lOMoARcPSD| 61527594
VĂN HỌC VIỆT NAM
1933-1935: Thế Lữ tập “Mấy vần thơ”
1938: Xuân Diệu tập “Thơ Thơ”
1941-1943: Nhóm thơ “Xuân thu nhã tập”
Văn học chạy theo thị hiếu ĐÁM ĐÔNG
Văn học luôn thay đổi, luôn xuất hiện CÁI MỚI, CÁI TÔI được đề cao ( Cái mới luôn thay
đổi nhanh chóng, gấp gáp). Giai đoạn 1945, VHVN sản xuất ra hàng loạt nhà văn, nhà thơ xuất
sắc. Thực đơn của người đọc không chỉ có một món ăn, thị hiếu luôn thay đổi, nhà văn cũng
không ngừng đổi mới... nếu không sẽ bị đào thải khỏi bữa tiệc văn chương.
1. Tiến trình văn học:
Văn học truyền thống bị giải thể: 1887: Truyền thống => 1907: Đông Kinh nghĩa Thục =>
1908: Các nhà Nho bị đàn áp, bị ra đoạn đầu đài, bị đày ra côn đảo, đội ngũ nhà nho bị quét sạch
Văn học ddduwocj cấu trúc lại theo hình văn học Phương tây=> 1909: Nguyễn Khuyến
mất => đội ngũ trí thức văn học phương tây1913: Xuất hiện Đông Dương tạp chí => 1917: Nam
Phong tạp chí.
Giai đoạn 1887-1932:
1887-1909: Nền văn học có tính khu vực chia làm hai khu vực rõ rệt:
- Khu vực sài Gòn-Gia Định (Phương Tây hóa): Truyện thầy Lazaro phiền
- Các vùng còn lại: Truyền thống
1913-1932: Nhất thể hóa trên toàn quốc nhờ tầng lớp trí thức Tây học, nền văn học
mới-nền văn học Phương tây hóa phát triển mạnh mẽ:
- Truyện Ngắn: Nguyễn Bá học, Phan Duy Tốn
- Tiểu thuyết: Đặng Trần Phất, Hoàng Ngọc Phách
- Thơ: Tản Đà, Nguyễn Khắc Hiếu
- Ký (du kí): Phạm Quỳnh, Đong Hồ, Đông Châu
- Phê bình văn học: Phạm quỳnh, Văn Khôi, Thiếu Sơn
- Về kịch: Kịch nói theo lối phương Tây
Giai đoạn 1932-1945
Bài tập thực hành:
Tiêu chí so sánh
Truyền thống
Hiện đại hóa
1. Ngôn ngữ
Nôm na, ước lệ, ngôn ngữ văn
chương bác học
Biền ngẫu, đặc tuyển
2. Cốt truyện
-Vào truyện: bằng ngày xửa
ngày xưa, giưới thiệu hoàn
cảnh, xuất thân, tên tuổi của
-Vào truyện: trực tiếp -Kết
cấu Truyện: theo time tuyến
tính, chính xác về time
lOMoARcPSD| 61527594
nhân vật rồi mới bước vào
nội dung diễn biến chính. -
Kết cấu truyện: Vòng tròn
đầu cuối tương ứng, tâm lý -
Kết thuc truyện có hậu -Ảnh
hưởng của tam giáo:
Phật-Đạo-Nho
-Kết thúc:
- Ảnh hưởng của phương
Tây:
3.
Nhân vật
Tập trung tâm lý nhân vật:
Giằng xe,...
4.
Nghệ thuật
-Ngôi kể:
Nhận xét của thầy
Tiêu chí
Thầy Lazaro Phiền
Tự sự trung đại
Văn tự
Chữ Quốc ngữ
Chữ Hán, Nôm
Lối viết/hành văn
Nôm na, sử dụng tiếng nói
sinh hoạt hằng ngày = văn
xuôi
Biền ngẫu, văn ngôn >< bạch
thoại
Kết cấu
Vòng tròn
Truyện lông trong truyện
Chương hồi
Cốt truyện
K có hậu
Có hậu
Nhân vật
Thôngb ngôn
Vợ của quan ba người Pháp
(Không có tên)
Vợ của Phiền (khônng có tên)
Đều là nững nhân vật
của xa hội VN đương
thời, (năm 1910, SG
xuất hiện thể loại Kim
thời tiểu thuyết)
Những nhân vật của
cuộc sống đời thường
với những tình yêu,
dục vọng, thù hận...là
một con người đời
thường được bốc nhặt
từ cuộc sống đời
thường.
Nhân vật có tài năng xuất
chúng, có lai lịch rõ ràng. Là
những nhân vật đấng bậc
Không cụ thể về không – thời
gian, phiếm chỉ
lOMoARcPSD| 61527594
Nghệ thuật trần thuật/ kĩ thuật
tự sự
-Ngôi kể: ngôi thứ nhất
(người trong cuộc). Hai tầng
trần thuật
(1)Thứ nhất: ghi lại, ngoài
cuộc
(2) Thứ hai: hổi ức, thú nhận,
người trong cuộc
=> tâm lý, tạo sự đan xen quá
khứ và hiện tại, THÚ TỘI,
XƯNG TỘI
- Motif: tình yêu tay ba, trả
thù giấu mặt, ghen tuông -
Chính xác của time trần
thuật
-Bức thư, tự thú,...
PHƯƠNG TÂY HÓA
Mang màu sắc Thiên chúa
giáo, Lazaro là tên thánh
DÒNG VĂN HỌC CỦA
NHỮNG NHÀ VĂN THIÊN
CHÚA GIÁO: Trương Vĩnh
Ký, Nguyễn Trọng Quản,
Nguyên Hồng, Nam Cao,
Nguyễn Việt Hà...
CHUẨN BỊ BÀI BUỔI 4:
I.
II.
1. Thủ lĩnh của “Tự lực văn đoàn” và các thành viên:
- Tự lực văn đoàn là tổ chức của một nhóm nhà văn đứng đầu là Nhất Linh (Nguyễn
Tường Tam), thành lập năm 1939.
- Thành viên chính thức của “Tự lực văn đoàn” gồm 7 người: Nhất Linh (Nguyễn Tường
Tam), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam ( Nguyễn Tường Lân), Khái Hân (
TrầnKhanhs Dư), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ) và Xuân Diệu (Ngô
Xuân Diệu).
2. Quan niệm của “Tự lực văn đoàn” qua 10 tôn chỉ:
(Giáo trình – trang 183)
3. Ý nghĩa văn học sử
III.
3.1 Chặng đường thứ nhất 1932-1936:
Bối cảnh lịch sử: Những năm thoái trào cách mạng. Kn nghĩa Yên Bái của viêtj Nam
lOMoARcPSD| 61527594
Quốc dân Đẩng và PTCM 1903-1930 thất bại, phong trào cách mạng lắng xuống,
không khí u ám bao trùm xã hội, các trí thức, tsdt, tiểu ts thành thị hoang mang. Pháp
cổ cũ các trò hưởng lạc...
Hoạt động của nhóm Tự lực văn đoàn: Những tiểu thuyết lãng mạn Hồn bướm mơ
tiên, Nửa chừng xuân (Khải Hưng), Gánh hàng hoa (Khải Hưng, Nhất Linh); Đoạn
tuyệt, Lạnh lùng ( Nhất Linh).
Ý nghĩa vh sử:
Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn không chỉ là một cách xì hơi bầu không khí ngột ngạt lúc
bấy giờ mà còn phản ánh được tâm trạng của một bộ phận thanh niên thành thị muốn
thoát ra khỏi hoàn cảnh đó
Ở chặng đường này, tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn nhân danh chủ nghĩa nhân đạo,
tinh thần dân chủ để chống lại sự hà khắc, tính chất ích kỉ, tàn nhẫn của lễ giáo phong
kiến, đấu tranh cho tình yêu, hôn nhân tự do và hạnh phúc chân chính, giải phõng phụ
nữa khỏi vòng cung tỏa của chế độ gia trưởng pk.
Đem đến màu sắc hấp dẫn của cái mới, của chủ nghĩa cá nhân, chính nghĩa, gợi lên
lòng yêu nước thầm kín.
3.2 Chặng 2: 1936-1939
Bối cảnh lịch sử: Thời kì Mặt trận Dân chủ Đông Dương, bầu khô tng khí có phần dễ
thở hơn trước. Báo chí tiến bộ, CM hoạt động sôi nổi từ Bắc vào Nam. Vấn đề đau
tranh cải thiện đời sống người dân trở thành vấn đề hàng đầu.
Hoạt động của Tự lực văn đoàn: Chuyển đề tài: đề tài chống phong kiến vẫn tiếp tục
được đề cập nhưng vấn đề dân cày, quan tâm đến đời sống của người dân được đặt lên
hàng đầu, giữ vai trò chủ đạo, đi vào hẳn đề tài chính trị xã hội Tác phấm: Con trâu,
Sau lũy tre (Trần Tiêu), Nhà mẹ Lê (Thạch Lam), Hai vẻ đẹp (Nhất Linh); Gia đình,
Những ngày vui của Khái Hưng, Con đường sáng của Hoàng Đạo.
Ý nghĩa vh sử: Cho thấy được sự bất công, chênh lệch giàu nghèo, sang hèn trong xã
hội dương thời, bước đầu tìm thấy nguyên nhân là do sự đàn áp, bóc lột của bon quan
lại phong kiến, đem đến 1 niềm lạc quan tin tưởng về thưucj hiện cải cách nông thôn
theo tinh thần văn minh, khoa học của ptay, cải thiện đời sống người dân quê (đặt vào
hcanh lịch sử: những tư tưởng ấy mang tính chất ảo tưởng, màu sắc cải lương).
3.3 Chặng 3: từ cuối 1939
Bối cảnh: Mặt trận DC Đông Dương chấm dứt, CTTGT2 bùng nổ, Nhật Pháp thay
nhau bóc lột nhân dân ta, chế độ kiểm duyệt báo chí khắt khe, hoạt động văn hóa văn
nghệ chân chính bị bóp nghẹt
Hoạt động: Nhất Linh trốn chạy snag Nhật, Khái Hưng, Hoàng Đạo bị bắt. “thời kì
xuống dốc của Tự lực văn đoàn”(Phan Cự Đệ). Tác phẩm: Bướm trắng, Đepk, Thanh
đức. Tiểu thuyết của TLVD chỉ còn là “một quyển tiểu thuyết k có chuyện”, con
người trong tác phẩm chỉ là những người vô lý mang tâm trạng chán chường sống
buông thả, tuyệ vọng, vô trách nhiệm..
Ý nghĩa VH sử: Phản ảnh tâm trạng chán chường, tuyệt vọng của một bộ phận thanh
niên trí thức đương thời,...
lOMoARcPSD| 61527594
Nhận xét:
- Quá trình vận động của tiểu thuyết TLVD chịu sự chi phối của bối cảnh lịch sử thời đại
- Có sự đổi mới, thay đổi tư tưởng chủ đề qua từng chặng, theo hiện thực cuộc sống của bối
cảnh thời đại: Chủ nghĩa cá nhân=>chủ nghĩa cá nhân cực đoan.
- Tuân tgur sát với tôn chỉ sáng tác
- Đem đến cái mới mẻ, cách tân trên cả phương diện nội dung tư tưởng lânc nghệ thuật tự
sự...đem đến tiếng nói cá nhân – chủ nghãi cá nhân được đề cáo, quyền tựu do hạnh phúc
của con người cá nhân luôn được đặt lên hàng đầu. Nhưng xét đến cùng, nghệ thuật qu
thực vận động theo hướng mới trân con đường cách tân tiểu thuyết, về tưb tưởng thì lại
rơi vào chủ nghĩa cá nhân cực đoan, khủng hoảng bế tắc
- Dẫu không ngừng đổi mới, cách tân nhưng vẫn giữu được tinh thần dân tộc, dẫu chỉ là
tinh thần cải lưng vô sản, màu sắc nói lên khát vọng dân tộc dân chue, đấu tranh gải
phóng bản thân, giải phóng bản ngã, giải phóng con nguoief- nhất là người phụ nữ.
4.
4.1 tóm tắt luận điểm chính mô hình tiểu thuyết of TLVD
Mô hình tiểu thuyết riêng, không trộn lẫn:
- Về đề tài: phong phú: tình yêu, lịch sử, cải cách xã hội,...hầu hết viết về tình yêu, “tiểu
thuyết tình”. Nét riêng ở đề tài tình yêu of TLVD là ở chỗ, k chỉ viết về tình yêu thuàn túy
với những quy luật tình cảm, những yêu ghét khổ đau của nó mà bao giờ cũng có ý thức
lồng vào những câu chuyện tình của mình một ý tưởng cải cách xã hội.
-Về nhân vật:tạo ra một thế giới nhân vật phong phú: nguoief phụ nữ, nghệ sĩ, khách chinh
phu..Tạo ra kiểu nhân vật riêng: thanh niên tân nhân vật(nam), gái tân (nữ), thường mang cái tên
chug “chàng’ và “nàng”. Nhân vật khác với trí thức trung lưu of Ntuan, khác với trí thức nghèo
của Nam Cao mà là những thanh niên trí thức Tây học vừa tre tuổi vừa xinh đẹp vừa đa tình, là
cậu ấm cô chiêu xuất thân gia đình quan lại tư sản địa chủ: chịu ảnh hưởng Âu hóa tưf hình thức
đến tư tưởng, thấm nhuần lõi sống tây âu, ý thức sâu sắc về quyền cá nhân, đề cao tự do, coi
trọng vẻ đẹp hình thức...Là kiểu nhân vật riêng “Không bắt trước đc” (Tô Hoài).
- Về lối viết: Lối viết hiện đại, lấy trung tâm là tính cách, dùng kí thuật hội họa hiện đại để
tả cảnh, tả người, đi sâu vào đs nội tâm NV. Lời avwn trong sáng, giản dị, diễ tả chính xác
nhuần nhuyễn diễn biến tâm lý nhân vật.
4.2 Làm rõ qua Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng
Hồn bướm tiên tác phẩm đầu tay của Khái Hưng viết năm 1933, cũng tác phẩm
đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn. Mặc chỉ là truyện ngắn vỏn vẹn chừng một trăm trang giấy,
nhưng nó lại là tác phẩm tạo nên tiếng vang nổi nhất của Khái Hưng, được nhiều người say mê,
hâm mộ.
lOMoARcPSD| 61527594
Hồn bướm tiên ý nghĩa cách tân về thể loại tiểu thuyết, tiêu biểu cho hình tiểu thuyết
của TLVD Tác giả đã biết hướng cuộc đời về một thế giới ảo tưởng của tôn giáo, của tình yêu
lãng mạn.
Đề tài: tình yêu nam nữ trong trốn đền thiêng của tôn giáo
Ngay từ tiểu thuyết đầu tay này, nhà văn đã thể hiện được một quan niệm mới, một cách cảm
nhận mới về con người. Nhân vật trong tiểu thuyết của nhà văn không còn là những ước lệ, công
thức, tác giả đã ý thức rất rõ của một nhà tiểu thuyết là chỉ tả những cảnh ngộ, những hình trạng.
những tính tình của một xã hội của một thời đại mà thôi. Khái Hưng đã tập trung khám phá mô
tả khẳng định mẫu hình nhân vật mới, một kiểu nhân vật lãng mạn. Vì vậy, tác phẩm này mang
đậm dấu ấn lãng mạn.
