Tài liệu đọc tuần 6 - Giáo dục học | Đại học Sư Phạm Hà Nội
Tài liệu đọc tuần 6 - Giáo dục học | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống
Preview text:
TÀI LIỆU ĐỌC TUẦ
Xây dựng và sử ụng các công cụ đánh giá Câu hỏ
“Câu hỏi là dạng cấu trúc ngôn ngữ, diễn đạt một nhu cầu, một đòi hỏi hay một
mệnh lệnh cần được giải quyết” (Trần Bá Hoành
Câu hỏi là công cụ được dùng trong phương pháp hỏi đáp và kiểm tra viết dạng
tự luận hoặc trắc nghiệm … để tránh hiểu nhầm chỗ gạch bỏ cũng là phương pháp (mặc
dù đã có dấu “;” để phân định
ên viết lại chỗ gạch bỏ thành câu thứ hai như sau:
Ngoài ra, câu hỏi còn là thành phần của một số công cụ đánh giá theo những mục đích
riêng biệt ví dụ công cụ bảng hỏi ngắn gồm các câu hỏi để kiểm tra kiến thức nền
công cụ thẻ kiểm tra gồm các câu hỏi để đánh giá kiến thức của HS trước, trong, sau
mỗi bài học/chủ đề; công cụ bảng KWL/KWLH gồm hệ thống câu hỏi để khởi động
hoặc định hướng hoạt động học cho một bài học/chủ đề (K: những gì các em đã biết?,
W: những gì các em muốn biết?, L: những gì các em đã học?, H: tiếp theo các em sẽ làm như thế nào?).
Có hai loại câu hỏi thường được sử dụng trong kiểm tra, đánh giá: Câu hỏi tự luận
và câu hỏi trắc nghiệm khách quan a) Câu hỏ ự ậ
Câu hỏi tự luận có ưu thế để đo lường đánh giá khả năng nhận thức ở những mức
cao phân tích, tổng hợp, đánh giá, sáng tạo Bloom 1956 có “tổng hợp”, không có “sáng
tạo”; còn Bloom 2001 không có “tổng hợp”, có “sáng tạo”. Câu hỏi tự luận còn giúp
đánh giá về hoạt động ngôn ngữ (kĩ năng trình bày, cách diễn đạt) và các thao tác tư
duy bậc cao (so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa, phê phán, ...).
Dưới đây là một số loại câu hỏi tự luận.
Câu tự luận mở rộng là loại câu hỏi có phạm vi trả lời rộng và khái quát. HS tự
do biểu đạt ý tưởng và kiến thức.
Ví dụ 1: Hãy trình bày quan điểm của em về việc xử phạt vi phạm giao thông khi uống rượu bia.
Ví dụ 2: Có người nói công thức của tình bạn: “Một muỗng của sự chia sẻ, hai
muỗng của sự quan tâm, một muỗng cho sự tha thứ, trộn tất cả những thứ này lại với
nhau... sẽ tạo nên người bạn mãi mãi”. Hãy bình luận về câu nói này. Hãy đưa ra một
công thức của riêng mình và dùng kinh nghiệm, sự trải nghiệm của mình để thuyết phục
mọi người. Thời gian làm bài: 40 phút.
Trần Bá Hoành (1997), Đánh giá trong giáo dục, NXB Giáo dục.
Với câu tự luận ở Ví dụ 2, thí sinh hoàn toàn tự do trong việc thể hiện quan điểm,
tự do trong việc lựa chọn thông tin để đưa vào phần trả lời, tự do sắp xếp các ý, và tự
do lựa chọn từ ngữ và cách diễn đạt để trình bày câu trả lời. Loại câu hỏi tự luận mở rất
phù hợp để khuyến khích người học phát triển năng lực sáng tạo.
Câu tự luận đóng (có giới hạn và cấu trúc là câu hỏi có phạm vi trả lời hẹp và
cụ thể. Nói cách khác, kiến thức cần kiểm tra được giới hạ phạm vi hẹp câu hỏi
có một đáp án duy nhất hoặc các đáp án cụ thể được xác định trước (đóng). Bài kiểm
tra với loại câu hỏi này thường có nhiều câu hỏi hơn bài tự luận mở. Nó đề cập tới
những vấn đề cụ thể, nội dung hẹp hơn nên đỡ mơ hồ hơn đối với người trả lời, do đó,
việc chấm điểm dễ hơn và có độ tin cậy cao hơn.
