lOMoARcPSD| 22014077
1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
PHÁT TRIỂN TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN
TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.
Năm 1858, thực dân Pháp đã nổ súng xâm lược nước ta, sau khi hoàn thành việc xâm lược thiết
lập bộ máy thống trị trên toàn bộ đất nước Việt Nam, thực dân Pháp tiến hành công cuộc khai thác,
chúng cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt, cho vay nặng lãi và mở rộng thị trường tiêu
thụ hàng hoá của chính quốc,đã đẩy nhân dân Việt Nam vào cảnh cùng cực. Chính quyền nhà
Nguyễn từng bước khuất phục trước cuộc xâm ợc của thực dân Pháp, lần lượt các bản hiệp
ước đầu hàng, thừa nhận nền bảo hộ của thực dân pháp trên toàn cõi Việt Nam. Mâu thuẫn giữa
nhân dân ta với giai cấp địa chủ, phong kiến và giữa nhân dân ta với đế quốc thực dân Pháp ngày
càng trở nên sâu sắc. Nhiều cuộc khởi nghĩa yêu nước đã diễn ra phát huy chủ nghĩa yêu nước và
giá trị truyền thống Việt Nam. Trong giai đoạn này, phong trào dân tộc dân chủ với nhiều tổ
chức yêu nước theo xu hướng mới ra đời. Cho đến cuối thế kỉ XIX, các cuộc khởi nghĩa vũ trang
dưới khẩu hiệu “Cần ơng” do các phu văn thân lãnh đạo cuối cùng ng thất bại. Htư tưởng
phong kiến đã tỏ ra lỗi thời trước các nhiệm vụ lịch sử.Các nhà nho học tiến bộ như Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh tổ chức và vận động cuộc đấu tranh yêu nước chống Pháp theo mục tiêu
phương pháp mới. Phan Bội Châu chủ trương tôn quân bạo động, lập Duy Tân Hội, tôn Kỳ
Ngoại Hầu Cường để m minh chủ. Trong tập "Tự Phán", ông nêu tôn chỉ của Hội như sau:
"Chuyên đánh đổ chính phủ Pháp, khôi phục Việt Nam, kiến thiết quân chủ lập hiến quốc". Phan
Bội Châu còn đề xướng phong trào Đông Du, vận động người trong nước xuất dương qua Trung
Hoa, Nhật Bản du học đthâu nhận kiến thức mới của nước ngoài về giúp nước nhà, đồng thời
mua khí của Nhật để tiếp tay cho các sở chống Pháp trong nước. Sự thất bại của Đông Du
do ngay từ đầu Phan Bội Châu đã sai lầm về đường lối đúng như nhận xét của Bác Hồ là: Cụ
Phan muốn dựa vào Nhật để đánh đuổi Pháp, như thế khác gì tiễn hổ cửa trước, rước beo cửa sau.
thực tế chỉ sau một thời gian ngắn, khi thực dân Pháp đánh hơi thấy nhận ra nh chất
nguy hiểm của phong trào y đã ngay lập tức đàm phán với Nhật để chính phủ Nhật trục xuất các
sinh viên Việt Nam về nước. Chủ trương bạo động là đúng, nhưng tư tưởng cầu viện là sai (không
thể dựa đế quốc đánh đế quốc được). Cần xây dựng thực lực trong c, trên sở đó tranh
thủ sự hỗ trợ quốc tế chân chính. Phan Châu Trinh: Đánh đổ phong kiến, thực hiện cải cách xã hội
“Khai thông dân trí, mở mang dân quyền”( Lập Hội buôn, mở trường Đông kinh nghĩa thục...).
Phan Châu Trinh: gương cao ngọn cờ dân chủ, cải cách xã hội, chủ trương cứu nước bằng phương
Pháp nâng cao dân trí, dân quyền. Vạch trần chế độ vua quan phong kiến thối nát, đòi Pháp sửa
đổi chính sách cai trị thuộc địa . Con đường cứu nước của Phan Chu Trinh chưa đúng đắn. Ông
không tán thành việc Phan Bội Châu dựa vào Nhật để chống Pháp, nhưng bản thân ông lại đi theo
đường lối dựa vào Pháp, yêu cầu Pháp tiến hành cải cách, thực hiện tự do dân chủ, lật đổ chế độ
phong kiến, làm cho dân giàu, nước mạnh, tiến lên giải phóng dân tộc-Đây một điều "không
lOMoARcPSD| 22014077
tưởng" thực tế đã chứng minh sách lược sai lầm. Ông không gặp thời. Lúc y Pháp rất
mạnh, ta không có gì để buộc Pháp phải thương lượng, thỏa hiệp với ta. Và mãi tới ngày 19 tháng
6 năm 1919, ông cùng với Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành soạn bản
"Yêu sách của nhân dân An Nam" gửi cho Hội nghị Versailles, ký tên chung là Nguyễn Ái Quốc,
làm nổ ra "quả bom chính trị" chấn động tại nước Pháp. Đó dấu ấn cuối cùng của Phan Châu
Trinh ở một phương diện nào đó. Còn khởi nghĩa của người anh hùng Hoàng Hoa Thám còn mang
nặng “cốt cách phong kiến” chưa phải lối thoát rõ ràng đúng đắn. Hàng loạt phong trào yêu nước
nổ ra song đều thất bại. Cuối thế kỷ XIX, đầu XX cách mạng nước ta bị khủng hoảng về đường
lối, tình hình đen tối như không có đường ra.Trong khi đó, lịch sử thế giới giai đoạn này cũng có
những biến chuyển to lớn, chủ nghĩa độc quyền xác lập vị trí trên toàn thế giới, chủ nghĩa đế quốc
trở thành kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa. Cao trào cách mạng thế giới với đỉnh cao là cách
mạng Tháng Mười Nga đã làm “thức tỉnh các dân tộc châu Á”.
Trên con đường cứu nước cứu dân, Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin con đường
mới của cách mạng Việt Nam. Người khẳng định: “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không
có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Đó là con đường “độc lập dân tộc gắn liền
với Chủ Nghĩa Xã Hội”. Độc lập dân tộc phải đi tới chủ nghĩa xã hội mới xóa bỏ tận gốc cơ sở áp
bức dân tộc áp bức giai cấp. Như vậy, Hồ Chí Minh, yêu nước truyền thống đã phát triển
thành yêu nước trên lập trường của giai cấp vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Con đường: “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” của Hồ Chí Minh khác bản với con
đường giải phóng dân tộc của những người đi trước như phong trào Cần Vương của Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái Học đều dựa trên hệ tưởng phong kiến hoặc sảnâ
(những hệ tưởng này đã lỗi thời, lạc hậu) không gắn với tiến bộ hội nên đã thất bại. Chủ
nghĩa bản do giai cấp tư bản lập nên, nhằm bảo vệ quyn lợi của giai cấp tư sản, bóc lột người
dân lao động. Chỉ có chủ nghĩa Mác-Lênin là mang tính nhân đạo triệt để, toàn diện, vì nó nói đến
giải phóng dân tộc, giai cấp, giải phóng con người khỏi vòng xiềng xích, đem lại tự do cho con
mỗi dân tộc.Con đường giải phóng dân tộc của Hồ CMinh phản ánh đúng yêu cầu tất yếu của
cách mạng và dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin, gắn liền với tiến bộ xã hội nên nó là con đường duy
nhất đúng đắn và tất yếu là giành được thắng lợi.
2. Mối quan hệ biện chứng của “độc lập dân tộc gắn liền
vớichủ nghĩa xã hội”.
a. Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội trở thành nội dung cốt lõi, luận điểm trung tâm xuyên
suốt toàn bộ tưởng Hồ Chí Minh. Tìm ra con đường ch mạng Độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa hội “con đường cách mạng vô sản”, Hồ Chí Minh cũng là người Việt Nam đầu tiên
nhận thức được vai trò lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam mà đội tiên phong của nó là Đảng
Cộng sản sức mạnh lãnh đạo đưa sự nghiệp cách mạng đó đến thành công. Con đường cách
mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tưởng cao đẹp nhất của thời đại nhằm giải
phóng dân tộc, hội và con người một cách triệt để. Con đường đó cực kỳ khó khăn, gian khổ,
phức tạp và lâu dài nhằm xây dựng một xã hội phồn vinh, có kcương, lối sống lành mạnh và văn
lOMoARcPSD| 22014077
hóa cao; quan hệ hữu nghị bình đẳng với các quốc gia dân tộc trên thế giới. Hồ Chí Minh
kết luân: nhân dân Việt Nam không thể cứu nước, giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng
dân chủ tư sản; độc lập dân tộc không thể gắn liền với con đường phát triển tư bản chủ nghĩa.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc một khát vọng mang tính phổ biến. bao hàm
một nội dung rất rộng: đó là độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, độc lập dân tộc gắn liền với thống
nhất Tổ quốc; gắn liền với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Từ khi Pháp xâm lược
Việt Nam, nền độc lập dân tộc bị mất, nhân dân bị đè nén, thống trị của ngoại bang. Xuất phát từ
hoàn cảnh Việt Nam một nước thuộc địa nửa phong kiến, Hồ Chí Minh thấy rõ mâu thuẫn chủ
yếu, nổi bật, cấp bách cần giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc
xâm lược cùng bọn tay sai bán nước, Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiệm vụ dân tộc, xác định mục
tiêu cốt yếu của cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta giành lại độc lập cho dân tộc, trong khi
không quên nhiệm vụ dân chủ nhân dân, song khi thực hiện nhiệm vụ này trước hết phải nhằm
phục vụ nhiệm vụ dân tộc. thể khẳng định rằng, Đảng Cộng sản lãnh đạo cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân là nhân tố quyết định nhất đảm bảo cho cách mạng tiến hành triệt để, phát triển
lên cách mạng chủ nghĩa xã hội; nhưng trước hết phải giành lại được độc lập dân tộc. Độc lập dân
tộc mục tiêu cốt yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đồng thời tiền đề tất yếu để
cuộc cách mạng này phát triển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
b. Chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát triển tất yếu của cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Chủ nghĩa hội phương hướng phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Phương hướng phát triển này không những làm cho cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
được tiến hành triệt để, thể hiện ở mục tiêu giành lại độc lập hoàn toàn, thực sự cho dân tộc,
còn đảm bảo cho nền độc lập dân tộc đó được giữ vữngngày càng củng cố thêm; có những điều
kiện, tiền đề để cách mạng phát triển lên giai đoạn hội chủ nghĩa; xây dựng cuộc sống ấm no,
hạnh phúc của nhân dân, làm cho độc lập dân tộc thực sự có ý nghĩa, có giá trị.
Theo Hồ Chí Minh: chủ nghĩa xã hội là một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân
chủ văn minh.
+ Về kinh tế: từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện
quản lý dân chủ và phân phối theo lao động, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân.
+ Về chính trị: xây dựng chế độ do nhân dân làm chủ dựa trên nền tảng liên minh giữa
công nhân, nông dân và trí thức, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân.
+ Về văn hóa xã hội: thực hiện một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại.
+ Về đối ngoại: thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, hợp tác và làm bạn với tất cả
các nước.
lOMoARcPSD| 22014077
3. Sự gắn hữu cơ giữa độc lập dân tộc chủ nghĩa hội
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
a. Độc lập n tộc điều kiện, tiền đề để xây dựng chủ nghĩa hội.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu lịch sử sự lựa chọn duy nhất đúng
Bác Hồ, Đảng ta, nhân dân ta đã lựa chọn. trải qua các thăng trầm của lịch sử, những biến động
của thời cuộc, những chao đảo ngả nghiêng của các quốc gia Đông Âu, tính đúng đắn của con
đường cách mạng mà Hồ Chí Minh tiếp nhận từ chủ nghĩa yêu nước chân chính với thế giới quan
cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin đã làm nên nền tảng tư tưởng của Đảng ta trong 70 năm đấu
tranh cách mạng đổi mới đất nước hôm nay. Vấn đề giải phóng dân tộc phải được giải quyết
bằng cách mạng vô sản gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. chỉ có chủ nghĩa xã hội mới
thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập dân tộc, mới có thể đem lại tự do hạnh phúc thực sự cho mọi
người, cho tất cả các dân tộc toàn thể loài người trên trái đất. Chỉ chủ nghĩa hội chủ
nghĩa cộng sản mới có thể xóa bỏ vĩnh viễn ách áp bức, bóc lột và thống trị của chủ nghĩa tư bản,
mới thực hiện sự giải phóng hoàn toàn và triệt để đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động
của tất cả cácn tộc trên thế giới ra khỏi bất công, tiến tới tự do, dân chủ công bằng và bình đẳng
cho con người loài người. Như vậy, mối quan hệ giữa độc lập dân tộc chủ nghĩa hội
mối quan hệ giữa hai giai đoạn, hai thời k của cùng một quá trình cách mạng và đồng thời cũng
là mối quan hệ giữa hai loại mục đích: mục đích trước mắt và mục đích lâu dài.
b. Chủ nghĩa xã hội là con đường bảo đảm vững chắc độc lập.
Chủ nghĩa xã hội không chỉ bảo vệ vững chắc thành quả của độc lập dân tộc, mà về cơ bản tạo nên
sự phát triển mới về chất của nó, hoàn toàn có cơ sở để nói rằng: độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội là chân lý không thể bác bỏ. Không có độc lập dân tộc không thể có chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc là tiền đề, là điều kiện tiên quyết và căn bản để xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội. Khôngchủ nghĩa xã hội không thể có độc lập dân tộc bền vững. Chủ nghĩa xã hội là sự bảo
đảm chắc chắn nhất, bền vững nhất cho nền độc lập dân tộc.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội được thể hiện trong thực tiễn cách mạng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội xuất hiện vào năm 1920,
khi Người gặp chủ nghĩa Mác-Lênin, được phát triển, thể hiện một cách cụ thể sinh động
trong thực tiễn cách mạng nước ta từ năm 1930.
* Thời kỳ 1930-1945:
tưởng y thhiện nét trong văn kiện do Hồ Chí Minh soạn thảo được Hội nghị hợp
Chánh cùng vắn tắt của Đảng xác định: làm tư sản dân quyn cách mạng và thổ địa cách mạng để
đi tới xã hội cộng sản. Chính nhờ đường lối đúng đắn và sáng tạo này, cách mạng Tháng Tám đã
thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ cộng hòa-nhà nước công nông đầu tiên ở Đông
Nam Á.