Đây là một chuyện tình núp dưới bóng từ bi của phật giáo. Thông qua cuộc đấu tranh giữa ái
tình và tôn giáo, Khái Hưng đã làm nổi bật được tính cách, lí tưởng của hai nhân vật chính. Tình
yêu của họ hấp dẫn ngay từ đầu câu chuyện. Chàng trai tên Ngọc gặp chú tiêu tên Lan ở chùa
Long Giáng kiều diễm dưới bộ áo tu hành. Ngọc nghĩ Lan là gái nên để tâm theo dõi và cũng từ
đó Ngọc đã đem lòng yêu Lan. Nếu như con người Lan hoàn toàn thuộc về thế giới tôn giáo,
không còn xúc động gì với tình yêu đôi lứa thì cuộc tìm kiếm của Ngọc sẽ vô ích như đuổi theo
một chiếc bóng vô hình. Nhưng ngược lại, trái tim của chú tiểu Lan cũng không khỏi bồi hồi xúc
động trước tình yêu thầm lặng của Ngọc. Tuy nhiên, Lan không phải là người con gái dễ bị sa
ngã. Nàng cố đấu tranh chính bản thân mình để chối từ tình yêu của Ngọc. Mỗi lần Ngọc cố ý dò
hỏi, Lan lại lẩn tránh. Như khi Lan được Ngọc khen “Nhưng chú thuật khéo lắm, lại thêm chú có
cái giọng dịu dàng, êm ái qua!” thì Lan lại lẩn né sang chuyện “Chết chửa nói mãi hôm nay đến
lượt tôi thỉnh chuông, ta đi thôi không về trễ cụ quở”.
Mặc dù Lan có cảm tình với Ngọc nhưng nàng cố bám víu vào đạo phật, trốn tránh mà vẫn
yêu. Trong lòng nàng diễn ra một sự đấu tranh gay gắt giữa ái tình và tôn giáo. Đến với tình yêu,
Lan sung sướng vì thấy đúng với bản chất và những mong muốn của mình nhưng nàng lại mang
cảm giác tội lỗi với phật tổ và những lời hứa của một người đã quả quyết dứt bỏ cuộc sống trần
tục. Không khỏi có lúc Lan tự dối lòng mình và xem ái tình là chuyện nhỏ nhen tầm thường, dẽ
gạt bỏ nhưng rồi chính nó lại là thứ to tát,chứa chan khắp linh hồn của Lan. Sự có mặt của Ngọc
trên cõi đời này đã đánh thức tình yêu trong sáng của Lan nhưng nó lại bị lớp sương mù lạnh giá
của tôn giáo bao bọc lấy người con gái này.
Khi miêu tả Lan, nhân vật chính trong truyện, tác giả dường như dồn hết trìu mến vào nàng,
một người con gái xinh đẹp, thông minh, trang nhã. Vì vậy, Ngọc yêu Lan cũng hoàn toàn có lí
dù bên ngoài Lan giả trai.
Nếu như Lan cố tình để che đậy tình yêu của mình, luôn mượn những triết lí tôn giáo để răn
đe mình thì ngược lại chàng trai Ngọc không bị ràng buộc bởi một tín điều tôn giáo nào, lại luôn
tìm cách để bộc lộ nó. Mối quan tâm duy nhất của chàng là Lan là gái hay trai? Và khi biết được
Lan là con gái thì cái cảm tình ban đầu biến thành tình yêu nồng nàn và chàng tha thiết yêu Lan.
lOMoARcPSD| 61527594
Tình yêu của Ngọc và Lan là tình yêu đầy lãng mạn, trong sáng và cao thượng. Và dù tình yêu
ấy có sâu đậm đến thể nào cũng chỉ có thể dừng lại ở giới hạn mà tôn giáo đã định. Lan đành
phải thú nhận với Ngọc mình là con gái và chấp nhận tình yêu của Ngọc với những dè dặt tinh vi
nhất. Ngọc kẻ kiếm tìm và khao khát yêu đương cũng chỉ dừng lại ở mức độ Ngọc nguyện suốt
đời chàng “Tôi không lấy ai chỉ sống trong cái mộng ảo của ái tình lý tưởng, của ái tình bất vong
bất diệt”. Lời nói của Ngọc có phần không tưởng và xa vời quá nhưng nó đã thể hiện được sự
dung hòa giữa tình yêu và tôn giáo. Tình yêu của họ chưa đủ sức mạnh để đấu tranh gạt bỏ tôn
giáo. Vì vậy, nó phải dung hòa và nhượng bộ tôn giáo.
Với Hồn bướm mơ tiên, kiểu nhân vật lãng mạn đã xuất hiện và tạo được sự chú ý của người
yêu văn học. Tác giả đã tạo cho nhận vật một môi trường thích hợp trong thế giới thiên nhiên tạo
vật để cho tình yêu lãng mạn nảy nở. Qua tình yêu của hai nhận vật chính, nhà văn cũng nhằm ca
ngợi ái tình, một tình yêu lí tưởng, trong sáng và cao thượng.
Bằng giọng văn mượt mà, truyền cảm, nhà văn Khái Hưng đã thành công khi khắc họa một
mối tình hết sức đẹp đẽ, lãng đãng giữa Lan và Ngọc. Từ đó, chúng ta thấy được giữa đạo và
đời đang có sự giằng xé, đấu tranh. Lan và Ngọc thật sự yêu nhau nhưng không thể đến được
với nhau. Tuy vậy, họ xem đó là thứ tình cảm đẹp nhất, luôn cất giữ trong lòng đến bạc đầu và
nguyện mãi tôn thờ. Đó chính là cái nhìn đầy chất lãng mạn của Khái Hưng trong tiểu thuyết
Hồn bướm mơ tiên.
Buổi 4:
NHÂN – QUẢ
CHƯƠNG 3: KHÁI QUÁT KHUYNH HƯỚNG VH LÃNG MẠN
1. Khái niệm chủ nghĩa lãng mạn
1.1 Là một trào lưu lớn ở Âu Mỹ
a. Không gian
b. Thời gian
c. Đối lập với chủ nghĩa cổ điẻn
1.2 Cơ sở tư tưởng – tâm lý xã hội cơ bản
a. Sự thất vọng với lý tưởng khai sáng
b. Khát vọng hoàn thiệ vươn tới lý tưởng phổ quát, ..
1.3 Sự khẳng định cái tôi cá nhân
a. giải phóng về mặt tình cảm, cảm xúc, phát huy mạnh mẽ trí tưởng tượng
b. Ba đề tài: thiên nhiên, tình yêu, tôn giáo.
2. Tiền để xuất hiện của trào lưu văn học lãng mạn
2.1 Tiền đề Hoàn cảnh lịch sử - xã hội
a. Sự xuất hiện của giai cấp tư sản và tiểu tư sản thành thị
lOMoARcPSD| 61527594
b. Giao lưu văn hóa phương Tây2.2 Tiền đề văn học
2.3 Tiền đề cơ sở tâm lý xã hội
Tự Lực Văn Đoàn:
Nhất Linh: Truyện ngắn, tiểu thuyết (1924: Y; 1925: Mỹ thuật trương Mỹ thuật Đông
Dương: cuộc sống người nông đan vốn lam lũ nhưng đi vào tranh ông lại thi vị, thơ
mộng, lãng mãn => nhận ra khoảng cách giữa nghệ tguaatj và cuộc đời => Lamdf ntn
để xóa đi khoảng cách ấy, để đưa nghệ thuật gắn chặt với cuộc đời; Yếu tố Phương
Tây không làm họ mất đi gốc gác dân tộc mà giúp họ ngộ ra thêm nhiều giá trị của
cuộc sống: tựu do, công bình, bình đẳng , bác ái,..Với câu hỏi ấy ông đã đi du học
Pháp. 1927: Ông quan tâm đến báo chí, ( 1 trong 4 thế lực của xã hội, nhà báo dùng
ngòi bút để khơi ngòi, để làm sáng tỏ sự thực chính trị xã hội, để cải cách xã hội =>
tôn chỉ người và xã hội, văn học nghệ thuật không vị nghệ thuật, 1938: không hoạt
động văn học thuần túy nữa mà tham gia vào các phong trào => trở thành một chính
khách).
Huy Cận – Xuân Diệu là cặp bạn thân (Chỉ Xuân Diệu thuộc Tự Lực Văn Đoàn), đặc
điểm chung của các tác phẩm Tự lực văn đoàn là sẽ ghi “Tự lực văn đoàn” ở bìa sách.
Ngta không tìm thấy đặc điểm ấy ở Trần Tiêu => Trần Tiêu không thuộc Tự Lực Văn
đoàn. Nhất Linh gây dựng nên Tự lực văn đoàn theo mô hình thất tinh của P (7 nhà
văn lớn của pháp đưa văn chương P đi từ trung đại đến hiện đại).
Thạch Lam: Người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của Tự lực văn đoàn là Thạch
Lam, nhưng ở thể loại tiểu thuyết thì không mấy đặc sắc. Thạch Lam nổi tiếng về phê
bình văn học với tác phẩm “Theo dòng”, bút pháp tinh tế. Thế Lữ: Thơ (1933-1938),
truyện trinh thám, kịch
Hầu hết các thể loại chính đều xuất hiện trong các sáng tác ca Tự lực văn đoàn, đều
đạt tới những đỉnh cao Ý nghĩa văn học sử:
+Hình thành bộ khung thể loại của văn học hiện đại, đạt tới đỉnh cao, có sự phối hợp
mềm mại, giao thoa giưuax các thể loại. +Có thủ lĩnh – thành viên + cộng tác viên
+Có tôn chỉ sáng tác
+Có tờ báo riêng: Phong Hóa (1932-1935) + Ngày Nay 1935 trở đi
+NXB riêng: Đời nay (ở 80 Quán Thánh)
+ Giải thưởng Tự lực văn đoàn trao cho những nhà văn nhà thơ trao cho những gương
mặt tài năng=> cho thấy con mắt xanh, cho thấy quan niệm nghệ tu=huật đúng đắn, tiến
bộ của TLVD.
+ Tổ chức văn học tư nhân = tổ chức nghề nghiêm+p đầu tiên của VN
+Đáp ứng những tiêu chí của một văn đoàn (theo mô hình của phương Tây) => chỉ dấu:
hiện đại hóa.
Quan niệm văn học của Tự lực văn đoàn qua 10 tôn chỉ:
-Phương Tây: 9,7,8,5 (Phương Đông: Hoài cổ quá khứ, ước vọng tương lai, hiện tại khổ
đau; vécter time của ptay: quá khứ=>hiện tại=>tương lai)
lOMoARcPSD| 61527594
- Dân tộc: 1,4 (hình thức); 6 (nét hay, vẻ đẹp)
-Tính đại chúng: 4,6,3
-Quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh: 2,6,8: VĂN HỌC NHƯ MỘT CÔNG CỤ ĐỂ CẢI
CÁCH XÃ HỘI=>chính vì thế hầu hết tiểu thuyết của tự lực văn đoàn đều là tiểu thuyết
luận đề.
Đặc điểm của Tự Lực văn đoàn qua các chặng:
Tiêu chí
1932 – 1936
1936 – 1939
1939 – 1942
Bối cảnh lịch sử
Đề tài chính
Tác giả - tác phẩm
tiêu biểu
Phân tích tâm lý:
Thám hiểm về cái
tôi (vô luận, vô
thức)
Đôi bạn 1938
Bướm trắng 1939
Đẹp 1939
Thanh Đức 1941
Không còn
mang những
đặc điểm
thuần túy của
chủ nghĩa
lãng mạn
về mặt bút
phát nghệ
thuật đã
nghiên về
chủ nghĩa
hiện đại, đạt
đến một
bước phát
triển cao hơn
về nghệ thuật
trong thể loại
tiểu thuyết.
1. Ý nghĩa của việc bài thơ Tình già của Phan Khôi được in trên Tập văn mùa xuân
của báo Đông Tây?
Sự nổi bật của báo Đông Tây: Báo Đông Tây một trong những ấn phẩm
văn học và xã hội quan trọng của thời kỳ đó. Việc đăng tải một bài thơ nổi
bật như "Tình già" trên tờ báo này không chỉ giúp tăng cường sự hiện diện
lOMoARcPSD| 61527594
của tác phẩm trong cộng đồng văn học, mà còn khẳng định vai trò và ảnh
hưởng của Phan Khôi trong nền văn học đương thời.
Tầm quan trọng của mùa xuân: Tập văn mùa xuân thường mang một ý
nghĩa tươi mới, đầy hy vọng và sáng tạo, phản ánh sự khởi đầu mới và s
đổi mới trong văn học. Bài thơ "Tình già" được chọn để xuất hiện trong
tập này thể được xem như một sự nhấn mạnh vào những giá trị nhân
văn và cảm xúc sâu sắc Phan Khôi mang đến. Việc này thể được
hiểu sự trân trọng công nhận tài năng của ông trong việc khai thác
các chủ đề về cuộc sống, tuổi tác và tình yêu.
Ý nghĩa của bài thơ "Tình già": Bài thơ "Tình già" của Phan Khôi thường
được biết đến với những cảm xúc chân thành về tình yêu tuổi tác. Bài
thơ này không chỉ thể hiện sự nhạy cảm cảm nhận sâu sắc của tác giả
về cuộc sống, còn phản ánh một quan điểm tinh tế về tình yêu s
trân trọng giá trị của tình cảm trong những năm tháng cuối đời.
Sự tiếp nhận của công chúng: Khi bài thơ được in trên một tờ báo có uy
tín như Đông Tây, điều này có thể làm tăng sự chú ý và tiếp nhận của độc
giả đối với tác phẩm của Phan Khôi. Điều này cũng cho thấy rằng bài thơ
đã nhận được sự công nhận từ các nhà phê bình và bạn đọc, đồng thờim
nổi bật sự đóng góp của Phan Khôi vào văn học Việt Nam.
Tóm lại, việc in bài thơ "Tình già" trên tập văn mùa xuân của báo Đông
Tây không chỉ đánh dấu sự công nhận và tôn vinh tài năng ca Phan Khôi,
mà còn cho thấy tầm quan trọng của tác phẩm trong bối cảnh văn học và xã
hội của thời k đó. Điều này cũng phản ánh sự đánh giá cao đối với các chủ
đề nhân văn và cảm xúc mà ông thể hiện trong thơ của mình.
2. Hoài Thanh chia thơ Mới thành mấy dòng? Ý nghĩa của cách phân chia này?
Trong “Thi nhân VN”, Hoài Thanh từng chỉ ra 3 dòng chính trong Thơ mới:
1) Dòng chịu ảnh hưởng của thơ Phương Tây (Pháp):
+ Người đầu tiên chịu ảnh hưởng Pháp rất đậm là Thế Lữ. Những bài thơ có tiếng của
Thế Lữ ra đời từ đầu 1933 đến cuối 1934 [25] . Giữa lúc người thanh niên Việt Nam
đương ngập trong quá khứ đến tận cổ thì Thế Lữ đưa về cho họ cái hương vị phương xa.
+ Huy Thông : đã đôi ba lần nhập tịch được vào thơ Việt cái không khí mơ màng của
những vở kịch Shakespeare và cái giọng hùng tráng của Victor Hugo.