Ví dụ 1: Hãy trình bày mối nguy hiểm và mức xử phạt đối với việc uống rượu bia khi lái xe.
Ví dụ 3: Viết một bài luận ngắn khoảng 2 trang, so sánh hai khái niệm “vị tha” và
“ích kỷ”. Bài luận cần liên hệ với (a) một bối cảnh hoặc tình huống cụ thể mà một người
có tính “vị tha” hay “ích kỷ” gặp phải; và (b) những người mà họ gặp. Bài luận của em
sẽ được chấm điểm dựa trên mức độ rõ ràng của việc giải thích điểm giống và khác
iữa hai khái niệm trên, và cách liên hệ với (a) bối cảnh, tình huống, và (b) những
người cụ thể. Thời gian làm bài: 40 phút.
Với câu tự luận ở Ví dụ 3, HS được yêu cầu viết bài luận có độ dài giới hạn 2 trang
và nội dung giới hạn ở việc so sánh. Các yêu cầu cụ thể hơn về nội dung cũng được đưa
ra, thể hiện của việc liên hệ với trải nghiệm thực tế của người học. Ngoài ra, đầu bài
cũng nêu những tiêu chí chấm điểm quan trọng: mức độ rõ ràng, giải thích điểm giống
và khác nhau, cách liên hệ…
Một số lưu ý khi viết câu hỏi tự luận:
Câu hỏi tự luận dù ở dạng mở hay đóng đều phải thỏa mãn các tiêu chí đánh
giá theo mục tiêu dạy học. Nói cách khác, việc đặt câu hỏi tự luận phải đảm bảo yêu
cầu thí sinh thể hiện năng lực như mục tiêu dạy học đã đặt ra.
ên lựa chọn câu hỏi tự luận để đánh giá
những mục tiêu dạy học mà
nếu đánh giá bằng câu hỏi trắc nghiệm khách quan thì sẽ có nhiều hạn chế ví dụ mục
tiêu là đánh giá năng lực nhận thức bậc cao như phân tích, đánh giá, sáng tạo . Đặc
biệt ới câu tự luận mở chỉ nên khai thác để đánh giá năng lực đánh giá và sáng tạo.
Nếu viết câu hỏi tự luận đóng ần sử dụng động từ phù hợp với động từ đã sử
dụng ở để mô tả mục tiêu dạy học.
+ Yêu cầu của câu hỏi cần được làm rõ tới người học thông qua văn phong rõ
ràng và ngắn gọn. Trong câu hỏi, cần ử dụng những động từ chỉ hành động cụ thể để
giúp HS hiểu mình sẽ phải làm gì khi đọc câu hỏi đó
í dụ: hãy mô tả giải thích
sánh nêu ưu điểm và nhược điểm … Tránh dùng những động từ mơ hồ, trừu tượng như “vận dụng”, vì
có thể không biết cần làm gì khi được yêu cầu “vận dụng”. Với một
số mục tiêu đánh giá kỳ vọng về số lượng lập luận hay vấn đề mà cần trình bày, câu
hỏi cũng cần nêu rõ số lượng này. Với câu hỏi tự luận đóng nên cùng xây dựng
bài làm mẫu, hoặc các tiêu chí đánh giá để
hiểu rõ câu hỏi hơn và việc chấm điểm cũng sẽ khách quan hơn.
+ Với câu hỏi tự luận, nên cân nhắc việc cho phép
lựa chọn câu hỏi giữa
các câu hỏi tương đương nhau. âu hỏi tự luận vốn có hạn chế là k hông bao quát được
toàn bộ nội dung chương trình học Do đó, việc cho phép lựa chọn câu hỏi càng
bộc lộ sự không bao quát này. Hơn nữa, mỗi thí sinh có thể có hứng thú với câu hỏi này
hơn là câu hỏi khác, việc cho thí sinh lựa chọn câu hỏi sẽ có thể làm cho việc đánh giá
trở nên thiếu công bằng.