* Thời kỳ 1945-1954:
lOMoARcPSD| 22014077
tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội được thể hiện cụ thể
đường lối “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”. Giai đoạn y, cách mạng nước ta gặp muôn vàn khó
khăn, nhưng với tinh thần thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm lệ. Quân dân ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, càng
chứng tỏ đường lối đúng đắn của Đảng ta. * Thời kỳ 1954 -1969
Ở thời kỳ này độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện
qua chủ trương: một Đảng Cộng sản lãnh đạo thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược hai
miền: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam,
tiến tới thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một sáng tạo lý luận của
Hồ Chí Minh.
Ngày 2-9-1969, Hồ Chí Minh qua đời. Theo chỉ dẫn của Người, nhân dân ta đã đánh cho M cút,
đánh cho ngụy nhào. Với chiến dịch lịch sử mang tên Hồ Chí Minh, mục tiêu của thời kỳ y được
hoàn thành vào ngày 30-4-1975
5. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam
-Thứ nhất, trong suốt quá trình cách mạng, sự nh đạo của Đảng phải được giữ vững,
củngcố tăng cường. Xuất phát từ quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội một nhiệm vụ khó
khăn hơn đánh đổ đế quốc, phong kiến, Hồ Chí Minh khẳng định trong thời kỳ y dựng chủ nghĩa
xã hội Đảng phải mạnh hơn bao giờ hết.
-Thứ hai, khối đại đoàn kết toàn dân trên sở liên minh công -nông -trí thức dưới sự
lãnhđạo của Đảng phải được củng cố mở rộng. Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi Đảng, Nhà nước
mỗi người dân cần nêu cao trách nhiệm trong việc làm cho “rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa
kết trái và gốc rễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân,nó có một cái tương lai 'trường xuân
bất lão”.
-Thứ ba, sự ủng hộ giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hòa bình, dân chủ tiến bộ
trênthế giới được giữ vững và phát triển. Để làm được việc đó, ngay từ 1947, Hồ Chí Minh đã nêu
cao chủ trương: "Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai". Ba nhân
tố trên luôn được giữ vững tăng cường, tác động qua lại, liên quan chặt chẽ với nhau điều
kiện bảo đảm cho sự thắng lợi của mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí
Minh nhấn mạnh: "Đó là ba bài học lớn mà mỗi cán bộ và đảng viên cần ghi sâu vào lòng và phát
huy thêm mãi".
6. Ý nghĩa của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội
đối với Việt Nam hiện nay.
Chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh", nhân dân ấm no, hạnh phúc… Mục tiêu đó không phải chỉ vấn đề giai cấp mà
vừa giai cấp, lại vừa là dân tộc. Nó chứng tỏ ở Việt Nam chỉ Đảng Cộng sản và giai cấp công
nhân mới lực lượng đại biểu chân chính cho lợi ích của dân tộc, mới xây dựng được mặt trận
đại đoàn kết dân tộc để thực hiện được mục tiêu trên. Những lệch lạc về phía này hay phía khác
đều là trái với tư tưởng Hồ Chí Minh.Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp
lOMoARcPSD| 22014077
dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
là định hướng cho việc nhận thức và giải quyết các vấn đề của dân tộc và của thời đại hiện nay.
Trong nhiều văn kiện của Đảng ta, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn được
khẳng định một cách mạnh mẽ và dứt khoát. Tại Đại hội IX của Đảng, khi tổng kết những bài học
chủ yếu của 15 năm đổi mới, Báo cáo chính trị đã chỉ rõ bài học thứ nhất là: “Trong quá trình đổi
mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Sự lựa chọn của Đảng ta, của nhân dân ta là hoàn toàn chính xác. Độc
lập dân tộc chủ nghĩa hội, với Việt Nam không chỉ mục tiêu, nhu cầu, cương lĩnh
hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực, là niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam ta.
Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật mới; là cội
nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay mai sau. Thế kỷ XXI mở đầu thiên
niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến động, cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua
tranh gay gắt của cộng đồng quốc tế. thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, phải đối mặt với
xu thế toàn cầu hoá, thì hệ giá trị độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội hệ giá trị độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, trong ý thức và trong hành động vẫn là mục tiêu, lý tưởng, là quốc bảo phù hợp
với xu thế thời đại; sẽ đưa nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự
nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng chủ nghĩa xã hội bảo vệ
vững chắc Tổ Quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đưa
đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trước nguy “diễn biến hòa bình” trước việc một số thế lực lợi dụng vai trò giúp đỡ, viện trợ,
đặt nhân quyền cao hơn chủ quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, hiện nay, hơn
lúc nào hết, chúng ta cần quán triệt lời dạy của Hồ Chí Minh: mỗi một người phải nhớ rằng có độc
lập mới tự lập, tự cường mới tự do. Hồ Chí Minh khẳng định: “Cố nhiên sự giúp đỡ của các
nước bạn quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân
tộc không tự lực cánh sinh cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc
lập”. Vận dụng tư tưởng trên đây của Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế toàn cầu hóa và thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX viết:
“Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng hội chnghĩa, bảo vệ lợi ích
dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”
KẾT LUẬN
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội gắn liền với nhau là con đường tất yếu của dân tộc Việt Nam.
Khẳng định tính tất yếu của nó không nghĩa không cần đến điều kiện, không cần tạo ra những
điều kiện để tạo ra những điều tất yếu đó. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tất yếu
vì rằng, đó là quy luật phát triển của xã hội Việt Nam, sớm hay muộn rồi xã hội Việt Nam sẽ tiến
đến chủ nghĩa hội, không ai có thể ngăn cản nổi. Điều này không những đúng đối với Việt Nam
còn đúng với thế giới. Những khúc vận động quanh co của lịch sử, những thất bại điều
thường thấy trên đường đi tới đích. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tất yếu chỉ khi
nó gắn với các điều kiện bảo đảm đó nằm ngay trong yếu tố chủ quan của chính sự hoạt
động của hệ thống chính trị, trong đó quan trọng nhất là phụ thuộc vào chính yếu tố chủ quan của
lOMoARcPSD| 22014077
Đảng Cộng sản Việt Nam. Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, do đó, trở thành yếu tố then chốt
bảo đảm cho dân tộc Việt Nam phát triển đúng hướng, đúng quy luật, bảo đảm và giữ vững ngọn
cờ chiến lược độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội - Con đường
tất yếu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới
Giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, độc lập dân tộc bị xâm phạm,
trong tình hình đó, triều đình nhà Nguyễn trong thì sợ nhân dân, ngoài thì bạc nhược trước
kẻ thù, lúc đầu có chống cự yếu ớt, sau đã từng bước nhân nhượng cầu hoà, cuối cùng là
cam chịu đầu hàng để giữ lấy ngai vàng và lợi ích riêng của hoàng tộc. Năm 1883 và 1884,
triều đình nhà Nguyễn lần lượt ký các hàng ước với thực dân
Pháp, nước ta bị đặt dưới ách thống trị của chúng. Mặc dầu bị đặt vào tình thế phải chống
“cả triều lẫn Tây" nhưng nhân dân ta với tinh thần yêu nước nhiệt thành và chí căm thù giặc
sôi sục đã dấy lên phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm rộ và lan rộng trong cả
nước: từ Trương Định, Nguyễn Trung Trực… ở miền Nam; Trần Tấn, Đặng Như Mai,
Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng... ở miền Trung đến Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa
Thám, Nguyễn Quang Bích… ở miền Bắc. Nhưng các cuộc khởi nghĩa này đều bị thất bại vì
chưa có một đường lối kháng chiến đúng đắn; lãnh đạo khởi nghĩa là các sĩ phu văn thân với
ý thức hệ phong kiến mang nặng tư tưởng tôn quân.
Sang đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của nhân dân ta chuyển
sang xu hướng dân chủ tư sản. Tiêu biểu cho xu hướng này có các phong trào Đông Du,
Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân, Việt Nam Quang phục hội... Các phong trào này chưa lôi
cuốn được mọi tầng lớp nhân dân, tư tưởng dân chủ tư sản chưa có cơ sở xã hội vững chắc.
Do vậy phong trào chỉ rộ lên được một thời gian ngắn rồi lần lượt bị đàn áp và thất bại.
Khi phong trào chống sưu thuế ở Huế và các tỉnh miền Trung, trong đó có Hồ Chí Minh
tham gia bị đàn áp (1908) cũng là lúc các phong trào yêu nước chống Pháp ở thời điểm cực
kỳ khó khăn, bế tắc. Đứng trước cuộc khủng hoảng con đường cứu nước, Hồ Chí Minh xác
định: “Tôi muốn đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ
làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”.
Đầu tháng 6-1911, Hồ Chí Minh xuống làm phụ bếp trên chiếc tàu Pháp mang tên
Amiran Latusơ Tơrêvin của hãng Năm Sao đang cập bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn). Ngày
5/6/1911, con tàu rời Sài Gòn đi Pháp, Hồ Chí Minh bắt đầu một cuộc hành trình lịch sử - đi
tìm con đường cứu nước, con đường giải phóng.
Xuất phát từ lòng yêu nước ra đi tìm đường cứu nước, trải qua gần 10 năm đầy gian truân
và thử thách, Hồ Chí Minh đã đi khắp các châu lục khảo sát nhiều nước thuộc địa và các
nước tư bản phát triển Mỹ, Anh, Pháp... Người nhận rõ: chủ nghĩa đế quốc là một hệ thống
thế giới, chúng vừa tranh giành, xâu xé thuộc địa, vừa vào hùa với nhau để nô dịch các dân
tộc nhỏ yếu trong hệ thống thuộc địa của chúng. Mỗi thuộc địa là một mắt khâu của chủ
nghĩa đế quốc, do vậy cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của mỗi nước chỉ tiến hành riêng
rẽ thì không thể giành thắng lợi.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện sự nhất quán trong tư duy lý luận và
hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Từ khi trở thành người cộng sản cho đến khi trở
thành lãnh tụ, nguyên thủ quốc gia, mối quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh là gắn độc lập
lOMoARcPSD| 22014077
dân tộc với chủ nghĩa xã hội phù hợp với từng thời kỳ của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí
Minh chỉ rõ các bài viết của Người chỉ có một “đề tài” là: chống thực dân đế quốc, chống
phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện một cách tập trung những luận điểm
sáng tạo lớn về lý luận của Hồ Chí Minh. Những luận điểm đó có giá trị lâu dài chỉ đạo
đường lối cách mạng Việt Nam và đóng góp quan trọng vào việc phát triển lý luận về cách
mạng vô sản. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Trong khi giải quyết những vấn đề của
cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin
trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên
chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc”(2).
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự phản ánh chính xác mục đích, lý
tưởng, khát vọng và ham muốn tột bậc của danh nhân văn hoá Hồ Chí Minh: nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội phản ánh tính triệt để cách mạng của tư tưởng
Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó đặt vấn đề giải phóng con người, hạnh phúc của con người ở
mục tiêu cao nhất của sự nghiệp cách mạng.
3. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã
hội
Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân tộc dân chủ có hai
nhiệm vụ chiến lược cơ bản, trong đó giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ
dân chủ được rải ra thực hiện từng bước và phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì thế, ở
giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp
bách. Kết luận này được Hồ Chí Minh rút ra từ sự phân tích tình hình thực tế và những mâu
thuẫn khách quan tồn tại của xã hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến. Lịch sử phát triển
loài người chứng tỏ, độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến. Với dân tộc Việt
Nam, đó còn là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và giữ gìn bởi máu xương, sức lực của
biết bao thế hệ người Việt Nam.
Với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và dân chủ.
Đó là nền độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ độc lập giả hiệu, độc lập
8
nửa vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền với
thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn
với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân lao động.
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi đó là mục tiêu
cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành độc lập để đi tới
xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là
mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ, là mục tiêu trước hết của quá
trình cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đồng thời là điều kiện hàng đầu,
lOMoARcPSD| 22014077
quyết định để cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì những điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã
hội càng được tạo ra đầy đủ. Tính chất tạo tiền đề của cách mạng dân tộc dân chủ được
thể hiện:
- Về chính trị: xác định và xây dựng các yếu tố của hệ thống chính trị do giai
cấpcông nhân lãnh đạo.
- Về kinh tế: bước đầu xây dựng được các cơ sở kinh tế mang tính chất xã hội
chủnghĩa, từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
- Về văn hoá, xã hội, đời sống tinh thần: trong cách mạng dân tộc dân chủ, khối
quầnchúng công - nông - trí thức và các giai tầng xã hội khác đã có ý thức giác ngộ,
đoàn kết trong một mặt trận dân tộc thống nhất; những nhân tố mới của văn hoá, giáo
dục đã được hình thành dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Tóm lại, độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết
định con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời đại mới chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát triển tất
yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Điều này làm cho con đường cứu nước giải
phóng dân tộc của Hồ Chí Minh khác biệt về chất với con đường cứu nước những năm đầu
thế kỷ ở nước ta và nhiều nhân vật nổi tiếng trên thế giới.
Cách mạng Việt Nam thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Điều đó quyết định vai trò lãnh đạo
cách mạng tất yếu thuộc về giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản
Việt Nam. Lực lượng tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc là toàn dân Việt Nam u
nước mà nòng cốt là khối liên minh công - nông - trí thức. Những nhân tố này lại quy định
tính tất yếu dẫn đến phương hướng phát triển lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng giải phóng
dân tộc. Rõ ràng định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở Việt Nam được chi phối và chế định bởi các nhân tố bên trong của cuộc cách mạng
đó.
9
CHƯƠNG 5 TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN
DÂN TỘC
1.1. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết toàn dân tộc
Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc được hình thành từ
những cơ sở sau đây:
1.1.1. Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam. Trải
qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước gắn liền với ý thức cộng
đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc của dân tộc Việt Nam đã được hình thành củng
cố, tạo thành một truyền thống bền vững. Hồ Chí Minh cũng là một người con trong dân tộc Việt
Nam nên Người đã sớm hấp thụ và nhận thức được vai trò của truyền thống yêu nước -nhân nghĩa
lOMoARcPSD| 22014077
-đoàn kết của dân tộc. Người khẳng định: "Dân ta một lòng nồng nàn yêu nước. Đó một
truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi
nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn,
nhấn chìm tất cả bán nước cướp nước”. Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết,
cộng đồng của dân tộc Việt Nam là sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về đại đoàn kết dân tộc.
