



















Preview text:
PHẦN 6 ĐIỂM
Câu 1: Vấn đề cơ bản của triết học là gì? Phân tích nội dung
vấn đề cơ bản của triết học? Dàn ý:
*Khái niệm vấn đề cơ bản của triết học, chỉ ra hai mặt vấn đề cơ bản của triết học. (1 điểm)
*Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại hay giữa ý thức và vật chất là vấn đề cơ bản của triết học là bởi vì: (4 ý) (1 điểm)
*Cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học:
- Cách giải quyết mặt thứ nhất (2,5 điểm): CNDV và các hình thức của CNDV, CNDT và các hình
thức của CNDT, Nhị nguyên luận.
- Cách giải quyết mặt thứ hai (1,5 điểm): Khả tri luận, bất khả tri luận, hoài nghi luận. Trình bày:
Theo Ph. Ăngghen, vấn đề cơ bản lớn nhất của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là
vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa vật chất và ý thức.
VĐCB của Triết học có hai mặt: •
Mặt thứ nhất trả lời cho câu hỏi: “Giữa tư duy và tồn tại cái nào có trước, cái nào có sau
, cái nào quyết định cái nào?” Yếu tố vật chất xuất hiện trước và ý thức xuất hiện sau cho
nên đã hình thành một khái niệm riêng về chủ nghĩa duy vật. Ngược lại, yếu tố ý thức xuất
hiện trước và vật chất ra đời sau vì vậy đã hình thành nên những khái niệm về chủ nghĩa duy tâm. •
Mặt thứ hai trả lời cho câu hỏi: ”Con người có khả năng nhận thức được thế giới không?”
Những người thiên về chủ nghĩa duy vật thì cho rằng con người có thể nhận thức được về
thế giới xung quanh và sự nhận thức này phản ánh lại một cách khách quan về thế giới vào
trong suy nghĩ của con người. Những người thiên về chủ nghĩa duy tâm cũng cho rằng con
người có thể nhận thức về thế giới. Tuy nhiên, sự nhận thức này là khả năng tự nhận thức
của con người và nó có giới hạn.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học vì:
-Đây là mối quan hệ bao trùm của mọi sự vật, hiện tượng
-Đây là vấn đề nền tảng và xuất phát điểm để giải quyết những vấn đề còn lại của triết học
-Là tính chất để xác định lập trường, thế giới quan của triết gia và học thuyết của họ -Các
học thuyết triết học trực tiếp hay gián tiếp đều phải giải quyết vấn đề này.
*Các cách giải quyết vấn đề cơ bản của Triết học:
Mặt thứ nhất: Giữa tư duy và tồn tại cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
+) Cách 1: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định đến ý thức (Chủ nghĩa duy vật)
Ba hình thức phát triển của chủ nghĩa duy vật
+) Chủ nghĩa duy vật chất phác: Các học thuyết triết học duy vật thời cổ, quan niệm về thế giới
mang tính trực quan, cảm tính, chất phác, nhưng đã lấy bản thân tự nhiên để giải thích thế giới. Ví
dụ: Thales cho rằng mọi cái đều bắt đầu từ nước, nước là khởi nguồn của mọi vật (bản nguyên).
Hay cao hơn là Democrites, nếu đất, nước, lửa, không khí tương tác nhau, ở chúng có cái gì đó
chung làm nền, đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật cổ đại: thuyết nguyên tử luận
+)Chủ nghĩa duy vật siêu hình: Các học thuyết triết học duy vật thời cận đại (thế kỷ XVII-XVIII). Quan
niệm thế giới giống như một cỗ máy cơ giới khổng lồ, các bộ phận biệt lập, tĩnh tại. Tuy còn hạn chế về
phương pháp luận siêu hình, máy móc nhưng đã chống lại quan điểm duy tâm và tôn giáo giải thích về thế
giới. Ví dụ: Rơnghen (Đức) phát hiện ra tia X (1895); A.H.Beccơren (1852-1908), nhà vật lý học Pháp và
M.Quyri (1867-1934), phát minh ra hiện tượng phóng xạ trong chất uranium (1896); S.J.Tômxơn phát hiện
ra điện tử (1897); nhà bác học Đức Kaufman phát hiện ra sự thay đổi khối lượng điện tử; thuyết tương đối hẹp của A.Anhxtanh...
+) Chủ nghĩa duy vật biện chứng: C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập từ giữa thế kỷ XIX, sau đó được
Lenin phát triển và là hình thức cao cấp nhất của CNDV. Khắc phục hạn chế của CNDV trước đó. Đạt tới
trình độ Dv triệt để trong cả TN&XH, biện chứng trong nhận thức, là công cụ để nhận thức và cải tạo thế
giới. Ví dụ: Theo quy luật “phủ định của phủ định”: Một con gà mái được được coi là cái khẳng định,
nhưng khi con gà mái đó đẻ trứng thì quả trứng đó sẽ đươc coi là cái phủ định của con gà. Sau đó quả trứng
gà trải qua thời gian vận động và phát triển thì quả trứng lại nở ra con gà con. Vậy con gà con lúc này sẽ
được coi là cái phủ định của phủ định, mà phủ định của phủ định sẽ trở thành cái khẳng định. Sự vận động
và phát triển này luôn diễn ra liên tục vận động và phát triển và có tính chu kỳ.
Cả 3 hình thức trên đều thống nhất ở cùng một đặc điểm : Khi giải quyết các vấn đề cơ bản của
triết học đều khẳng định vật chất là cái có trước và quyết định ý thức.
Cách 2: Ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định đến vật chất (Chủ
nghĩa duy tâm) Định nghĩa: Ý thức, tinh thần có trước và quyết định vật chất.
Là cơ sở cho sự tồn tại của giới tự nhiên, vật chất
Chủ nghĩa duy tâm đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại với hai hình thức chủ yếu là: •
Chủ quan: Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của cảm giác, ý thức con
người, khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp những cảm giác của cá nhân,
của chủ thể. Phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, xa rời thực tiễn. Ví dụ: quan
niệm của Berkeley. Một ví dụ mà chính Berkeley đưa ra để nói về điều này đó là quả anh
đào “Tôi nhìn thấy quả anh đào này, sờ thấy nó, nếm nó và nó có thật. Gạt bỏ ː cảm giác
mềm dịu, mát, đắng, màu đỏ tức là tiêu diệt quả anh đào. Tôi khẳng định quả anh đào chẳng
qua chỉ là sự kết hợp những ấn tượng hay biểu tượng cảm tính do các giác quan biết được,
những biểu tượng ấy được lý trí kết hợp thành một sự vật (hay có một cái tên nào đấy), vì
rằng mỗi biểu tượng đều được quan sát kèm theo với một biểuu tượng khác..... Như vậy,
tất cả mọi cái mà con người vẫn xem là tồn tại khách quan ở bên ngoài té ra chỉ là hiện
tượng cảm giác của con người. Ví dụ: Chính sách quan điểm của Đảng và Nhà nước không
phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Văn bản phạt nh ng hút thuốc lá ở bến tàu, nơi công sở,
nhưng ko phạt đc ai vì vẫn cho buôn bán thuốc. •
Khách quan: Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức,
nhưng đó không phải là ý thức cá nhân mà là tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc
lập với con người, quyết định sự tồn tại của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó thường được
mang những tên gọi khác nhau như ý niệm, ý niệm tuyệt đối, tinh thần tuyệt đối hay lý tính
thế giới. Ví dụ: Cha mẹ sinh con trời sinh tính; sống chết có mệnh, giàu sang do trời,.....
Cách thứ 3. Ý thức và vật chất tồn tại độc lập với nhau, không nằm trong mối quan hệ quyết
định lẫn nhau (Nhị nguyên luận) Định nghĩa : Thuyết nhị nguyên hay nhị nguyên luận thừa
nhận sự tồn tại hai thực thể vật chất và ý thức song song tồn tại , có những thuộc tính riêng độc lập
, không cái nào có trước, không cái nào quyết định cái nào. Ví dụ: Có thánh thiện thì phải có tàn
ác, có thần tiên thì nhất định có quỷ dữ, có lên ắt có tiếng, sinh-tử không thể tách rời nhau,...
Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Có 2 cách trả lời:
Cách 1: con người có khả năng nhận thức được thế giới (khả tri luận). •
Được công nhận bởi đại đa số các nhà thiết học (duy vật và duy tâm) •
Khảng định nguyên tắc con người có thể hiểu được bản chất sự vật. Nói cách khác, cảm
giác, biểu tưởng, quan niệm và nói chung ý thức mà con người có được về sự vật về nguyên
tắc là phù hợp với bản thân sự vật.