+ Cân nhắc để giao đủ thời gian làm bài cho mỗi câu hỏi. Trên đề kiểm tra nên
ghi rõ khuyến nghị thời gian làm bài và độ dài phần trả lời câu hỏi (nếu có thể). Cần
tính toán để thí sinh có đủ thời gian đọc đề bài, suy nghĩ và viết câu trả lời. Không nên
có quá nhiều câu hỏi tự luận trong một đề kiểm tra.
+ Công việc chấm điểm bài tự luận có thể bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố gây
thiên kiến như: chính tả, cách hành văn, chữ VIẾT, cách lấy ví dụ, hiểu biết của người
chấm điểm về thí sinh… Để giảm thiểu sự ảnh hưởng này, việc chấm điểm cần tập trung
vào mục tiêu dạy học mà chúng ta cần đánh giá, sử dụng các tiêu chí đánh giá đã thống
nhất từ trước. Với câu hỏi tự luận đóng, có thể xây dựng tiêu chí đánh giá và thang điểm
trên một bài trả lời mẫu. Đồng thời, nên dọc phách bài kiểm tra trước khi chấm điểm.
Tiến hành chấm điểm toàn bộ bài làm của một câu hỏi (ở tất cả các bài kiểm tra) trước
khi chuyển sang câu tiếp theo. Với những bài kiểm tra mang ý nghĩa quan trọng đối với
thí sinh, nên có 2 3 người chấm điểm cùng đánh giá một bài kiểm tra. (Thiên kiến là
thiên về một bên nào đó (nghĩa rộng), các trường hợp của nó có nghĩa hẹp hơn là: định
kiến (thiên về cảm xúc), khuôn mẫu (thiên về nhận thức), phân biệt đối xử (thiên về
hành vi). Có lẽ nên dùng từ “định kiến” cho dễ hiểu).
Các âu hỏ đánh giá các mứ ậ ứ
Như đã đề cập ở phần lưu ý về câu hỏi tự luận, khi viết câu hỏi, cần sử dụng những
động từ chỉ hành động cụ thể để HS hiểu mình phải làm gì khi đọc câu hỏi đó. Quan
trọng hơn, những động từ này (trong cả hai loại câu hỏi tự luận và trắc nghiệm) phải
giúp quan sát, đo lường, đánh giá được các mức nhận thức. Ví dụ: hãy nêu/trình bày/chỉ
(mức biết); hãy phân tích/giải thích/so sánh (mức hiểu), hãy thực hiện/thiết kế/tạo
lập (mức vận dụng). Lưu ý rằng cùng một động từ, tùy vào ngữ cảnh có thể được sử
dụng để đánh giá các mức nhận thức khác nhau. Ví dụ “Hãy trình bày các loại hình
đánh giá” (mức biết ; “Hãy trình bày ý nghĩa của các loại hình đánh giá” (mức hiểu).
Trong dạy học phát triển phẩm chất, năng lực, những động trên đây rất quan trọng
“Phẩm chất” và “năng lực” vốn trừu tượng, không “nhìn thấy, sờ vào” được, cho nên
phải đánh giá thông qua các biểu hiện của chúng, tức là phải sử dụng các động từ có
thể quan sát, đo lường, đánh giá được để mô tả các biểu hiện này và để so sánh với
yêu cầu cần đạt khi đánh giá).
Dưới đây sẽ trình bày tóm tắt các loại câu hỏi dùng để đánh giá các mức nhận thức
về các khía cạnh: mục tiêu, tác dụng và cách sử dụng.
Câu hỏi "biết/ nhớ”
Mục tiêu: Câu hỏi "nhớ" nhằm kiểm tra trí nhớ của HS về các dữ kiện, số
liệu, tên người hoặc địa phương, các định nghĩa, định luật, quy tắc, khái niệm …
Tác dụng đối với HS: Giúp HS ôn lại được những gì đã biết, đã trải qua.
Cách thức sử dụng: Khi đặt câu hỏi GV có thể sử dụng các từ, cụm từ sau
đây: Ai…? Cái gì…? Ở đâu…? Thế nào…? Khi nào…? Hãy định nghĩa…; Hãy mô tả…; Hãy kể lại…
Ví dụ: Quá trình quang hợp xảy ra ở bào quan nào? Điều kiện xảy ra quá trình quang hợp là gì?