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin coi cách mạng sự nghiệp của quần chúng Theo
chủ nghĩa Mác – Lênin, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, dân chính là người tạo ra lịch sử
và liên minh công nông chính là cơ sở để y dựng lực lượng to lớn của cách mạng. Hồ Chí Minh
đến với chủ nghĩa Mác Lênin chủ nghĩa Mác Lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức
con đường tự giải phóng. chủ nghĩa Mác-Lênin không những đã chỉ ra vai trò của quần chúng nhân
dân trong lịch sử mà còn chỉ ra vị trí của khối liên minh công nông trong cách mạng vô sản. Đó
những quan điểm luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh sở khoa học trong sự đánh g
chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tưởng
tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới,
từ đó hình thành tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc.
1.1.3. Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào cách mạng
Việt Nam và thế giới
Trong những năm tháng ra đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn nghiên cứu,
tổng kết các kinh nghiệm của phong trào yêu nước Việt Nam phong trào cách mạng trên thế
giới, nhất phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa. Đặc biệt Bác Hồ
đã nghiên cứu những bài học kinh nghiệm của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga. Những bài
học về huy động, tập hợp lực lượng quần chúng ng nông đông đảo để giành và giữ chính quyền
cách mạng, để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa đã giúp Hồ Chí Minh thấy rõ tầm quan trọng của
việc đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng, trước hết là công nông.
Ngoài ra, đối với các phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, Người đặc biệt chú
ý đến Trung Quốc Ấn Độ, hai nước có thể đem lại cho Việt Nam nhiều bài học rất bổ ích về tập
hợp các lực lượng yêu nước tiến bộ để tiến hành cách mạng. Những kinh nghiệm rút ra từ thành
công hay thất bại của c phong trào dân tộc n chủ, nhất kinh nghiệm thắng lợi của Cách
mạng Tháng Mười Nga là cơ sở thực tiễn cần thiết cho việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
đại đoàn kết dân tộc.
1.2. Những quan điểm bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết dân tộc
1.2.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách mạng Với Chủ
tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta. Đoàn kết không
phải thủ đoạn chính trị nhất thời tưởng bản, nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách
mạng Việt Nam. Quan trọng hơn hết, đoàn kết quyết định thành công của cách mạng, vì đoàn kết
tạo nên sức mạnh, then chốt của thành công. Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi phải lực
lượng đủ mạnh, muốn lực lượng phải quy tụ cả dân tộc thành một khối thống nhất. Ngoài ra,
đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng. Bác luôn luôn nhắc nhở cán
bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm coi sức mạnh của cách mạng là sức mạnh của nhân dân:
"Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong". Đồng thời, Người cũng lưu
lOMoARcPSD| 22014077
ý rằng nhân dân thuộc nhiều lứa tuổi, nghề nghiệp, nhiều tầng lớp, giai cấp, nhiều dân tộc, tôn giáo
phải đoàn kết nhân dân vào trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Để làm được việc đó, Người yêu
cầu Đảng, Nhà nước phải có chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với các giai cấp, tầng lớp,
trên sở lấy lợi ích chung của Tổ quốc những quyền lợi bản của nhân dân lao động, làm
"mẫu số chung" cho sự đoàn kết.
1.2.2. Đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh xem dân là gốc, là lực lượng tự giải phóng nên Bác coi vấn đề đoàn kết dân
tộc, đoàn kết toàn dân để tạo ra sức mạnh là vấn đề cơ bản của cách mạng. Hồ Chí Minh còn cho
rằng, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu,
nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì, đại đoàn kết dân tộc chính là sự nghiệp của quần chúng,
do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành
sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho
con người.
1.2.3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “dân” chỉ mọi con dân đất Việt, con rồng cháu tiên, không phân biệt
dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người không tín ngưỡng, không phân biệt già trẻ, gái, trai,
giàu, nghèo. Nói đến đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa phải tập hợp mọi người dân vào một khối
trong cuộc đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nói rõ: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất
và độc lập tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng
phụng sự tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.
tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh có lập trường giai cấp rõ ràng, đó là đại đoàn kết toàn dân
với nòng cốt khối liên minh công -nông -trí thức do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Muốn xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc rộng lớn như vậy, thì phải xác định đâu nền tảng
của khối đại đoàn kết dân tộc những lực lượng nào tạo nên cái nền tảng đó. Người coi công
nông cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết
các tầng lớp nhân dân khác. "Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc công nông, cho
nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất"1. Về sau, Người nêu thêm:
lấy liên minh công -nông -lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân. Nền tảng
càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng được mở rộng, không e ngại bất
cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
1.2.4. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức là Mặt trận dân
tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là để tạo nên lực lượng cách mạng, để làm cách mạng xóa bỏ chế
độ cũ, xây dựng chế độ mới. Do đó, đại đoàn kết dân tộc không thể chỉ dừng lại ở quan niệm, ở
tưởng, những lời kêu gọi, phải trở thành một chiến lược cách mạng, trở thành khẩu hiệu hành
động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, thành lực lượng vật chất
có tổ chức và tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Tùy theo từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xây dựng được Mặt
trận dân tộc thống nhất cương lĩnh, điều lệ phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ,
từng giai đoạn cách mạng. Các tổ chức Mặt trận ở nước ta đều là tổ chức chính trị -xã hội rộng rãi,
tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức nhân yêu
nước ở trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự
do, hạnh phúc của nhân dân. Để Mặt trận dân tộc thống nhất trở thành một tổ chức cách mạng to
lớn, theo Hồ Chí Minh, nó cần được xây dựng theo những ngun tắc cơ bản sau: Thứ nhất, đoàn
kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên cơ sở yêu nước, thương dân, chống áp bức bóc
lOMoARcPSD| 22014077
lột, nghèo nàn lạc hậu. Hồ Chủ tịch cho rằng, Nước độc lập tự do mà dân không được hưởng hạnh
phúc, độc lập, tự do thì cũng nghĩa. Sự đoàn kết xuất phát từ việc lấy lợi ích tối cao của dân
tộc, lợi ích căn bản của nhân dân lao động làm mục tiêu phấn đấu. Thứ hai, đại đoàn kết dân tộc
phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nông lao động trí óc. Mở rộng Mặt trận dựa
trên sở của khối liên minh bản đó, góp phần làm cho Mặt trận quy tđược cả dân tộc, tập
hợp được toàn dân, kết thành một khối vững chắc.
Thứ ba, hoạt động của Mặt trận theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ. Khi có những lợi ích riêng
biệt không phù hợp, Mặt trận sẽ giải quyết bằng việc nêu cao lợi ích chung của dân tộc, bằng sự
vận động hiệp thương dân chủ, tạo ra nhận thức ngày càng đúng đắn hơn cho mỗi người, mỗi bộ
phận về mối quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, cùng nhau bàn bạc để đi đến nhất trí, loại
trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức.
Thứ tư, khối đoàn kết trong Mặt trận là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành; thân ái giúp
đỡ nhau cùng tiến bộ. Người thường xun căn dặn phải khắc phục tình trạng đoàn kết xuôi chiều,
phải nêu cao tinh thần tự phê bình phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt,
củng cố đoàn kết nội bộ. Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải
nhất trí.
Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là một thành viên của Mặt trận
dân tộc thống nhất, đồng thời là lực lượng lãnh đạo Mặt trận. Nhưng Người cho rằng, quyền lãnh
đạo Mặt trận không phải do Đảng tự phong cho mình, phải được nhân dân thừa nhận. Đảng
lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách Mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng
giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. Đảng phải dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục,
nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hóa, khơi gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, hết sức
tránh gò ép, quan liêu mệnh lệnh.
Sự đoàn kết trong Đảng sở vững chắc để xây dựng sự đoàn kết trong Mặt trận. Đảng đoàn
kết, dân tộc đoàn kết sgắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân sẽ tạo nên sức mạnh bên trong,
để dân tộc vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù, đi tới thắng lợi cuối cùng của cách
mạng.
CHƯƠNG 2. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. S vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
2.1.1. Các chính sách của Đảng đối với nhân dân cả nước nhằm phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
Đối với công nhân, Đảng ta quan tâm về giáo dục đào tạo, bồi dưỡng, phát triển công nhân cả về
số lượng chất lượn, nâng cao bản nh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề
nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động của công nhân; đảm bảo việc làm, nâng cao thu
nhập, chất lượng cuộc sống của công nhân; sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật về tiền
lương, bảo hiểm hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, để bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời
sống vật chất tinh thần của công nhân. n cạnh đó, Đảng ta cũng phát huy vai trò của các tổ
chức công đoàn trong việc đại diện, bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp của công đoàn viên, người
lao động.
lOMoARcPSD| 22014077
Đối với nông dân, Đảng cũng hỗ trợ, khuyến khích nông dân học nghề, chuyển dịch cấu lao
động, tiếp nhận ứng dụng tiến bộ khoa học -công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân
chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Đảm bảo cho việc nâng cao năng suất lao động và chất
lượng cung ứng các dịch vụ cơ bản như điện, nước sạch, y tế, giáo dục,… góp phần cải thiện đời
sống dân nông thôn. Đồng thời Đảng ta cũng thực hiện chính sách “xóa đói giảm nghèo”,
khuyến khích làm giàu hợp pháp cho nông dân.
Đối với đội ngũ trí thức, Đảng ta trọng dụng trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết
quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ tôn vinh xứng đáng những cống hiến của
trí thức. Có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất nước. Tôn trọng và phát huy tự
do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo.
Đối với đội ngũ doanh nhân, Đảng cũng phát huy tiềm năng và vai trò tích cực, sáng tạo của đội
ngũ doanh nhân. y dựng, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh cả vsố lượng và chất lượng,
trình độ quản lý, kinh doanh giỏi, có đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội cao. Đồng thời
Đảng ta còn có những chính sách bảo vệ quyền lợi của đội ngũ doanh nhân. Tôn vinh những doanh
nhân có nhiều đóng góp cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Đối với thế hệ trẻ, Đảng có tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho thế hệ trẻ học tập, nghiên cứu, lao
động, giải trí, phát triển trí tuệ, kỹ năng, thể lực. Khuyến khích, cổ vũ thanh niên nuôi dưỡng ước
mơ, hoài bão, xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học, công nghệ hiện đại. Đồng thời phát huy vai
trò của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thu hút rộng rãi thanh niên, thiếu
niên và nhi đồng tham gia các tổ chức do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh làm nòng cốt
và phụ trách.
Đối với phụ nữ, Đảng tạo điều kiện và hội để phụ nữ thực hiện tốt vai trò trách nhiệm của
mình trong gia đình và xã hội; đồng thời Đảng cũng tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển tài năng
của mình, thực hiện tốt tinh thần bình đẳng giới. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và
xử lý nghiêm minh theo pháp luật các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại nhân phẩm phụ nữ. Đối
với đội ngũ cựu chiến binh, Đảng và Nhà nước luôn có những chính sách tạo điều kiện, động viên
cựu chiến binh tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa; đồng thời, khuyến khích cựu chiến binh tham gia làm kinh tế, nâng cao đời sống cũng
như tích cực tham gia giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa anh hùng cách
mạng cho thế hệ trẻ.
Đối với người cao tuổi, Đảng ta cố gắng phát huy trí tuệ, kinh nghiệm sống, lao động, học tập của
người cao tuổi trong hội và gia đình. Tiếp tục xây dựng gia đình “ông bà, cha mẹ mẫu mực, con
cháu thảo hiền, vợ chồng hòa thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau”; giúp đỡ người cao
tuổi cô đơn không nơi nương tựa.
Đối với đồng bao dân tộc ít người, Đảng chủ trương nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, chất
lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, người tiêu biểu
có uy tín trong cộng đồng các dân tộc. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện
các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng Nhà nước ở các cấp. Chống kthị dân tộc, nghiêm
trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đối với đồng bào tôn giáo, Đảng luôn quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt
theo hiến chương, điều lcủa tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của
pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng bảo vệ đất nước. Đồng thời chủ động
phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá
hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp
luật.
lOMoARcPSD| 22014077
Đối với người Việt Nam ở nước ngoài, Nhà nước có nhiều chính sách hỗ trợ giúp đỡ những đồng
bào định cư ở nước ngoài ổn định cuộc sống, phát triển kinh tếgóp phần tăng cường hợp tác, hữu
nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước; được bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích
chính đáng; tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; chế,
chính sách thu hút đồng bào hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng và bảo vệ đất nước.
2.1.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, ủng hộ quốc tế trong công
cuộc đổi mới ngày nay
Ngày nay, trong bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi, thời cơ và thách thức đan xen lẫn nhau, vấn
đề đoàn kết đấu tranh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế những thuận lợi khó
khăn mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, phát huy sự ủng hộ quốc tế là cơ sở quan trọng để
Đảng Cộng sản Việt Nam hoạch định chủ trương, đường lối đối ngoại và giải quyết các vấn đề
quốc tế như sau:
Một là, vận dụng tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ, dựa vào sức mình chính làm nền
tảng để mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát triển bền vững và
không làm phương hại đến chủ quyền quốc gia, bản sắc văn hóa dân tộc. Việt Nam luôn mong
muốn cùng các nước xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, phát triển trên
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng lợi. Đồng thời, Việt Nam kiên định
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng a; bạn, đối tác tin
cậy của tất cả các quốc gia và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; không ngừng
nỗ lực làm sâu sắc thêm và xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, đối c hợp tác cùng có lợi với
các quốc gia.
Hai là, tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế sở luận quan trọng để Đảng Cộng sản
Việt Nam xác định đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế
trong bối cảnh mới. Có thể thấy rằng, qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc M,
đến giai đoạn đất nước bước vào công cuộc đổi mới, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và đoàn
kết quốc tế, ngoại giao Việt Nam đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn về vật chất tinh thần của
bạn quốc tế, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước phục vụ đắc lực vào cuộc
đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước.
Ba là, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế để tạo ra môi trường quốc tế hòa bình,
ổn định, hữu nghị với các nước láng giềng, các nước trong khu vực, các nước lớn để tập trung mọi
nguồn lực phát triển đất nước. Trong bối cảnh thế giới, khu vực và đất nước nhiều biến đổi, thời
cơ và thách thức đan xen lẫn nhau, để xây dựng một thế giới hòa bình, phát triển tốt đẹp, theo Hồ
Chí Minh các dân tộc cần xích lại gần nhau, thông qua tiếp xúc, trao đổi để hiểu biết nhau hơn, tin
cậy nhau, cùng nhau giải quyết các xung đột.