+ Xuân Diệu: đến 1936, ảnh hưởng Pháp lại thấm thía thêm một tầng nữa. Xuân Diệu,
nhà thơ ra đời hồi bấy giờ, mới một cách rõ rệt. Với Thế Lữ thi nhân ta còn nuôi giấc
mộng lên tiên, một giấc mộng rất xưa. Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ
giới. Với một nghệ thuật tinh vi đã học được của Baudelaire, Xuân Diệu diễn tả lòng ham
sống bồng bột trong thơ de Noailles và trong văn Gide. Ảnh hưởng Pháp trong thơ Việt
đến Xuân Diệu là cực điểm.
lOMoARcPSD| 61527594
+Hàn Mặc Tử - Chế Lan Viên: cả hai đều chịu rất nặng ảnh hưởng Baudelaire và, qua
Baudelaire, ảnh hưởng nhà văn Mỹ Edgar Poe. Cả hai đều cai trị trường thơ Loạn.
2) Dòng chịu ảnh hưởng của thơ Đường: Tản Đà
3) Dòng ít chịu ảnh hưởng của các nguồn khác mà có tính cách VN rõ rệt. (Các nhà thơ
về dòng này thường có lời thơ bình dị. Họ ít ảnh hưởng lẫn nhau và cũng ít có ảnh hưởng
đối với thi ca cận đại. Thi phẩm của họ có tính cách vĩnh viễn nhiều hơn tính cách một
thời, và họ nương vào thanh thế phương Tây cũng ít.)
Gồm:
+ Lưu Trọng Lư: Ông sống đời nhiều hơn là sống trong sách vở, đọc ít sách Tàu và sách
Tây cũng vậy. Ông chỉ nhớ thoang thoáng một ít Kiều, một ít Chinh Phụ Ngâm, năm bảy
câu trong bản dịch Tỳ bà hành và vài ba câu cổ phong của Tản Đà. Trong những thể thơ
ấy, LTL rất dễ gửi gắm những nỗi đau buồn riêng của một người thanh niên Vn trong thời
đại mới.
+Nguyễn Bính đi tìm chất VN trong những câu ca dao. Thơ Nguyễn Bính có cái vẻ mộc
mạc của những câu hát quê.
Ý nghĩa của cách phân chia:
+ Việc phận chia Thơ mới thành các dòng cụ thể, mỗi dòng mang những đặc điểm riêng
thể hiện sự tinh tế, sâu sắc, sự hiểu biết sâu sắc cặn kẽ về từng tác giả và đóng góp của họ cho
thơ ca hiện đại VN.
+ Qua việc phân chia đó thì ông đã mổ xẻ, phân tích Thơ mới - một hiện tượng vốn hỗn dung,
phức tạp,chịu nhiều ảnh hưởng của nhiều yếu tố trở nên dễ hiểu, dễ hình dung, có hệ thống...
3. Cách so sánh các dòng thơ trên như “những dòng sông nước tràn bờ và luôn
luôn giao hoán với nhau” có hàm ý gì?
Ba dòng thơ đã đi song song trong mười năm qua. Cố nhiên trong sự thực ba dòng ấy
không có cách biệt rõ ràng như thế. Nếu ta nghĩ đến những dòng sông thì đó là những
dòng sông nước tràn bờ và luôn luôn giao hoán với nhau. Tuy mỗi dòng mỗi khác nhưng
cả ba dòng đều có vài xu hướng chung.
+ Dòng thơ ảnh hưởng thơ Ptay tràn bờ và giao hoán với Dòng chịua nhr hưởng thơ
Đường:
Phải nói rằng Thơ mới 1932 - 1945 là một sự tích hợp nghệ thuật kỳ diệu, độc đáo trong
lịch sử văn học Việt Nam và nó đã đi trọn hành trình thi ca trước lúc hạ cánh để chuyển
sang bước ngoặt mới khi lịch sử đã sang trang. Thâu tóm, chắt lọc tinh hoa thơ Pháp,
lOMoARcPSD| 61527594
nhào nặn quyện hoà với “hồn cũ Thịnh Đường” và ca dao, hát nói... để tạo nên một nền
thơ với các đặc trưng thi pháp chưa từng có trước đó, mở đường cho tiến trình thơ hiện
đại Việt Nam.
Dòng chủ đạo trong Thơ mới ắt hẳn là thơ Pháp, nhưng dấu ấn Đường thi vẫn để lại
trong Thơ mới khá đậm nét với thi liệu ngôn từ, điển tích, điển cố và nhất là tính
chất hài âm trong lối thơ bảy chữ của Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử,Vũ Hoàng
Chương, Leiba, Thái Can... và âm hưởng Đường thi cứ vang vọng trong những bài
thơ hành của Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính. Bề dày văn học trung đại
với mười thế kỷ, trong đó, thơ Đường được tôn vinh hàng đầu, ảnh hưởng của nó đã
ngấm sâu vào máu thịt của biết bao thế hệ trí thức Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.
Không khó khăn gì để có thể nhận diện và kết luận những nhận định trên. Điều quan
trọng là, các thi sĩ Thơ mới đã tích hợp, chuyển hóa nhưng không hòa tan, không rập
khuôn thụ động; trái lại, có sáng tạo mới mẻ, tinh vi, biến nó thành giá trị, chất lượng
mới. Những ví dụ sau đây là một trong vô số những ví dụ: “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu
tang / Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng.” thì không chỉ có một mà nhiều biện pháp
nghệ thuật tinh vi: ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, khác xa với một tầng ẩn dụ trong thơ Đường
và thơ Trung đại. Các nhà Thơ mới chỉ có thể cởi bỏ cái khuôn mẫu gò bó của Đường
luật, còn phần hồn cốt Đường thi cứ phảng phất mãi trong Thơ mới: “Hồn cũ Thịnh
Đường muôn nẻo sáng / Ta ghì hư ảnh chút mà thôi” (Vũ Hoàng Chương). thơ tượng
trưng Pháp cũng có những nét gần gũi với thơ Đường về tính hàm súc, gợi cảm, kín
đáo, thâm trầm và chuộng nhạc tính. Chỉ có khác ở chỗ: “Thơ Đường chưa đi sâu vào
cái tôi, chưa đi sâu vào thế giới cảm giác như Thơ mới
(6)
. Cho nên Thơ mới dung hợp
được cả thơ lãng mạn - tượng trưng của phương Tây lẫn phương Đông như nhận định của
giáo sư Phan Cự Đệ trong Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945: “Thơ lãng mạn Việt
Nam không những chỉ chịu ảnh hưởng thơ ca lãng mạn và tượng trưng Pháp, mà còn tiếp
thu truyền thống thơ ca Trung Quốc
(7)
.
+ Dòng Ptay giao hoán với dòng có tính cách VN rõ rệt: Tiếp nhận thi ca nước ngoài,
các nhà Thơ mới có lối diễn đạt thơ phù hợp với điệu tâm hồn dân tộc. Các thể loại thơ ca
dân tộc quen thuộc (lục bát, hát nói, ca dao, vè... ) được họ vận dụng, khai thác và nâng
lên một trình độ nghệ thuật mới. Ngoài ra, các nhà Thơ mới còn biết cách học tập và kế
thừa truyền thống thơ Nôm dân tộc của những thế kỷ trước một cách sáng tạo, để làm
giàu thêm cho Thơ mới 1932 - 1945. “Các nhà Thơ mới đã thực hiện một bước tổng hợp
quan trọng giữa tinh hoa của văn hóa Đông Tây với truyền thống văn học dân tộc, do đó
đã đẩy thi ca Việt Nam tiến nhanh trên con đường hiện đại hóa. Các nhà Thơ mới đã biết
tiếp thu ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài để bồi bổ thêm cho truyền thống cũ của dân
tộc.”
(8)
. Sự tổng hợp mà chúng tôi muốn lưu ý ở đây là tổng hợp toàn diện, trên tất cả các
cấp độ của hình thức và nội dung.
lOMoARcPSD| 61527594
4. Tinh thần của thơ Mới theo Hoài Thanh là gì? Theo Hoài Thanh, các nhà thơ
Mới luôn dành cho Tiếng Việt một tình yêu đặc biệt, vì sao?
Theo Hoài Thanh, tinh thần Thơ mới nằm trong một chữ "tôi". "Cái tôi" của Thơ mới
đối lập với "cái ta" của thơ cũ- cả mặt tích cực và mặt bi kịch của nó. a) "Cái tôi" trong
Thơ mới
- "Cái tôi" bản ngã của mỗi con người ai cũng có. Nhưng trong những thời
lịch sử nhất định, do hệ tư tưởng chính thống của thời đại khống chế, ép buộc nên cái
bản ngã ấy không được bộc lộ, nhà thơ phải nói lên tiếng nói của "cái ta- đạo lí" chung
của thời đại ấy. Đó là thơ phi ngã.
- Khi "cái tôi" ấy được giải phóng thì thi nhân mới có thể nói lên những điều thành thực
tự đáy lòng mình. "Cái tôi"- đó chính là "khát vọng được thành thực" như Hoài Thanh
đã nói, sự tự khẳng định bản ngã của nhà thơ trước cuộc đời, sự tự ý thức về
nhân mình trong cuộc sống xã hội.
- Giờ đây, cái tôi có được "cái sức mạnh súc tích từ mấy ngàn năm nhất đán tung bờ vỡ
đê" khi được giải phóng thì nó sẽ "làm giàu cho thi ca" bằng những cảm xúc mới mẻ
và những cách tân nghệ thuật.
b) Mặt tích cực của "cái tôi" trong Thơ mới
- Nếu hội Việt Nam từ xưa không nhân. Chỉ đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ
thì gia đình thì cái tôi Thơ mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó bỡ ngỡ, như lạc loài
nơi đất khách.
- Nếu thơ cũ mang cái bản sắc cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt
nước trong biển cả thì cái tôi Thơ mới mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở
xứ này: Quan niệm cá nhân (sự ý thức về bản thân).
- Nếu các nhà văn, nhà thơ cũ không một lần nào dám dùng chữ "tôi" để nói chuyện với
mình hay với tất cả mọi người, không tự xưng, ẩn mình sau chữ ta, một chữ có thể chỉ
chung nhiều người thì cái tôi, với cái nghĩa tuyệt đối của nó, làm nhiều người khó
chịu nhưng ngày càng mất dần cái vẻ bỡ ngỡ và được vô số người quen.
c) Mặt bi kịch của "cái tôi" trong Thơ mới
- "Cái tôi" của các nhà Thơ mới thật đáng thương và tội nghiệp vì nó đã đem đến cho
tâm hồn hộ nỗi buồn lạnh vơ, muốn thoát đi đâu cũng không được. Bởi họ
những thi nhân mất nước, đang sống trong cuộc đời mỏi mòn, túng lúc bấy giờ,
lại mang trong mình "cái tôi" cô đơn, bé nhỏ của các thi sĩ lãng mạn.
- Bi kịch ấy được làm nổi bật bằng sự tương phản, đối lập giữa con đường muốn thoát
thân với sự thực hiện hữu của cuộc đời các nhà Thơ mới lúc bấy giờ: thoát lên tiên ><
động tiên khép lại; phiêu lưu trong trường tình >< tình yêu không bền; điên cuồng ><
điên cuồng rồi tỉnh; đắm say >< say đắm vẫn bơ vơ.
- Từ đó dẫn đến nhận định của tác giả "Thật chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là
xôn xao như thế". Đây nỗi buồn thơ của một thế hệ thi nhân mất nước mang cái tôi
cô đơn, nhỏ bé đã làm nên âm hưởng, giọng điệu đặc trưng của Thơ mới giai đoạn này.
- Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt, vào tình yêu quê hương, vào tinh thần nòi giống.
Các nhà Thơ mới đã m thấy một chỗ dựa tin cậy của tinh thần nòi giống của các thể
thơ xưa, của tiếng việt... để vin vào những điều bất diệt ấy mà hi vọng, mà tin tưởng…
*Theo hoài thanh các nhà thơ mới yêu tv vì:
lOMoARcPSD| 61527594
Nhận xét về phong trào Thơ mới, Hoài Thanh cho rằng:phong trào Thơ mới đã “dồn
tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt”. Các nhà thơ trong hoàn cảnh đất nước
lúc bấy giờ, nhiều cách biểu lộ lòng yêu nước…. Các nhà Thơ mới đành gửi lòng
yêu nước thương nòi của mình vào tình yêu tiếng Việt. Vì họ nghĩ rằng, tiếng Việt đã
hứng vong hồn dân tộc những thế hệ qua. Vận mệnh dân tộc đã gắn với vận
mệnh tiếng Việt. Họ dùng tiếng nói của dân tộc để sáng tác thơ, duy trì tiếng nói
các thể thơ mang hồn cốt dân tộc. Qua thơ, họ ngợi ca thiên nhiên đất nước,
gửi gắm nỗi buồn mất nước. Qua thơ, các nhà Thơ mới đã phát triển, đổi mới
ngôn từ, làm cho tiếng Việt trở nên rất phong phú, trong sáng, tinh tể, hiện đại.
Trong khi văn học trung đại sáng tác văn học bằng chữ Hán, chữ Nôm (ảnh hưởng chữ
Hán) và các thể thơ chủ yếu là Đường luật; thì các nhà Thơ mới làm thơ bằng tiếng
Việt, chữ quốc ngữ, tôn vinh các thể thơ truyền thống như: thơ lục bát, thơ bốn
chữ, thơ năm chữ…Họ coi tiếng nói của cha ông hương hỏa quý giá, mang
hồn thiêng dân tộc, nên đã trau chuốt từ ngữ, hình ảnh. Tình yêu tiếng Việt, yêu
nghệ thuật thơ ca, yêu bản sắc văn hóa dân tộc của c nhà Thơ mới rất phong phú sâu
sắc
KHUYNH HƯỚNG VĂN HỌC HIỆN THỰC
1.
o Tiền đề văn học: mầm mống văn học truyền thống o Ảnh hưởng của văn học PT,
o Ảnh hưởng của văn hóa phương Tây: Khoa học tự nhiên, khoa học xã hôi: phản
ánh hiện thực cần một cái nhìn khách quan để cắt nghĩa hiện thực=>cần khoa học
tn. Cần công cụ để phan tích, nhận thức về con người => cần tư duy phân tích của
khxh.
o Thực tế đời sống xã hôi: cung cấp những đề tài thường là nhưungx mặt trái của xa
hội, mâu thuẫn gia cấp và dân tộc..
o Các thể loại văn xuôi quốc ngữ: sở dĩ thời trung đại k quá nổi bật khuyenh hướng
hiện thực là do đó là thời đại của thi ca, mà thi ca lại bị gò bó bởi vần, nhịp, niêm,
luật nên khó có thể phản ánh hiện thưucj đời sống một các đầy đủ nhất.
TẢN ĐÀ
MỘNG
- Trang Chu hóa bướm: MỘNG = THỰC: 2 quan niệm: Thực chính là mộng: tìm đến
sự an ủi. Mộng mới chính là thực: gắn với những cá tính lớn, gắn với cái TÔI
- Mộng = Du (chơi): Mộng gắn với những cái chơi: Cái chơi thứ nhất gắn với du sơn
ngoạn thủy: chạy vào thiên nhiên, chạy vào tự nhiên,tìm cái vui trong tự nhiên >< xã
hội; Cái chơi thứ hai là cái chơi của Nghệ thuật: cầm – kì – thi – họa; Cái chơi thứ 3
là cái chơi du thế: khách chơi đối lập với bổn phận, phận sự, tìm đến khoái lạc cá
nhân, giải phóng tối đa bản ngã, lạc thú, ý tú của con người. Đây chính là cơ sở triết
học cho sự xuất hiện của nhà nho tài tử. Người tài tử có 2 thứ: đa tình (sự khoái lạc
tận hưởng) và thi tài (thể hiện cái tôi tài hoa, khát vọng thể hiện abnr taha, lập công
danh, có chí hướng)
lOMoARcPSD| 61527594
- Mộng trong văn chương tản đà rất đậm đặc, Chịu ảnh hưởng của trang tử, ông tự gọi
mình là người mộng với những giấc mộng đa dạng: mông to, mộng nhỏ, mộng lạc
thú...Tản Đàn lên tiên k phải để thoát tục mà để tìm giai nhân, tìm lý thú cho chính
mình..
