








Preview text:
lOMoAR cPSD| 61601299 Câu 1:
Trong Thư gửi đồng bào Nam bộ, Hồ Chí Minh khẳng định: “Ta phải nhận rằng
đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng
bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ” (Hồ Chí Minh. 2011. Toàn
tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.280-281). Nhận định trên của Hồ Chí Minh
đã nhắc đến một điều kiện để xây dựng khối đoàn kết toàn dân tộc là phải có lòng khoan
dung, độ lượng với con người. Ngoài điều kiện này thì còn có những điều kiện sau: Phải
lấy lợi ích chung làm điểm quy tụ, đồng thời tôn trọng các lợi ích khác biệt chính đáng;
Phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết dân tộc; Phải có niềm tin vào nhân dân.
Định nghĩa về “Đại đoàn kết dân tộc” theo tư tưởng Hồ Chí Minh có nghĩa là đại
đoàn kết các dân tộc, giai cấp, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, đoàn kết
mjọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong nước hay định cư ở
nước ngoài thành một khối vững chắc trên cơ sở thống nhất về mục tiêu chung và những lợi ích căn bản.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định muốn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người. Theo Người, mỗi người đều là một
chỉnh thể có cả mặt tốt và mặt xấu, nên vì lợi ích cách mạng cần trân trọng dù chỉ một
phần thiện nhỏ nhất để tập hợp mọi lực lượng. Ai cũng có khuyết điểm, vì vậy đoàn kết
đòi hỏi sự chấp nhận khác biệt và tôn trọng cái tôi của nhau. Bác cũng từng nói: “ Năm
ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài. Nhưng vắn, dài đều hợp nhau lại ở nơi bàn tay.
Trong mấy triệu người cũng có người thế này, người thế khác, nhưng thế này hay thế khác
đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ, ta phải nhận ra rằng đã là
con Lạc, cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc
lối, lầm đường, ta phải lấy tình nhân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đoàn kết,
có đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang”. Với những người lầm lỡ, phải dùng tình
thương mà cảm hóa, “đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người chạy lại”. Chỉ có tình người
mới khiến con người xích lại gần nhau và phát huy điều thiện. Phật cũng dạy: “Đừng lấy
oán báo oán”. Đoàn kết giúp học hỏi nhau điều hay, khắc phục thói xấu vì mục tiêu chung
của dân tộc. Câu chuyện Tạ Đình Đề – từ người từng ám sát lãnh tụ trở thành cận vệ trung
thành – cho thấy sức mạnh cảm hóa và lòng khoan dung của Bác đối với những người lầm đường.
Để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ngoài điều kiện nếu trên ta còn có các điều kiện khác.
Thứ nhất, phải lấy lợi ích chung làm điểm quy tụ, đồng thời tôn trọng cái lợi ích
khác biệt chính đáng. Phải chú trọng xử lý các mối quan hệ lợi ích rất đa dạng,
phong phú trong xã hội Việt Nam. Để thực hiện đoàn kết hiệu quả, phải xử lý tốt quan
hệ lợi ích và tìm ra điểm chung giữa các lực lượng. Hồ Chí Minh xác định mục tiêu của
mặt trận phải rõ ràng, phù hợp từng giai đoạn cách mạng, nhằm tập hợp cao nhất sức
mạnh dân tộc. Theo Người, đại đoàn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên
cơ sở yêu nước, thương dân, chống áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu. Người cho rằng,
nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng
chẳng có ý nghĩa gì. Vì vậy, đoàn kết phải lấy lợi ích tối cao của dân tộc và lợi ích căn lOMoAR cPSD| 61601299
bản của nhân dân lao động làm mẫu số chung. Đây là nguyên tắc bất di bất dịch, là ngọn
cờ đoàn kết để quy tụ các tầng lớp, giai cấp, đảng phái, dân tộc và tôn giáo vào trong mặt
trận Tuy vậy, cần tôn trọng các lợi ích riêng chính đáng của từng nhóm xã hội, vì mỗi giai
tầng có nhu cầu và nguyện vọng khác nhau. Nghị quyết 43-NQ/TW cũng thể hiện tinh
thần này khi nhấn mạnh “giải quyết hài hòa lợi ích” và “bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của nhân dân”. Do đó, đoàn kết không phải đồng nhất hóa, mà là sự hài hòa giữa cái
chung và cái riêng. Khi lợi ích chung rõ ràng và lợi ích riêng được tôn trọng, mọi người
sẽ tự nguyện gắn bó, tạo nên sức mạnh đoàn kết bền vững.