2.1.3. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc trong
công cuộc cùng nhân dân chung tay phòng, chống dch Covid-19
Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ngày nay, dù đất nước còn bộn bề khó khăn sau
chiến tranh nhưng tinh thần Việt Nam hơn lúc nào hết lại hừng hực những dòng máu nóng cuồn
cuộn chảy trong huyết quản của mỗi người dân với quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam “đàng
hoàng hơn to đẹp hơn” như Bác Hồ từng mong muốn.
Hơn một năm qua, kể từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát hồi đầu năm 2020, chưa bao giờ từ “Đoàn
kết” lại được nhắc đến nhiều như vậy và tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam một lần nữa thể
hiện sức mạnh, hiệu quả to lớn trong phòng, chống dịch. Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ, các
cấp, các ngành, các đoàn thể và toàn dân ta chung tay, góp sức đối phó với một thứ giặc mới đang
lOMoARcPSD| 22014077
hằng ngày, hằng giờ đe doạ đến sức khoẻ, tính mạng của người dân. Các tầng lớp nhân dân, nhân
dân lao động thể hiện tấm lòng yêu nước và tinh thần “tương thân tương ái” bằng việc thực hiện
bằng những hành động thiết thực hướng tới những nơi xuất hiện dịch bênh như các suất cơm miễn
phí, gửi những món quà ủng hộ tinh thần hay trao cho nhau những lời động viên, hy vọng một
ngày nào đó chúng ta sẽ đẩy lùi được dịch bệnh,… Không những thế, thật xúc động khi chúng ta
chứng kiến nhiều cụ bà tuổi cao, các mẹ liệt sĩ,… chống gậy mang tiền, quà ủng hộ những người
đang làm nhiệm vụ trên tuyến đầu chống dịch. Ngoài tấm lòng quyên góp tiền mặt, thực phẩm từ
nhân dân cho công tác chống dịch, các doanh nghiệp cũng đã đóng góp hàng trăm tỉ đồng góp sức
chống dịch.
Trên tuyến đầu hàng chục nghìn cán bộ, nhân viên y tế, các chiến quân đội không quản khó
khăn, nguy hiểm túc trực 24/7 tại vị trí phân công. Lực lượng công an tăng cường kiểm soát vùng
dịch, Hàng nghìn sinh viên các trường y tình nguyện tham gia chống dịch; hàng nghìn y sĩ, bác sĩ
đã nghỉ hưu đăng ký, sẵn sàng tham gia cùng đồng đội trên tuyến đầu chống dịch; hàng trăm khách
sạn, resort tự nguyện trở thành nơi cách ly... Và trong những ngày chống dịch căng thẳng, Tổ quốc
giang rộng vòng tay đón hàng vạn công dân từ nước ngoài trở về…
Có thể thấy, rất nhiều hoạt động của các cấp ủy Đảng, Chính quyền và nhân dân cả nước thực hiện
đều hướng tới mục tiêu cả nước ngăn chặn, tiêu diệt dịch bệnh. Thông qua đó càng thấy được
rằng, tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam không phải ngẫu nhiên mà được, tinh thần ấy
được hun đúc và rèn luyện trong suốt lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựngbảo vệ đất
nước của nhân dân ta mà người thắp nên ngọn lửa đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
2.2. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc của
sinh viên và ý nghĩa của việc vận dụng tư tưởng đó đối với sinh viên ngày
nay
2.2.1. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc của
sinh viên ngày nay
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, các thiết bị công nghệ không ngừng được cải tiến con người
chúng ta không thể tách biệt với chúng. Nhưng cho công nghệ phát triển đến đâu, cũng phải
cần yếu tố con người muốn công nghệ, thiết bị đó vận hành thì nhất định phải bàn tay con
người chạm vào. Trong công việc rất cần khả năng làm việc nhóm của tất cả thành viên trong tổ
chức đó về một dự án giúp cho công ty tạo doanh thu và phát triển n, đây cũng là lúc tinh thần
đoàn kết của mọi người trong nhóm được phát huy nhất. Trong học tập cũng vậy, tuy sẽ có người
không thích làm việc cùng nhau, những người luôn tự ti về điểm số nhưng hầu hết sinh viên
trong lớp đều thích giúp đỡ những bạn muốn cải thiện điểm số của mình hay chia sẻ cho nhau
những phần quà khi được lãnh thưởng từ nhà trường, cùng nhau học tập vượt qua những kỳ thi vô
cùng khó khăn.
Hơn hết, trong giai đoạn dịch bệnh diễn biến phức tạp hiện nay, không chỉ sinh viên còn hầu
hết các học sinh trên toàn quốc ai nấy đều chấp hành tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước để
cùng nhau chung tay chống lại dịch bệnh. Ngoài ra, các bạn sinh viên học sinh bên cạnh việc học
tại nhà, thể phụ giúp ba mẹ làm việc nhà,…; hỏi thăm người thân, bạn cùng xóm để nâng
cao tinh thần đoàn kết với nhau, chia sẻ tình yêu thương đến mọi người, giúp đỡ người khác,…
Thật sự khi nói đến sinh viên nói riêng và tuổi trẻ nói chung, bên trong họ đều luôn chan chứa lòng
lOMoARcPSD| 22014077
nhiệt huyết, tận tâm, trách nhiệm đối với công việc của họ; đồng thời góp phần cho hội thêm
tươi đẹp và chung tay phát triển đất nước.
2.2.2. Ý nghĩa của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đi đoàn kết toàn
dân tộc đối với sinh viên ngày nay
Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc đối với sinh viên vô cùng có ý
nghĩa. Tinh thần đoàn kết đã từ những năm ông cha ta dựng nước đến y giờ, hầu như tinh
thần đó đã thấm nhuần trong máu của mỗi con người sinh ra mang trong mình dòng máu của
dân tộc Việt Nam. Vai trò của tình đoàn kết vô cùng to lớn, nếu chúng ta không đoàn kết với nhau,
lẽ chúng ta chưa bao giờ được độc lập hưởng được tự do như hôm nay. Chính những sinh
viên, học sinh, những người ảnh hưởng rất lớn đến tương lai của đất nước cần được giáo dục
được truyển dạy những tấm gương sáng về tình đoàn kết dân tộc trong các cuộc kháng chiến. Tuy
ngày nay là thời bình, nhưng chỉ một chút sơ suất, chúng ta quên đi tình đoàn kết, các thế lực bên
ngoài slợi dụng điều đó tấn công chúng ta một lần nữa. vậy, ngày nay chúng ta phát huy
hơn nữa tinh thần đoàn kết của dân tộc, truyền bá tinh thần đó cho thế hệ tiếp theo, góp phần phát
triển đất nước.
KẾT LUẬN
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là sức mạnh, là cội nguồn của mọi thành công: “Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành công”. Đoàn kết chính là sợi chỉ đ
xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, một tinh thần tạo nên sức mạnh to lớn góp phần vào
nhiều thắng lợi vẻ vang giúp nước Việt Nam được giải phóng giành lại được độc lập tự do.
Công lao rất lớn thuộc về Bác, Bác đã thắp sáng chính lòng u nước, thương dân, tinh thần
đoàn kết giúp nhân dân, bất kể đó là ai, già, trẻ, lớn, bé cùng nhau đứng lên đồng lòng chống giặc
ngoại xâm. Tinh thần hào hùng y vẫn còn được lưu truyền mãi đến ngàn đời sau, qua nhiều thế
hệ, tinh thần đó càng trở nên vững chắc hơn, mạnh mẽ hơn. Trước những khó khăn, thử thách, tinh
thần “tương thân, tương ái”, hỗ trợ lẫn nhau của nhân dân Việt Nam khiến rất nhiều người xúc
động và đó cũng là tinh thần khiến cả dân tộc ta tự hào, bạn bè quốc tế ngưỡng mộ.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
a) Xác định đúng vị trí, vai tò của đạo đức đối với cá nhân.
Đạo đức, hiểu một cách tổng quát là toàn bộ những chuẩn mực, những
quy tắc, những quan niệm về các giá trị thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, danh
dự, hạnh phúc, công bằng…được xã hội thừa nhận, quy định hành vi,quan hệ
giữa con người với sự nghiệp, giữa con người với nhau và giữa con người với xã
hội. Xuất phát từ bản chất, con người luôn có khát vọng hướng đến chân, thiện,
mỹ nhằm hoàn thiện bản thân. Để vươn tới sự hoàn thiện, trước hết con người
lOMoARcPSD| 22014077
phải tự tu dưỡng hoàn thiện mình về đạo đức. Do vậy, đạo đức lầ yếu tố cơ bản
của nhân cách, tạo nên giá trị con người.
Hồ Chí Minh cho rằng, đối với các dân tộc phương Đông giàu tình cảm, trọng
đạo lý, việc tu dưỡng đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi con người có vai trò vô
cùng quan trọng. Riêng với thế hệ trẻ, việc tu dưỡng này còn quan trọng hơn, vì
họ là “người chủ tương lai của đất nước”; là cái cầu nối giữa các thế hệ - “người
tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già”, đồng thời là người phụ trách, dìu
dắt thế hệ thanh niên tương lai”. Chính vì vậy, việc giáo dục đạo đức và chăm lo
cho việc rèn luyện đạo đức của sinh viên đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan
tâm từ rất sớm. Nói chuyện với sinh vên, Người khẳng định: “Thanh niên phải
có đức, có tài. Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất
giỏi nhưng lại đi đến yhutj két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã
hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt
không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài người”.
Người còn chỉ rõ, việc thực hành tốt đạo đức cách mạng trong đời sống hằng
ngày của mỗi cá nhân không chỉ có tác dụng tôn vinh, nâng cao giá trị chính họ
mà còn tạo sức mạnh nội sinh, giúp họ vượt qua khó khăn, thử thách. Người
viết: “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng
không sợ sệt, rụt rè, lùi bước…khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ
vững ttinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “ lo trước thiên hạ, vui sau thiên
hạ”; lo hoàn thành nhiệm vụ vho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ;
không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”.
Nhấn mạnh vai trò của đao đức trong đời sống của mỗi cá nhân trong xã hội, Hồ
Chí Minh không phân biệt đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường, đạo đức
cán bộ và đạo đức công dân. Người chỉ rõ. Trong xã hội mỗi người có công việc,
tài năng và vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ
được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng.
b) Kiên trì tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh.
Cũng như với cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân khác, đối với tầng lớp
sinh viên, thanh niên tri thức, Hồ Chí Minh đã sớm xác định những phẩm chất
đạo đức tối cần thiết để họ có phương hướng phấn đấu rèn luyện. Trong bài nói
tại đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ hai(7-5-1958), những phẩm chất đó được
Người tóm tắt trong “sáu cái yêu:
Yêu Tổ quốc: Yêu như thế nào? Yêu là phải làm saocho tổ quốc ta giàu mạnh thì
phải ra sức lao động, ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm.
Yêu nhân dân: Mình phải hiểu rõ sinh hoạt của nhân dân, biết nhân còn cực khổ
như thế nào, biết chia sẽ những lo lắng, những buồn vui, những công tác nặng
nhọc với nhân dân.
Yêu chủ nghĩa xã hội: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ
nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một ấm
no thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm.
lOMoARcPSD| 22014077
Yêu lao động: Muốn thật thà yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội
thì phải yêu lao động vì không có lao động thì chỉ là nói suông.
Yêu khoa học và kỹ luật: Bởi vì tiến lên xã hội chủ nghĩa thì phải có khoa học và
kỹ thuật”.
Theo Người để có được những phẩm chất như vậy, sinh viên phải rèn luyện cho
mình những đức tính như: trung thành, tận tụy, thật thà và chính trực. Phải xác
định rõ nhiệm vụ của mình, “không phải nước nhà đã cho mình những gì. Mà
phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi
nước nhà nhiều hơn? Minh đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng
nào”. Trong học tập, rèn luyện, phải kết hợp lý luận với thực hành, học tập với
lao động; phải chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng háo
danh, hám lợi. “chống tâm lý ham sung sướng và tránh khó nhọc. Chống thói
xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay. Chống lười biếng, xa sĩ. Chống
cách sinh hoạt ủy mị. Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang”. Phải trả lời được
câu hỏi: Học để làm gì? Học để phục vụ ai? Phải xác định rõ thế nào là tốt, thế
nào là xấu?ai là bạn, ai là thù?... Người chỉ rõ: “ ai làm gì lợi ích cho nhân dân,
cho Tổ quốc ta đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc
ta đều là thù. Đối với mình, những tư tưởng và hành động có lợi ích cho Tổ quốc
và đồng bào là kẻ thù… Điều gì phải thì phải cố làm cho kỳ được, dù là việc
nhỏ. Điều gì trái, thì hết sức tránh, dù là một điều trái nhỏ”.
2. Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
a) Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên hiện nay.
Hiện nay, trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, trước xu thế toàn cầu hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế, thế hệ trẻ Việt Nam luôn kiên định lý tưởng xã hội
chủ nghĩa mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công vun trồng. Họ đã và
đang chứng tỏ bản lĩnh, sức trẻ, sự sáng tạo và tinh thần dám nghĩ, dám làm của
mình. Họ đang ra sức tu dưỡng, học tập và rèn luyện về mọi phương diện, tích
cực lao động sản xuất, tiến vào khoa học - công nghệ, để cùng với toàn Đảng,
toàn dân thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
nhằm xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Rất nhiều phong trào thi đua, như Thanh niên tình nguyện,
Thanh niên lập nghiệp, Tuổi trẻ học đường,... được đông đảo đoàn viên, thanh
niên, sinh viên và học sinh hưởng ứng, thực hiện. Đảng, Nhà nước và xã hội đã
có nhiều hình thức ghi nhận và tôn vinh những thanh niên, sinh viên và học sinh
tiêu biểu, xuất sắc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước. Có thể nói, thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay vẫn xứng
đáng với niềm tin yêu, sự khen ngợi và k vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
'Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong,
không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức
cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ
nghĩa vừa 'hồng' vừa 'chuyên''(11).
lOMoARcPSD| 22014077
Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, do ảnh hưởng từ những mặt trái của nền kinh tế
thị trường cũng như của xu thế toàn cầu hóa, và đặc biệt, do không nghiêm túc
trong rèn luyện, phấn đấu, một bộ phận thanh, thiếu niên ở nước ta đang có
những biểu hiện tiêu cực đáng lo ngại, như phai nhạt lý tưởng, chạy theo lối
sống buông thả, lười học tập và tu dưỡng đạo đức, thích hưởng thụ, ngại lao
động, chuộng những sinh hoạt thiếu lành mạnh hoặc phản văn hóa, nghiện ngập,
thậm chí vi phạm pháp luật... Những hiện tượng đó, trước hết là nguy cơ đe dọa
tương lai của chính bản thân họ, đồng thời cản trở sự phát triển theo hướng lành
mạnh, tiến bộ và văn minh của xã hội ta hiện nay. Mặt khác, cũng cần nói rằng,
các thế lực thù địch đang 'chờ đợi' và sẽ ra sức khai thác, lợi dụng những hiện
tượng đó để tiến hành chiến lược 'diễn biến hòa bình' hòng chống phá và ngăn
chặn sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, hơn bao giờ hết, toàn Đảng
và toàn dân ta càng phải chăm lo giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ; coi đó là một
trong những nhiệm vụ hàng đầu, bởi nó liên quan trực tiếp đến tương lai của đất
nước. Đó cũng là một biểu hiện, một nội dung quan trọng của chiến lược 'lấy
dân làm gốc'. Có thể khẳng định, cùng với những biện pháp tích cực và đồng bộ
khác, cuộc vận động 'Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh'
Đảng ta vừa phát động chính là một cơ hội tốt cho thế hệ trẻ rèn luyện, phấn đấu
vươn lên.
b) Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà đạo đức học lỗi lạc mà còn là một
tấm gương đạo đức vô song. Chính điều này đã đem lại cho tư tưởng và tấm
gương đạo đức của Người có một sức mạnh mãnh liệt và sự cổ vũ lớn lao không
chỉ với nhân dân Việt Nam mà còn cả với nhân dân thế giới trong cuộc đấu tranh
vì dân chủ và tiến bộ xã hội. Để trở thành người có ích cho xã hội, người chủ
tương lai của nước nhà, thế hệ trẻ của Việt Nam nói chung và thanh niên, sinh
viên trí thức nói riêng cần phải học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh. Dưới đây là một số nội dung cơ bản:
Một là, học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải
phong dân tộc, giải phóng giai cấp va giải phóng con người.