MỐI QUAN HỆ GIỮA SẦU VÀ MỘNG
- Hiện thực đối lập (sầu) với lý tưởng (mộng):
- Lý tưởng (mộng) bù đắp cho hiện thực (sầu):
- Thống nhất giữa sầu và mộng: thể hiện ở mình yêu mình: dù trong sầu hay mộng tản
đà vẫn lấy cái tôi làm trung tâm cho sự miêu tả: phô diễn được cái tôi của mình, sự
say mê bản thân
-
SẦU VÀ MỘNG TRONG “MUỐN LÀM THẰNG CUỘI”
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi,
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi,
Có bầu có bạn can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây thế mới vui.
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông xuống thế gian cười,
Sầu: được biểu hiện rõ nhất trong hai câu thơ đầu:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi,
Bptt: câu cảm thán
Từ vựng: buồn, chán
Cái sầu trong bài thơ là cái sâu về thân thế, sự nghiệp – nỗi sầu được chắt ra từ những
ỷair nghiệm rất riêng của Tản Đà. Nỗi sầu của Tản Đà không chỉ là do bất mãn cá nhân,
buồn về thân phận: Hai mươi năm lẻ hoài cơm áo – Mà đến bây giờ có thế thôi, mà còn
là nỗi buồn đau về nhân sinh, thời thế, về đất nước: Gió gió mưa mưa đã chéo phèo – Sự
đời nghĩ đến lại buồn teo. Suy nghĩ cho cùng, đó là nỗi buồn đau đẹp, rất đáng được trân
trọng!
Hai câu thơ là những lời tâm sự của Tản Đà với chị Hằng: xưng em gọi chị: tâm sự than
thở về thực tại đau khổ, chán nản,...
lOMoARcPSD| 61527594
Sầu không chỉ được biểu hiện trong mỗi hai câu đầu, mà sầu được biểu hiện trong toàn
bài. Phần mộng về những mộng tưởng được lên cung tẳng, thoát ly khỏi thế giưới trần
thế, những thực tại khổ đau là những mộng tưởng dẫub thi vị nhưng lại không có thự, từ
đó, qua việc viết về cái mộng, tác giả càng tô đậm thêm cái sầu.Mộng tưởng càng đẹp đẽ,
thi vị bao nhiêu thì hiện thực càng sầu, càng u uất càng chán nản bấy nhiêu. Sầu về sự cô
đơn, sầu vì thân thế sự nghiệp thì tác giả mới muốn được lên cung trăng để thoát khỏi
hiện thực chán nản, u uất, thất bại, cô đơn mới muốn được lên cung trăng làm bạn với gió
mây, tìm niềm vui, khoái lạc.. Nhận xét của thầy:
- Kết cấu: 2/4/2
2 câu đầu
- Từ vựng: buồn chán
- Bối cảnh: nỗi buồn chán xảy ra vào đêm thu, chị hằng: đẹp, thi vị: mùa thu trong thơ
văn gợi cảm hứng thi vị đượm sầu. Trong khung cảnh thi vị, đẹp như vậy, vậy mà
người vẫn thấy buồn chán => nỗi buồn k phải do ngoại cảnh gây ra mà là nỗi buồn
chất chứa trong nội tâm nhân vât, nó tràn ra khiến tác giải phải thốt lên thành lời. Lời
thổ lộ về nỗi buồn chán hướng đến chị hằng – người thuộc về một thế giưới khác =>
thể hiện sự cô đơn, sự thiếu vắng một tri kỉ để tâm sự, giãi bày ở nơi trần thế. “Trần
thế” là không gian sống,, chỉ cuộc đời nói chung=> nỗi buồn chán không thuộc về
một lĩnh vực cụ thể mà với toàn bộ cuộc đời, với mọin sự tồn tai của cuộc sống.
“Chán nửa rồi”: (1) một mặt chán trường, một mặt tuy chán nhưng lòng vẫn yêu, vẫn
hướng về cuộc đời trần thế => là một cách hiẻu nhưng lại không logic với mạch cảm
xúc trong bài thơ, không đảm bảo tính chỉnh thê, tương ứng với mạch cảm xúc của
bài thơ; (2) (“Giải sầu”: “Sầu không có mối, chặt sao cho đứt/ Sầu không có khối, đập
sao cho tan”) nỗi sầu muộn không đầu, không cuối, nỗi sầu triền miên, như một bầu
khí quyển bao trùm lấy thế giới tâm hồn thi sĩ => k hiểu theo nghĩa từ vựng mà phải
hiểu theo mạch cảm xúc chính trong bài thơ và mạch cảm xúc bao trùm trong
phong cách thơ thi sĩ. 4 câu tiếp:
- Không gian: cung quế=trên cao=cõi tiên/ thượng giới=đẹp (tiên cảnh + người đẹp)
- Tính chất sóng đôi: ở trần thế cô đơn, ở cung quế là thế giưới sóng đôi: quấn quýt
không chỉ của người với người, thiên nhiên với thien nhiwwn, mà còn của con người
với thiên nhiên. Ở thế giới lên tiên, mọi sầu muộn ở cõi trần đều được hóa giải 2 câu
kết:
Đỉnh điểm, thời khắc viên mãn nhất của cõi mộng. Vì sao?
- Rằm tháng tám: đẹp, lộng lẫy, viên mãn nhất: thời điểm trăng tròn đâyyf, viên mãn
nhất, sáng nhất
- Trần gian => chiêm ngưỡng
- Trông xuống, cười = cái cười đắc ý, thỏa nguyện, ngông nghênh
- Tựa nhau: chất phong tình, thi vị của thi sĩ: tg tựa chị hằng, chị hằng tựa tác giả: tình
ý, không còn cô đơn lẻ bóng nữa. Đặc biệt, sự xuất hiện của chị hằng còn ngầm
khẳng định một giá trị =>Chị hằng không còn đơn thuần chỉ là một tri kỉ, mà còn là
người xác nhận giá trị cho nguyễn khắc hiếu
lOMoARcPSD| 61527594
- Việc chị hằng hiện diện nhưu một tri kỉ, một người xác định giá chị cho NKH thì hàm
chứa ý nghãi gì? Sầu và mộng là bhai thế giưới phản chiếu, nhìn tahays ông ta mất có
được cái gì trong cõi mộng thì ta cũng có thể hiểu được ông đã đánh mất cái gì trong
thực tại. Chị hằng xuất hiện tô đạm nỗi sầu trong tác giả - cái sầu cô đơn. Trong đỉnh
điểm của cõi mộng, không chỉ thấy cái sầu cô đơn, còn có cái sầu không được hiểu
đúng, chưa được công nhận về những giá trị đích thực của bản thân. Nụ cười đắc ý
thỉa nguyện nhưng ẩn sâu trong đó là nụ cười tỏ ra để che giấu nỗi buồn. Cõi tiên chỉ
là hư ảo, trong sự huy hoàn của cõi mộng, là sự đổ nát của hirnj thưucj. Sầu mộng
quấn quýt vào nhau, phản chiếu lẫn nhau, trong sầu là mộng, trong mộng là sầu. Gắn
bó trọn bẹn với cõi mộng => cãi sầu chỉ được giải tảo trong cái mộng => cái sầu nơi
trần gian vĩnh viễn k được giải tỏa, càng hiểu về cõi mộng bao nhiwuw, càng thấm
thía cái sầu nơi cõi trần thế bây nhiêu.Quay trở lại “chán nửa rồi”, chán nửa chính là
chán nỗi sầu triền miên, dai dẳng.
SẦU VÀ MỘNG TRONG “HẦU TRỜI” CỦA TẢN ĐÀ
Biểu hiện của cái sầu:
Nỗi buồn của kiếp người: Tản Đà thể hiện sự chán chường, đau khổ trước thực tại cuộc
sống. Cái sầu không chỉ đến từ nỗi buồn cá nhân mà còn là nỗi đau chung của con người
trước những bất công, khổ đau trong xã hội.
Cảm giác lạc lõng: Tác giả cảm thấy mình như một kẻ lưu lạc giữa cuộc đời, không tìm
được chỗ đứng và ý nghĩa cho cuộc sống. Điều này được thể hiện qua hình ảnh cô đơn
trong không gian bao la của trời đất.
Sự đối lập giữa hiện thực và mộng mơ: Cái sầu của Tản Đà còn đến từ sự chênh lệch
giữa ước mơ và thực tại. Ông mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn, nhưng thực tại lại đầy
rẫy những nỗi buồn và thất vọng.
2. Biểu hiện của cái mộng:
Ước mơ và khát vọng: Trong khi cái sầu thể hiện nỗi buồn, cái mộng lại thể hiện ước
mơ về một tương lai tươi sáng hơn. Tản Đà mơ ước về một cuộc sống tự do, không bị
ràng buộc bởi những áp lực và bất công.
Tìm kiếm sự hòa quyện với thiên nhiên: Ông mơ về sự hòa mình vào thiên nhiên, tìm
kiếm sự bình yên trong tâm hồn. Hình ảnh trời cao, mây trắng mang lại cảm giác rộng
mở, tự do, là nơi để tâm hồn bay bổng.
Khát vọng vượt lên số phận: Cái mộng cũng thể hiện khát vọng vượt lên những đau
khổ, tìm kiếm ánh sáng và niềm tin trong cuộc sống. Tản Đà không hoàn toàn đầu hàng
trước cái sầu, mà luôn nuôi dưỡng những giấc mơ.
3. Sự kết hợp giữa cái sầu và cái mộng:
lOMoARcPSD| 61527594
Trong "Hầu trời", Tản Đà khéo léo hòa quyện cái sầu và cái mộng, tạo nên một bức tranh
đa chiều về tâm trạng con người. Cái sầu là động lực để tác giả mơ ước về một điều tốt
đẹp hơn, trong khi cái mộng lại mang đến hy vọng và sự sống cho tâm hồn.
Tình cảm sâu sắc: Sự kết hợp này tạo ra một cảm xúc sâu sắc, khiến người đọc cảm
nhận được nỗi đau nhưng cũng thấy được ánh sáng của niềm hy vọng.
Tóm tắt:
"Hầu trời" của Tản Đà thể hiện một cách tinh tế cái sầu và cái mộng, phản ánh tâm trạng phức
tạp của con người. Nỗi buồn về thực tại và ước mơ về một tương lai tốt đẹp hơn hòa quyện với
nhau, tạo nên một tác phẩm sâu sắc và đầy ý nghĩa. Từ đó, Tản Đà không chỉ bộc lộ nỗi buồn
của mình mà còn khơi gợi trong lòng người đọc những suy tư về cuộc sống.
Nhận xét của thầy về “Hầu trời”
Giống: Cả hai bài thơ đều có sự đối lập giữa sầu và mộng: sầu gắn với không gian trần gian,
mộng gắn với kkhoong gian trên cao – không gian thượng giới. Sự đồng điệu với bài Nguyệt hạ
độc chước của Lý Bạch:
Hoa gian nhất hồ tửu,
Độc chước vô tương thân.
Cử bôi yêu minh nguyệt,
Đối ảnh thành tam nhân.
Nguyệt ký bất giải ẩm,
Ảnh đồ tuỳ ngã thân.
Tạm bạn nguyệt tương ảnh
Khác
Hầu trời
- Cái sầu bao gồm:
+ nỗi sầu cô đơn và nỗi sầu thân thế sự nghiệp, đặc biệt có cái sầu của cái nghiệp
văn chương – buôn văn bán chữ: nỗi sầu mưới lạ, chỉ đến tản đà mơid bắt đầu suốt
hiện trong văn chương Vn. Về sau: “Cơm áo không đùa với khách thơ” (Xuân Diệu)
+ Nỗi sầu kiếp người ngắn ngủi:
Lo ăn lo mặc hết ngày tháng
Học ngày một kém tuổi càng cao
Sức trong non yếu ngoài chen rấp
Một cây che chống bốn năm chiều.
+Nỗi sầu rất riêng biệt của bài thơ – Cái sầu của sự tàn mộng, nhớ mộng. Có hiểu
được nỗi sầu nhứo mộng mới thám thía được ý nghĩa của câu thơ đầu: Tác giả đang
sống trong thời điểm hiện tại, thi sĩ đau buồn nhớ lại cõi mộng, sầu vì mộng tàn mơ
tan
lOMoARcPSD| 61527594
Đêm khuya khí thanh sao thưa vắng
Trăng tà đưa lối về non Đoài.
Non Đoài đã tới quê trần giới
Trông lên chư tiên không còn ai.
- Mộng:
+Thơ – Rượu: cuộc chơi của thơ, rượu
+Cuộc chơi của người tri kỉ: không chỉ còn là chị hằng nữa mà là chư tiên +
Ngọc Hoàng:
+Mộng của tài năng được công nhận:
Văn đã giàu thay, lại lắm lối Trời
nghe Trời cũng bật buồn cười!
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn: -
“Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”
Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít!
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!
Chẳng hay văn sĩ tên họ gì?
Người ở phương nào, ta chưa biết.”
+ trích tiên: đảm nhận sứ mệnh
+ Tính chất luyến ái: động chạm vào ông đều là người đẹp, người đọc, khán giả
của ông đều là những người đẹp
Chủ nghĩa tự mê trong thơ văn: ông lấy mình là trung tâm dù là trong thế giưới
hiện thực sầu hay mộng, Ngọc hoàng, chư tiên đều là những nhân vật do Tản Đà
tự phân thân ra, tự mê, tự khẳng dịnh mình => chất ngông => Phô diễn một cách
chân thật những nét cái Tôi
MQH: So với bài Muốn làm thằng cuội, trong Hầu trời cái sầu nhiều hơn, đậm đặc
hơn cái mộng cũng lung linh hơn, màu vẻ hơn, sống động hơn: sầu và mộng tỉ lệ
thâunj với nhau trong hai bài thơ: Sầu càng nhiều, mộng càng tha thiết, Sầu càng
chất chứa mộng càng lung linh, sầu được mộng bù đắp.
Muốn làm thằng cuội:
- Nỗi sầu riêng: cô đơn
lOMoARcPSD| 61527594
CHUẨN BỊ HDH PHAN BỘI CHÂU
1. Điểm khác nhau giữa Nhà nho và nhà cách mạng? Điểm giống và khác giữa nhà văn
chuyên nghiệp và nhà văn cách mạng (so sánh Phan Bội Châu và Tản Đà) khác
nhau = Những nét tương đồng và khác biệt trong quan niệm và con đường đến với
văn học của Phan Bội Châu và Tản Đà
Điểm khác nhau giữa Nhà nho và nhà cách mạng
Tiêu chí
so sánh
Nhà Nho
Nhà cách mạng
Tư tưởng
– triết lý
-
Theo tư tưởng Nho giáo, nhấn mạnh
đạo đức, lễ nghĩa, và sự tôn trọng
truyền thống. Họ thường chú trọng
đến việc duy trì trật tự xã hội và phát
triển con người qua giáo dục.