Thứ hai, phải kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của
toàn dân tộc. Truyền thống này được hình thành, củng cố và phát triển trong suốt quá trình
dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc và đã trở thành giá trị bền vững, thấm
sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam. Đây là cội nguồn sức
mạnh giúp dân tộc vượt qua thiên tai, giặc ngoại xâm và bảo vệ bản sắc văn hóa. Chẳng
hạn qua câu tục ngữ: “Lá lành đùm lá rách” biểu tượng cho lòng nhân nghĩa và sự tương
trợ trong cộng đồng. Mỗi khi miền Trung chịu bão lũ, đồng bào cả nước lại chung tay
quyên góp tiền bạc, lương thực, áo quần; lực lượng bộ đội, công an, thanh niên tình
nguyện xông pha cứu hộ, giúp dân dựng lại nhà cửa. Những hành động ấy cho thấy truyền
thống tương thân tương ái, đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Nghị quyết 43-NQ/TW (2023)
tiếp tục nhấn mạnh việc phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân, khơi dậy lòng yêu
nước, tinh thần nhân nghĩa và đề cao vai trò Mặt trận Tổ quốc trong việc tập hợp nhân
dân. Điều này tạo đồng thuận xã hội, huy động sức mạnh của mọi tầng lớp vào sự nghiệp
xây dựng và phát triển đất nước, biến truyền thống tốt đẹp thành động lực cho cách mạng.
Cuối cùng là phải có niềm tin vào nhân dân. Với Hồ Chí Minh yêu dân, tin dân, dựa
vào dân phấn đấu vì hạnh phúc của nhân dân đây là nguyên tắc tối cao nhất. Bác luôn
nhấn mạnh: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân và “Dễ trăm lần không dân cũng
chịu, khó muôn phần dân liệu cũng xong”. Trong kháng chiến, dù lực lượng cách mạng
nhỏ bé, Bác vẫn tin rằng sức mạnh của dân tộc bắt nguồn từ nhân dân.. Ta thấy rằng mọi
chủ trương, đường lối của Bác đều xuất phát từ ý chí, nguyện vọng và sức mạnh của nhân
dân. Tư tưởng ấy tiếp nối truyền thống “Nước lấy dân làm gốc”, “Chở thuyền và lật thuyền
cũng là dân”, đồng thời quán triệt nguyên lý Mác-xít “Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng”. Tin dân phải thể hiện ở việc giao việc cho dân, tạo điều kiện để dân tham gia và
đặt lợi ích của dân lên hàng đầu. Muốn dân tin thì cán bộ phải sống, làm việc vì dân, xứng
đáng là “người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Nhân dân là lực lượng có sức mạnh vô
địch; mọi thắng lợi của cách mạng đều từ dân mà ra. Vì vậy, muốn xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc vững chắc, trước hết phải tuyệt đối tin tưởng vào nhân dân.
Trong bối cảnh hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng linh hoạt và sáng tạo
những điều kiện ấy trong thực tiễn như sau.
Trước hết, việc xây dựng khối đại đoàn kết phải xuất phát từ lợi ích chung của dân
tộc, đồng thời tôn trọng lợi ích khác biệt chính đáng của từng bộ phận nhân dân. Đảng đã
vận dụng tinh thần đó bằng cách quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
và đoàn kết quốc tế trong hoạch định, chủ trương, đường lối, đẩy mạnh tuyên truyền về
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng, coi lợi ích quốc gia – dân tộc là nền
tảng của mọi quyết sách. Điều này được thể hiện qua Hiến pháp 2013 và các nghị quyết lOMoAR cPSD| 61601299
như Nghị quyết 10-NQ/TW về kinh tế tư nhân hay Nghị quyết 36-NQ/TW về kinh tế số.