Hai là, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếpsống
giản dị và đức tính khiêm tốn phi thường.
Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân
Và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và
nhân hậu với con người.
Trong tình hình hiện nay, để phong trào học tập và làm thao tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh của sinh viên có hiệu quả, đòi hỏi phải có sự phối kết hợp của
nhiều nhân tố: sự giáo dục và việc tự tu dưỡng, rèn luyện của sinh viên; sự nêu
gương của mọi người trong xã hội, của bố mẹ trong gia đình, của cán bộ, đảng
viên, của các thầy, cô giáo, các cán bộ quản lý giáo dục và sự hướng dẫn của dư
luận xã hội và pháp luật. Nếu coi thường một trong những nhân tố trên, việc học
tập và rèn luyện sẽ khó đạt được kết quả như mong muốn.
lOMoARcPSD| 22014077
3. Liên hệ bản thân
Trước hết, đạo đức buộc tôi phải nhìn lại bản thân mình, tìm hiểu bản thân
mình và biết được điều gì thật sự làm cho tôi hạnh phúc. Vấn đề đạo đức đầu
tiên đối với tôi là khám phá chính mình. Nếu tôi tiến hành công việc này một
cách trung thực và dũng cảm, tôi sẽ khám phá ra những thứ mà tôi không thể
ngờ được rằng chúng đang hiện hữu trong tôi, những thứ vốn được che đậy ở
bên trong. Tôi đã từng nghe các nhà khoa học nói là tôi chỉ mới sử dụng 5%
năng lực của mình trong cuộc sống hằng ngày, 95% còn lại tôi chưa bao giờ sử
dụng đến vì tôi chưa bao giờ phát hiện ra chúng. Thật là uổng phí! Và đối với
những người khác, điều này cũng xảy ra tương tự. Quá ư là uổng phí! Vì thế,
việc khám phá những tiềm năng của bản thân trở thành nhiệm vụ hàng đầu đối
với tôi. Tôi là một người thiếu đạo đức nếu tôi chỉ dùng 5% năng lực của mình.
Từ việc nghiên cứu đề tài này tôi đã tìm ra cho mình một phương hướng phấn
đấu để khẳng định mình và hoàn thiện bản thân mình. để đáp ứng những yêu
cầu của công cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một là, bồi
dưỡng đạo đức cách mạng: Đạo đức cách mạng là đạo đức mới, là phẩm chất
không thể thiếu và là cái gốc của con người xã hội chủ nghĩa. Bởi, 'Cũng như
sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc,
không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức
thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân'. Lĩnh hội các đức tính:
cần, kiệm, liêm, chính. Những phẩm chất này giống như bốn mùa của trời đất;
nếu thiếu một trong bốn phẩm chất đó thì con người không thể trở thành người
theo đúng nghĩa. Nhưng, đạo đức cách mạng không phải là cái có sẵn, không
phải từ trên trời rơi xuống, mà là kết quả của sự đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng
ngày của mỗi người. Đối với thế hệ trẻ, phải luôn nỗ lực rèn uyện đạo đức cách
mạng: thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; sống trong sạch, có chí
tiến thủ và đoàn kết, không kiêu ngạo; tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân; phê phán những thói hư, tật xấu; thường xuyên tiến hành phê bình và tự
phê bình... để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Hai là, bồi dưỡng tri thức lý luận và văn hóa, khoa học - k thuật: Theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh, thanh niên phải vừa có đức, vừa có tài. Bởi vì, người có đức mà
không có tài thì làm việc gì cũng khó; người có tài mà không có đức sẽ trở nên
vô dụng. Hơn nữa, chính sự dốt nát là một trong những nguyên nhân cơ bản kìm
hãm sự phát triển: 'Dốt thì dại, dại thì hèn'(8). Vì vậy, để trở thành người có trí
tuệ, có tri thức, tức là có tài, bên cạnh việc trau dồi đạo đức cách mạng, thanh
niên còn phải hăng hái học tập, trong đó có học tập lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin. Nghiên cứu, học tập lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là nhằm trang bị
và nâng cao trình độ lý luận cách mạng - ngọn đèn pha soi sáng cho hoạt động
thực tiễn.
Cùng với việc học tập lý luận cách mạng, các thế hệ trẻ còn phải tích cực học tập
văn hóa, khoa học - kỹ thuật...; sử dụng những tri thức đó để xây dựng xã hội
mới. bởi chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu. Để
thế hệ trẻ có thể tích lũy được những tri thức cần thiết, tạo tiền đề phát huy năng

Preview text:

lOMoAR cPSD| 22014077
1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ
PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN
TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ

NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.
Năm 1858, thực dân Pháp đã nổ súng xâm lược nước ta, sau khi hoàn thành việc xâm lược và thiết
lập bộ máy thống trị trên toàn bộ đất nước Việt Nam, thực dân Pháp tiến hành công cuộc khai thác,
chúng cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt, cho vay nặng lãi và mở rộng thị trường tiêu
thụ hàng hoá của chính quốc,đã đẩy nhân dân Việt Nam vào cảnh cùng cực. Chính quyền nhà
Nguyễn từng bước khuất phục trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp, lần lượt kí các bản hiệp
ước đầu hàng, thừa nhận nền bảo hộ của thực dân pháp trên toàn cõi Việt Nam. Mâu thuẫn giữa
nhân dân ta với giai cấp địa chủ, phong kiến và giữa nhân dân ta với đế quốc thực dân Pháp ngày
càng trở nên sâu sắc. Nhiều cuộc khởi nghĩa yêu nước đã diễn ra phát huy chủ nghĩa yêu nước và
giá trị truyền thống Việt Nam. Trong giai đoạn này, phong trào dân tộc và dân chủ với nhiều tổ
chức yêu nước theo xu hướng mới ra đời. Cho đến cuối thế kỉ XIX, các cuộc khởi nghĩa vũ trang
dưới khẩu hiệu “Cần Vương” do các sĩ phu văn thân lãnh đạo cuối cùng cũng thất bại. Hệ tư tưởng
phong kiến đã tỏ ra lỗi thời trước các nhiệm vụ lịch sử.Các nhà nho học tiến bộ như Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh tổ chức và vận động cuộc đấu tranh yêu nước chống Pháp theo mục tiêu và
phương pháp mới. Phan Bội Châu chủ trương tôn quân và bạo động, lập Duy Tân Hội, tôn Kỳ
Ngoại Hầu Cường để làm minh chủ. Trong tập "Tự Phán", ông nêu tôn chỉ của Hội như sau:
"Chuyên đánh đổ chính phủ Pháp, khôi phục Việt Nam, kiến thiết quân chủ lập hiến quốc". Phan
Bội Châu còn đề xướng phong trào Đông Du, vận động người trong nước xuất dương qua Trung
Hoa, Nhật Bản du học để thâu nhận kiến thức mới của nước ngoài về giúp nước nhà, đồng thời
mua vũ khí của Nhật để tiếp tay cho các cơ sở chống Pháp trong nước. Sự thất bại của Đông Du
là do ngay từ đầu Phan Bội Châu đã sai lầm về đường lối đúng như nhận xét của Bác Hồ là: Cụ
Phan muốn dựa vào Nhật để đánh đuổi Pháp, như thế khác gì tiễn hổ cửa trước, rước beo cửa sau.
Và thực tế là chỉ sau một thời gian ngắn, khi thực dân Pháp đánh hơi thấy và nhận ra tính chất
nguy hiểm của phong trào này đã ngay lập tức đàm phán với Nhật để chính phủ Nhật trục xuất các
sinh viên Việt Nam về nước. Chủ trương bạo động là đúng, nhưng tư tưởng cầu viện là sai (không
thể dựa đế quốc đánh đế quốc được). Cần xây dựng thực lực trong nước, trên cơ sở đó mà tranh
thủ sự hỗ trợ quốc tế chân chính. Phan Châu Trinh: Đánh đổ phong kiến, thực hiện cải cách xã hội
“Khai thông dân trí, mở mang dân quyền”( Lập Hội buôn, mở trường Đông kinh nghĩa thục...).
Phan Châu Trinh: gương cao ngọn cờ dân chủ, cải cách xã hội, chủ trương cứu nước bằng phương
Pháp nâng cao dân trí, dân quyền. Vạch trần chế độ vua quan phong kiến thối nát, đòi Pháp sửa
đổi chính sách cai trị thuộc địa . Con đường cứu nước của Phan Chu Trinh chưa đúng đắn. Ông
không tán thành việc Phan Bội Châu dựa vào Nhật để chống Pháp, nhưng bản thân ông lại đi theo
đường lối dựa vào Pháp, yêu cầu Pháp tiến hành cải cách, thực hiện tự do dân chủ, lật đổ chế độ
phong kiến, làm cho dân giàu, nước mạnh, tiến lên giải phóng dân tộc-Đây là một điều "không lOMoAR cPSD| 22014077
tưởng" và thực tế đã chứng minh nó là sách lược sai lầm. Ông không gặp thời. Lúc này Pháp rất
mạnh, ta không có gì để buộc Pháp phải thương lượng, thỏa hiệp với ta. Và mãi tới ngày 19 tháng
6 năm 1919, ông cùng với Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành soạn bản
"Yêu sách của nhân dân An Nam" gửi cho Hội nghị Versailles, ký tên chung là Nguyễn Ái Quốc,
làm nổ ra "quả bom chính trị" chấn động tại nước Pháp. Đó là dấu ấn cuối cùng của Phan Châu
Trinh ở một phương diện nào đó. Còn khởi nghĩa của người anh hùng Hoàng Hoa Thám còn mang
nặng “cốt cách phong kiến” chưa phải lối thoát rõ ràng đúng đắn. Hàng loạt phong trào yêu nước
nổ ra song đều thất bại. Cuối thế kỷ XIX, đầu XX cách mạng nước ta bị khủng hoảng về đường
lối, tình hình đen tối như không có đường ra.Trong khi đó, lịch sử thế giới giai đoạn này cũng có
những biến chuyển to lớn, chủ nghĩa độc quyền xác lập vị trí trên toàn thế giới, chủ nghĩa đế quốc
trở thành kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa. Cao trào cách mạng thế giới với đỉnh cao là cách
mạng Tháng Mười Nga đã làm “thức tỉnh các dân tộc châu Á”.
Trên con đường cứu nước cứu dân, Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin con đường
mới của cách mạng Việt Nam. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không
có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Đó là con đường “độc lập dân tộc gắn liền
với Chủ Nghĩa Xã Hội”. Độc lập dân tộc phải đi tới chủ nghĩa xã hội mới xóa bỏ tận gốc cơ sở áp
bức dân tộc và áp bức giai cấp. Như vậy, ở Hồ Chí Minh, yêu nước truyền thống đã phát triển
thành yêu nước trên lập trường của giai cấp vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Con đường: “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” của Hồ Chí Minh khác cơ bản với con
đường giải phóng dân tộc của những người đi trước như phong trào Cần Vương của Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái Học đều dựa trên hệ tư tưởng phong kiến hoặc tư sảnâ
(những hệ tư tưởng này đã lỗi thời, lạc hậu) không gắn với tiến bộ xã hội nên đã thất bại. Chủ
nghĩa tư bản là do giai cấp tư bản lập nên, nhằm bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản, bóc lột người
dân lao động. Chỉ có chủ nghĩa Mác-Lênin là mang tính nhân đạo triệt để, toàn diện, vì nó nói đến
giải phóng dân tộc, giai cấp, giải phóng con người khỏi vòng xiềng xích, đem lại tự do cho con
mỗi dân tộc.Con đường giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh phản ánh đúng yêu cầu tất yếu của
cách mạng và dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin, gắn liền với tiến bộ xã hội nên nó là con đường duy
nhất đúng đắn và tất yếu là giành được thắng lợi.
