tinh thần, nội lực, ngoại lực,… ở tất cả các lĩnh vực như
kinh tế, chính trị, văn hóa,…
Trong đó, vai trò quyết định nhất là nội lực dân tộc, là nhân dân, do vậy, cần đảm bảo các động lực hàng đầu
là lợi ích của dân, dân chủ của dân, sức mạnh đoàn kết toàn dân.