- Thường có tư tưởng tiến
bộ, muốn thay đổi các cấu
trúc xã hội và chính trị. Họ
có thể theo chủ nghĩa dân
chủ, xã hội chủ nghĩa hoặc
các lý tưởng cách mạng
khác nhằm tạo ra sự thay
đổi lớn trong xã hội

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61527594 VĂN HỌC VIỆT NAM
• 1933-1935: Thế Lữ tập “Mấy vần thơ”
• 1938: Xuân Diệu tập “Thơ Thơ”
• 1941-1943: Nhóm thơ “Xuân thu nhã tập”
• Văn học chạy theo thị hiếu ĐÁM ĐÔNG
Văn học luôn thay đổi, luôn xuất hiện CÁI MỚI, CÁI TÔI được đề cao ( Cái mới luôn thay
đổi nhanh chóng, gấp gáp). Giai đoạn 1945, VHVN sản xuất ra hàng loạt nhà văn, nhà thơ xuất
sắc. Thực đơn của người đọc không chỉ có một món ăn, thị hiếu luôn thay đổi, nhà văn cũng
không ngừng đổi mới... nếu không sẽ bị đào thải khỏi bữa tiệc văn chương.
1. Tiến trình văn học:
Văn học truyền thống bị giải thể: 1887: Truyền thống => 1907: Đông Kinh nghĩa Thục =>
1908: Các nhà Nho bị đàn áp, bị ra đoạn đầu đài, bị đày ra côn đảo, đội ngũ nhà nho bị quét sạch
Văn học ddduwocj cấu trúc lại theo mô hình văn học Phương tây=> 1909: Nguyễn Khuyến
mất => đội ngũ trí thức văn học phương tây1913: Xuất hiện Đông Dương tạp chí => 1917: Nam Phong tạp chí.
Giai đoạn 1887-1932:
 1887-1909: Nền văn học có tính khu vực chia làm hai khu vực rõ rệt:
- Khu vực sài Gòn-Gia Định (Phương Tây hóa): Truyện thầy Lazaro phiền
- Các vùng còn lại: Truyền thống
 1913-1932: Nhất thể hóa trên toàn quốc nhờ tầng lớp trí thức Tây học, nền văn học
mới-nền văn học Phương tây hóa phát triển mạnh mẽ:
- Truyện Ngắn: Nguyễn Bá học, Phan Duy Tốn
- Tiểu thuyết: Đặng Trần Phất, Hoàng Ngọc Phách
- Thơ: Tản Đà, Nguyễn Khắc Hiếu
- Ký (du kí): Phạm Quỳnh, Đong Hồ, Đông Châu
- Phê bình văn học: Phạm quỳnh, Văn Khôi, Thiếu Sơn
- – Về kịch: Kịch nói theo lối phương Tây
Giai đoạn 1932-1945 Bài tập thực hành: Tiêu chí so sánh Truyền thống Hiện đại hóa 1. Ngôn ngữ
Nôm na, ước lệ, ngôn ngữ văn Biền ngẫu, đặc tuyển chương bác học 2. Cốt truyện
-Vào truyện: bằng ngày xửa
-Vào truyện: trực tiếp -Kết
ngày xưa, giưới thiệu hoàn
cấu Truyện: theo time tuyến
cảnh, xuất thân, tên tuổi của tính, chính xác về time lOMoAR cPSD| 61527594
nhân vật rồi mới bước vào -Kết thúc:
nội dung diễn biến chính. -
- Ảnh hưởng của phương
Kết cấu truyện: Vòng tròn Tây:
đầu cuối tương ứng, tâm lý -
Kết thuc truyện có hậu -Ảnh hưởng của tam giáo: Phật-Đạo-Nho 3. Nhân vật
Tập trung tâm lý nhân vật: Giằng xe,... 4. Nghệ thuật -Ngôi kể: Nhận xét của thầy Tiêu chí Thầy Lazaro Phiền Tự sự trung đại Văn tự Chữ Quốc ngữ Chữ Hán, Nôm Lối viết/hành văn
Nôm na, sử dụng tiếng nói
Biền ngẫu, văn ngôn >< bạch
sinh hoạt hằng ngày = văn thoại xuôi Kết cấu Vòng tròn Chương hồi Truyện lông trong truyện Cốt truyện K có hậu Có hậu Nhân vật Thôngb ngôn
Nhân vật có tài năng xuất
Vợ của quan ba người Pháp
chúng, có lai lịch rõ ràng. Là (Không có tên)
những nhân vật đấng bậc
Vợ của Phiền (khônng có tên) Không cụ thể về không – thời
 Đều là nững nhân vật gian, phiếm chỉ của xa hội VN đương thời, (năm 1910, SG
xuất hiện thể loại Kim thời tiểu thuyết)  Những nhân vật của
cuộc sống đời thường với những tình yêu,
dục vọng, thù hận...là một con người đời
thường được bốc nhặt từ cuộc sống đời thường. lOMoAR cPSD| 61527594
Nghệ thuật trần thuật/ kĩ thuật -Ngôi kể: ngôi thứ nhất tự sự
(người trong cuộc). Hai tầng trần thuật
(1)Thứ nhất: ghi lại, ngoài cuộc
(2) Thứ hai: hổi ức, thú nhận, người trong cuộc
=> tâm lý, tạo sự đan xen quá
khứ và hiện tại, THÚ TỘI, XƯNG TỘI
- Motif: tình yêu tay ba, trả
thù giấu mặt, ghen tuông - Chính xác của time trần thuật -Bức thư, tự thú,... PHƯƠNG TÂY HÓA Mang màu sắc Thiên chúa giáo, Lazaro là tên thánh DÒNG VĂN HỌC CỦA NHỮNG NHÀ VĂN THIÊN CHÚA GIÁO: Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trọng Quản, Nguyên Hồng, Nam Cao, Nguyễn Việt Hà...
CHUẨN BỊ BÀI BUỔI 4: I. II.
1. Thủ lĩnh của “Tự lực văn đoàn” và các thành viên:
- Tự lực văn đoàn là tổ chức của một nhóm nhà văn đứng đầu là Nhất Linh (Nguyễn
Tường Tam), thành lập năm 1939.
- Thành viên chính thức của “Tự lực văn đoàn” gồm 7 người: Nhất Linh (Nguyễn Tường
Tam), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam ( Nguyễn Tường Lân), Khái Hân (
TrầnKhanhs Dư), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ) và Xuân Diệu (Ngô Xuân Diệu).
2. Quan niệm của “Tự lực văn đoàn” qua 10 tôn chỉ: (Giáo trình – trang 183) 3. Ý nghĩa văn học sử III.
3.1 Chặng đường thứ nhất 1932-1936:
Bối cảnh lịch sử: Những năm thoái trào cách mạng. Kn nghĩa Yên Bái của viêtj Nam lOMoAR cPSD| 61527594
Quốc dân Đẩng và PTCM 1903-1930 thất bại, phong trào cách mạng lắng xuống,
không khí u ám bao trùm xã hội, các trí thức, tsdt, tiểu ts thành thị hoang mang. Pháp
cổ cũ các trò hưởng lạc...
Hoạt động của nhóm Tự lực văn đoàn: Những tiểu thuyết lãng mạn Hồn bướm mơ
tiên, Nửa chừng xuân (Khải Hưng), Gánh hàng hoa (Khải Hưng, Nhất Linh); Đoạn
tuyệt, Lạnh lùng ( Nhất Linh). Ý nghĩa vh sử:
Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn không chỉ là một cách xì hơi bầu không khí ngột ngạt lúc
bấy giờ mà còn phản ánh được tâm trạng của một bộ phận thanh niên thành thị muốn
thoát ra khỏi hoàn cảnh đó
Ở chặng đường này, tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn nhân danh chủ nghĩa nhân đạo,
tinh thần dân chủ để chống lại sự hà khắc, tính chất ích kỉ, tàn nhẫn của lễ giáo phong
kiến, đấu tranh cho tình yêu, hôn nhân tự do và hạnh phúc chân chính, giải phõng phụ
nữa khỏi vòng cung tỏa của chế độ gia trưởng pk.
Đem đến màu sắc hấp dẫn của cái mới, của chủ nghĩa cá nhân, chính nghĩa, gợi lên
lòng yêu nước thầm kín. 3.2 Chặng 2: 1936-1939
Bối cảnh lịch sử: Thời kì Mặt trận Dân chủ Đông Dương, bầu khô tng khí có phần dễ
thở hơn trước. Báo chí tiến bộ, CM hoạt động sôi nổi từ Bắc vào Nam. Vấn đề đau
tranh cải thiện đời sống người dân trở thành vấn đề hàng đầu.
Hoạt động của Tự lực văn đoàn: Chuyển đề tài: đề tài chống phong kiến vẫn tiếp tục
được đề cập nhưng vấn đề dân cày, quan tâm đến đời sống của người dân được đặt lên
hàng đầu, giữ vai trò chủ đạo, đi vào hẳn đề tài chính trị xã hội Tác phấm: Con trâu,
Sau lũy tre (Trần Tiêu), Nhà mẹ Lê (Thạch Lam), Hai vẻ đẹp (Nhất Linh); Gia đình,
Những ngày vui của Khái Hưng, Con đường sáng của Hoàng Đạo.
Ý nghĩa vh sử: Cho thấy được sự bất công, chênh lệch giàu nghèo, sang hèn trong xã
hội dương thời, bước đầu tìm thấy nguyên nhân là do sự đàn áp, bóc lột của bon quan
lại phong kiến, đem đến 1 niềm lạc quan tin tưởng về thưucj hiện cải cách nông thôn
theo tinh thần văn minh, khoa học của ptay, cải thiện đời sống người dân quê (đặt vào
hcanh lịch sử: những tư tưởng ấy mang tính chất ảo tưởng, màu sắc cải lương).
3.3 Chặng 3: từ cuối 1939
Bối cảnh: Mặt trận DC Đông Dương chấm dứt, CTTGT2 bùng nổ, Nhật Pháp thay
nhau bóc lột nhân dân ta, chế độ kiểm duyệt báo chí khắt khe, hoạt động văn hóa văn
nghệ chân chính bị bóp nghẹt
Hoạt động: Nhất Linh trốn chạy snag Nhật, Khái Hưng, Hoàng Đạo bị bắt. “thời kì
xuống dốc của Tự lực văn đoàn”(Phan Cự Đệ). Tác phẩm: Bướm trắng, Đepk, Thanh
đức. Tiểu thuyết của TLVD chỉ còn là “một quyển tiểu thuyết k có chuyện”, con
người trong tác phẩm chỉ là những người vô lý mang tâm trạng chán chường sống
buông thả, tuyệ vọng, vô trách nhiệm..
Ý nghĩa VH sử: Phản ảnh tâm trạng chán chường, tuyệt vọng của một bộ phận thanh
niên trí thức đương thời,... lOMoAR cPSD| 61527594 Nhận xét:
- Quá trình vận động của tiểu thuyết TLVD chịu sự chi phối của bối cảnh lịch sử thời đại
- Có sự đổi mới, thay đổi tư tưởng chủ đề qua từng chặng, theo hiện thực cuộc sống của bối
cảnh thời đại: Chủ nghĩa cá nhân=>chủ nghĩa cá nhân cực đoan.
- Tuân tgur sát với tôn chỉ sáng tác
- Đem đến cái mới mẻ, cách tân trên cả phương diện nội dung tư tưởng lânc nghệ thuật tự
sự...đem đến tiếng nói cá nhân – chủ nghãi cá nhân được đề cáo, quyền tựu do hạnh phúc
của con người cá nhân luôn được đặt lên hàng đầu. Nhưng xét đến cùng, nghệ thuật quả
thực vận động theo hướng mới trân con đường cách tân tiểu thuyết, về tưb tưởng thì lại
rơi vào chủ nghĩa cá nhân cực đoan, khủng hoảng bế tắc
- Dẫu không ngừng đổi mới, cách tân nhưng vẫn giữu được tinh thần dân tộc, dẫu chỉ là
tinh thần cải lưng vô sản, màu sắc nói lên khát vọng dân tộc dân chue, đấu tranh gải
phóng bản thân, giải phóng bản ngã, giải phóng con nguoief- nhất là người phụ nữ. 4.
4.1 tóm tắt luận điểm chính mô hình tiểu thuyết of TLVD
Mô hình tiểu thuyết riêng, không trộn lẫn:
- Về đề tài: phong phú: tình yêu, lịch sử, cải cách xã hội,...hầu hết viết về tình yêu, “tiểu
thuyết tình”. Nét riêng ở đề tài tình yêu of TLVD là ở chỗ, k chỉ viết về tình yêu thuàn túy
với những quy luật tình cảm, những yêu ghét khổ đau của nó mà bao giờ cũng có ý thức
lồng vào những câu chuyện tình của mình một ý tưởng cải cách xã hội.
-Về nhân vật:tạo ra một thế giới nhân vật phong phú: nguoief phụ nữ, nghệ sĩ, khách chinh
phu..Tạo ra kiểu nhân vật riêng: thanh niên tân nhân vật(nam), gái tân (nữ), thường mang cái tên
chug “chàng’ và “nàng”. Nhân vật khác với trí thức trung lưu of Ntuan, khác với trí thức nghèo
của Nam Cao mà là những thanh niên trí thức Tây học vừa tre tuổi vừa xinh đẹp vừa đa tình, là
cậu ấm cô chiêu xuất thân gia đình quan lại tư sản địa chủ: chịu ảnh hưởng Âu hóa tưf hình thức
đến tư tưởng, thấm nhuần lõi sống tây âu, ý thức sâu sắc về quyền cá nhân, đề cao tự do, coi
trọng vẻ đẹp hình thức...Là kiểu nhân vật riêng “Không bắt trước đc” (Tô Hoài).
- Về lối viết: Lối viết hiện đại, lấy trung tâm là tính cách, dùng kí thuật hội họa hiện đại để
tả cảnh, tả người, đi sâu vào đs nội tâm NV. Lời avwn trong sáng, giản dị, diễ tả chính xác
nhuần nhuyễn diễn biến tâm lý nhân vật.
4.2 Làm rõ qua Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng
Hồn bướm mơ tiên là tác phẩm đầu tay của Khái Hưng viết năm 1933, và cũng là tác phẩm
đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn. Mặc dù chỉ là truyện ngắn vỏn vẹn chừng một trăm trang giấy,
nhưng nó lại là tác phẩm tạo nên tiếng vang nổi nhất của Khái Hưng, được nhiều người say mê, hâm mộ. lOMoAR cPSD| 61527594
Hồn bướm mơ tiên có ý nghĩa cách tân về thể loại tiểu thuyết, tiêu biểu cho mô hình tiểu thuyết
của TLVD Tác giả đã biết hướng cuộc đời về một thế giới ảo tưởng của tôn giáo, của tình yêu lãng mạn.
Đề tài: tình yêu nam nữ trong trốn đền thiêng của tôn giáo
Ngay từ tiểu thuyết đầu tay này, nhà văn đã thể hiện được một quan niệm mới, một cách cảm
nhận mới về con người. Nhân vật trong tiểu thuyết của nhà văn không còn là những ước lệ, công
thức, tác giả đã ý thức rất rõ của một nhà tiểu thuyết là chỉ tả những cảnh ngộ, những hình trạng.
những tính tình của một xã hội của một thời đại mà thôi. Khái Hưng đã tập trung khám phá mô
tả khẳng định mẫu hình nhân vật mới, một kiểu nhân vật lãng mạn. Vì vậy, tác phẩm này mang
đậm dấu ấn lãng mạn.