Câu hỏi trên ẩn động từ có thể quan sát, đánh giá được ở mức biết, đó là:
“nêu/chỉ ra” Hãy chỉ ra bào quan mà ở đó xảy quá trình quang hợp Hãy nêu điều kiện
để xảy ra quá trình quang hợp. Câu hỏi "hiểu"
Mục tiêu: Câu hỏi "hiểu" nhằm kiểm tra HS cách liên hệ, kết nối các dữ kiện,
số liệu, các đặc điểm… khi tiếp nhận thông tin.
+ Tác dụng đối với HS: Giúp HS có khả năng phân tích được những yếu tố cơ
bản; so sánh được các yếu tố, các sự kiện… trong bài học.
Cách thức sử dụng: Khi đặt câu hỏi, GV có thể sử dụng các cụm từ sau đây:
Hãy so sánh…; Hãy liên hệ…; Vì sao…? Giải thích…?
Ví dụ: Hãy phân tích vai trò của quá trình quang hợp đối với thực vật và đối
với con người. Hãy so sánh quá trình nguyên phân và giảm phân.
Trong câu hỏi, động từ ở mô tả biểu hiện ở mức hiểu là “phân tích”.
Câu hỏi "vận dụng"
Mục tiêu: Câu hỏi "vận dụng" nhằm kiểm tra khả năng áp dụng những thông
tin đã thu được (các dữ kiện, số liệu, các đặc điểm…) vào tình huống mới.
Tác dụng đối với HS: Giúp HS vận dụng được các kiến thức, KN đã học.
Cách thức sử dụng: Khi dạy học, GV cần tạo ra các tình huống mới, các bài
tập, các vấn đề giúp HS vận dụng các kiến thức đã học. GV có thể đưa ra nhiều câu trả
lời khác để HS lựa chọn một câu trả lời đúng. Chính việc so sánh các lời giải khác nhau
là một quá trình tích cực.
Ví dụ: Hãy đề xuất cách trang điểm và chăm sóc da đúng cách. Hãy chỉ ra cơ
ở khoa học của câu “nhai kĩ no lâu”.
Trong câu hỏi, động từ ở mô tả biểu hiện ở mức vận dụng là “đề xuất”. Mặt
khác, động từ “chỉ ra” được sử dụng để yêu cầu HS giải quyết vấn đề trong một tình
huống thực tiễn. Vậy động từ “chỉ ra” với ngữ cảnh cụ thể này sử dụng được để đánh giá mức vận dụng
Câu hỏi "phân tích"
Mục tiêu: Câu hỏi "phân tích" nhằm kiểm tra khả năng phân tích nội dung
vấn đề, từ đó tìm ra mối liên hệ, hoặc chứng minh luận điểm, hoặc đi đến kết luận.
Tác dụng đối với HS: Giúp HS suy nghĩ, có khả năng tìm ra được các mối
quan hệ trong hiện tượng, sự kiện, tự diễn giải hoặc đưa ra kết luận riêng, do đó phát
triển được tư duy lôgic.
Cách thức sử dụng: Câu hỏi phân tích thường đòi hỏi HS phải trả lời: Tại
sao? (khi giải thích nguyên nhân). Em có nhận xét gì? (khi đi đến kết luận). Em có thể
luận cứ như thế nào? (khi chứng minh luận điểm). Câu hỏi phân tích thường có nhiều lời giải.
Ví dụ: Hãy phân tích tình hình bảo vệ môi trường ở địa phương em. Hoặc:
Hãy phân tích tiềm năng sử dụng năng lượng sạch ở địa phương em.
Trong câu hỏi, động từ ở mô tả biểu hiện ở mức phân tích cũng chính là “phâ tích”.
Câu hỏi "đánh giá"
Mục tiêu: Câu hỏi "đánh giá" nhằm kiểm tra khả năng đóng góp ý kiến, sự
phán đoán của HS trong việc nhận định, đánh giá các ý tưởng, sự kiện, hiện tượng…
dựa trên các tiêu chí đã đưa ra.
+ Tác dụng đối với HS: Thúc đẩy sự tìm tòi tri thức, sự xác định giá trị của HS.
Cách thức sử dụng: Đưa ra các tình huống có vấn đề yêu cầu HS phải đưa ra
nhận xét, quan điểm, đánh giá cho các vấn đề đó.