2. Mối quan hệ biện chứng của “độc lập dân tộc gắn liền
vớichủ nghĩa xã hội”.
a. Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi, luận điểm trung tâm xuyên
suốt toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh. Tìm ra con đường cách mạng Độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội “con đường cách mạng vô sản”, Hồ Chí Minh cũng là người Việt Nam đầu tiên
nhận thức được vai trò lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam mà đội tiên phong của nó là Đảng
Cộng sản có sức mạnh lãnh đạo đưa sự nghiệp cách mạng đó đến thành công. Con đường cách
mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là lý tưởng cao đẹp nhất của thời đại nhằm giải
phóng dân tộc, xã hội và con người một cách triệt để. Con đường đó cực kỳ khó khăn, gian khổ,
phức tạp và lâu dài nhằm xây dựng một xã hội phồn vinh, có kỷ cương, lối sống lành mạnh và văn lOMoAR cPSD| 22014077
hóa cao; có quan hệ hữu nghị và bình đẳng với các quốc gia dân tộc trên thế giới. Hồ Chí Minh
kết luân: nhân dân Việt Nam không thể cứu nước, giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng
dân chủ tư sản; độc lập dân tộc không thể gắn liền với con đường phát triển tư bản chủ nghĩa.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc là một khát vọng mang tính phổ biến. Nó bao hàm
một nội dung rất rộng: đó là độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, độc lập dân tộc gắn liền với thống
nhất Tổ quốc; gắn liền với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Từ khi Pháp xâm lược
Việt Nam, nền độc lập dân tộc bị mất, nhân dân bị đè nén, thống trị của ngoại bang. Xuất phát từ
hoàn cảnh Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, Hồ Chí Minh thấy rõ mâu thuẫn chủ
yếu, nổi bật, cấp bách cần giải quyết là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc
xâm lược cùng bọn tay sai bán nước, Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiệm vụ dân tộc, xác định mục
tiêu cốt yếu của cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta là giành lại độc lập cho dân tộc, trong khi
không quên nhiệm vụ dân chủ nhân dân, song khi thực hiện nhiệm vụ này trước hết phải nhằm
phục vụ nhiệm vụ dân tộc. Có thể khẳng định rằng, Đảng Cộng sản lãnh đạo cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân là nhân tố quyết định nhất đảm bảo cho cách mạng tiến hành triệt để, phát triển
lên cách mạng chủ nghĩa xã hội; nhưng trước hết phải giành lại được độc lập dân tộc. Độc lập dân
tộc là mục tiêu cốt yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đồng thời là tiền đề tất yếu để
cuộc cách mạng này phát triển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
b. Chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát triển tất yếu của cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Chủ nghĩa xã hội là phương hướng phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Phương hướng phát triển này không những làm cho cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
được tiến hành triệt để, thể hiện ở mục tiêu giành lại độc lập hoàn toàn, thực sự cho dân tộc, mà
còn đảm bảo cho nền độc lập dân tộc đó được giữ vững và ngày càng củng cố thêm; có những điều
kiện, tiền đề để cách mạng phát triển lên giai đoạn xã hội chủ nghĩa; xây dựng cuộc sống ấm no,
hạnh phúc của nhân dân, làm cho độc lập dân tộc thực sự có ý nghĩa, có giá trị.
Theo Hồ Chí Minh: chủ nghĩa xã hội là một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
+ Về kinh tế: từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện
quản lý dân chủ và phân phối theo lao động, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
+ Về chính trị: xây dựng chế độ do nhân dân làm chủ dựa trên nền tảng liên minh giữa
công nhân, nông dân và trí thức, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân.
+ Về văn hóa xã hội: thực hiện một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại.
+ Về đối ngoại: thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, hợp tác và làm bạn với tất cả các nước. lOMoAR cPSD| 22014077
3. Sự gắn bó hữu cơ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
a. Độc lập dân tộc là điều kiện, tiền đề để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu lịch sử là sự lựa chọn duy nhất đúng
mà Bác Hồ, Đảng ta, nhân dân ta đã lựa chọn. trải qua các thăng trầm của lịch sử, những biến động
của thời cuộc, những chao đảo ngả nghiêng của các quốc gia Đông Âu, tính đúng đắn của con
đường cách mạng mà Hồ Chí Minh tiếp nhận từ chủ nghĩa yêu nước chân chính với thế giới quan
cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin đã làm nên nền tảng tư tưởng của Đảng ta trong 70 năm đấu
tranh cách mạng và đổi mới đất nước hôm nay. Vấn đề giải phóng dân tộc phải được giải quyết
bằng cách mạng vô sản gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có
thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập dân tộc, mới có thể đem lại tự do hạnh phúc thực sự cho mọi
người, cho tất cả các dân tộc và toàn thể loài người trên trái đất. Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản mới có thể xóa bỏ vĩnh viễn ách áp bức, bóc lột và thống trị của chủ nghĩa tư bản,
mới thực hiện sự giải phóng hoàn toàn và triệt để đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động
của tất cả các dân tộc trên thế giới ra khỏi bất công, tiến tới tự do, dân chủ công bằng và bình đẳng
cho con người và loài người. Như vậy, mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là
mối quan hệ giữa hai giai đoạn, hai thời kỳ của cùng một quá trình cách mạng và đồng thời cũng
là mối quan hệ giữa hai loại mục đích: mục đích trước mắt và mục đích lâu dài.
b. Chủ nghĩa xã hội là con đường bảo đảm vững chắc độc lập.
Chủ nghĩa xã hội không chỉ bảo vệ vững chắc thành quả của độc lập dân tộc, mà về cơ bản tạo nên
sự phát triển mới về chất của nó, hoàn toàn có cơ sở để nói rằng: độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội là chân lý không thể bác bỏ. Không có độc lập dân tộc không thể có chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc là tiền đề, là điều kiện tiên quyết và căn bản để xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội. Không có chủ nghĩa xã hội không thể có độc lập dân tộc bền vững. Chủ nghĩa xã hội là sự bảo
đảm chắc chắn nhất, bền vững nhất cho nền độc lập dân tộc.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội được thể hiện trong thực tiễn cách mạng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội xuất hiện vào năm 1920,
khi Người gặp chủ nghĩa Mác-Lênin, và nó được phát triển, thể hiện một cách cụ thể sinh động
trong thực tiễn cách mạng nước ta từ năm 1930. * Thời kỳ 1930-1945:
Tư tưởng này thể hiện rõ nét trong văn kiện do Hồ Chí Minh soạn thảo và được Hội nghị hợp
Chánh cùng vắn tắt của Đảng xác định: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để
đi tới xã hội cộng sản. Chính nhờ đường lối đúng đắn và sáng tạo này, cách mạng Tháng Tám đã
thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ cộng hòa-nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.  * Thời kỳ 1945-1954: lOMoAR cPSD| 22014077
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện cụ thể ở
đường lối “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”. Giai đoạn này, cách mạng nước ta gặp muôn vàn khó
khăn, nhưng với tinh thần thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ. Quân và dân ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, càng
chứng tỏ đường lối đúng đắn của Đảng ta.  * Thời kỳ 1954 -1969
Ở thời kỳ này độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện
qua chủ trương: một Đảng Cộng sản lãnh đạo thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược ở hai
miền: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam,
tiến tới thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh.
Ngày 2-9-1969, Hồ Chí Minh qua đời. Theo chỉ dẫn của Người, nhân dân ta đã đánh cho Mỹ cút,
đánh cho ngụy nhào. Với chiến dịch lịch sử mang tên Hồ Chí Minh, mục tiêu của thời kỳ này được
hoàn thành vào ngày 30-4-1975
5. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam
-Thứ nhất, trong suốt quá trình cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng phải được giữ vững,
củngcố và tăng cường. Xuất phát từ quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ khó
khăn hơn đánh đổ đế quốc, phong kiến, Hồ Chí Minh khẳng định trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa
xã hội Đảng phải mạnh hơn bao giờ hết. •
-Thứ hai, khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công -nông -trí thức dưới sự
lãnhđạo của Đảng phải được củng cố và mở rộng. Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi Đảng, Nhà nước và
mỗi người dân cần nêu cao trách nhiệm trong việc làm cho “rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa
kết trái và gốc rễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và nó có một cái tương lai 'trường xuân bất lão”. •
-Thứ ba, sự ủng hộ giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hòa bình, dân chủ và tiến bộ
trênthế giới được giữ vững và phát triển. Để làm được việc đó, ngay từ 1947, Hồ Chí Minh đã nêu
cao chủ trương: "Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai". Ba nhân
tố trên luôn được giữ vững và tăng cường, tác động qua lại, liên quan chặt chẽ với nhau là điều
kiện bảo đảm cho sự thắng lợi của mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí
Minh nhấn mạnh: "Đó là ba bài học lớn mà mỗi cán bộ và đảng viên cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm mãi".
6. Ý nghĩa của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
đối với Việt Nam hiện nay.
Chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh", nhân dân ấm no, hạnh phúc… Mục tiêu đó không phải chỉ là vấn đề giai cấp mà
vừa là giai cấp, lại vừa là dân tộc. Nó chứng tỏ ở Việt Nam chỉ có Đảng Cộng sản và giai cấp công
nhân mới là lực lượng đại biểu chân chính cho lợi ích của dân tộc, mới xây dựng được mặt trận
đại đoàn kết dân tộc để thực hiện được mục tiêu trên. Những lệch lạc về phía này hay phía khác
đều là trái với tư tưởng Hồ Chí Minh.Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp lOMoAR cPSD| 22014077
dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
là định hướng cho việc nhận thức và giải quyết các vấn đề của dân tộc và của thời đại hiện nay.
Trong nhiều văn kiện của Đảng ta, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn được
khẳng định một cách mạnh mẽ và dứt khoát. Tại Đại hội IX của Đảng, khi tổng kết những bài học
chủ yếu của 15 năm đổi mới, Báo cáo chính trị đã chỉ rõ bài học thứ nhất là: “Trong quá trình đổi
mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Sự lựa chọn của Đảng ta, của nhân dân ta là hoàn toàn chính xác. Độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với Việt Nam không chỉ là mục tiêu, là nhu cầu, là cương lĩnh
hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực, là niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam ta.
Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật mới; là cội
nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và mai sau. Thế kỷ XXI mở đầu thiên
niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến động, cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua
tranh gay gắt của cộng đồng quốc tế. Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với
xu thế toàn cầu hoá, thì hệ giá trị độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội hệ giá trị độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, trong ý thức và trong hành động vẫn là mục tiêu, lý tưởng, là quốc bảo phù hợp
với xu thế thời đại; sẽ đưa nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự
nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
vững chắc Tổ Quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đưa
đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trước nguy cơ “diễn biến hòa bình” trước việc một số thế lực lợi dụng vai trò giúp đỡ, viện trợ,
đặt nhân quyền cao hơn chủ quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, hiện nay, hơn
lúc nào hết, chúng ta cần quán triệt lời dạy của Hồ Chí Minh: mỗi một người phải nhớ rằng có độc
lập mới tự lập, có tự cường mới tự do. Hồ Chí Minh khẳng định: “Cố nhiên sự giúp đỡ của các
nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân
tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc
lập”. Vận dụng tư tưởng trên đây của Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế toàn cầu hóa và thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX viết:
“Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường” KẾT LUẬN
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội gắn liền với nhau là con đường tất yếu của dân tộc Việt Nam.
Khẳng định tính tất yếu của nó không có nghĩa là không cần đến điều kiện, không cần tạo ra những
điều kiện để tạo ra những điều tất yếu đó. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tất yếu
vì rằng, đó là quy luật phát triển của xã hội Việt Nam, sớm hay muộn rồi xã hội Việt Nam sẽ tiến
đến chủ nghĩa xã hội, không ai có thể ngăn cản nổi. Điều này không những đúng đối với Việt Nam
mà còn đúng với thế giới. Những khúc vận động quanh co của lịch sử, những thất bại là điều
thường thấy trên đường đi tới đích. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tất yếu chỉ khi
nó gắn với các điều kiện bảo đảm đó và nó nằm ngay trong yếu tố chủ quan của chính sự hoạt
động của hệ thống chính trị, trong đó quan trọng nhất là phụ thuộc vào chính yếu tố chủ quan của lOMoAR cPSD| 22014077
Đảng Cộng sản Việt Nam. Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, do đó, trở thành yếu tố then chốt
bảo đảm cho dân tộc Việt Nam phát triển đúng hướng, đúng quy luật, bảo đảm và giữ vững ngọn
cờ chiến lược độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - Con đường
tất yếu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới
Giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, độc lập dân tộc bị xâm phạm,
trong tình hình đó, triều đình nhà Nguyễn trong thì sợ nhân dân, ngoài thì bạc nhược trước
kẻ thù, lúc đầu có chống cự yếu ớt, sau đã từng bước nhân nhượng cầu hoà, cuối cùng là
cam chịu đầu hàng để giữ lấy ngai vàng và lợi ích riêng của hoàng tộc. Năm 1883 và 1884,
triều đình nhà Nguyễn lần lượt ký các hàng ước với thực dân
Pháp, nước ta bị đặt dưới ách thống trị của chúng. Mặc dầu bị đặt vào tình thế phải chống
“cả triều lẫn Tây" nhưng nhân dân ta với tinh thần yêu nước nhiệt thành và chí căm thù giặc
sôi sục đã dấy lên phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm rộ và lan rộng trong cả
nước: từ Trương Định, Nguyễn Trung Trực… ở miền Nam; Trần Tấn, Đặng Như Mai,
Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng... ở miền Trung đến Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa
Thám, Nguyễn Quang Bích… ở miền Bắc. Nhưng các cuộc khởi nghĩa này đều bị thất bại vì
chưa có một đường lối kháng chiến đúng đắn; lãnh đạo khởi nghĩa là các sĩ phu văn thân với
ý thức hệ phong kiến mang nặng tư tưởng tôn quân.
Sang đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của nhân dân ta chuyển
sang xu hướng dân chủ tư sản. Tiêu biểu cho xu hướng này có các phong trào Đông Du,
Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân, Việt Nam Quang phục hội... Các phong trào này chưa lôi
cuốn được mọi tầng lớp nhân dân, tư tưởng dân chủ tư sản chưa có cơ sở xã hội vững chắc.
Do vậy phong trào chỉ rộ lên được một thời gian ngắn rồi lần lượt bị đàn áp và thất bại.
Khi phong trào chống sưu thuế ở Huế và các tỉnh miền Trung, trong đó có Hồ Chí Minh
tham gia bị đàn áp (1908) cũng là lúc các phong trào yêu nước chống Pháp ở thời điểm cực
kỳ khó khăn, bế tắc. Đứng trước cuộc khủng hoảng con đường cứu nước, Hồ Chí Minh xác
định: “Tôi muốn đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ
làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”.
Đầu tháng 6-1911, Hồ Chí Minh xuống làm phụ bếp trên chiếc tàu Pháp mang tên
Amiran Latusơ Tơrêvin của hãng Năm Sao đang cập bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn). Ngày
5/6/1911, con tàu rời Sài Gòn đi Pháp, Hồ Chí Minh bắt đầu một cuộc hành trình lịch sử - đi
tìm con đường cứu nước, con đường giải phóng.