Đây là một chuyện tình núp dưới bóng từ bi của phật giáo. Thông qua cuộc đấu tranh giữa ái
tình và tôn giáo, Khái Hưng đã làm nổi bật được tính cách, lí tưởng của hai nhân vật chính. Tình
yêu của họ hấp dẫn ngay từ đầu câu chuyện. Chàng trai tên Ngọc gặp chú tiêu tên Lan ở chùa
Long Giáng kiều diễm dưới bộ áo tu hành. Ngọc nghĩ Lan là gái nên để tâm theo dõi và cũng từ
đó Ngọc đã đem lòng yêu Lan. Nếu như con người Lan hoàn toàn thuộc về thế giới tôn giáo,
không còn xúc động gì với tình yêu đôi lứa thì cuộc tìm kiếm của Ngọc sẽ vô ích như đuổi theo
một chiếc bóng vô hình. Nhưng ngược lại, trái tim của chú tiểu Lan cũng không khỏi bồi hồi xúc
động trước tình yêu thầm lặng của Ngọc. Tuy nhiên, Lan không phải là người con gái dễ bị sa
ngã. Nàng cố đấu tranh chính bản thân mình để chối từ tình yêu của Ngọc. Mỗi lần Ngọc cố ý dò
hỏi, Lan lại lẩn tránh. Như khi Lan được Ngọc khen “Nhưng chú thuật khéo lắm, lại thêm chú có
cái giọng dịu dàng, êm ái qua!” thì Lan lại lẩn né sang chuyện “Chết chửa nói mãi hôm nay đến
lượt tôi thỉnh chuông, ta đi thôi không về trễ cụ quở”.
Mặc dù Lan có cảm tình với Ngọc nhưng nàng cố bám víu vào đạo phật, trốn tránh mà vẫn
yêu. Trong lòng nàng diễn ra một sự đấu tranh gay gắt giữa ái tình và tôn giáo. Đến với tình yêu,
Lan sung sướng vì thấy đúng với bản chất và những mong muốn của mình nhưng nàng lại mang
cảm giác tội lỗi với phật tổ và những lời hứa của một người đã quả quyết dứt bỏ cuộc sống trần
tục. Không khỏi có lúc Lan tự dối lòng mình và xem ái tình là chuyện nhỏ nhen tầm thường, dẽ
gạt bỏ nhưng rồi chính nó lại là thứ to tát,chứa chan khắp linh hồn của Lan. Sự có mặt của Ngọc
trên cõi đời này đã đánh thức tình yêu trong sáng của Lan nhưng nó lại bị lớp sương mù lạnh giá
của tôn giáo bao bọc lấy người con gái này.
Khi miêu tả Lan, nhân vật chính trong truyện, tác giả dường như dồn hết trìu mến vào nàng,
một người con gái xinh đẹp, thông minh, trang nhã. Vì vậy, Ngọc yêu Lan cũng hoàn toàn có lí
dù bên ngoài Lan giả trai.
Nếu như Lan cố tình để che đậy tình yêu của mình, luôn mượn những triết lí tôn giáo để răn
đe mình thì ngược lại chàng trai Ngọc không bị ràng buộc bởi một tín điều tôn giáo nào, lại luôn
tìm cách để bộc lộ nó. Mối quan tâm duy nhất của chàng là Lan là gái hay trai? Và khi biết được
Lan là con gái thì cái cảm tình ban đầu biến thành tình yêu nồng nàn và chàng tha thiết yêu Lan. lOMoAR cPSD| 61527594
Tình yêu của Ngọc và Lan là tình yêu đầy lãng mạn, trong sáng và cao thượng. Và dù tình yêu
ấy có sâu đậm đến thể nào cũng chỉ có thể dừng lại ở giới hạn mà tôn giáo đã định. Lan đành
phải thú nhận với Ngọc mình là con gái và chấp nhận tình yêu của Ngọc với những dè dặt tinh vi
nhất. Ngọc kẻ kiếm tìm và khao khát yêu đương cũng chỉ dừng lại ở mức độ Ngọc nguyện suốt
đời chàng “Tôi không lấy ai chỉ sống trong cái mộng ảo của ái tình lý tưởng, của ái tình bất vong
bất diệt”. Lời nói của Ngọc có phần không tưởng và xa vời quá nhưng nó đã thể hiện được sự
dung hòa giữa tình yêu và tôn giáo. Tình yêu của họ chưa đủ sức mạnh để đấu tranh gạt bỏ tôn
giáo. Vì vậy, nó phải dung hòa và nhượng bộ tôn giáo.
Với Hồn bướm mơ tiên, kiểu nhân vật lãng mạn đã xuất hiện và tạo được sự chú ý của người
yêu văn học. Tác giả đã tạo cho nhận vật một môi trường thích hợp trong thế giới thiên nhiên tạo
vật để cho tình yêu lãng mạn nảy nở. Qua tình yêu của hai nhận vật chính, nhà văn cũng nhằm ca
ngợi ái tình, một tình yêu lí tưởng, trong sáng và cao thượng.
Bằng giọng văn mượt mà, truyền cảm, nhà văn Khái Hưng đã thành công khi khắc họa một
mối tình hết sức đẹp đẽ, lãng đãng giữa Lan và Ngọc. Từ đó, chúng ta thấy được giữa đạo và
đời đang có sự giằng xé, đấu tranh. Lan và Ngọc thật sự yêu nhau nhưng không thể đến được
với nhau. Tuy vậy, họ xem đó là thứ tình cảm đẹp nhất, luôn cất giữ trong lòng đến bạc đầu và
nguyện mãi tôn thờ. Đó chính là cái nhìn đầy chất lãng mạn của Khái Hưng trong tiểu thuyết
Hồn bướm mơ tiên. Buổi 4: NHÂN – QUẢ BAO CHỨA
CHƯƠNG 3: KHÁI QUÁT KHUYNH HƯỚNG VH LÃNG MẠN
1. Khái niệm chủ nghĩa lãng mạn
1.1 Là một trào lưu lớn ở Âu Mỹ a. Không gian b. Thời gian
c. Đối lập với chủ nghĩa cổ điẻn
1.2 Cơ sở tư tưởng – tâm lý xã hội cơ bản
a. Sự thất vọng với lý tưởng khai sáng
b. Khát vọng hoàn thiệ vươn tới lý tưởng phổ quát, ..
1.3 Sự khẳng định cái tôi cá nhân
a. giải phóng về mặt tình cảm, cảm xúc, phát huy mạnh mẽ trí tưởng tượng
b. Ba đề tài: thiên nhiên, tình yêu, tôn giáo.
2. Tiền để xuất hiện của trào lưu văn học lãng mạn
2.1 Tiền đề Hoàn cảnh lịch sử - xã hội
a. Sự xuất hiện của giai cấp tư sản và tiểu tư sản thành thị lOMoAR cPSD| 61527594
b. Giao lưu văn hóa phương Tây2.2 Tiền đề văn học
2.3 Tiền đề cơ sở tâm lý xã hội  Tự Lực Văn Đoàn:
Nhất Linh: Truyện ngắn, tiểu thuyết (1924: Y; 1925: Mỹ thuật trương Mỹ thuật Đông
Dương: cuộc sống người nông đan vốn lam lũ nhưng đi vào tranh ông lại thi vị, thơ
mộng, lãng mãn => nhận ra khoảng cách giữa nghệ tguaatj và cuộc đời => Lamdf ntn
để xóa đi khoảng cách ấy, để đưa nghệ thuật gắn chặt với cuộc đời; Yếu tố Phương
Tây không làm họ mất đi gốc gác dân tộc mà giúp họ ngộ ra thêm nhiều giá trị của
cuộc sống: tựu do, công bình, bình đẳng , bác ái,..Với câu hỏi ấy ông đã đi du học
Pháp. 1927: Ông quan tâm đến báo chí, ( 1 trong 4 thế lực của xã hội, nhà báo dùng
ngòi bút để khơi ngòi, để làm sáng tỏ sự thực chính trị xã hội, để cải cách xã hội =>
tôn chỉ người và xã hội, văn học nghệ thuật không vị nghệ thuật, 1938: không hoạt
động văn học thuần túy nữa mà tham gia vào các phong trào => trở thành một chính khách).
Huy Cận – Xuân Diệu là cặp bạn thân (Chỉ Xuân Diệu thuộc Tự Lực Văn Đoàn), đặc
điểm chung của các tác phẩm Tự lực văn đoàn là sẽ ghi “Tự lực văn đoàn” ở bìa sách.
Ngta không tìm thấy đặc điểm ấy ở Trần Tiêu => Trần Tiêu không thuộc Tự Lực Văn
đoàn. Nhất Linh gây dựng nên Tự lực văn đoàn theo mô hình thất tinh của P (7 nhà
văn lớn của pháp đưa văn chương P đi từ trung đại đến hiện đại).
Thạch Lam: Người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của Tự lực văn đoàn là Thạch
Lam, nhưng ở thể loại tiểu thuyết thì không mấy đặc sắc. Thạch Lam nổi tiếng về phê
bình văn học với tác phẩm “Theo dòng”, bút pháp tinh tế. Thế Lữ: Thơ (1933-1938), truyện trinh thám, kịch
 Hầu hết các thể loại chính đều xuất hiện trong các sáng tác của Tự lực văn đoàn, đều
đạt tới những đỉnh cao Ý nghĩa văn học sử:
+Hình thành bộ khung thể loại của văn học hiện đại, đạt tới đỉnh cao, có sự phối hợp
mềm mại, giao thoa giưuax các thể loại. +Có thủ lĩnh – thành viên + cộng tác viên +Có tôn chỉ sáng tác
+Có tờ báo riêng: Phong Hóa (1932-1935) + Ngày Nay 1935 trở đi
+NXB riêng: Đời nay (ở 80 Quán Thánh)
+ Giải thưởng Tự lực văn đoàn trao cho những nhà văn nhà thơ trao cho những gương
mặt tài năng=> cho thấy con mắt xanh, cho thấy quan niệm nghệ tu=huật đúng đắn, tiến bộ của TLVD.
+ Tổ chức văn học tư nhân = tổ chức nghề nghiêm+p đầu tiên của VN
+Đáp ứng những tiêu chí của một văn đoàn (theo mô hình của phương Tây) => chỉ dấu: hiện đại hóa.
Quan niệm văn học của Tự lực văn đoàn qua 10 tôn chỉ:
-Phương Tây: 9,7,8,5 (Phương Đông: Hoài cổ quá khứ, ước vọng tương lai, hiện tại khổ
đau; vécter time của ptay: quá khứ=>hiện tại=>tương lai) lOMoAR cPSD| 61527594
- Dân tộc: 1,4 (hình thức); 6 (nét hay, vẻ đẹp) -Tính đại chúng: 4,6,3
-Quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh: 2,6,8: VĂN HỌC NHƯ MỘT CÔNG CỤ ĐỂ CẢI
CÁCH XÃ HỘI=>chính vì thế hầu hết tiểu thuyết của tự lực văn đoàn đều là tiểu thuyết luận đề.
Đặc điểm của Tự Lực văn đoàn qua các chặng: Tiêu chí 1932 – 1936 1936 – 1939 1939 – 1942
Bối cảnh lịch sử Đề tài chính
Tác giả - tác phẩm Phân tích tâm lý: tiêu biểu Thám hiểm về cái tôi (vô luận, vô thức) Đôi bạn 1938 Bướm trắng 1939 Đẹp 1939 Thanh Đức 1941  Không còn mang những đặc điểm thuần túy của chủ nghĩa lãng mạn mà về mặt bút phát nghệ thuật đã nghiên về chủ nghĩa hiện đại, đạt đến một bước phát triển cao hơn về nghệ thuật trong thể loại tiểu thuyết.
1. Ý nghĩa của việc bài thơ Tình già của Phan Khôi được in trên Tập văn mùa xuân
của báo Đông Tây?
Sự nổi bật của báo Đông Tây: Báo Đông Tây là một trong những ấn phẩm
văn học và xã hội quan trọng của thời kỳ đó. Việc đăng tải một bài thơ nổi
bật như "Tình già" trên tờ báo này không chỉ giúp tăng cường sự hiện diện lOMoAR cPSD| 61527594
của tác phẩm trong cộng đồng văn học, mà còn khẳng định vai trò và ảnh
hưởng của Phan Khôi trong nền văn học đương thời.
Tầm quan trọng của mùa xuân: Tập văn mùa xuân thường mang một ý
nghĩa tươi mới, đầy hy vọng và sáng tạo, phản ánh sự khởi đầu mới và sự
đổi mới trong văn học. Bài thơ "Tình già" được chọn để xuất hiện trong
tập này có thể được xem như một sự nhấn mạnh vào những giá trị nhân
văn và cảm xúc sâu sắc mà Phan Khôi mang đến. Việc này có thể được
hiểu là sự trân trọng và công nhận tài năng của ông trong việc khai thác
các chủ đề về cuộc sống, tuổi tác và tình yêu.
Ý nghĩa của bài thơ "Tình già": Bài thơ "Tình già" của Phan Khôi thường
được biết đến với những cảm xúc chân thành về tình yêu và tuổi tác. Bài
thơ này không chỉ thể hiện sự nhạy cảm và cảm nhận sâu sắc của tác giả
về cuộc sống, mà còn phản ánh một quan điểm tinh tế về tình yêu và sự
trân trọng giá trị của tình cảm trong những năm tháng cuối đời.
Sự tiếp nhận của công chúng: Khi bài thơ được in trên một tờ báo có uy
tín như Đông Tây, điều này có thể làm tăng sự chú ý và tiếp nhận của độc
giả đối với tác phẩm của Phan Khôi. Điều này cũng cho thấy rằng bài thơ
đã nhận được sự công nhận từ các nhà phê bình và bạn đọc, đồng thời làm
nổi bật sự đóng góp của Phan Khôi vào văn học Việt Nam.
 Tóm lại, việc in bài thơ "Tình già" trên tập văn mùa xuân của báo Đông
Tây không chỉ đánh dấu sự công nhận và tôn vinh tài năng của Phan Khôi,
mà còn cho thấy tầm quan trọng của tác phẩm trong bối cảnh văn học và xã
hội của thời kỳ đó. Điều này cũng phản ánh sự đánh giá cao đối với các chủ
đề nhân văn và cảm xúc mà ông thể hiện trong thơ của mình.
2. Hoài Thanh chia thơ Mới thành mấy dòng? Ý nghĩa của cách phân chia này?
 Trong “Thi nhân VN”, Hoài Thanh từng chỉ ra 3 dòng chính trong Thơ mới:
1) Dòng chịu ảnh hưởng của thơ Phương Tây (Pháp):
+ Người đầu tiên chịu ảnh hưởng Pháp rất đậm là Thế Lữ. Những bài thơ có tiếng của
Thế Lữ ra đời từ đầu 1933 đến cuối 1934 [25] . Giữa lúc người thanh niên Việt Nam
đương ngập trong quá khứ đến tận cổ thì Thế Lữ đưa về cho họ cái hương vị phương xa.
+ Huy Thông : đã đôi ba lần nhập tịch được vào thơ Việt cái không khí mơ màng của
những vở kịch Shakespeare và cái giọng hùng tráng của Victor Hugo.
+ Xuân Diệu: đến 1936, ảnh hưởng Pháp lại thấm thía thêm một tầng nữa. Xuân Diệu,
nhà thơ ra đời hồi bấy giờ, mới một cách rõ rệt. Với Thế Lữ thi nhân ta còn nuôi giấc
mộng lên tiên, một giấc mộng rất xưa. Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ
giới. Với một nghệ thuật tinh vi đã học được của Baudelaire, Xuân Diệu diễn tả lòng ham
sống bồng bột trong thơ de Noailles và trong văn Gide. Ảnh hưởng Pháp trong thơ Việt
đến Xuân Diệu là cực điểm. lOMoAR cPSD| 61527594
+Hàn Mặc Tử - Chế Lan Viên: cả hai đều chịu rất nặng ảnh hưởng Baudelaire và, qua
Baudelaire, ảnh hưởng nhà văn Mỹ Edgar Poe. Cả hai đều cai trị trường thơ Loạn.