Đồng thời, Đảng chú trọng giải quyết tốt quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp xã
hội, bảo đảm sự hài hòa lợi ích trong quá trình phát triển. Trong giai đoạn phục hồi sau
COVID-19, Nhà nước đã triển khai Gói hỗ trợ 350.000 tỷ đồng, giảm thuế, miễn phí công
đoàn, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và hộ kinh doanh cá thể. Những chính sách này cho thấy
rõ sự thực hiện nguyên tắc hài hòa lợi ích trong điều kiện mới.
Tiếp theo, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa
và đoàn kết để tạo sức mạnh dân tộc. Đảng vận dụng điều này bằng việc xây dựng khối
đại đoàn kết trên nền tảng liên minh công – nông – trí thức, được cụ thể hóa qua các nghị
quyết về công nhân, nông nghiệp – nông dân – nông thôn và trí thức, được thể chế hóa
bằng Nghị quyết 20-NQ/TW về xây dựng giai cấp công nhân, Nghị quyết 26-NQ/TW về
tam nông, hay Nghị quyết 27-NQ/TW về đội ngũ trí thức, đồng thời tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước về công tác đại đoàn kết dân tộc. Truyền thống
nhân nghĩa còn thể hiện qua các phong trào xã hội, như khi bão lũ miền Trung năm 2020,
nhân dân cả nước cùng quyên góp, tình nguyện cứu trợ và doanh nghiệp ủng hộ lớn, dưới
sự điều phối của Mặt trận Tổ quốc. Những hoạt động này cũng góp phần đấu tranh làm
thất bại các quan điểm chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố sự thống nhất trong xã hội.
Không chỉ vậy, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải có lòng khoan dung, độ lượng, cảm
hóa và tạo điều kiện cho mọi người, dù từng lầm lỗi, đều có cơ hội đóng góp. Đảng ta vận
dụng sâu sắc điều kiện này khi ban hành Nghị quyết 24-NQ/TW về công tác dân tộc, Nghị
quyết 25-NQ/TW về công tác tôn giáo, và thực hiện chính sách đại đoàn kết không phân
biệt dân tộc, tín ngưỡng, quan điểm. Tinh thần bao dung này thể hiện rõ trong thực tiễn:
từ chính sách đặc xá hằng năm và các mô hình hỗ trợ tái hòa nhập giúp người lầm lỗi trở
lại cuộc sống bình thường, đến Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển vùng dân tộc
thiểu số – miền núi 2021–2030 với nguồn đầu tư lớn nhằm giảm nghèo, phát triển giáo
dục và bảo tồn văn hóa. Qua đó, Đảng và Nhà nước không ngừng tăng cường quan hệ
mật thiết giữa Đảng – Nhà nước với nhân dân, chăm lo cho những nhóm yếu thế, góp
phần củng cố lòng tin của nhân dân đối với chế độ.
Điều kiện quan trọng nhất là phải đặt niềm tin vào nhân dân, bởi theo Hồ Chí Minh,
“Dân là gốc”, quyết định mọi thắng lợi. Đảng luôn kiên định điều này qua việc hoàn thiện
pháp luật để nhân dân thật sự làm chủ, như Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở 2022, đồng
thời tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
mở rộng dân chủ gắn với kỷ cương. Song song đó, Đảng nhấn mạnh kết hợp đại đoàn kết
dân tộc với đoàn kết quốc tế, mở rộng hội nhập thông qua các hiệp định như CPTPP,
EVFTA, RCEP. Thực tiễn cho thấy trong đại dịch COVID-19, nhân dân đồng lòng chống
dịch, còn quốc tế hỗ trợ vaccine qua COVAX. Thành công kiểm soát dịch thể hiện sức
mạnh “ý Đảng – lòng dân”, đồng thời chứng minh tính đúng đắn khi Đảng kiên trì đấu
tranh chống mọi âm mưu chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, qua đó vận
dụng trọn vẹn điều kiện thứ tư mà Hồ Chí Minh nêu ra. Câu 2:
Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận định Tư tưởng Hồ Chí Minh là
"... nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là lOMoAR cPSD| 61601299
tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta." (Đảng Cộng sản Việt Nam.2019. Văn
kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, phần II (Đại hội X, XI, XII), Nxb. Chính trị quốc gia
- Sự thật, Hà nội, tr.10).