Cách 2: con người không thể nhận thức được thế giới hoặc chỉ nhận thức được hình thức bên
ngoài (bất khả tri luận). -
Đưa ra năm vào 1869 bởi T.H. Huxley, nhà triết học tự nhiên người Anh. Được Khái quát
từ tư tưởng triết học của những người đi trước là D. Hume và Kant. -
Sự ảnh hưởng từ phong trào hoài nghi luận: nâng sự hoài nghi lên thành nguyên tắc trong
việc xem xét tri thức đã đạt được. Cho rằng con người ko thể đạt đến chân lý khách quan.
Ít nhiều liên quan đến Thuyết bất khả tri là sự ra đời của trào lưu hoài nghi luận từ triết học Hy
Lạp cổ đại. Những người theo hoài nghi luận nâng sự hoài nghi lên thành học giải nguyên tắc trong
việc xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng con người không thể đạt thần là đến chân lý khách
quan. Tuy cực đoan về mặt nhận thức, Hoài nghi luận thời Phục hưng đã giữ vai trò quan trọng
trong cuộc đấu tranh chống hệ tư tưởng và quyền uy của Giáo hội Trung cổ. Hoài nghi luận thừa
nhận sự hoài nghi đối với cả Kinh thánh và các tín điều tôn giáo.
CÂU 2: TẠI SAO NÓI TRIẾT HỌC MÁC RA ĐỜI LÀ MỘT TẤT YẾU LỊCH SỬ? *Dàn ý:
1.Điều kiện kinh tế xã hội
Sự ra đời của triết học Mác (vào những năm 40 thế kỉ 19) là một tất yếu lịch sử vì nó chính là một
sản phẩm lý luận của sự phát triển lịch sử nhân loại xuất hiện vào giữa thế kỷ XIX với những điều
kiện khách quan và chủ quan của nó.
*Điều kiện kinh tế xã hội (2 điểm):
Chủ nghĩa Mác được ra đời những năm 40 thế kỷ 19. Đây là thời kỳ phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa ở các nước Tây Âu phát triển mạnh mẽ. Ví dụ: Anh và Pháp cơ bản đã hoàn thành cách
mạng công nghiệp, Đức dù còn là nước quân chủ phong kiến nhưng có bước phát triển vượt bậc
về kinh tế...Dù với mức độ khác nhau, nhưng ở châu Âu, đặc biệt là Tây Âu, đã trở thành trung
tâm của sự phát triển LLSXTBCN. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất tư bản làm cho
sở hữu tư bản tư nhân trở nên chín muồi; cùng với những mặt mạnh do sở hưu tư bản tư nhân tạo
ra thì nó cũng làm cho mâu thuân vốn có của xã hội tư bản chủ nghĩa bộc lộ rõ rệt, làm nảy sinh
nhiều vấn đề tư tưởng, lý luận, thực tiễn. Trong giai đoạn này, mâu thuẫn sâu sắc giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất (Tính xã hội hóa ngày càng cao của LLSX và tính cá nhân của
QHSXTBCN) ngày bộc lộ rõ rệt, hàng loạt cuộc đấu tranh giai cấp công nhân nổ ra khắp Châu Âu
điển hình như: cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở Liong (Pháp – 1831), khởi nghĩa của thợ dệt
ở Xiledi (Đức – 1844), phong trào Hiến chương ở Anh (từ năm 1836 đến năm 1847).
Từ những vấn đề đó thì tất yếu sẽ dẫn đến một yêu cầu mới, yêu cầu phải có một lý luận khoa học
dẫn đường, để đưa giai cấp công nhân đi từ đấu tranh tự phát tới đấu tranh tự giác vì lợi ích của
giai cấp mình. Chính từ nhu cầu tất yếu đó, một triết học mới ra đời, triết học Mác. Mặt khác, lý
luận chủ nghĩa xã hội không tưởng của Xanh Kimông, Phuriê, Ôoen, về bản chất, không đáp ứng
được yêu cầu, lợi ích và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Chỉ có triết học Mác ra đời mới đáp
ứng được nhu cầu là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản, cũng như giai cấp vô sản đóng vai trò là
vũ khí vật chất của triết học Mác, bởi vì chỉ có triết học Mác mới có khả năng cải tạo chủ nghĩa xã
hội không tưởng thành chủ nghĩa xã hội khoa học.
*Tiền đề lý luận (3 tiền đề):
Triết học Mác ra đời là một sự kế thừa tinh hoa biện chứng những học thuyết, lý luận trước kia mà
trực tiếp và rõ nét nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội
không tưởng Pháp hồi thế kỷ XIX.
Triết học cổ điển Đức, đại biểu là Heghen và Phơ-bách: ( Triết học CĐ Đức: hệ thống triết Heghen;
quan điểm duy vật Phơ bach)., là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác. Đối với triết học
của Hêghen, một mặt C.Mác và Ph.Ănghgen phê phán tính chất duy tâm thần bí trong triết học
này, mặt khác hai ông đánh giá rất cao tư tưởng biện chứng của nó. C.Mác không chỉ dựa vào
truyền thống của chủ nghĩa duy vật mà còn trực tiếp cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ, khắc phục tính
siêu hình và những hạn chế lịch sử của nó. Mác đã kế thừa hệ thống triết học của Heghen trên cơ
sở gạt bỏ các yếu tố duy tâm thần bí, bác bỏ yếu tố duy tâm trong lĩnh vực xã hội và phương pháp
siêu hình đồng thời kế thừa quan niệm duy vật trong triết học, kế thừa chủ nghĩa duy vật trong lĩnh
vực tự nhiên của Phobach để xây dựng chủ nghĩa duy vật biện chứng. C.Mác và Ph.Ăngghen đã
xây dựng nên triết học mới, trong đó, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất hữu cơ với nhau.
Sự ra đời triết học Mác cũng diễn ra trong sự tác động qua lại với quá trình C.Mác kế thừa, cải tạo
các lý luận về kinh tế và về CNXH. Việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học Anh với những
đại biểu xuất sắc là A.Xmít và Đ.Ricácđô đã tạo điều kiện cho C.Mác hoàn thành quan niệm duy
vật lịch sử cũng như xây dựng nên học thuyết về kinh tế của mình. Kinh tế chính trị cổ điển Anh
(đại diện tiêu biểu là A.Smith và D.Ricacdo) : tìm ra giá trị thặng dư, tư hữu tài sản, phân chia giai
cấp, qua đó xây dựng nên chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Mác đã kế thừa tư tưởng nhân đạo của chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp trong lý thuyết của
Xanh Ximong, Phurie trở thành tiền đề lý luận quan trọng cho sự ra đời của lý luận Khoa học về
CNXH trong Chủ nghĩa Mác. hình thành nên xã hội cộng sản chủ nghĩa, tìm ra sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân và biến chủ nghĩa xã hội không tưởng thành khoa học. Ví dụ: CNXH
không tưởng Pháp (Saint Simon, Fourier) *Tiền đề KHTN (3 tiền đề):
Cùng với những nguồn gốc lý luận trên, sự ra đời triết học Mác còn dựa vào những tiền đề khoa
học tự nhiên. Ph.Ăngghen nêu bật ý nghĩa của 3 phát minh lớn đối với sự hình thành triết học duy vật biện chứng
Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng : là cơ sở KHTN khẳng định, chứng minh tính thống
nhất trong thế giới vô cơ và các dạng vật chất tồn tại trong thế giới đều luôn vận động, các dạng
vận động có mối liên hệ với nhau có thể chuyển hóa cho nhau.
Học thuyết tế bào là cơ sở KHTN chứng minh tính thống nhất trong thế giới hữu cơ, bác bỏ quan
niệm duy tâm và tôn giáo về nguồn gốc sự hình thành của thế giới thực vật và động vật. Thế giới
TV và ĐV có chung nguồn gốc và hình thái đó là tế bào.
Học thuyết tiến hóa của Dacuyn là cơ sở KHTN chứng minh giữa các loài không phải là bất biến
mà đều được sinh ra từ các loài trước đó bằng con đường chọn lọc tự nhiên. Là bằng chứng khoa
học chứng minh về nguyên lý về sự tiến hóa trong học thuyết của Mác, sự tiến hóa đi từ thấp đến cao và có tính kế thừa
Ý nghĩa của các định luật và học thuyết đối với sự hình thành và phát triển triết học Mác: Khoa
học đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những dạng tồn tại khác nhau, các hình thức vận
động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế giới, vạch ra tính biện chứng của sự
vận động và phát triển của nó.