2) Dòng chịu ảnh hưởng của thơ Đường: Tản Đà
3) Dòng ít chịu ảnh hưởng của các nguồn khác mà có tính cách VN rõ rệt. (Các nhà thơ
về dòng này thường có lời thơ bình dị. Họ ít ảnh hưởng lẫn nhau và cũng ít có ảnh hưởng
đối với thi ca cận đại. Thi phẩm của họ có tính cách vĩnh viễn nhiều hơn tính cách một
thời, và họ nương vào thanh thế phương Tây cũng ít.) Gồm:
+ Lưu Trọng Lư: Ông sống đời nhiều hơn là sống trong sách vở, đọc ít sách Tàu và sách
Tây cũng vậy. Ông chỉ nhớ thoang thoáng một ít Kiều, một ít Chinh Phụ Ngâm, năm bảy
câu trong bản dịch Tỳ bà hành và vài ba câu cổ phong của Tản Đà. Trong những thể thơ
ấy, LTL rất dễ gửi gắm những nỗi đau buồn riêng của một người thanh niên Vn trong thời đại mới.
+Nguyễn Bính đi tìm chất VN trong những câu ca dao. Thơ Nguyễn Bính có cái vẻ mộc
mạc của những câu hát quê.
Ý nghĩa của cách phân chia:
+ Việc phận chia Thơ mới thành các dòng cụ thể, mỗi dòng mang những đặc điểm riêng
thể hiện sự tinh tế, sâu sắc, sự hiểu biết sâu sắc cặn kẽ về từng tác giả và đóng góp của họ cho thơ ca hiện đại VN.
+ Qua việc phân chia đó thì ông đã mổ xẻ, phân tích Thơ mới - một hiện tượng vốn hỗn dung,
phức tạp,chịu nhiều ảnh hưởng của nhiều yếu tố trở nên dễ hiểu, dễ hình dung, có hệ thống...
3. Cách so sánh các dòng thơ trên như “những dòng sông nước tràn bờ và luôn
luôn giao hoán với nhau” có hàm ý gì?
Ba dòng thơ đã đi song song trong mười năm qua. Cố nhiên trong sự thực ba dòng ấy
không có cách biệt rõ ràng như thế. Nếu ta nghĩ đến những dòng sông thì đó là những
dòng sông nước tràn bờ và luôn luôn giao hoán với nhau. Tuy mỗi dòng mỗi khác nhưng
cả ba dòng đều có vài xu hướng chung.
+ Dòng thơ ảnh hưởng thơ Ptay tràn bờ và giao hoán với Dòng chịua nhr hưởng thơ Đường:
Phải nói rằng Thơ mới 1932 - 1945 là một sự tích hợp nghệ thuật kỳ diệu, độc đáo trong
lịch sử văn học Việt Nam và nó đã đi trọn hành trình thi ca trước lúc hạ cánh để chuyển
sang bước ngoặt mới khi lịch sử đã sang trang. Thâu tóm, chắt lọc tinh hoa thơ Pháp, lOMoAR cPSD| 61527594
nhào nặn quyện hoà với “hồn cũ Thịnh Đường” và ca dao, hát nói... để tạo nên một nền
thơ với các đặc trưng thi pháp chưa từng có trước đó, mở đường cho tiến trình thơ hiện đại Việt Nam.
Dòng chủ đạo trong Thơ mới ắt hẳn là thơ Pháp, nhưng dấu ấn Đường thi vẫn để lại
trong Thơ mới khá đậm nét với thi liệu ngôn từ, điển tích, điển cố và nhất là tính
chất hài âm trong lối thơ bảy chữ của Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử,Vũ Hoàng
Chương, Leiba, Thái Can... và âm hưởng Đường thi cứ vang vọng trong những bài
thơ hành
của Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính. Bề dày văn học trung đại
với mười thế kỷ, trong đó, thơ Đường được tôn vinh hàng đầu, ảnh hưởng của nó đã
ngấm sâu vào máu thịt của biết bao thế hệ trí thức Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.
Không khó khăn gì để có thể nhận diện và kết luận những nhận định trên. Điều quan
trọng là, các thi sĩ Thơ mới đã tích hợp, chuyển hóa nhưng không hòa tan, không rập
khuôn thụ động; trái lại, có sáng tạo mới mẻ, tinh vi, biến nó thành giá trị, chất lượng
mới. Những ví dụ sau đây là một trong vô số những ví dụ: “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu
tang / Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng.”
thì không chỉ có một mà nhiều biện pháp
nghệ thuật tinh vi: ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, khác xa với một tầng ẩn dụ trong thơ Đường
và thơ Trung đại. Các nhà Thơ mới chỉ có thể cởi bỏ cái khuôn mẫu gò bó của Đường
luật, còn phần hồn cốt Đường thi cứ phảng phất mãi trong Thơ mới
: “Hồn cũ Thịnh
Đường muôn nẻo sáng / Ta ghì hư ảnh chút mà thôi”
(Vũ Hoàng Chương). thơ tượng
trưng Pháp cũng có những nét gần gũi với thơ Đường về tính hàm súc, gợi cảm, kín
đáo, thâm trầm và chuộng nhạc tính
. Chỉ có khác ở chỗ: “Thơ Đường chưa đi sâu vào
cái tôi, chưa đi sâu vào thế giới cảm giác như Thơ mới”(6). Cho nên Thơ mới dung hợp
được cả thơ lãng mạn - tượng trưng của phương Tây lẫn phương Đông như nhận định của
giáo sư Phan Cự Đệ trong Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945: “Thơ lãng mạn Việt
Nam không những chỉ chịu ảnh hưởng thơ ca lãng mạn và tượng trưng Pháp, mà còn tiếp
thu truyền thống thơ ca Trung Quốc” (7).
+ Dòng Ptay giao hoán với dòng có tính cách VN rõ rệt: Tiếp nhận thi ca nước ngoài,
các nhà Thơ mới có lối diễn đạt thơ phù hợp với điệu tâm hồn dân tộc. Các thể loại thơ ca
dân tộc quen thuộc (lục bát, hát nói, ca dao, vè... ) được họ vận dụng, khai thác và nâng
lên một trình độ nghệ thuật mới. Ngoài ra, các nhà Thơ mới còn biết cách học tập và kế
thừa truyền thống thơ Nôm dân tộc của những thế kỷ trước một cách sáng tạo, để làm
giàu thêm cho Thơ mới 1932 - 1945. “Các nhà Thơ mới đã thực hiện một bước tổng hợp
quan trọng giữa tinh hoa của văn hóa Đông Tây với truyền thống văn học dân tộc, do đó
đã đẩy thi ca Việt Nam tiến nhanh trên con đường hiện đại hóa. Các nhà Thơ mới đã biết
tiếp thu ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài để bồi bổ thêm cho truyền thống cũ của dân
tộc.”(8). Sự tổng hợp mà chúng tôi muốn lưu ý ở đây là tổng hợp toàn diện, trên tất cả các
cấp độ của hình thức và nội dung. lOMoAR cPSD| 61527594
4. Tinh thần của thơ Mới theo Hoài Thanh là gì? Theo Hoài Thanh, các nhà thơ
Mới luôn dành cho Tiếng Việt một tình yêu đặc biệt, vì sao?
Theo Hoài Thanh, tinh thần Thơ mới nằm trong một chữ "tôi". "Cái tôi" của Thơ mới
đối lập với "cái ta" của thơ cũ- cả mặt tích cực và mặt bi kịch của nó. a) "Cái tôi" trong Thơ mới
- "Cái tôi" là bản ngã của mỗi con người mà ai cũng có. Nhưng trong những thời kì
lịch sử nhất định, do hệ tư tưởng chính thống của thời đại khống chế, ép buộc nên cái
bản ngã ấy không được bộc lộ, nhà thơ phải nói lên tiếng nói của "cái ta- đạo lí" chung
của thời đại ấy. Đó là thơ phi ngã.
- Khi "cái tôi" ấy được giải phóng thì thi nhân mới có thể nói lên những điều thành thực
tự đáy lòng mình. "Cái tôi"- đó chính là "khát vọng được thành thực" như Hoài Thanh
đã nói, là sự tự khẳng định bản ngã của nhà thơ trước cuộc đời, là sự tự ý thức về cá
nhân mình trong cuộc sống xã hội.
- Giờ đây, cái tôi có được "cái sức mạnh súc tích từ mấy ngàn năm nhất đán tung bờ vỡ
đê" và khi được giải phóng thì nó sẽ "làm giàu cho thi ca" bằng những cảm xúc mới mẻ
và những cách tân nghệ thuật.
b) Mặt tích cực của "cái tôi" trong Thơ mới
- Nếu xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân. Chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ
thì gia đình thì cái tôi Thơ mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó bỡ ngỡ, như lạc loài nơi đất khách.
- Nếu thơ cũ mang cái bản sắc cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt
nước trong biển cả thì cái tôi Thơ mới mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở
xứ này: Quan niệm cá nhân (sự ý thức về bản thân).

- Nếu các nhà văn, nhà thơ cũ không một lần nào dám dùng chữ "tôi" để nói chuyện với
mình hay với tất cả mọi người, không tự xưng, ẩn mình sau chữ ta, một chữ có thể chỉ
chung nhiều người thì cái tôi, với cái nghĩa tuyệt đối của nó, làm nhiều người khó
chịu nhưng ngày càng mất dần cái vẻ bỡ ngỡ và được vô số người quen.

c) Mặt bi kịch của "cái tôi" trong Thơ mới
- "Cái tôi" của các nhà Thơ mới thật đáng thương và tội nghiệp vì nó đã đem đến cho
tâm hồn hộ nỗi buồn lạnh và bơ vơ, muốn thoát đi đâu cũng không được. Bởi họ
là những thi nhân mất nước, đang sống trong cuộc đời mỏi mòn, tù túng lúc bấy giờ,
lại mang trong mình "cái tôi" cô đơn, bé nhỏ của các thi sĩ lãng mạn.
- Bi kịch ấy được làm nổi bật bằng sự tương phản, đối lập giữa con đường muốn thoát
thân với sự thực hiện hữu của cuộc đời các nhà Thơ mới lúc bấy giờ: thoát lên tiên ><
động tiên khép lại; phiêu lưu trong trường tình >< tình yêu không bền; điên cuồng ><
điên cuồng rồi tỉnh; đắm say >< say đắm vẫn bơ vơ.
- Từ đó dẫn đến nhận định của tác giả "Thật chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là
xôn xao như thế". Đây là nỗi buồn thơ của một thế hệ thi nhân mất nước mang cái tôi
cô đơn, nhỏ bé đã làm nên âm hưởng, giọng điệu đặc trưng của Thơ mới giai đoạn này.
- Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt, vào tình yêu quê hương, vào tinh thần nòi giống.
Các nhà Thơ mới đã tìm thấy một chỗ dựa tin cậy của tinh thần nòi giống của các thể
thơ xưa, của tiếng việt... để vin vào những điều bất diệt ấy mà hi vọng, mà tin tưởng…
*Theo hoài thanh các nhà thơ mới yêu tv vì: lOMoAR cPSD| 61527594
Nhận xét về phong trào Thơ mới, Hoài Thanh cho rằng:phong trào Thơ mới đã “dồn
tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt”. Các nhà thơ trong hoàn cảnh đất nước
lúc bấy giờ, có nhiều cách biểu lộ lòng yêu nước…. Các nhà Thơ mới đành gửi lòng
yêu nước thương nòi của mình vào tình yêu tiếng Việt. Vì họ nghĩ rằng, tiếng Việt đã
hứng vong hồn dân tộc những thế hệ qua. Vận mệnh dân tộc đã gắn bó với vận
mệnh tiếng Việt. Họ dùng tiếng nói của dân tộc để sáng tác thơ, duy trì tiếng nói
và các thể thơ mang hồn cốt dân tộc. Qua thơ, họ ngợi ca thiên nhiên đất nước,
gửi gắm nỗi buồn mất nước. Qua thơ, các nhà Thơ mới đã phát triển, đổi mới
ngôn từ, làm cho tiếng Việt trở nên rất phong phú, trong sáng, tinh tể, hiện đại
.
Trong khi văn học trung đại sáng tác văn học bằng chữ Hán, chữ Nôm (ảnh hưởng chữ
Hán) và các thể thơ chủ yếu là Đường luật; thì các nhà Thơ mới làm thơ bằng tiếng
Việt, chữ quốc ngữ, tôn vinh các thể thơ truyền thống như: thơ lục bát, thơ bốn
chữ, thơ năm chữ…Họ coi tiếng nói của cha ông là là hương hỏa quý giá, mang
hồn thiêng dân tộc, nên đã trau chuốt từ ngữ, hình ảnh.
Tình yêu tiếng Việt, yêu
nghệ thuật thơ ca, yêu bản sắc văn hóa dân tộc của các nhà Thơ mới rất phong phú sâu sắc
KHUYNH HƯỚNG VĂN HỌC HIỆN THỰC 1.
o Tiền đề văn học: mầm mống văn học truyền thống o Ảnh hưởng của văn học PT,
o Ảnh hưởng của văn hóa phương Tây: Khoa học tự nhiên, khoa học xã hôi: phản
ánh hiện thực cần một cái nhìn khách quan để cắt nghĩa hiện thực=>cần khoa học
tn. Cần công cụ để phan tích, nhận thức về con người => cần tư duy phân tích của khxh.
o Thực tế đời sống xã hôi: cung cấp những đề tài thường là nhưungx mặt trái của xa
hội, mâu thuẫn gia cấp và dân tộc..
o Các thể loại văn xuôi quốc ngữ: sở dĩ thời trung đại k quá nổi bật khuyenh hướng
hiện thực là do đó là thời đại của thi ca, mà thi ca lại bị gò bó bởi vần, nhịp, niêm,
luật nên khó có thể phản ánh hiện thưucj đời sống một các đầy đủ nhất. TẢN ĐÀ MỘNG
- Trang Chu hóa bướm: MỘNG = THỰC: 2 quan niệm: Thực chính là mộng: tìm đến
sự an ủi. Mộng mới chính là thực: gắn với những cá tính lớn, gắn với cái TÔI
- Mộng = Du (chơi): Mộng gắn với những cái chơi: Cái chơi thứ nhất gắn với du sơn
ngoạn thủy: chạy vào thiên nhiên, chạy vào tự nhiên,tìm cái vui trong tự nhiên >< xã
hội; Cái chơi thứ hai là cái chơi của Nghệ thuật: cầm – kì – thi – họa; Cái chơi thứ 3
là cái chơi du thế
: khách chơi đối lập với bổn phận, phận sự, tìm đến khoái lạc cá
nhân, giải phóng tối đa bản ngã, lạc thú, ý tú của con người. Đây chính là cơ sở triết
học cho sự xuất hiện của nhà nho tài tử. Người tài tử có 2 thứ: đa tình (sự khoái lạc
tận hưởng) và thi tài (thể hiện cái tôi tài hoa, khát vọng thể hiện abnr taha, lập công danh, có chí hướng) lOMoAR cPSD| 61527594
- Mộng trong văn chương tản đà rất đậm đặc, Chịu ảnh hưởng của trang tử, ông tự gọi
mình là người mộng với những giấc mộng đa dạng: mông to, mộng nhỏ, mộng lạc
thú...Tản Đàn lên tiên k phải để thoát tục mà để tìm giai nhân, tìm lý thú cho chính mình..