Theo Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm
2011): “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
của chủ nghĩa Mác- Lê nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá
trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh
thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp,
cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.”
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã mang lại những giá trị tốt đẹp đối với cách mạng Việt Nam, cụ thể như sau:
Đầu tiên là tư tưởng Hồ Chí Minh đưa cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam
đến thắng lợi và bắt đầu xây dựng một xã hội mới trên đất nước ta. Thứ nhất, Hồ Chí
Minh đã lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách thống trị thực dân,
để quốc. Hồ Chí Minh tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, sáng lập và rèn luyện Đảng
Cộng sản Việt Nam thành một đảng cách mạng chân chính, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân
dân. Dưới sự lãnh đạo của Người và của Đảng, cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945
đã thành công, lật đổ ách thống trị hơn 80 năm của thực dân – phát xít, khai sinh nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Không chỉ lãnh đạo Tổng khởi nghĩa, Hồ Chí Minh còn cùng với Đảng ta chỉ đạo
thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa
xã hội, đồng thời lãnh đạo nhân dân miền Nam thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân. Thành quả là sau năm 1975, đất nước thống nhất, toàn dân tộc đi lên con đường xã
hội chủ nghĩa. Những thắng lợi ấy chính là kết quả của tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền
với sự lãnh đạo của Người và của Đảng, biến tư tưởng ấy thành hiện thực trong đời sống
cách mạng. Thứ hai, Tư tưởng của Người định hướng phát triển xã hội đưa tiền sự kết
hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin và thực nên cách mang Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh
là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với điều
kiện lịch sử và đặc điểm văn hóa – xã hội Việt Nam. Người xác định cách mạng Việt Nam
phải trải qua hai giai đoạn: giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội; trong đó độc
lập dân tộc là cơ sở để xây dựng một xã hội mới. Tư tưởng ấy được hiện thực hóa qua
Tổng tuyển cử năm 1946 và bản Hiến pháp 1946 – nền tảng cho Nhà nước “của dân, do
dân và vì dân”. Tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành ngọn cờ tư tưởng dẫn đường, đưa cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác; đồng thời chính thực tiễn thắng
lợi của cách mạng cũng chứng minh tính đúng đắn, khoa học và sáng tạo của tư tưởng ấy.
Đây là một hệ thống quan điểm lý luận toàn diện về chiến lược, sách lược cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa; về việc cải tạo xã hội cũ – xây dựng
xã hội mới trên chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; về xây dựng Đảng cầm quyền trong
sạch vững mạnh, xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân; xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất và khối đại đoàn kết gắn với đoàn kết quốc tế.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống mở, giàu sức sống, luôn được Đảng tiếp tục vận
dụng, phát triển trong sự nghiệp đổi mới hiện nay và tương lai. Thứ 3, qua đó, tạo nên
tăng để xây dựng một xã hội mới, công bằng và tiến bộ trên đất nước Việt Nam. từ đường lOMoAR cPSD| 61601299
lối cách mạng do Hồ Chí Minh xác định, nền tảng cho việc xây dựng một xã hội mới –
công bằng, dân chủ và tiến bộ – từng bước được hình thành. Các chủ trương như giảm tô
giảm tức, cải cách ruộng đất đã góp phần xóa bỏ chế độ bóc lột phong kiến, thực hiện
khát vọng “người cày có ruộng”. Phong trào Bình dân học vụ đem lại ánh sáng tri thức
cho hàng triệu người, nâng cao dân trí – một điều kiện thiết yếu của xã hội mới. Đồng
thời, Người kêu gọi xây dựng “đời sống mới”, hun đúc các giá trị đạo đức, văn minh,
đoàn kết, nhân ái. Những chủ trương ấy đặt nền móng cho sự phát triển bền vững của đất
nước Việt Nam hiện đại, phản ánh sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng xã hội mới.