*Nhân tố chủ quan:
Ngoài những điều kiện kinh tế - xã hội, tiền đề khoa học tự nhiên và lý luận, thì sự ra đời của chủ
nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng không thể thiếu nhân tố chủ quan của bản thân Mác
và Ăngghen. Đó là sự thông minh hơn người của các ông. Đã vậy, hai ông lại cần cù, chịu khó,
nghiêm túc trong nghiên cứu khoa học. Nhờ những tố chất ấy hai ông đã kế thừa được toàn bộ tinh
hoa trong lịch sử tư tưởng nhân loại, tổng kết được những thành tựu của khoa học đương đại, tổng
kết phong trào công nhân để cho ra đời một chủ nghĩa Mác – ngọn cờ lý luận của giai cấp công
nhân - hoàn bị trong cả lĩnh vực tự nhiên và lĩnh vực xã hội.
Cùng với sự thông minh, tinh thần làm việc không mệt mỏi là tình yêu thương con người hết mình
của hai ông và quyết tâm hy sinh vì con người, là những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự ra đời của
chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.
Tóm lại: Triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời như một tất
yếu lịch sử không những vì đời sống và thực tiễn, nhất là thực tiễn cách mạng
của giai cấp công nhân đòi hỏi phải có lý luận mới soi đường mà còn vì những
tiền đề cho sự ra đời lý luận mới đã được nhân loại tạo ra.
Câu 3: Phân tích định nghĩa vật chất của Lênin và rút ra ý nghĩa khoa học của định nghĩa? *Dàn ý:
- Khái quát quan điểm vật chất trong lịch sử (0,5 điểm)
- Hoàn cảnh ra đời định nghĩa (1,0 điểm)
- Định nghĩa vật chất của Lênin (1,0 điểm)
- Phân tích định nghĩa (3 ý) (2,5 điểm)
- Ý nghĩa (1 điểm) Trình bày:
*Các quan điểm trước Mác về vật chất:
Vào thời kỳ cổ đại: ở Hy Lạp nói riêng, ở phương Tây nói chung các nhà triết học duy vật đã đồng
nhất vật chất nói chung với các dạng cụ thể nào đó của nó như nước, lửa, không khí, nguyên tử,...
Vào Thời kỳ cận đại: Vào thế kỷ 17, thế kỷ 18 nền khoa học tự nhiên, thực nghiệm ở châu âu có
sự phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt là trên lĩnh vực vật lý học với phát minh của Newton, phương
pháp nghiên cứu ở trong vật lý đã xâm nhập ảnh hưởng rất lớn vào trong triết học. CNDV nói
chung và phạm trù VC nói riêng đã có những bước phát triển mới chứa đựng nhiều yếu tố biện
chứng. Vào thế kỷ 19, trong nền triết học Đức cổ điển là Ludwig Feuerbach (1804), ông chứng
minh và khẳng định rằng thế giới này là vật chất và vật chất theo ông là toàn bộ thế giới tự nhiên.
Nó không do ai sáng tạo ra mà nó tồn tại độc lập với ý thức và không phụ thuộc vào bất cứ ý niệm, ý thức nào.
*Hoàn cảnh ra đời:
-Cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX với những phát minh mới trong khoa học tự nhiên, con người có
những hiểu biết sâu sắc hơn về nguyên tử:
+ 1895: Roentgen phát hiện ra tia X
+ 1896: Becquerel phát hiện ra hiện tượng phóng xạ.
+1897:Thomson phát hiện ra điện tử và cấu tạo của nguyên tử
+1901: Kaufman chứng minh khối lượng của nguyên tử không ổn định.
-> Cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong lĩnh vực nghiên cứu Vật Lý học. -> Chủ nghĩa duy
tâm xuyên tạc rằng vật chất bị tiêu tan chỉ còn ý thức, duy vật mất đi chỉ còn duy tâm. -> Triết học
duy vật lúc này cần phải đưa ra được một quan niệm đúng đắn, khoa học về phạm trù vật chất.
*Định nghĩa vật chất của Lenin:
“Vật chất là 1 phạm trù triết học để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong
cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác.”
*Phân tích nội dung định nghĩa: 1.
Vật chất là một phạm trù triết học: “Vật chất” ở đây không thể hiểu theo nghĩa hẹp như
là vật chất trong lĩnh vực vật lý, hóa học, sinh học (nhôm, đồng, H2O, máu, nhiệt lượng, từ
trường…) hay ngành khoa học thông thường khác… Cũng không thể hiểu như vật chất trong cuộc
sống hàng ngày (tiền bạc, cơm ăn áo mặc, ô tô, xe máy…).“Vật chất” trong định nghĩa của Lênin
là một phạm trù triết học, tức là phạm trù rộng nhất, khái quát nhất, rộng đến cùng cực, không thể
có gì khác rộng hơn. Đến nay, nhận thức luận (tức lý luận về nhận thức của con người) vẫn chưa
hình dung được cái gì rộng hơn phạm trù vật chất. Ta không thể “nhét” vật chất này trong một
khoảng không gian nhất định, vì không có gì rộng hơn nó. 2.
Vật chất là thực tại khách quan: Vật chất tồn tại khách quan trong hiện thực, nằm bên
ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức của con người. “Tồn tại khách quan” là thuộc tính cơ
bản củavật chất, là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất. Dù con
người đã nhận thức được hay chưa, dù con người có mong muốn hay không thì vật chất luôn tồn
tại vĩnh viễn trong vũ trụ. 3.
Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác: Vật chất, tức là thực tại khách quan,
là cái có trước cảm giác (nói rộng ra là ý thức). Như thế, vật chất “sinh ra trước”, là tính thứ nhất.
Cảm giác (ý thức) “sinh ra sau”, là tính thứ hai. Do tính trước – sau như vậy, vật chất không lệ
thuộc vào ý thức, nhưng ý thức lệ thuộc vào vật chất. Trước khi loài người xuất hiện trên trái đất,
vật chất đã tồn tại nhưng chưa có ý thức vì chưa có con người. Đây ví dụ cho thấy vật chất tồn tại
khách quan, không lệ thuộc vào ý thức. Có ý thức của con người trước hết là do có vật chất tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp lên giác quan (mắt, mũi, tai, lưỡi…) của con người. Đây là ví dụ cho
thấy ý thức lệ thuộc vào vật chất. Như thế, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong
bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo.
Giải thích thực tại khách quan, tác động giác quan rồi kết luận vật chất là tất cả những gì
tồn tại khách quan độc lập với ý thức con người nhưng con người có khả năng nhận thức được nó 4.
Vật chất được giác quan của con người chép lại, chụp lại, phản ánh: Vật chất là một
phạm trù triết học, tuy rộng đến cùng cực nhưng được biểu hiện qua các dạng cụ thể (sắt, nhôm,
ánh sáng mặt trời, khí lạnh, cái bàn, quả táo…)mà các giác quan của con người (tai, mắt, mũi…)
có thể cảm nhận được. Giác quan của con người, với những năng lực vốn có, có thể chép lại, chụp
lại,phản ánh sự tồn tại của vật chất, tức là nhận thức được vật chất. Sự chép lại, chụp lại, phản ánh
của giác quan đối với vật chất càng rõ ràng, sắc nét thì nhận thức của con người về vật chất càng
sâu sắc, toàn diện. Nói rộng ra, tư duy, ý thức, tư tưởng, tình cảm… của con người chẳng qua chỉ
là sự phản ánh, là hình ảnh của vật chất trong bộ óc con người *Ý nghĩa khoa học: 1.
Định nghĩa vật chất của Lênin bác bỏ những quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về vật
chất. Khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác, Lênin đã thừa nhận: Trong thế giới hiện thực, vật chất có
trước cảm giác (ý thức), vật chất là tính thứ nhất, là nguồn gốc khách quan của cảm giác (ý thức).
Luận điểm này bác bỏ những quan điểm của chủ nghĩa duy tâm cho rằng vật chất chỉ là phức hợp
của những cảm giác (Platon,…), hoặc vật chất là sự tha hóa của “ý niệm tuyệt đối” (Heghen,…).
Luận điểm này cũng trả lời dứt khoát mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học: Vật chất có
trước hay ý thức có trước? Lênin khẳng định vật chất có trước. 2.
Định nghĩa vật chất của Lênin phủ nhận thuyết không thể biết về vật chất. Thuyết không
thể biết cho rằng con người không thể nhận thức được thế giới khách quan, những tri thức mà con
người biết được về thế giới khách quan chỉ là hư ảo, giả dối, không có thật. Khi khẳng định vật
chất là cái được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh…, Lênin đã nhấn mạnh: Bằng
những phương pháp nhận thức khác nhau, con người có khả năng nhận thức được thế giới vật chất.