Xuất phát từ lòng yêu nước ra đi tìm đường cứu nước, trải qua gần 10 năm đầy gian truân
và thử thách, Hồ Chí Minh đã đi khắp các châu lục khảo sát nhiều nước thuộc địa và các
nước tư bản phát triển Mỹ, Anh, Pháp... Người nhận rõ: chủ nghĩa đế quốc là một hệ thống
thế giới, chúng vừa tranh giành, xâu xé thuộc địa, vừa vào hùa với nhau để nô dịch các dân
tộc nhỏ yếu trong hệ thống thuộc địa của chúng. Mỗi thuộc địa là một mắt khâu của chủ
nghĩa đế quốc, do vậy cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của mỗi nước chỉ tiến hành riêng
rẽ thì không thể giành thắng lợi.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện sự nhất quán trong tư duy lý luận và
hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Từ khi trở thành người cộng sản cho đến khi trở
thành lãnh tụ, nguyên thủ quốc gia, mối quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh là gắn độc lập lOMoAR cPSD| 22014077
dân tộc với chủ nghĩa xã hội phù hợp với từng thời kỳ của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí
Minh chỉ rõ các bài viết của Người chỉ có một “đề tài” là: chống thực dân đế quốc, chống
phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện một cách tập trung những luận điểm
sáng tạo lớn về lý luận của Hồ Chí Minh. Những luận điểm đó có giá trị lâu dài chỉ đạo
đường lối cách mạng Việt Nam và đóng góp quan trọng vào việc phát triển lý luận về cách
mạng vô sản. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Trong khi giải quyết những vấn đề của
cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin
trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên
chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc”(2).
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự phản ánh chính xác mục đích, lý
tưởng, khát vọng và ham muốn tột bậc của danh nhân văn hoá Hồ Chí Minh: nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội phản ánh tính triệt để cách mạng của tư tưởng
Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó đặt vấn đề giải phóng con người, hạnh phúc của con người ở
mục tiêu cao nhất của sự nghiệp cách mạng.
3. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội
Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân tộc dân chủ có hai
nhiệm vụ chiến lược cơ bản, trong đó giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ
dân chủ được rải ra thực hiện từng bước và phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì thế, ở
giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp
bách. Kết luận này được Hồ Chí Minh rút ra từ sự phân tích tình hình thực tế và những mâu
thuẫn khách quan tồn tại của xã hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến. Lịch sử phát triển
loài người chứng tỏ, độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến. Với dân tộc Việt
Nam, đó còn là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và giữ gìn bởi máu xương, sức lực của
biết bao thế hệ người Việt Nam.
Với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và dân chủ.
Đó là nền độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ độc lập giả hiệu, độc lập 8
nửa vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền với
thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn
với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân lao động.
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi đó là mục tiêu
cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành độc lập để đi tới
xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là
mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ, là mục tiêu trước hết của quá
trình cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đồng thời là điều kiện hàng đầu, lOMoAR cPSD| 22014077
quyết định để cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì những điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã
hội càng được tạo ra đầy đủ. Tính chất tạo tiền đề của cách mạng dân tộc dân chủ được thể hiện: -
Về chính trị: xác định và xây dựng các yếu tố của hệ thống chính trị do giai
cấpcông nhân lãnh đạo. -
Về kinh tế: bước đầu xây dựng được các cơ sở kinh tế mang tính chất xã hội
chủnghĩa, từng bước cải thiện đời sống nhân dân. -
Về văn hoá, xã hội, đời sống tinh thần: trong cách mạng dân tộc dân chủ, khối
quầnchúng công - nông - trí thức và các giai tầng xã hội khác đã có ý thức giác ngộ,
đoàn kết trong một mặt trận dân tộc thống nhất; những nhân tố mới của văn hoá, giáo
dục đã được hình thành dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Tóm lại, độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết
định con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời đại mới chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát triển tất
yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Điều này làm cho con đường cứu nước giải
phóng dân tộc của Hồ Chí Minh khác biệt về chất với con đường cứu nước những năm đầu
thế kỷ ở nước ta và nhiều nhân vật nổi tiếng trên thế giới.
Cách mạng Việt Nam thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Điều đó quyết định vai trò lãnh đạo
cách mạng tất yếu thuộc về giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản
Việt Nam. Lực lượng tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc là toàn dân Việt Nam yêu
nước mà nòng cốt là khối liên minh công - nông - trí thức. Những nhân tố này lại quy định
tính tất yếu dẫn đến phương hướng phát triển lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng giải phóng
dân tộc. Rõ ràng định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở Việt Nam được chi phối và chế định bởi các nhân tố bên trong của cuộc cách mạng đó. 9
CHƯƠNG 5 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC
1.1. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc
Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc được hình thành từ những cơ sở sau đây:
1.1.1. Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam. Trải
qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước gắn liền với ý thức cộng
đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc của dân tộc Việt Nam đã được hình thành và củng
cố, tạo thành một truyền thống bền vững. Hồ Chí Minh cũng là một người con trong dân tộc Việt
Nam nên Người đã sớm hấp thụ và nhận thức được vai trò của truyền thống yêu nước -nhân nghĩa lOMoAR cPSD| 22014077
-đoàn kết của dân tộc. Người khẳng định: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một
truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi
nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn,
nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết,
cộng đồng của dân tộc Việt Nam là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về đại đoàn kết dân tộc.
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng Theo
chủ nghĩa Mác – Lênin, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, dân chính là người tạo ra lịch sử
và liên minh công nông chính là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng. Hồ Chí Minh
đến với chủ nghĩa Mác – Lênin là vì chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức
con đường tự giải phóng. chủ nghĩa Mác-Lênin không những đã chỉ ra vai trò của quần chúng nhân
dân trong lịch sử mà còn chỉ ra vị trí của khối liên minh công nông trong cách mạng vô sản. Đó là
những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh có cơ sở khoa học trong sự đánh giá
chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tư tưởng
tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới,
từ đó hình thành tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc.
1.1.3. Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào cách mạng
Việt Nam và thế giới
Trong những năm tháng ra đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn nghiên cứu,
tổng kết các kinh nghiệm của phong trào yêu nước Việt Nam và phong trào cách mạng trên thế
giới, nhất là phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa. Đặc biệt là Bác Hồ
đã nghiên cứu những bài học kinh nghiệm của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga. Những là bài
học về huy động, tập hợp lực lượng quần chúng công nông đông đảo để giành và giữ chính quyền
cách mạng, để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa đã giúp Hồ Chí Minh thấy rõ tầm quan trọng của
việc đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng, trước hết là công nông.
Ngoài ra, đối với các phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, Người đặc biệt chú
ý đến Trung Quốc và Ấn Độ, hai nước có thể đem lại cho Việt Nam nhiều bài học rất bổ ích về tập
hợp các lực lượng yêu nước tiến bộ để tiến hành cách mạng. Những kinh nghiệm rút ra từ thành
công hay thất bại của các phong trào dân tộc dân chủ, nhất là kinh nghiệm thắng lợi của Cách
mạng Tháng Mười Nga là cơ sở thực tiễn cần thiết cho việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
đại đoàn kết dân tộc.
1.2. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
1.2.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách mạng Với Chủ
tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta. Đoàn kết không
phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà là tư tưởng cơ bản, nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách
mạng Việt Nam. Quan trọng hơn hết, đoàn kết quyết định thành công của cách mạng, vì đoàn kết
tạo nên sức mạnh, là then chốt của thành công. Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi phải có lực
lượng đủ mạnh, muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân tộc thành một khối thống nhất. Ngoài ra,
đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng. Bác luôn luôn nhắc nhở cán
bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm coi sức mạnh của cách mạng là sức mạnh của nhân dân:
"Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong". Đồng thời, Người cũng lưu lOMoAR cPSD| 22014077
ý rằng nhân dân thuộc nhiều lứa tuổi, nghề nghiệp, nhiều tầng lớp, giai cấp, nhiều dân tộc, tôn giáo
phải đoàn kết nhân dân vào trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Để làm được việc đó, Người yêu
cầu Đảng, Nhà nước phải có chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với các giai cấp, tầng lớp,
trên cơ sở lấy lợi ích chung của Tổ quốc và những quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động, làm
"mẫu số chung" cho sự đoàn kết.
1.2.2. Đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh xem dân là gốc, là lực lượng tự giải phóng nên Bác coi vấn đề đoàn kết dân
tộc, đoàn kết toàn dân để tạo ra sức mạnh là vấn đề cơ bản của cách mạng. Hồ Chí Minh còn cho
rằng, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu,
nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì, đại đoàn kết dân tộc chính là sự nghiệp của quần chúng,
do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành
sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
1.2.3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “dân” chỉ mọi con dân đất Việt, con rồng cháu tiên, không phân biệt
dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người không tín ngưỡng, không phân biệt già trẻ, gái, trai,
giàu, nghèo. Nói đến đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa phải tập hợp mọi người dân vào một khối
trong cuộc đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nói rõ: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất
và độc lập tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng
phụng sự tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.
Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh có lập trường giai cấp rõ ràng, đó là đại đoàn kết toàn dân
với nòng cốt là khối liên minh công -nông -trí thức do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Muốn xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc rộng lớn như vậy, thì phải xác định rõ đâu là nền tảng
của khối đại đoàn kết dân tộc và những lực lượng nào tạo nên cái nền tảng đó. Người coi công
nông cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết
các tầng lớp nhân dân khác. "Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho
nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất"1. Về sau, Người nêu thêm:
lấy liên minh công -nông -lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân. Nền tảng
càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng được mở rộng, không e ngại bất
cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
1.2.4. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức là Mặt trận dân
tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là để tạo nên lực lượng cách mạng, để làm cách mạng xóa bỏ chế
độ cũ, xây dựng chế độ mới. Do đó, đại đoàn kết dân tộc không thể chỉ dừng lại ở quan niệm, ở tư
tưởng, ở những lời kêu gọi, mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, trở thành khẩu hiệu hành
động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, thành lực lượng vật chất
có tổ chức và tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Tùy theo từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xây dựng được Mặt
trận dân tộc thống nhất có cương lĩnh, điều lệ phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ,
từng giai đoạn cách mạng. Các tổ chức Mặt trận ở nước ta đều là tổ chức chính trị -xã hội rộng rãi,
tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu
nước ở trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự
do, hạnh phúc của nhân dân. Để Mặt trận dân tộc thống nhất trở thành một tổ chức cách mạng to
lớn, theo Hồ Chí Minh, nó cần được xây dựng theo những nguyên tắc cơ bản sau: Thứ nhất, đoàn
kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên cơ sở yêu nước, thương dân, chống áp bức bóc lOMoAR cPSD| 22014077
lột, nghèo nàn lạc hậu. Hồ Chủ tịch cho rằng, Nước độc lập tự do mà dân không được hưởng hạnh
phúc, độc lập, tự do thì cũng vô nghĩa. Sự đoàn kết xuất phát từ việc lấy lợi ích tối cao của dân
tộc, lợi ích căn bản của nhân dân lao động làm mục tiêu phấn đấu. Thứ hai, đại đoàn kết dân tộc
phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công – nông – lao động trí óc. Mở rộng Mặt trận dựa
trên cơ sở của khối liên minh cơ bản đó, góp phần làm cho Mặt trận quy tụ được cả dân tộc, tập
hợp được toàn dân, kết thành một khối vững chắc.
Thứ ba, hoạt động của Mặt trận theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ. Khi có những lợi ích riêng
biệt không phù hợp, Mặt trận sẽ giải quyết bằng việc nêu cao lợi ích chung của dân tộc, bằng sự
vận động hiệp thương dân chủ, tạo ra nhận thức ngày càng đúng đắn hơn cho mỗi người, mỗi bộ
phận về mối quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, cùng nhau bàn bạc để đi đến nhất trí, loại
trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức.
Thứ tư, khối đoàn kết trong Mặt trận là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành; thân ái giúp
đỡ nhau cùng tiến bộ. Người thường xuyên căn dặn phải khắc phục tình trạng đoàn kết xuôi chiều,
phải nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt,
củng cố đoàn kết nội bộ. Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí.
Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là một thành viên của Mặt trận
dân tộc thống nhất, đồng thời là lực lượng lãnh đạo Mặt trận. Nhưng Người cho rằng, quyền lãnh
đạo Mặt trận không phải do Đảng tự phong cho mình, mà phải được nhân dân thừa nhận. Đảng
lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách Mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng
giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. Đảng phải dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục,
nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hóa, khơi gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, hết sức
tránh gò ép, quan liêu mệnh lệnh.
Sự đoàn kết trong Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng sự đoàn kết trong Mặt trận. Đảng đoàn
kết, dân tộc đoàn kết và sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân sẽ tạo nên sức mạnh bên trong,
để dân tộc vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù, đi tới thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
CHƯƠNG 2. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
2.1.1. Các chính sách của Đảng đối với nhân dân cả nước nhằm phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
Đối với công nhân, Đảng ta quan tâm về giáo dục đào tạo, bồi dưỡng, phát triển công nhân cả về
số lượng và chất lượn, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề
nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động của công nhân; đảm bảo việc làm, nâng cao thu
nhập, chất lượng cuộc sống của công nhân; sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật về tiền
lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, để bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của công nhân. Bên cạnh đó, Đảng ta cũng phát huy vai trò của các tổ
chức công đoàn trong việc đại diện, bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp của công đoàn viên, người lao động. lOMoAR cPSD| 22014077
Đối với nông dân, Đảng cũng hỗ trợ, khuyến khích nông dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao
động, tiếp nhận và ứng dụng tiến bộ khoa học -công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân
chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Đảm bảo cho việc nâng cao năng suất lao động và chất
lượng cung ứng các dịch vụ cơ bản như điện, nước sạch, y tế, giáo dục,… góp phần cải thiện đời
sống dân cư nông thôn. Đồng thời Đảng ta cũng thực hiện chính sách “xóa đói giảm nghèo”,
khuyến khích làm giàu hợp pháp cho nông dân.
Đối với đội ngũ trí thức, Đảng ta trọng dụng trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết
quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ và tôn vinh xứng đáng những cống hiến của
trí thức. Có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất nước. Tôn trọng và phát huy tự
do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo.
Đối với đội ngũ doanh nhân, Đảng cũng phát huy tiềm năng và vai trò tích cực, sáng tạo của đội
ngũ doanh nhân. Xây dựng, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng,
có trình độ quản lý, kinh doanh giỏi, có đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội cao. Đồng thời
Đảng ta còn có những chính sách bảo vệ quyền lợi của đội ngũ doanh nhân. Tôn vinh những doanh
nhân có nhiều đóng góp cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Đối với thế hệ trẻ, Đảng có tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho thế hệ trẻ học tập, nghiên cứu, lao
động, giải trí, phát triển trí tuệ, kỹ năng, thể lực. Khuyến khích, cổ vũ thanh niên nuôi dưỡng ước
mơ, hoài bão, xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học, công nghệ hiện đại. Đồng thời phát huy vai
trò của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thu hút rộng rãi thanh niên, thiếu
niên và nhi đồng tham gia các tổ chức do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh làm nòng cốt và phụ trách.