Kế tiếp là tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho cách mạng Việt
Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, một hệ tư tưởng có khả năng định
hướng, soi đường và chỉ đạo sự phát triển của dân tộc lại do chính người Việt Nam tạo ra.
Trong suốt tiến trình cách mạng, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là ánh sáng dẫn đường cho
Đảng và nhân dân ta. Thứ nhất, Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng và nhân dân
trong công cuộc dâu tranh và xây dựng đất nuớc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ, đường lối “toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến” Người đề ra đã
trở thành kim chỉ nam giúp dân tộc giành thắng lợi, mở ra kỷ nguyên độc lập và thống
nhất. Trong hòa bình, tư tưởng “lấy dân làm gốc” cùng với mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” tiếp tục định hướng cho công cuộc đổi mới từ 1986
đến nay, mang lại nhiều thành tựu to lớn về kinh tế – xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh không
chỉ soi đường cho quá khứ mà còn tiếp tục soi đường cho Đảng và nhân dân ta trong quá
trình xây dựng và phát triển đất nước hiện nay. Ví dụ: Trong giai đoạn đổi mới, tư tưởng
đề cao vai trò nhân dân, xây dựng nhà nước của dân – do dân – vì dân đã giúp Việt Nam
thực hiện thành công nhiều cải cách, trở thành một quốc gia có tốc độ phát triển ổn định
trong khu vực. Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cơ dẫn đặt cách mạng giúp nhân
thức đúng đắn về ý nghĩa độc lập dân tộc và phát triển xã hội. Người khẳng định “Độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”, nhấn mạnh rằng độc lập phải đi đôi với xây
dựng một xã hội công bằng, nhân văn. Đây cũng là cơ sở lý luận giúp Đảng ta nhận thức
đúng những vấn đề lớn của thời đại hiện nay: bảo vệ độc lập dân tộc, phát triển kinh tế –
xã hội, chăm lo tự do và hạnh phúc của con người, hướng tới xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tất cả những quan điểm và phương pháp cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh đều
nhằm mục tiêu: độc lập – thống nhất cho Tổ quốc; tự do – dân chủ – công bằng – hạnh
phúc cho nhân dân; hòa bình – hữu nghị cho các dân tộc. Ví dụ: Sau năm 1945, Người
phát động phong trào Bình dân học vụ, tổ chức Tổng tuyển cử và xây dựng Nhà nước dân
chủ đầu tiên ở Đông Nam Á, cho thấy cách Người gắn kết độc lập dân tộc với phát triển
xã hội và nâng cao dân trí. Thứ ba, tư tương của Người như sợi chỉ đỏ xuyên suốt, dẫn
đất dân tộc Việt Nam đi tới những thắng lợi vẻ vang. Trong kháng chiến chống Mỹ, tư
tưởng “không có gì quý hơn độc lập, tự do” trở thành lời hiệu triệu thiêng liêng, góp phần
tạo nên Đại thắng mùa Xuân 1975. Trong giai đoạn hội nhập hiện nay, tư tưởng phát huy
sức mạnh đoàn kết, dựa vào nội lực dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại giúp Việt Nam
vượt qua nhiều khó khăn, nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Tư tưởng Hồ Chí Minh là
chỗ dựa vững chắc để Đảng ta vạch ra đường lối đúng đắn, là nền tảng để toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân tiến tới những thắng lợi mới. Ví dụ: Việt Nam đã thành công trong công
cuộc xóa đói giảm nghèo, mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế… nhờ vận
dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đất nước. Cuối cùng, tư tưởng Hồ Chí
Minh không chỉ là di sản tinh thần vô giá mà còn là hệ tư tưởng trường tồn, bất diệt, tiếp lOMoAR cPSD| 61601299
tục được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng và phát triển trong công cuộc đổi mới và
xây dựng đất nước hiện nay, hướng đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập hiện nay, Đảng và Nhà nước tiếp tục vận dụng
sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trên nhiều lĩnh vực:
1. Trên phương diện chính trị
Tư tưởng “lấy dân làm gốc”, “dân là chủ, dân làm chủ” được thể chế hóa qua Hiến pháp
2013 và các đạo luật quan trọng như Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở (2022), bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân trong mọi hoạt động của đời sống xã hội. Đảng tiếp tục kiên
trì xây dựng, chỉnh đốn theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 các khóa XI, XII, XIII
gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Kết luận
01-KL/TW, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và củng cố niềm tin của nhân dân. Đồng
thời, Đảng kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng theo
Nghị quyết 35-NQ/TW.