Như thế, luận nơi này đã phủ nhận thuyết không thể biết. Luận điểm này cũng trả lời dứt khoát
mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học: Con người có nhận thức được thế giới khách quan hay
không? Lênin khẳng định là có. Với niềm tin có thể nhận thức được thế giới, con người sẽ có thêm
sức mạnh, ý chí, nghị lực để chinh phục tự nhiên, sáng tạo nên những giá trị đáp ứng cuộc sống
của con người và đẩy nhanh xã hội phát triển. Con người sẽ không rơi vào thế bị động, bỏ mặc số
phận mình cho một thế lực siêu nhiên nào đó. 3.
Khắc phục những khiếm khuyết trong các quan điểm siêu hình, máy móc về vật chất.
Với định nghĩa vật chất của Lênin, chúng ta hiểu rằng không có một dạng chi tiết cảm tính nào
của vật chất, hay một tập hợp nào đó các thuộc tính của vật chất, lại có thể đồng nhất hoàn toàn
với bản thân vật chất. Vật chất phải được hiểu là tất cả những gì tồn tại khách quan bên ngoài ý
thức, bất kể sự tồn tại ấy đã được con người nhận thức được hay chưa, đã biết về nó hay chưa. Với
những luận điểm rút ra này, định nghĩa vật chất của Lênin đã khắc phục những quan điểm phiến
diện, siêu hình, máy móc về vật chất như: Vật chất là các dạng chi tiết như cái bàn, cái ghế, ánh
sáng mặt trời, quả táo, nước, lửa, không khí…; đồng nhất vật chất với khối lượng, coi vận động
của vật chất chỉ là biểu hiện của vận động cơ học.
Câu 4: Tại sao vận động là phương thức tồn tại của vật chất?
(Hỏi thêm thầy) DÀN Ý
*Quan điểm của CNDVSH về vận động (1,0 điểm): Vận động là sự dịch chuyển vị trí của các vật
thể trong không gian và thời gian và nguồn gốc của vận động nằm bên ngoài các sự vật, hiện tượng.
*Quan điểm của CNDVBC về vận động (5,0 điểm):
- Định nghĩa (0,5 điểm)
- Bản chất vận động (3 ý) (1,5 điểm)
- Các hình thức cơ bản của vận động (5 hình thức) (1,5 điểm)
(Quan hệ giữa các hình thức vận động: Các hình thức VĐ này có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức VĐ, nhưng bao giờ cũng đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản) - Đứng im (1,5 điểm) BÀI LÀM
*Quan điểm của CNDVSH về vận động:
Vận động là sự dịch chuyển vị trí của các vật thể trong không gian và thời gian và nguồn gốc
của vận động nằm bên ngoài các sự vật, hiện tượng.
Theo quan điểm siêu hình, các nhà triết học duy vật thế kỷ XVII và XVIII đã quy mọi hình thức
vận động thành một hình thức duy nhất là vận động cơ học, coi hoạt động của giới tự nhiên và của
cả con người không gì khác hơn là hoạt động của một cỗ máy. Việc quy hình thức vận động phức
tạp thành hình thức vận động giản đơn được gọi là chủ nghĩa cơ giới.
*Quan điểm của CNDVBC về vận động: Vận động là cách thức tồn tại, đồng thời là hình
thức tồn tại của vật chất; không gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất.
- Định nghĩa vận động:
+) Theo P.Ăngghen: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất- tức được hiểu là là 1 phương thức tồn
tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, - thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi
quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”. Ví dụ, sự dịch
chuyển vị trí A sang vị trí B trong không gian; cái cây hướng ra phía có ánh sáng. Chúng ta nâng
được trình độ tiếng Anh từ trình độ A lên trình độ B; sự suy nghĩ của con người, v.v đều được coi là vận động.
*Bản chất của vận động:
- Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, là phương thức tồn tại của vật chất. ( điều đó có
nghĩa là vật chất tồn tại phải bằng cách vận động và thông qua vận động biểu hiện sự tồn tại của mình.)
- Vận động không tự nhiên sinh ra, không tự nhiên mất đi mà nó tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn.
Điều này đã được định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng chứng minh.. - Nguồn gốc của
sự vận động nằm trong chính bản thân của sự vật, tức là tự thân vận động Phân tích : Vận động
gắn liền với vật chất, ở đâu có vật chất thì ở đó có vận động. Khi nói tới vận động tức là vận động
của vật chất, mọi sự vật, hiện tượng đều biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua vận động. Do
dó vận động là phương thức tồn tại của vật chất
5 hình thức cơ bản của vận động : cơ học, vật lí, hóa học, sinh học và xã hội ( phải sắp theo đúng thứ tự)
▪ Vận động cơ học: là hình thức vận động đơn giản nhất, bao gồm những sự biến đổi về vị trí của
các vật thể trong không gian
▪ Vận động vật lý: đó là sự vận động của các phần từ, nhiệt, điện, từ trường, các hạt cơ bản,... ▪
Vận động hóa học: đó là những sự biến đổi của các chất vô cơ, hữu cơ trong các quá trình hoá
học và phân giải của chúng.
▪ Vận động sinh vật: là các quá trình biến đổi của các chất đặc trưng cho sự sống: sự lớn lên của
các cơ thể sống nhờ quá trình không ngừng trao đổi chất của cơ thể sống và môi trường, sự biến
đổi của cấu trúc gen, sự phát sinh các giống loài mới trong quá trình phát triển của chúng ▪ Vận
động xã hội: là tất thảy các quá trình biến đổi của các lĩnh vực kinh tế, chính trị, đạo đức,... của
đời sống xã hội loài người
Cơ sở của sự phân chia các hình thức dựa trên các nguyên tắc: các hình thức vận động phải tương
ứng với trình độ nhất định của tổ chức vật chất; các hình thức vận động có mối liên hệ phát sinh,
nghĩa là hình thức vận động cao nảy sinh trên cơ sở của những hình thức vận động thấp và bao
hàm hình thức vận động thấp; hình thức vận động cao khác về chất so với hình thức vận động thấp
và không thể quy về hình thức vận động thấp. Các hình thức vận động tồn tại trong mối liên hệ
không thể tách rời nhau. Giữa hai hình thức vận động cao và thấp có thể có hình thức vận động
trung gian, đó là những mắt khâu chuyển tiếp trong quá trình chuyển hóa lẫn nhau của các hình
thức vận động. Tuy nhiên, những kết cấu vật chất đặc thù bao giờ cũng được đặc trưng bởi một
hình thức vận động cơ bản nhất định và khi đó các hình thức vận động khác chỉ tồn tại như những
nhân tố, những vệ tinh của hình thức vận động cơ bản. Vì vậy, vừa phải thấy mối liên hệ giữa các
hình thức vận động, vưa phải phân biệt sự khác nhau về chất của chúng. Đứng im
Khái niệm: Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đứng im là trạng thái ổn định về
chất của sự vật, hiện tượng trong những mối quan hệ và điều kiện cụ thể, là hình thức biểu hiện sự
tồn tại thực sự của các sự vật, hiện tượng và là điều kiện cho sự vận động chuyển hóa của vật chất.
Đứng im chỉ xảy ra trong 1 quan hệ nhất định, chỉ xảy ra với một hình thức vận động xác định. (ví
dụ, khi ta đứng im thì đó chỉ là đứng im trong vận động cơ học, còn vận động hoá học, sinh học
trong cơ thể ta vẫn đang vận động);
Đứng im là tương đối tạm thời, còn vận động là tuyệt đối. Tuy vậy đứng im lại “chứng thực”
cho hình thức tồn tại thực sự của vật chất, là điều kiện cho sự vận động chuyển hóa của vật chất.
Không có đứng im thì sự vật, hiện tượng cũng không thể thực hiện được sự vận động chuyển hóa
tiếp theo Vận động và đứng im tạo nên sự thống nhất biện chứng của các mặt đối lập trong sự
phát sinh, tồn tại và phát triển của mọi sự vật, hiện tượng
Sự vật, hiện tượng khác nhau, hoặc cùng một sự vật, hiện tượng nhưng trong các mối quan
hệ khác nhau, ở các điều kiện khác nhau, thì đứng im cũng khác nhau.
Ví dụ: đứng im của một nguyên tử sẽ khác đứng im của một hình thái kinh tế - xã hội; đứng im
của một xã hội về mặt chính trị sẽ khác đứng im về mặt kinh tế...