Ví dụ 1: Theo em trong hai phương pháp đo thể tích bằng bình chia độ và
bằng bình tràn thì phương pháp nào cho kết quả chính xác hơn? (câu tự luận đóng)
Ví dụ 2: Theo em có nên phổ biến hoạt động nhân bản vô tính ở động vật? (câu tự luận mở)
Trong cả hai câu hỏi, ẩn động từ “đánh giá” khi mô tả biểu hiện ở mức đánh
giá: Hãy đánh giá độ chính xác của hai phương pháp đo thể tích bằng bình chia độ và
bằng bình tràn, từ đó cho biết phương pháp nào cho kết quả tin cậy hơn. Em sẽ đánh
giá về những khía cạnh nào đối với việc phổ biến hoạt động nhân bản vô tính ở động
vật? (Các khía cạnh em có thể đánh giá là: đạo đức, đạo đức sinh học, sức khỏe, tuổi thọ, chi phí, ...)
Câu hỏi "sáng tạo"
Mục tiêu: Câu hỏi "sáng tạo" nhằm kiểm tra khả năng của HS có thể đưa ra
dự đoán, cách giải quyết vấn đề, các câu trả lời hoặc đề xuất có tính sáng tạo.
Tác dụng đối với HS: Kích thích sự sáng tạo của HS, hướng các em tìm ra
nhân tố mới, giải pháp mới…
Cách thức sử dụng: GV cần tạo ra những tình huống phức tạp, những câu hỏi
có vấn đề, khiến HS phải suy đoán, có thể tự do đưa ra những lời giải mang tính sáng tạo riêng của mình.
Ví dụ 1: Hãy đề ra những biện pháp chống ô nhiễm tiếng ồn cho những gia
đình sống bên cạnh đường giao thông lớn có nhiều loại xe cộ qua lại.
Ví dụ 2: Hãy tìm cách xác định thể tích của vật thấm nước (những viên phấn) bằng bình chia độ.
Trong cả hai câu hỏi, các động từ “đề ra”, “tìm cách xác định” gắn với ngữ cảnh
cụ thể để mô tả các biểu hiện của mức sáng tạo.
* Yêu cầu xây dựng câu hỏi
– Câu hỏi cần chính xác, hình thức đơn giản, diễn đạt rõ ràng giúp người học đưa
ra được câu trả lời đúng. Nếu câu hỏi đa nghĩa, phức hợp, sai ngữ pháp thì sẽ gây khó
khăn không cần thiết cho HS.
– Hệ thống câu hỏi được thiết kế phù hợp với tiến trình bài dạy, khả năng nhận
thức của đa số HS và theo các mức độ từ dễ đến khó, từ cụ thể đến khái quát, từ nhận biết đến sáng tạo.
* Yêu cầu khi đặt câu hỏi
GV đưa câu hỏi một cách rõ ràng, hấp dẫn; dành đủ thời gian cho HS suy nghĩ,
chỉ định một HS trả lời, yêu cầu cả lớp lắng nghe và sau đó phân tích câu trả lời; GV đưa ra câu trả lời.
GV cần nhận xét bằng lời về câu trả lời của HS nhằm điều chỉnh nhận thức, hành
vi của các em. Nhận xét tích cực bằng lời của GV, của bạn cùng lớp có tác dụng nuôi
dưỡng những suy nghĩ tích cực, tạo sự tự tin ở HS, giúp HS tự “cài đặt” lại suy nghĩ,
niềm tin tích cực cho chính mình.
Ví dụ, nhận xét về khả năng hợp tác trong nhóm của một HS như sau: Em đã thực
hiện tốt phần việc của cá nhân. Em nên tham gia thêm những việc chung của nhóm như:
viết báo cáo kết quả, hoặc thay mặt nhóm trình bày kết quả.
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1. Biên soạn hệ thống câu hỏ đánh giá một bài học hoặc một chủ đề trong môn học mà
anh (chị) sẽ dạy học, trong đó có sử dụng câu hỏi tự luận mở rộng câu hỏi tự luận có
giới hạn và có các câu hỏi tương ứng với các mức độ nhận thức khác nhau.
. Hãy đưa ra một tình huống đánh giá mà ở đó
đã không chú ý đến các yêu cầu khi đặt câu hỏi cho
và đề xuất cách xử lý tình huống đó.