2. Trên lĩnh vực kinh tế
Vận dụng tư tưởng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Việt Nam kiên định
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khuyến khích mọi thành
phần kinh tế theo tinh thần Nghị quyết 10-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân và Nghị
quyết 29-NQ/TW về công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Các gói an sinh như Chương trình
phục hồi kinh tế – xã hội 350.000 tỷ đồng giúp ổn định đời sống nhân dân sau đại dịch.
Song song với đó, Việt Nam chủ động hội nhập sâu rộng thông qua các FTA thế hệ mới
(CPTPP, EVFTA, RCEP), đúng với tư tưởng Hồ Chí Minh về mở rộng quan hệ quốc tế
và tranh thủ nguồn lực toàn cầu.
3. Trên lĩnh vực văn hóa
Tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh về “văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, Đảng triển khai
Nghị quyết 33-NQ/TW (2014) nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc. Các phong trào như Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa,
xây dựng nông thôn mới – đô thị văn minh tiếp tục bồi dưỡng nhân cách, lối sống, tăng
cường gắn kết cộng đồng và gìn giữ giá trị văn hóa truyền thống – những yếu tố cốt lõi
trong tư tưởng đại đoàn kết của Người.
4. Trên lĩnh vực xã hội
Các chính sách dân tộc, tôn giáo được triển khai theo tinh thần khoan dung, nhân ái của
Hồ Chí Minh. Nổi bật là Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển vùng dân tộc
thiểu số – miền núi giai đoạn 2021–2030, cùng các nghị quyết về công tác dân tộc
(24NQ/TW) và tôn giáo (25-NQ/TW). Nhà nước đẩy mạnh an sinh xã hội, đặc xá, hỗ trợ
tái hòa nhập cộng đồng, chăm lo nhóm yếu thế, thể hiện quan điểm “ai cũng có cơm ăn
áo mặc, ai cũng được học hành”. lOMoAR cPSD| 61601299
5. Về đoàn kết quốc tế
Tư tưởng “thêm bạn, bớt thù” và kết hợp sức mạnh dân tộc – sức mạnh thời đại được vận
dụng linh hoạt trong đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ. Việt Nam mở rộng quan hệ, đa
phương hóa, đa dạng hóa theo tinh thần Đại hội XIII; tích cực tham gia các cơ chế quốc
tế, gìn giữ hòa bình LHQ, đóng góp vào giải quyết vấn đề toàn cầu. Trong đại dịch
COVID-19, tinh thần đoàn kết quốc tế thể hiện qua sự hỗ trợ vaccine từ các đối tác quốc
tế, đồng thời nhân dân trong nước đồng lòng cùng Nhà nước vượt qua khó khăn.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục giữ vai trò nền tảng trong mọi đường lối phát
triển của Đảng và Nhà nước. Việc vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người trong các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại đã tạo nên sự đồng thuận xã hội, củng
cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thời nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc
tế, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. lOMoAR cPSD| 61601299
Trong điều kiện hiện nay, việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng có ý nghĩa
đặc biệt khi đất nước đứng trước cả thời cơ và thách thức mới của hội nhập quốc tế. Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp
nhằm củng cố khối đại đoàn kết – nền tảng sức mạnh để phát triển bền vững.