Câu 5. Phân tích quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về
nguồn gốc và bản chất của ý thức? DÀN Ý:
*Nguồn gốc của ý thức
- Nguồn gốc tự nhiên (2 điểm)
Bộ não người, phản ánh và các hình thức phản ánh, thế giới hiện thực khách quan
- Nguồn gốc xã hội (2 điểm)
Vai trò của lao động, vai trò của ngôn ngữ. *Bản chất của ý thức BÀI LÀM
Trong khi phê phán chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng “ý niệm” có trước, sáng tạo ra thế
giới, C. Mác đồng thời khẳng định quan điểm duy vật biện chứng về ý thức: “ý niệm chẳng qua
chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó”. Dựa
trên những thành tựu mới của khoa học tự nhiên, nhất là sinh lý học - thần kinh hiện đại, các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng có 2 nguồn gốc đó là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên của ý thức là bộ não con người và tác động của thế
khách quan lên bộ não con người. *Bộ não con người:
+Bộ óc người có cấu trúc đặc biệt phát triển, rất tinh vi và phức tạp, bao gồm khoảng 14 - 15 tỷ tế
bào thần kinh. Sự phân khu của não bộ và hệ thống dây thần kinh liên hệ với các giác quan để thu
nhận và xử lý thông tin từ thế giới khách quan vào não bộ, hình thành những phản xạ có điều kiện
và không có điều kiện, điều khiển các hoạt động của cơ thể trong quan hệ với thế giới bên ngoài.
+Ý thức là hình thức phản ánh đặc trưng chỉ có ở con người và là hình thức phản ánh cao nhất của
thế giới vật chất. Ý thức là sự phản ánh thế giới hiện thực bởi bộ óc con người.
+Ý thức phụ thuộc vào hoạt động của bộ não người, nên khi não bị tổn thương thì hoạt động ý
thức không diễn ra bình thường hoặc rối loạn.
+Nếu chỉ có bộ não không thôi mà không có thế giới bên ngoài tác động vào bộ não, thì cũng
không có ý thức. Do vậy, nguồn gốc tự nhiên cần có yếu tố thứ hai là thế giới bên ngoài
Trong tự nhiên, mọi đối tượng vật chất đều có thuộc tính chung, phổ biến là phản ánh. Đó
là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác trong quá
trình tác động qua lại giữa chúng. Có 4 loại phản ánh:
+Phản ánh vật lý-hóa học là hình thức phản ánh thấp nhất, đặc trưng cho vật chất vô sinh, được
thể hiện qua những biến đổi cơ - lý - hóa khi có tác động qua lại lẫn nhau giữa các vật chất vô sinh.
Đây là hình thức phản ánh mang tính thụ động, chưa có định hướng lựa chọn của vật chất tác động.
VD: sắt để ở nơi ẩm ướt bị rỉ
+Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự nhiên hữu sinh, được
thể hiện qua tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ. VD: con tắc kè đổi màu theo môi trường
+Phản ánh tâm lý là sự phản ánh đặc trưng cho động vật đã phát triển đến trình độ có hệ thần
kinh trung ương, được thực hiện thông qua cơ chế phản xạ có điều kiện đối với những tác động
của môi trường sống. VD: con chó sủa khi nhìn thấy người lạ
+Phản ánh ý thức là hình thức phản ánh cao nhất, được thực hiện ở dạng vật chất cao nhất là não
người, là sự phản ánh có tính chủ động lựa chọn thông tin, xử lý thông tin để tạo ra thông tin mới.
VD: con người sáng tạo ra khoa học kỹ thuật để tạo ra những sản phẩm mới.
Nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần, nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ.
Theo Ph. Ăng-ghen, lao động và ngôn ngữ là hai thứ kích thích biến đổi bộ não động vật thành bộ
não người, biến tâm lý động vật thành ý thức con người. Lao động
-Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm thay đổi giới
tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người.
-Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới khách quan làm thế giới khách quan
bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của nó, biểu hiện thành những
hiện tượng nhất định mà con người có thể quan sát được.
-Khi lao động cần nhiều người hợp tác, đoàn kết với nhau để đạt năng suất cao, từ đó ngôn ngữ xuất hiện. Ngôn ngữ
+Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức.
+Theo C. Mác, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, không
có ngôn ngữ, con người không thể có ý thức.
+Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động
nảy sinh ở họ nhu cầu phải có phương tiện để giao tiếp, trao đổi tri thức, tình cảm, ý chí, … giữa
các thành viên trong cộng đồng con người. Nhu cầu này làm cho ngôn ngữ nảy sinh và phát triển
ngay trong quá trình lao động sản xuất cũng như trong sinh hoạt xã hội.
+Nhờ có ngôn ngữ, con người không chỉ giao tiếp, trao đổi trực tiếp mà còn có thể lưu giữ, truyền
đạt nội dung ý thức từ thế hệ này sang thế hệ khác… Bản chất
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc
con người và có sự cải biến và sáng tạo. Để hiểu rõ hơn ta cần chú ý •
Ý thức là sự phản ánh có tính chủ động, năng động, sáng tạo được thể hiện ở khả năng
hoạt động tâm sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận, chọn lọc, xử lý thông
tin. Từ đó ý thức có khả năng tạo ra tri thức, tưởng tượng ra những cái không có trong thực
tế, tiên đoán, dự báo tương lai, tạo ra những giả thuyết và lý thuyết khoa học hết sức trừu
tượng. VD: truyện cổ tích, thần thoại hy lạp, … •
Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan có nghĩa là nội dung của ý thức là
do thế giới khách quan quy định, nhưng ý thức là hình ảnh chủ quan, là hình ảnh tinh thần
chứ không phải là hình ảnh vật lý. VD: khi đứng trước một khu rừng, người kiểm
lâm nghĩ rằng phải bảo vệ, duy trì cho khu rừng luôn xanh tốt, phát triển. Người khai thác
gỗ nghĩ tới hình ảnh những cây rừng đổ xuống, những đoàn xe chở gỗ từ rừng về thành
phố và biến chúng thành hàng hóa để bán. •
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Chỉ khi con người xuất hiện,
tiến hành hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới khách quan theo mục đích của mình, ý
thức mới xuất hiện. Như thế, ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần túy, mà
bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử – xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội khách quan. VD:
Một người có tâm lý rụt rè, ngại giao tiếp và bị buộc phải làm việc nhóm. Những người
trong nhóm hết sức năng động và lạc quan. Sau một thời gian làm việc và tiếp xúc với các
thành viên trong nhóm, người mà trước kia từng rụt rè và ngại giao tiếp nay đã trở nên
năng động và nhanh nhẹn hơn -Ý nghĩa
+Nếu bộ não bị tổn thương thì ý thức không thể hoạt động bình thường do vậy ta cần quan tâm
chăm sóc đến sự phát triển của não bộ đặc biệt ở trẻ sơ sinh.
+Nhà nước, trường học, gia đình cần quan tâm đến việc giáo dục làm cho bộ não phát triển thông
minh hơn, tránh gây ảnh hưởng mắc các bệnh như động kinh, tự kỷ.
+Các cá nhân tích cực học tập, lao động, giao lưu tích lũy kinh nghiệm hoàn thiện bản thân.
Câu 6: Phân tích cơ sở lý luận của Nguyên tắc Toàn diện ? ĐCSVN
đã vận dụng nguyên tắc này như thế nào trong thời kỳ đổi mới?
*Nguyên tắc toàn diện yêu cầu: 1.
Khi nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt nó trong chỉnh thể thống nhất của tất cả
các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, các mối liên hệ của chỉnh thể đó 2.
Chủ thể phải rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu của đối tượng đó và nhận thức
chúng trong sự thống nhất hữu cơ nội tại, bởi chỉ có như vậy, nhận thức mới có thể phản ánh được
đầy đủ sự tồn tại khách quan với nhiều thuộc tính, nhiều mối liên hệ, quan hệ và tác động qua lại của đối tượng 3.
Cần xem xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với môi trường xung
quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp; trong không gian, thời gian nhất
định, tức cần nghiên cứu cả những mối liên hệ của đối tượng trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó 4.
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, một chiều, chỉ thấy mặt này mà
không thấy mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét dàn trải, không thấy mặt bản
chất của đối tượng nên dễ rơi vào thuật nguỵ biện (đánh tráo các mối liên hệ cơ bản thành không
cơ bản hoặc ngược lại) và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc các mối liên hệ trái ngược
nhau vào một mối liên hệ phổ biến).
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGUYÊN TẮC TOÀN DIỆN LÀ NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
*Định nghĩa mối liên hệ: “Mối liên hệ” là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc
tương hỗ, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yêu tố, bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa
các đối tượng với nhau.
- Khái niệm mối liên hệ phổ biến được sử dụng với hai hàm nghĩa:
+ Dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ (ví dụ như: khi khẳng định rằng mối liên hệ là cái
vốn có của tất thảy mọi sự vật hiện tượng trong thế giới, không loại trừ sự vật, hiện tượng nào, lĩnh vực nào);
+ Đồng thời, khái niệm này cũng dùng để chỉ: những liên hệ tồn tại (được thể hiện) ở nhiều sự vật,
hiện tượng của thế giới (tức là dùng để phân biệt với khái niệm các mối liên hệ đặc thù chỉ biểu
hiện ở một hay một số các sự vật, hiện tượng, hay lĩnh vực nhất định).