MỐI QUAN HỆ GIỮA SẦU VÀ MỘNG
- Hiện thực đối lập (sầu) với lý tưởng (mộng):
- Lý tưởng (mộng) bù đắp cho hiện thực (sầu):
- Thống nhất giữa sầu và mộng: thể hiện ở mình yêu mình: dù trong sầu hay mộng tản
đà vẫn lấy cái tôi làm trung tâm cho sự miêu tả: phô diễn được cái tôi của mình, sự say mê bản thân -
SẦU VÀ MỘNG TRONG “MUỐN LÀM THẰNG CUỘI”
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi,
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi,
Có bầu có bạn can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây thế mới vui.
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông xuống thế gian cười,
Sầu: được biểu hiện rõ nhất trong hai câu thơ đầu:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi, Bptt: câu cảm thán Từ vựng: buồn, chán
 Cái sầu trong bài thơ là cái sâu về thân thế, sự nghiệp – nỗi sầu được chắt ra từ những
ỷair nghiệm rất riêng của Tản Đà. Nỗi sầu của Tản Đà không chỉ là do bất mãn cá nhân,
buồn về thân phận: Hai mươi năm lẻ hoài cơm áo – Mà đến bây giờ có thế thôi, mà còn
là nỗi buồn đau về nhân sinh, thời thế, về đất nước: Gió gió mưa mưa đã chéo phèo – Sự
đời nghĩ đến lại buồn teo. Suy nghĩ cho cùng, đó là nỗi buồn đau đẹp, rất đáng được trân trọng!
 Hai câu thơ là những lời tâm sự của Tản Đà với chị Hằng: xưng em gọi chị: tâm sự than
thở về thực tại đau khổ, chán nản,... lOMoAR cPSD| 61527594
Sầu không chỉ được biểu hiện trong mỗi hai câu đầu, mà sầu được biểu hiện trong toàn
bài. Phần mộng về những mộng tưởng được lên cung tẳng, thoát ly khỏi thế giưới trần
thế, những thực tại khổ đau là những mộng tưởng dẫub thi vị nhưng lại không có thự, từ
đó, qua việc viết về cái mộng, tác giả càng tô đậm thêm cái sầu.Mộng tưởng càng đẹp đẽ,
thi vị bao nhiêu thì hiện thực càng sầu, càng u uất càng chán nản bấy nhiêu. Sầu về sự cô
đơn, sầu vì thân thế sự nghiệp thì tác giả mới muốn được lên cung trăng để thoát khỏi
hiện thực chán nản, u uất, thất bại, cô đơn mới muốn được lên cung trăng làm bạn với gió
mây, tìm niềm vui, khoái lạc.. Nhận xét của thầy: - Kết cấu: 2/4/2 2 câu đầu - Từ vựng: buồn chán
- Bối cảnh: nỗi buồn chán xảy ra vào đêm thu, chị hằng: đẹp, thi vị: mùa thu trong thơ
văn gợi cảm hứng thi vị đượm sầu. Trong khung cảnh thi vị, đẹp như vậy, vậy mà
người vẫn thấy buồn chán => nỗi buồn k phải do ngoại cảnh gây ra mà là nỗi buồn
chất chứa trong nội tâm nhân vât, nó tràn ra khiến tác giải phải thốt lên thành lời. Lời
thổ lộ về nỗi buồn chán hướng đến chị hằng – người thuộc về một thế giưới khác =>
thể hiện sự cô đơn, sự thiếu vắng một tri kỉ để tâm sự, giãi bày ở nơi trần thế. “Trần
thế” là không gian sống,, chỉ cuộc đời nói chung=> nỗi buồn chán không thuộc về
một lĩnh vực cụ thể mà với toàn bộ cuộc đời, với mọin sự tồn tai của cuộc sống.
“Chán nửa rồi”: (1) một mặt chán trường, một mặt tuy chán nhưng lòng vẫn yêu, vẫn
hướng về cuộc đời trần thế => là một cách hiẻu nhưng lại không logic với mạch cảm
xúc trong bài thơ, không đảm bảo tính chỉnh thê, tương ứng với mạch cảm xúc của
bài thơ; (2) (“Giải sầu”: “Sầu không có mối, chặt sao cho đứt/ Sầu không có khối, đập
sao cho tan”) nỗi sầu muộn không đầu, không cuối, nỗi sầu triền miên, như một bầu
khí quyển bao trùm lấy thế giới tâm hồn thi sĩ => k hiểu theo nghĩa từ vựng mà phải
hiểu theo mạch cảm xúc chính trong bài thơ và mạch cảm xúc bao trùm trong
phong cách thơ thi sĩ. 4 câu tiếp:
- Không gian: cung quế=trên cao=cõi tiên/ thượng giới=đẹp (tiên cảnh + người đẹp)
- Tính chất sóng đôi: ở trần thế cô đơn, ở cung quế là thế giưới sóng đôi: quấn quýt
không chỉ của người với người, thiên nhiên với thien nhiwwn, mà còn của con người
với thiên nhiên. Ở thế giới lên tiên, mọi sầu muộn ở cõi trần đều được hóa giải 2 câu kết:
Đỉnh điểm, thời khắc viên mãn nhất của cõi mộng. Vì sao?
- Rằm tháng tám: đẹp, lộng lẫy, viên mãn nhất: thời điểm trăng tròn đâyyf, viên mãn nhất, sáng nhất
- Trần gian => chiêm ngưỡng
- Trông xuống, cười = cái cười đắc ý, thỏa nguyện, ngông nghênh
- Tựa nhau: chất phong tình, thi vị của thi sĩ: tg tựa chị hằng, chị hằng tựa tác giả: tình
ý, không còn cô đơn lẻ bóng nữa. Đặc biệt, sự xuất hiện của chị hằng còn ngầm
khẳng định một giá trị =>Chị hằng không còn đơn thuần chỉ là một tri kỉ, mà còn là
người xác nhận giá trị cho nguyễn khắc hiếu lOMoAR cPSD| 61527594
- Việc chị hằng hiện diện nhưu một tri kỉ, một người xác định giá chị cho NKH thì hàm
chứa ý nghãi gì? Sầu và mộng là bhai thế giưới phản chiếu, nhìn tahays ông ta mất có
được cái gì trong cõi mộng thì ta cũng có thể hiểu được ông đã đánh mất cái gì trong
thực tại. Chị hằng xuất hiện tô đạm nỗi sầu trong tác giả - cái sầu cô đơn. Trong đỉnh
điểm của cõi mộng, không chỉ thấy cái sầu cô đơn, còn có cái sầu không được hiểu
đúng, chưa được công nhận về những giá trị đích thực của bản thân. Nụ cười đắc ý
thỉa nguyện nhưng ẩn sâu trong đó là nụ cười tỏ ra để che giấu nỗi buồn. Cõi tiên chỉ
là hư ảo, trong sự huy hoàn của cõi mộng, là sự đổ nát của hirnj thưucj. Sầu mộng
quấn quýt vào nhau, phản chiếu lẫn nhau, trong sầu là mộng, trong mộng là sầu. Gắn
bó trọn bẹn với cõi mộng => cãi sầu chỉ được giải tảo trong cái mộng => cái sầu nơi
trần gian vĩnh viễn k được giải tỏa, càng hiểu về cõi mộng bao nhiwuw, càng thấm
thía cái sầu nơi cõi trần thế bây nhiêu.Quay trở lại “chán nửa rồi”, chán nửa chính là
chán nỗi sầu triền miên, dai dẳng.
SẦU VÀ MỘNG TRONG “HẦU TRỜI” CỦA TẢN ĐÀ
Biểu hiện của cái sầu:
Nỗi buồn của kiếp người: Tản Đà thể hiện sự chán chường, đau khổ trước thực tại cuộc
sống. Cái sầu không chỉ đến từ nỗi buồn cá nhân mà còn là nỗi đau chung của con người
trước những bất công, khổ đau trong xã hội. •
Cảm giác lạc lõng: Tác giả cảm thấy mình như một kẻ lưu lạc giữa cuộc đời, không tìm
được chỗ đứng và ý nghĩa cho cuộc sống. Điều này được thể hiện qua hình ảnh cô đơn
trong không gian bao la của trời đất. •
Sự đối lập giữa hiện thực và mộng mơ: Cái sầu của Tản Đà còn đến từ sự chênh lệch
giữa ước mơ và thực tại. Ông mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn, nhưng thực tại lại đầy
rẫy những nỗi buồn và thất vọng.
2. Biểu hiện của cái mộng:
Ước mơ và khát vọng: Trong khi cái sầu thể hiện nỗi buồn, cái mộng lại thể hiện ước
mơ về một tương lai tươi sáng hơn. Tản Đà mơ ước về một cuộc sống tự do, không bị
ràng buộc bởi những áp lực và bất công. 
Tìm kiếm sự hòa quyện với thiên nhiên: Ông mơ về sự hòa mình vào thiên nhiên, tìm
kiếm sự bình yên trong tâm hồn. Hình ảnh trời cao, mây trắng mang lại cảm giác rộng
mở, tự do, là nơi để tâm hồn bay bổng. 
Khát vọng vượt lên số phận: Cái mộng cũng thể hiện khát vọng vượt lên những đau
khổ, tìm kiếm ánh sáng và niềm tin trong cuộc sống. Tản Đà không hoàn toàn đầu hàng
trước cái sầu, mà luôn nuôi dưỡng những giấc mơ.
3. Sự kết hợp giữa cái sầu và cái mộng: lOMoAR cPSD| 61527594 •
Trong "Hầu trời", Tản Đà khéo léo hòa quyện cái sầu và cái mộng, tạo nên một bức tranh
đa chiều về tâm trạng con người. Cái sầu là động lực để tác giả mơ ước về một điều tốt
đẹp hơn, trong khi cái mộng lại mang đến hy vọng và sự sống cho tâm hồn. •
Tình cảm sâu sắc: Sự kết hợp này tạo ra một cảm xúc sâu sắc, khiến người đọc cảm
nhận được nỗi đau nhưng cũng thấy được ánh sáng của niềm hy vọng. Tóm tắt:
"Hầu trời" của Tản Đà thể hiện một cách tinh tế cái sầu và cái mộng, phản ánh tâm trạng phức
tạp của con người. Nỗi buồn về thực tại và ước mơ về một tương lai tốt đẹp hơn hòa quyện với
nhau, tạo nên một tác phẩm sâu sắc và đầy ý nghĩa. Từ đó, Tản Đà không chỉ bộc lộ nỗi buồn
của mình mà còn khơi gợi trong lòng người đọc những suy tư về cuộc sống.
Nhận xét của thầy về “Hầu trời”
Giống: Cả hai bài thơ đều có sự đối lập giữa sầu và mộng: sầu gắn với không gian trần gian,
mộng gắn với kkhoong gian trên cao – không gian thượng giới. Sự đồng điệu với bài Nguyệt hạ
độc chước của Lý Bạch: Hoa gian nhất hồ tửu,
Độc chước vô tương thân. Cử bôi yêu minh nguyệt,
Đối ảnh thành tam nhân.
Nguyệt ký bất giải ẩm, Ảnh đồ tuỳ ngã thân.
Tạm bạn nguyệt tương ảnh Khác  Hầu trời - Cái sầu bao gồm:
+ nỗi sầu cô đơn và nỗi sầu thân thế sự nghiệp, đặc biệt có cái sầu của cái nghiệp
văn chương – buôn văn bán chữ: nỗi sầu mưới lạ, chỉ đến tản đà mơid bắt đầu suốt
hiện trong văn chương Vn. Về sau: “Cơm áo không đùa với khách thơ” (Xuân Diệu)
+ Nỗi sầu kiếp người ngắn ngủi:
Lo ăn lo mặc hết ngày tháng
Học ngày một kém tuổi càng cao
Sức trong non yếu ngoài chen rấp
Một cây che chống bốn năm chiều.
+Nỗi sầu rất riêng biệt của bài thơ – Cái sầu của sự tàn mộng, nhớ mộng. Có hiểu
được nỗi sầu nhứo mộng mới thám thía được ý nghĩa của câu thơ đầu: Tác giả đang
sống trong thời điểm hiện tại, thi sĩ đau buồn nhớ lại cõi mộng, sầu vì mộng tàn mơ tan lOMoAR cPSD| 61527594
Đêm khuya khí thanh sao thưa vắng
Trăng tà đưa lối về non Đoài.
Non Đoài đã tới quê trần giới
Trông lên chư tiên không còn ai. - Mộng:
+Thơ – Rượu: cuộc chơi của thơ, rượu
+Cuộc chơi của người tri kỉ: không chỉ còn là chị hằng nữa mà là chư tiên + Ngọc Hoàng:
+Mộng của tài năng được công nhận:
Văn đã giàu thay, lại lắm lối Trời
nghe Trời cũng bật buồn cười!
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn: -
“Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”
Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít!
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!
Chẳng hay văn sĩ tên họ gì?
Người ở phương nào, ta chưa biết.”
+ trích tiên: đảm nhận sứ mệnh
+ Tính chất luyến ái: động chạm vào ông đều là người đẹp, người đọc, khán giả
của ông đều là những người đẹp
 Chủ nghĩa tự mê trong thơ văn: ông lấy mình là trung tâm dù là trong thế giưới
hiện thực sầu hay mộng, Ngọc hoàng, chư tiên đều là những nhân vật do Tản Đà
tự phân thân ra, tự mê, tự khẳng dịnh mình => chất ngông => Phô diễn một cách
chân thật những nét cái Tôi
 MQH: So với bài Muốn làm thằng cuội, trong Hầu trời cái sầu nhiều hơn, đậm đặc
hơn cái mộng cũng lung linh hơn, màu vẻ hơn, sống động hơn: sầu và mộng tỉ lệ
thâunj với nhau trong hai bài thơ: Sầu càng nhiều, mộng càng tha thiết, Sầu càng
chất chứa mộng càng lung linh, sầu được mộng bù đắp.
 Muốn làm thằng cuội:
- Nỗi sầu riêng: cô đơn lOMoAR cPSD| 61527594
CHUẨN BỊ HDH PHAN BỘI CHÂU
1. Điểm khác nhau giữa Nhà nho và nhà cách mạng? Điểm giống và khác giữa nhà văn
chuyên nghiệp và nhà văn cách mạng (so sánh Phan Bội Châu và Tản Đà) khác
nhau = Những nét tương đồng và khác biệt trong quan niệm và con đường đến với
văn học của Phan Bội Châu và Tản Đà

Điểm khác nhau giữa Nhà nho và nhà cách mạng Tiêu chí Nhà Nho Nhà cách mạng so sánh Tư tưởng
- Theo tư tưởng Nho giáo, nhấn mạnh - Thường có tư tưởng tiến – triết lý
đạo đức, lễ nghĩa, và sự tôn trọng
bộ, muốn thay đổi các cấu
truyền thống. Họ thường chú trọng
trúc xã hội và chính trị. Họ
đến việc duy trì trật tự xã hội và phát có thể theo chủ nghĩa dân
triển con người qua giáo dục.
chủ, xã hội chủ nghĩa hoặc
các lý tưởng cách mạng
khác nhằm tạo ra sự thay đổi lớn trong xã hội