Trước hết, đại đoàn kết phải dựa trên lợi ích chung của quốc gia – dân tộc, đồng thời
tôn trọng lợi ích riêng chính đáng của từng nhóm xã hội. Quan điểm này được thể chế hóa
trong nhiều chủ trương lớn của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 07-NQ/TW về tăng
cường và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới. Nghị
quyết nhấn mạnh yêu cầu hài hòa lợi ích, đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết, đồng
thời quan tâm lợi ích của từng giai tầng trước bối cảnh phát triển kinh tế số, kinh tế xanh
và hội nhập sâu rộng. Trong phục hồi sau COVID-19, Nhà nước đã ban hành gói hỗ trợ
350.000 tỷ đồng, giảm thuế, trợ lực doanh nghiệp nhỏ và hộ kinh doanh – thể hiện rõ việc
đảm bảo hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động trong giai đoạn khó khăn.
Tiếp theo, Hồ Chí Minh yêu cầu dựa trên truyền thống yêu nước, nhân nghĩa và tinh
thần tương thân tương ái để xây dựng sức mạnh đoàn kết. Đảng vận dụng tinh thần này
thông qua việc củng cố liên minh công – nông – trí thức, cụ thể trong Nghị quyết 20-
NQ/TW về công nhân, Nghị quyết 26-NQ/TW về tam nông và Nghị quyết 27-NQ/TW về
trí thức. Truyền thống nhân nghĩa ấy tiếp tục phát huy mạnh mẽ trong những năm gần
đây: khi miền Trung chịu thiên tai năm 2020 hay khi đại dịch COVID19 bùng phát, nhân
dân cả nước đồng lòng ủng hộ từ lương thực, thiết bị y tế đến kinh phí; các tổ chức xã hội
và doanh nghiệp tham gia hỗ trợ dưới sự điều phối của Mặt trận Tổ quốc. Đây là minh
chứng rõ ràng cho yêu cầu “khơi dậy sức mạnh cộng đồng” mà Nghị quyết số 07 đặt ra
trong bối cảnh xã hội có nhiều biến đổi.
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải có lòng khoan dung, độ lượng, tạo cơ hội
cho mọi người, kể cả người từng lầm lỗi, được đóng góp cho xã hội. Điều này được thể
hiện trong các chính sách đặc xá thường niên, hệ thống giáo dục – dạy nghề tái hòa nhập
cộng đồng, cũng như Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển vùng dân tộc thiểu số –
miền núi giai đoạn 2021–2030. Những chính sách này không chỉ hỗ trợ nhóm yếu thế mà
còn củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước – điều đặc biệt quan trọng khi
mạng xã hội đang là môi trường dễ bị lợi dụng để chia rẽ khối đại đoàn kết. Đây cũng
chính là tinh thần mà Nghị quyết số 07 yêu cầu: không để ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển.
Quan trọng nhất, Hồ Chí Minh khẳng định “Dân là gốc”, nhân dân quyết định mọi thành
công. Đảng hiện nay kiên định quan điểm đó bằng việc hoàn thiện cơ chế dân chủ, đặc
biệt là Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở 2022 – tăng quyền giám sát, quyền tham gia của
nhân dân vào quản lý xã hội. Đồng thời, Đảng nhấn mạnh phát huy đoàn kết dân tộc đi
liền với đoàn kết quốc tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, ký kết các hiệp định CPTPP,
EVFTA, RCEP để tạo động lực phát triển. Trong đại dịch COVID-19, bài học “ý Đảng –
lòng dân” được khẳng định khi toàn dân đồng lòng chống dịch, quốc tế hỗ trợ vaccine,
tạo nên sức mạnh tổng hợp vượt qua khó khăn. Điều này cũng phù hợp với yêu cầu của
Nghị quyết số 07, coi đoàn kết dân tộc gắn liền với sức mạnh thời đại trong bối cảnh biến động toàn cầu. lOMoAR cPSD| 61601299
Như vậy, trong bối cảnh mới với nhiều thách thức về kinh tế – xã hội, an ninh – quốc
phòng và không gian mạng, Đảng và Nhà nước đã vận dụng toàn diện tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết, gắn với định hướng của Nghị quyết số 07, qua đó củng cố niềm
tin của nhân dân, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.