- Quan điểm CNDVSH về iên hệ - liên hệ bề ngoài, tính chất ngẫu nhiên
- Quan điểm của CNDVBC về liên hệ+)Định nghĩa liên hệ.....
Theo phép biện chứng duy vật, các mối liên hệ đều có ba tính chất chung nhất, đó là: tính khách
quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú. - Thứ nhất, tính khách quan của các mối liên hệ
Sự quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm chuyên hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng
(hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của
con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình. Ví dụ:
+ mối liên hệ ràng buộc và tương tác (theo lực hút - đẩy) giữa các vật thể;
+ mối liên hệ giữa trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường
=> Đều là những mối liên hệ khách quan, tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.
- Thứ hai, tính phổ biến của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại tuyệt
đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác. Đồng thời, cũng không có bất cứ sự vật,
hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với những
mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ
thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
Ví dụ: Không gian và thời gian; sự vật, hiện tượng; tự nhiên, xã hội, tư duy đều có mối liên hệ,
chẳng hạn quá khứ, hiện tại, tương lai liên hệ chặt chẽ với nhau...
- Thứ ba, tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ
Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: mỗi sự vật, hiện tượng đều có
nhiều mối liên hệ khác nhau (bên trong và bên ngoài, trực tiếp và gián tiếp, cơ bản và không cơ
bản... chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, phát triển của sự vật đó; đồng thời, mỗi
mối liên hệ đó lại có những biểu hiện phong phú khác nhau trong những điều kiện cụ thể khác nhau... *Vận dụng:
- Trong xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa hiện nay, ĐCSVN chủ trương đổi mới toàn diện tất cả
các mặt của đời sống xã hội: từ kinh tế đến chính trị, văn hóa xã hội.... Đồng thời, ĐCSVN đã
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể của
nước ta với phương châm: hội nhập mà không hòa tan.
- Trong mỗi giai đoạn của quá trình đổi mới phát triển đất nước, ĐCSVN luôn xác định khâu
then chốt và tập trung mọi nguồn lực để giải quyết, tạo tiền đề cho sự phát triển của các khâu khác.
- Đưa ra một số thành tựu
Câu 7: Phân tích cơ sở lý luận của Nguyên tắc Phát triển? ĐCSVN đã
vận dụng nguyên tắc này như thế nào trong thời kỳ đổi mới?
*Nguyên tắc phát triển yêu cầu: 1.
Khi nghiên cứu, cần đặt đối tượng vào sự vận động, phát hiện xu hướng biến đổi
của nó để không chỉ nhận thức nó ơ trạng thái hiện tại, mà còn dự báo được khuynh hướng
phát triển của nó trong tương lai 2.
Cần nhận thức được rằng, phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai
đoạncó đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm hình thức, phương pháp tác
động phù hợp để hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển đó 3.
Phải sớm phát hiện và ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho nó
pháttriển; chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến 4.
Trong quá trình thay thế đối tượng cũ bằng đối tượng mới phải biết kế thừa các yếu
tốtích cực tư đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGUYÊN TẮC PHÁT TRIỂN LÀ NGUYÊN
LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
- Khái niệm sự phát triển:
+) Quan điểm siêu hình: Phát triển ở đây chỉ là sự tăng lên hoặc giảm đi về mặt lượng, chỉ là
sự tuần hoàn, lặp đi, lặp lại mà không có sự thay đổi về chất, không có sự ra đời của sự vật,
hiện tượng mới và nguồn gốc của sự “phát triển” đó nằm ngoài chúng +) Quan điểm của
chủ nghĩa duy vật biện chứng:
• Quan điểm biện chứng đối lập với quan điểm siêu hình về sự phát triển ở chỗ, nó
coi sự phát triển là sự vận động đi lên, là quá trình tiến lên thông qua bước nhảy; sự
vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới ra đời thay thế; nó chỉ ra nguồn
gốc bên trong của sự vận động, phát triển là đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện tượng
• Đặc điểm chung của sự phát triển là tính tiến lên theo đường xoáy ốc, có kế thừa,
có sự dường như lặp lại sự vật, hiện tượng cũ nhưng trên cơ sơ cao hơn
• Quá trình đó diễn ra vừa dần dần, vưa có những bước nhảy vọt... làm cho sự phát
triển mang tính quanh co, phức tạp, có thể có những bước thụt lùi tương đối trong sự tiến lên
- Tính chất của sự phát triển (3 điểm, hỏi thêm thầy):
• Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát
triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình giải quyết
mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng đó, không phụ thuộc vào ý thích hay ý muốn chủ quan
của con người. (VD Hạt lúa, hạt đầu khi có nước, đất, chất dinh dưỡng, ánh sáng dù không
có con người nhưng nó vẫn phát triển. Con người muốn tạo ra giống loài mới thì cũng phải
nhận thức và làm theo quy luật đó)
• Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra ở mọi lĩnh
vực tự nhiên (sự tiến hoá của các loài), xã hội (tiêu chí an toàn, mức sống đạt đc trong XH),
tư duy (khả năng nhận thức, chinh phục thế giới của con người); trong tất cả mọi sự vật,
hiện tượng và trong mọi quá trình, mọi giai đoạn của sự vật hiện tượng đó và kết quả là cái mới xuất hiện
• Tính kế thừa: Sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự vật, hiện tượng cũ, chứ không phải ra
đời từ hư vô. Vì vậy trong sự vật, hiện tượng mới còn giữ lại, có chọn lọc và cải tạo các
yếu tố còn tác dụng, gạt bỏ mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của sự vật, hiện tượng cũ (VD:
chiếc xe ô tô ngày nay có sự kế thừa, cải tiến từ những chiếc xe ô tô đời cũ hơn)
• Tính đa dạng, phong phú của phát triển: Mỗi sự vật, hiện tượng có quá trình phát triển
khác nhau. Tồn tại ở không gian, thời gian khác nhau, sự vật phát triển sẽ khác nhau. (VD
thế giới động vật tiến hoá khác nhau)
Phát triển mang tính phức tạp: trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu sự
tác động của các sự vật, hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố, điều kiện. Sự tác động đó có
thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi chiều hướng
phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi (VD: Để thành đạt phải trải qua rất
nhiều thử thách, khó khăn có thể là sẽ thất bại hoặc cũng có thể là sẽ thành công) *Vận dụng:
- Trong xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa hiện nay, đòi hỏi cần phải đổi mới để phát triển đấtnước,
ĐCSVN chủ trương đổi mới trên mọi lĩnh vực: từ kinh tế, chính trị đến văn hóa xã hội,... - Phát
huy tối đa nhân tố con người, coi con người là mục tiêu của sự phát triển. Bên cạnh đó, phát triển
mạnh mẽ LLSX với trình độ KHCN ngày càng cao và hoàn thiện QHSX trong nền kinh tế thị trường XHCN.
- Trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước, ĐCSVN luôn đấu tranh phê phán các quan
điểmbảo thủ, trì trệ, định kiến, giáo điều.
*Một số thành tựu:
- Trong suốt 37 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng. Đổi mới kinh
tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh chóng đưa Việt Nam từ một
trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp - Hoàn
thành phổ cập giáo dục mầm non; duy trì, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở
- Theo số liệu nghiên cứu của Bộ Khoa học và Công nghệ, nhân tố KHCN đóng góp hơn 30%giá
trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp, 38% trong sản xuất giống cây trồng, vật nuôi. Số lượng
bài báo khoa học, công trình công bố quốc tế của Việt Nam tăng nhanh, xếp thứ 56 trên tổng số
hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam liên tục tăng.
Câu 8: Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù cái chung và cái
riêng? Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu cặp phạm trù này?
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng nhất định
Ví dụ: Một cơn mưa, một cuộc cách mạng của dân tộc Việt Nam, một cái điện thoại, bản thân cá
nhân mỗi chúng ta, bản thân đất nước Việt Nam cũng là một cái riêng,...
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không những có ở một
sự vật, một hiện tượng nào đó, mà còn lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng (nhiều cái riêng) khác nữa
Ví dụ: Mỗi con người là một cái riêng nhưng chúng ta có cái chung đó là các cơ quan, hệ cơ quan
Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ các mặt, các đặc điểm chỉ vốn có ở một sự vật,
hiện tượng (một cái riêng) nào đó mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng nào khác
Ví dụ: Mỗi con người là một cái riêng, nhưng mỗi người lại có một đặc tính riêng, sở thích riêng
mà những người khác không có, thì cái đặc tính, sở thích ấy gọi là cái đơn nhất.
*Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung (hỏi thêm thầy):
1. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua các cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình.
Không có cái chung thuần túy tồn tại bên ngoài cái riêng.
Ví dụ: Quy luật bóc lột giá trị thặng dư của nhà tư bản là một cái chung, không thế thì không
phải nhà tư bản, nhưng quy luật đó được thể hiện ra bên ngoài dưới những biểu hiện khác
nhau của các nhà tư bản (cái riêng)
Ví dụ: Cái chung là quá trình đồng hóa, dị hóa, các cơ quan bài tiết, tuần hoàn,, hô
hấp,...nhưng những cái chung này cần phải thông qua một cái riêng cụ thể như những con
người cụ thể, con vẹt, con ngựa, con chó để biểu hiện sự tồn tại của nó.
2. Cái riêng chỉ tồn tại trong quan hệ với cái chung, không có cái riêng nào tồn tại độc lập, táchrời tuyệt đối cái chung.
Ví dụ: Nền kinh tế nào cũng bị chi phối bởi quy luật cung-cầu, quy luật QHSX phù hợp với
tính chất và trình độ của LLSX, đó là cái chung. Như vậy sự vật, hiện tượng nào cũng bao hàm cái chung.
3. Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, vì ngoài những điểm chung, cái riêng còncó cái đơn nhất.
4. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng, vì cái chung phản ánh thuộc tính,những mối liên hệ ổn định,tất
nhiên lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy, cái chung là cái gắn liền với bản chất, quy
định phương hướng tồn tại và phát triển của cái riêng.
Ví dụ: giai cấp công nhân Việt Nam trước những năm 1930 ngoài những đặc điểm chung của
giai cấp công nhân thế giới như là giai cấp không có trong tay tư liệu sản xuất, bị bóc lột sức
lao động, sống tập trung nên dễ dàng hơn trong vấn đề truyền bá tư tưởng,... còn có những
đặc điểm riêng như: lực lượng nhỏ, có mối liên hệ chặt chẽ với giai cấp nông dân do phần
lớn đều xuất phát từ nông dân. Như vậy ta có thể thấy cái chung sâu sắc hơn cái riêng và cái
riêng thì phong phú, toàn bộ hơn cái chung.
5. Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật: •
Sự chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ. •
Sự chuyển hóa từ cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định
Ví dụ: Trước đại hội Đảng VI thì kinh tế thị trường, khoán sản phẩm chỉ là cái đơn nhất, còn
cái chung là cơ chế bao cấp; nhưng từ sau Đại hội VI thì kinh tế thị trường lại dần trở thành
cái chung, còn kinh tế tập trung bao cấp thành cái đơn nhất, chỉ còn tồn tại trong một số
ngành như an ninh quốc phòng... *Ý nghĩa phương pháp luận:
- Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng nên khi xây dựng cái chung chúngta
phải xuất phát từ mỗi cái riêng đồng thời cũng không thể xuất phát từ ý muốn chủ quan của con
người. Tránh tuyệt đối hóa cái chung, xa rời cái riêng.
Ví dụ: Chúng ta muốn đưa ra chính sách để phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ (cái chung),
chúng ta cần khảo sát tình hình hoạt động của từng loại doanh nghiệp, từng doanh nghiệp cụ thể
(cái riêng) thì mới có thể đưa ra được cái chung. Không phải là ngồi một chỗ nghĩ ra và áp dụng luôn
- Vì cái riêng gắn bó chặt chẽ với cái chung, không tồn tại ở bên ngoài mối liên hệ dẫn đến cáichung
cho nên để giải quyết cái riêng cũng phải gắn với cái chung. Tránh tuyệt đối hóa cái riêng coi
thường cái chung, tránh chủ nghĩa cá nhân cực đoan, tư tưởng địa phương, cục bộ.
- Vì cái đơn nhất có thể chuyển hóa thành cái chung và ngược lại nên cần phát hiện, tạo điều
kiệncho cái đơn nhất, cái mới, cái tiến bộ và tích cực phát triển, phổ biến thành cái chung; đồng
thười cần hạn chế, đấu tranh loại bỏ, thủ tiêu những cái chung đã cũ, lạc hậu, không còn phù hợp.
Câu 9: Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù Nguyên nhân và
Kết quả? Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu cặp phạm
trù này? (Hỏi thêm thầy) *Định nghĩa
- Nguyên nhân là phạm trù dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật,
hiệntượng hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây ra một sự biến đổi nhất định nào đó -
Kết quả là phạm trù dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do những tác động giữa các mặt, các
yếu tố trong một sự vật hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây ra.
Ví dụ:- Lũ lụt ở miền Trung trong những năm gần đây diễn ra thường xuyên, gây thiệt hại ngày
càng nặng nề hơn (Đây là kết quả). Vậy hiện tượng này diễn ra là do đâu? Do những yếu tố nào
tác động? Đây là kết quả của việc con người tác động đến môi trường, môi sinh (phá rừng,..), biến
đổi khí hậu, ....(Đây là nguyên nhân)
- Phân biện nguyên nhân với nguyên cớ và điều kiện:
+) Nguyên cớ là những yếu tố ngẫu nhiên bên ngoài, xuất hiện cùng với nguyên nhân nhưng bản
thân nó không thể sinh ra kết quả
Ví dụ: sự kiện Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc Việt Nam, nguyên nhân thực sự là Mỹ đang sa lầy
ở miền Nam, phong trào CM ở miền Nam phát triển rất mạnh mẽ do sự chi viện của miền
Bắc, nhưng Mỹ lại lấy cái cớ là sự kiện Vịnh Bắc Bộ
+) Điều kiện: là những sự vật, hiện tượng gắn liền, tác động và làm cho nguyên nhân phát huy tác
dụng. Điều kiện không trực tiếp sinh ra kết quả. (VD: phản ánh hóa học, nguyên nhân để có được
bằng giỏi với điều kiện cần có là sự nỗ lực của bản thân, sự ủng hộ của gia đình).
Tính chất mối quan hệ •
Tính khách quan: Mối liên hệ nhân quả là cái vốn có của bản thân sự vật, không tồn tại ý thức con người •
Tính phổ biến: Với mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội đều có nguyên nhân
nhất định gây ra, dù nguyên nhân đó đã được nhận thức hay chưa. •
Tính tất yếu: Với một nguyên nhân nhất định, trong những điều kiện nhất định sẽ gây ra
kết quả tương ứng với nó. (VD: ác giả ác báo)
Ví dụ: bằng đại học là kết quả của quá trình học tập trong suốt 4 năm nhưng là nguyên nhân để có
thể ứng tuyển vào vị trí việc làm phù hợp.
*Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả:
1. Nguyên nhân sinh ra kết quả
Nguyên nhân luôn luôn có trước kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên
nhân đã xuất hiện. Ở đây vấn đề là tự bản thân nó đã rõ ràng, không cần phải luận chứng gì thêm,
ta cần phân biệt một vài vấn đề:
+) Đầu tiên cần phải phân biệt không phải một sự vật nào đó có trước sự vật thứ hai, thì tác động
của nó đã được coi là nguyên nhân của hiện tượng thứ hai
Ví dụ: Ngày là sự nối tiếp của đêm nhưng không phải nguyên nhân của đêm. Sự kế tục giữa các
mùa ở trong năm cũng như vậy. Đó là hậu quả của những vị trí khác nhau của trái đất so với mặt
trời trong vòng quay của trái đất xung quanh mặt trời, chứ không phải mùa xuân sinh ra mùa hè, mùa hè sinh ra mùa thu
+) Vấn đề thứ hai cần chú ý là sự kế tiếp nhau của nguyên nhân và kết quả trong mối quan hệ nhân
quả không có nghĩa là nguyên nhân sinh ra xong rồi thì kết quả mới nảy sinh. Trái lại, nguyên nhân
vừa tác động thì sự hình thành của kết quả đã có thể được coi như là bắt đầu, cho đến khi kết quả
hình thành như một sự vật, hiện tượng nó vẫn còn nhận tác động của nguyên nhân, và như vậy nó
vẫn còn đang tiếp tục biến đổi do tác động của nguyên nhân. Tóm lại, người ta khôngthể nhìn quan
hệ nhân quả như là sự đứt đoạn mà là trong sự vận động biến đổi liên tục của thế giới vật chất, của
sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng. Việc nguyên nhân sinh ra kết quả còn có
một yếu tố nữa, đó là điều kiện. Không phải cứ có sự tác động là có ngay kết quả, phải ở trong
những điều kiện nhất định thì có thể mới có kết quả 2. Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân:
Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả không giữ vai trò thụ động
đối với nguyên nhân, mà sẽ có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực ngược trở lại đối với nguyên nhân
Ví dụ: người ta đầu tư vào những ngành mũi nhọn có tác dụng làm thay đổi căn bản nền kinh
tế, vì chỉ một thời gian ngắn sau, nền kinh tế quốc dân đã có một động lực lớn như là công nghệ
thông tin, bưu chính viễn thông, công nghệ tin học Những kết quả do sự đầu tư đúng đắn đó làm
cho các ngành kinh tế như công nghiệp, thủy sản, nông nghiệp có những sự phát triển vượt bậc,
khi đó nó lại tạo điều kiện cho việc tái đầu tư ngày càng tốt hơn với lực lượng tài chính, lực lượng
vật chất ngày càng to lớn hơn. Rồi khi đó, trong một chu kỳ khác, sự đầu tư đúng đắn lại làm cho
các ngành khoa học mới ra đời, cứ như thế một chu trình đầu tư mang lại một kết quả vàbản thân
kết quả đó làm cho quá trình đầu tư ngày càng có ý nghĩa kinh tế xã hội sâu sắc hơn.
3. Nguyên nhân – kết quả có thể chuyển hóa lẫn nhau Ta hiểu như sau: -
Thứ nhất, nguyên nhân sinh ra kết quả, nhưng bản thân nguyên nhân khi sinh ra kết quả lại
đãlà kết quả ở một mối quan hệ nhân - quả trước đó. Ngược lại, kết quả với tư cách là kết quả
được sinh ra từ một nguyên nhân nhưng bản thân nó không dừng lại. Nó lại tiếp tục tác động, và
sự tác động của nó lại gây ra những kết quả khác.
Nói một cách khác, có thể tóm lại trong chuỗi nhân quả: A sinh ra B, B sinh ra C, C sinh ra D
thì mỗi cái đều là nguyên nhân ở trong một mối quan hệ này, nhưng đồng thời lại là kết quả ở một mối quan hệ khác.
Ví dụ : Sự phân phối thu nhập không công bằng dẫn tới mâu thuẫn trong xã hội. Những mâu
thuẫn xã hội làm nảy sinh những tệ nạn xã hội. Những tệ nạn xã hội lại làm cho nền kinh tế xã hội phát triển chậm lại. -
Thứ hai: ý nghĩa đã được xét ở khía cạnh trên, tức là nguyên nhân sinh ra kết quả, nhưng
kếtquả lại có khả năng tác động trở lại đối với nguyên nhân. Trong mối quan hệ này, khi kết quả
tác động trở lại với nguyên nhân thì kết quả lại có tư cách là nguyên nhân chứ không phải là kết
quả nữa. Do đó có thể nói có sự hoán đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả ngay trong cùng một mối quan hệ nhân quả
Ví dụ : trình độ dân trí thấp là do nền kinh tế kém phát triển gây ra, nếu không đủ đầu tư cho
việc nâng cao dân trí của nhân dân, đầu tư giáo dục không đầy đủ. Đến lượt mình, dân trí thấp với
tư cách là kết quả lại tác động trở lại với quá trình phát triển kinh tế và xã hội của đất nước, làm
cho kinh tế kém phát triển và dân trí sẽ lại tiếp tục thấp xuống
4. Một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả, và ngược lại, một kết quả có thể được ra
đời từ rất nhiều nguyên nhân :
Ví dụ về một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả: trường hợp chặt phá rừng bừa bãi ở đầu
nguồn có thể gây ra nhiều kết quả. Thứ nhất, quỹ gen động vật và thực vật, khí hậu ở vùng đó sẽ
thay đổi. Thứ hai, nó là nguyên nhân gây ra những trận lũ lụt, lũ quét. Thứ ba, nó gây ra xáo trộn
đời sống nhân dân, ảnh hưởng tình hình xã hội. Thứ tư, nó làm cho ngân sách quốc gia bị ảnh
hưởng do phải chi trả cho những thiệt hại mà thiên nhiên và xã hội đưa đến.
Ví dụ về một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra: Thành công của công cuộc đổi mới ở
trên đất nước ta bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Thứ nhất là sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của
Đảng. Thứ hai là sự đoàn kết, lòng quyết tâm thoát nghèo nàn, lạc hậu của Nhà nước và toàn thể
nhân dân Việt Nam. Thứ ba là chính sách ngoại giao rộng mở của chúng ta, làm bạn với các dân tộc trên thế giới, ...
*Ý nghĩa của phương pháp luận:
Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan và tính phổ biến, nghĩa là không có sự vật, hiện tượng
nào trong thế giới vật chất lại không có nguyên nhân. Nhưng không phải con người có thể nhận
thức ngay được mọi nguyên nhân. Nhiệm vụ của nhận thức khó học là phải tìm ra nguyên nhân
của những hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy để giải thích được những hiện tượng đó.
Muốn tìm nguyên nhân phải tìm trong thế giới hiện thực, trong bản thân các sự vật, hiện tượng tồn
tại trong thế giới vật chất chứ không được tưởng tượng ra từ trong đầu óc con người, tách rời với thế giới hiện thực.
Vì nguyên nhân luôn có trước kết quả nên muốn tìm nguyên nhân của một hiện tượng nào đấy
cần tìm trong những sự kiện những mối liên hệ xảy ra trước khi hiện tượng đó xuất hiện. Một
kếtquả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này có vai trò khác nhau đối với
việc hình thành kết quả. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phân loại các nguyên nhân,
tìm ra nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân khách quan,… Đồng thời phải nắm được chiều hướng
tác động của các nguyên nhân, từ đó có biện pháp thích hợp tạo điều kiện cho nguyên nhân có tác
động tích cực đến họt động và hạn chế sự hoạt động của nguyên nhân có tác động tiêu cực.
Kết quả tác động trở lại nguyên nhân. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phải khai
thác, tận dụng các kết quả đã đạt được để tạo điều kiện thức đẩy nguyên nhân phát huy tác dụng, nhằm đạt mục đích.
Sự vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân kết quả trong thực tiễn :
Đối với những mối liên hệ nhân – quả trong tự nhiên, con người càng nghiên cứu được càng
nhiều càng tốt. Nhờ biết được những hậu quả do các tác động lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng
trong tự nhiên, con người ta có thể lợi dụng được những nguồn năng lượng lớn đề phục vụngày
càng tốt hơn nhu cầu con người.
Ví dụ: Biết được về hiện tượng của thủy triều là sức hút của mặt trăng tạo nên làm cho nước
biểnbị cuốn theo gây nên những đợt thủy triều tràn vào đất liền, người ta có thể lợi dụng nó để tạo ra nguồn điện
Câu 10: Phân tích nội dung quy luật từ những sự thay đổi về lượng
dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại? Ý nghĩa phương pháp
luận của việc nghiên cứu quy luật này?
Vị trí và vai trò của quy luật: Chỉ ra phương thức, cách thức của sự vận động phát triển của các
sự vật, hiện tượng trong thế giới
*Nội dung quy luật: CHẤT:
- Khái niệm: Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sựvật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho sự vật là chính nó chứ không phải là cái khác.
VD: Nguyên tố đồng có nguyên tử lượng là 63,54 đvC, nhiệt độ nóng chảy là1083 độ C, nhiệt độ
sôi là 2880 độ C… những thuộc tính này nói lên những chất riêng của đồng, để phân biệt nó với các kim loại khác.
- Chất của sự vật là các thuộc tính khách quan vốn có của sự vật nhưng không đồng nhất với
kháiniệm thuộc tính. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những thuộc tính cơ bản và không cơ bản.
Chỉ những thuộc tính cơ bản mới hợp thành chất của sự vật, hiện tượng. Khi các thuộc tính cơ
bản thay đổi thì chất của sự vật thay đổi
- Chất của sự vật, hiện tượng không chỉ được xác định bởi chất của các yếu tố cấu thành mà cònbởi
cấu trúc và phương thức liên kết giữa chúng, thông qua các mối liênhệ cụ thể, do đó việc phân
biệt thuộc tính cơ bản và không cơ bản, chất và thuộc tínhchỉ có ý nghĩa tương đối - Chất là tổ
hợp nhiều thuộc tính, mỗi thuộc tính là một bộ phận của chất. Mỗi sự vật, hiện tượng không chỉ
có một chất mà còn có nhiều chất, tuỳ thuộc vào các mối quan hệ cụ thể của nó với những cái
khác. Chất không chỉ tồn tại thuần tuý tách rời sự vật, biểu hiện tính ổn định tương đối của nó LƯỢNG:
- Lượng là khái niệm dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng về mặt quy mô, trình
độ phát triển, các yếu tố biểu hiện ở số lượng các thuộc tính, ở tổng số các bộ phận, ở đại lượng,
ở tốc độ và nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng
- Ví dụ: Số lượng người trong một lớp học, vận tốc ánh sáng, trình độ nhận thức, phẩm chất đạođức của một người,.... - Đặc điểm:
+) Lượng là khách quan, quy định về sự vật, bên trong sự vật mặc dù nhiều khi dường như là vẻ bề ngoài.