Đối với phụ nữ, Đảng tạo điều kiện và cơ hội để phụ nữ thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm của
mình trong gia đình và xã hội; đồng thời Đảng cũng tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển tài năng
của mình, thực hiện tốt tinh thần bình đẳng giới. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và
xử lý nghiêm minh theo pháp luật các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại nhân phẩm phụ nữ. Đối
với đội ngũ cựu chiến binh, Đảng và Nhà nước luôn có những chính sách tạo điều kiện, động viên
cựu chiến binh tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa; đồng thời, khuyến khích cựu chiến binh tham gia làm kinh tế, nâng cao đời sống cũng
như tích cực tham gia giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ.
Đối với người cao tuổi, Đảng ta cố gắng phát huy trí tuệ, kinh nghiệm sống, lao động, học tập của
người cao tuổi trong xã hội và gia đình. Tiếp tục xây dựng gia đình “ông bà, cha mẹ mẫu mực, con
cháu thảo hiền, vợ chồng hòa thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau”; giúp đỡ người cao
tuổi cô đơn không nơi nương tựa.
Đối với đồng bao dân tộc ít người, Đảng chủ trương nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, chất
lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, người tiêu biểu
có uy tín trong cộng đồng các dân tộc. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện
các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc, nghiêm
trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đối với đồng bào tôn giáo, Đảng luôn quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt
theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của
pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đồng thời chủ động
phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá
hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật. lOMoAR cPSD| 22014077
Đối với người Việt Nam ở nước ngoài, Nhà nước có nhiều chính sách hỗ trợ giúp đỡ những đồng
bào định cư ở nước ngoài ổn định cuộc sống, phát triển kinh tếgóp phần tăng cường hợp tác, hữu
nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước; được bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích
chính đáng; tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; có cơ chế,
chính sách thu hút đồng bào hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng và bảo vệ đất nước.
2.1.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, ủng hộ quốc tế trong công
cuộc đổi mới ngày nay
Ngày nay, trong bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi, thời cơ và thách thức đan xen lẫn nhau, vấn
đề đoàn kết đấu tranh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có những thuận lợi và khó
khăn mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, phát huy sự ủng hộ quốc tế là cơ sở quan trọng để
Đảng Cộng sản Việt Nam hoạch định chủ trương, đường lối đối ngoại và giải quyết các vấn đề quốc tế như sau:
Một là, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ, dựa vào sức mình là chính làm nền
tảng để mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát triển bền vững và
không làm phương hại đến chủ quyền quốc gia, bản sắc văn hóa dân tộc. Việt Nam luôn mong
muốn cùng các nước xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, phát triển trên
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Đồng thời, Việt Nam kiên định
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; là bạn, là đối tác tin
cậy của tất cả các quốc gia và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; không ngừng
nỗ lực làm sâu sắc thêm và xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, đối tác hợp tác cùng có lợi với các quốc gia.
Hai là, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là cơ sở lý luận quan trọng để Đảng Cộng sản
Việt Nam xác định đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế
trong bối cảnh mới. Có thể thấy rằng, qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ,
đến giai đoạn đất nước bước vào công cuộc đổi mới, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và đoàn
kết quốc tế, ngoại giao Việt Nam đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn về vật chất và tinh thần của
bạn bè quốc tế, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước và phục vụ đắc lực vào cuộc
đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước.
Ba là, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế để tạo ra môi trường quốc tế hòa bình,
ổn định, hữu nghị với các nước láng giềng, các nước trong khu vực, các nước lớn để tập trung mọi
nguồn lực phát triển đất nước. Trong bối cảnh thế giới, khu vực và đất nước có nhiều biến đổi, thời
cơ và thách thức đan xen lẫn nhau, để xây dựng một thế giới hòa bình, phát triển tốt đẹp, theo Hồ
Chí Minh các dân tộc cần xích lại gần nhau, thông qua tiếp xúc, trao đổi để hiểu biết nhau hơn, tin
cậy nhau, cùng nhau giải quyết các xung đột.
2.1.3. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc trong
công cuộc cùng nhân dân chung tay phòng, chống dịch Covid-19
Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ngày nay, dù đất nước còn bộn bề khó khăn sau
chiến tranh nhưng tinh thần Việt Nam hơn lúc nào hết lại hừng hực những dòng máu nóng cuồn
cuộn chảy trong huyết quản của mỗi người dân với quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam “đàng
hoàng hơn to đẹp hơn” như Bác Hồ từng mong muốn.
Hơn một năm qua, kể từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát hồi đầu năm 2020, chưa bao giờ từ “Đoàn
kết” lại được nhắc đến nhiều như vậy và tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam một lần nữa thể
hiện sức mạnh, hiệu quả to lớn trong phòng, chống dịch. Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ, các
cấp, các ngành, các đoàn thể và toàn dân ta chung tay, góp sức đối phó với một thứ giặc mới đang lOMoAR cPSD| 22014077
hằng ngày, hằng giờ đe doạ đến sức khoẻ, tính mạng của người dân. Các tầng lớp nhân dân, nhân
dân lao động thể hiện tấm lòng yêu nước và tinh thần “tương thân tương ái” bằng việc thực hiện
bằng những hành động thiết thực hướng tới những nơi xuất hiện dịch bênh như các suất cơm miễn
phí, gửi những món quà ủng hộ tinh thần hay trao cho nhau những lời động viên, hy vọng một
ngày nào đó chúng ta sẽ đẩy lùi được dịch bệnh,… Không những thế, thật xúc động khi chúng ta
chứng kiến nhiều cụ bà tuổi cao, các mẹ liệt sĩ,… chống gậy mang tiền, quà ủng hộ những người
đang làm nhiệm vụ trên tuyến đầu chống dịch. Ngoài tấm lòng quyên góp tiền mặt, thực phẩm từ
nhân dân cho công tác chống dịch, các doanh nghiệp cũng đã đóng góp hàng trăm tỉ đồng góp sức chống dịch.
Trên tuyến đầu là hàng chục nghìn cán bộ, nhân viên y tế, các chiến sĩ quân đội không quản khó
khăn, nguy hiểm túc trực 24/7 tại vị trí phân công. Lực lượng công an tăng cường kiểm soát vùng
dịch, Hàng nghìn sinh viên các trường y tình nguyện tham gia chống dịch; hàng nghìn y sĩ, bác sĩ
đã nghỉ hưu đăng ký, sẵn sàng tham gia cùng đồng đội trên tuyến đầu chống dịch; hàng trăm khách
sạn, resort tự nguyện trở thành nơi cách ly... Và trong những ngày chống dịch căng thẳng, Tổ quốc
giang rộng vòng tay đón hàng vạn công dân từ nước ngoài trở về…
Có thể thấy, rất nhiều hoạt động của các cấp ủy Đảng, Chính quyền và nhân dân cả nước thực hiện
đều hướng tới mục tiêu cả nước ngăn chặn, tiêu diệt dịch bệnh. Thông qua đó càng thấy rõ được
rằng, tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam không phải ngẫu nhiên mà có được, tinh thần ấy
được hun đúc và rèn luyện trong suốt lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất
nước của nhân dân ta mà người thắp nên ngọn lửa đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
2.2. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc của
sinh viên và ý nghĩa của việc vận dụng tư tưởng đó đối với sinh viên ngày nay
2.2.1. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc của sinh viên ngày nay
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, các thiết bị công nghệ không ngừng được cải tiến và con người
chúng ta không thể tách biệt với chúng. Nhưng cho dù công nghệ phát triển đến đâu, cũng phải
cần yếu tố con người vì muốn công nghệ, thiết bị đó vận hành thì nhất định phải có bàn tay con
người chạm vào. Trong công việc rất cần khả năng làm việc nhóm của tất cả thành viên trong tổ
chức đó về một dự án giúp cho công ty tạo doanh thu và phát triển hơn, đây cũng là lúc tinh thần
đoàn kết của mọi người trong nhóm được phát huy nhất. Trong học tập cũng vậy, tuy sẽ có người
không thích làm việc cùng nhau, có những người luôn tự ti về điểm số nhưng hầu hết sinh viên
trong lớp đều thích giúp đỡ những bạn muốn cải thiện điểm số của mình hay chia sẻ cho nhau
những phần quà khi được lãnh thưởng từ nhà trường, cùng nhau học tập vượt qua những kỳ thi vô cùng khó khăn.
Hơn hết, trong giai đoạn dịch bệnh diễn biến phức tạp hiện nay, không chỉ sinh viên mà còn hầu
hết các học sinh trên toàn quốc ai nấy đều chấp hành tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước để
cùng nhau chung tay chống lại dịch bệnh. Ngoài ra, các bạn sinh viên học sinh bên cạnh việc học
tại nhà, có thể phụ giúp ba mẹ làm việc nhà,…; hỏi thăm người thân, bạn bè cùng xóm để nâng
cao tinh thần đoàn kết với nhau, chia sẻ tình yêu thương đến mọi người, giúp đỡ người khác,…
Thật sự khi nói đến sinh viên nói riêng và tuổi trẻ nói chung, bên trong họ đều luôn chan chứa lòng lOMoAR cPSD| 22014077
nhiệt huyết, tận tâm, trách nhiệm đối với công việc của họ; đồng thời góp phần cho xã hội thêm
tươi đẹp và chung tay phát triển đất nước.
2.2.2. Ý nghĩa của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn
dân tộc đối với sinh viên ngày nay
Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc đối với sinh viên vô cùng có ý
nghĩa. Tinh thần đoàn kết đã có từ những năm ông cha ta dựng nước đến bây giờ, hầu như tinh
thần đó đã thấm nhuần trong máu của mỗi con người sinh ra và mang trong mình dòng máu của
dân tộc Việt Nam. Vai trò của tình đoàn kết vô cùng to lớn, nếu chúng ta không đoàn kết với nhau,
có lẽ chúng ta chưa bao giờ được độc lập và hưởng được tự do như hôm nay. Chính những sinh
viên, học sinh, những người ảnh hưởng rất lớn đến tương lai của đất nước cần được giáo dục và
được truyển dạy những tấm gương sáng về tình đoàn kết dân tộc trong các cuộc kháng chiến. Tuy
ngày nay là thời bình, nhưng chỉ một chút sơ suất, chúng ta quên đi tình đoàn kết, các thế lực bên
ngoài sẽ lợi dụng điều đó và tấn công chúng ta một lần nữa. Vì vậy, ngày nay chúng ta phát huy
hơn nữa tinh thần đoàn kết của dân tộc, truyền bá tinh thần đó cho thế hệ tiếp theo, góp phần phát triển đất nước. KẾT LUẬN
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là sức mạnh, là cội nguồn của mọi thành công: “Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành công”. Đoàn kết chính là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, một tinh thần tạo nên sức mạnh to lớn góp phần vào
nhiều thắng lợi vẻ vang giúp nước Việt Nam được giải phóng và giành lại được độc lập tự do.
Công lao rất lớn thuộc về Bác, vì Bác đã thắp sáng chính lòng yêu nước, thương dân, tinh thần
đoàn kết giúp nhân dân, bất kể đó là ai, già, trẻ, lớn, bé cùng nhau đứng lên đồng lòng chống giặc
ngoại xâm. Tinh thần hào hùng ấy vẫn còn được lưu truyền mãi đến ngàn đời sau, qua nhiều thế
hệ, tinh thần đó càng trở nên vững chắc hơn, mạnh mẽ hơn. Trước những khó khăn, thử thách, tinh
thần “tương thân, tương ái”, hỗ trợ lẫn nhau của nhân dân Việt Nam khiến rất nhiều người xúc
động và đó cũng là tinh thần khiến cả dân tộc ta tự hào, bạn bè quốc tế ngưỡng mộ. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
a) Xác định đúng vị trí, vai tò của đạo đức đối với cá nhân.
Đạo đức, hiểu một cách tổng quát là toàn bộ những chuẩn mực, những
quy tắc, những quan niệm về các giá trị thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, danh
dự, hạnh phúc, công bằng…được xã hội thừa nhận, quy định hành vi,quan hệ
giữa con người với sự nghiệp, giữa con người với nhau và giữa con người với xã
hội. Xuất phát từ bản chất, con người luôn có khát vọng hướng đến chân, thiện,
mỹ nhằm hoàn thiện bản thân. Để vươn tới sự hoàn thiện, trước hết con người lOMoAR cPSD| 22014077
phải tự tu dưỡng hoàn thiện mình về đạo đức. Do vậy, đạo đức lầ yếu tố cơ bản
của nhân cách, tạo nên giá trị con người.
Hồ Chí Minh cho rằng, đối với các dân tộc phương Đông giàu tình cảm, trọng
đạo lý, việc tu dưỡng đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi con người có vai trò vô
cùng quan trọng. Riêng với thế hệ trẻ, việc tu dưỡng này còn quan trọng hơn, vì
họ là “người chủ tương lai của đất nước”; là cái cầu nối giữa các thế hệ - “người
tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già”, đồng thời là người phụ trách, dìu
dắt thế hệ thanh niên tương lai”. Chính vì vậy, việc giáo dục đạo đức và chăm lo
cho việc rèn luyện đạo đức của sinh viên đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan
tâm từ rất sớm. Nói chuyện với sinh vên, Người khẳng định: “Thanh niên phải
có đức, có tài. Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất
giỏi nhưng lại đi đến yhutj két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã
hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt
không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài người”.
Người còn chỉ rõ, việc thực hành tốt đạo đức cách mạng trong đời sống hằng
ngày của mỗi cá nhân không chỉ có tác dụng tôn vinh, nâng cao giá trị chính họ
mà còn tạo sức mạnh nội sinh, giúp họ vượt qua khó khăn, thử thách. Người
viết: “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng
không sợ sệt, rụt rè, lùi bước…khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ
vững ttinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “ lo trước thiên hạ, vui sau thiên
hạ”; lo hoàn thành nhiệm vụ vho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ;
không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”.
Nhấn mạnh vai trò của đao đức trong đời sống của mỗi cá nhân trong xã hội, Hồ
Chí Minh không phân biệt đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường, đạo đức
cán bộ và đạo đức công dân. Người chỉ rõ. Trong xã hội mỗi người có công việc,
tài năng và vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ
được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng.
b) Kiên trì tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh.
Cũng như với cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân khác, đối với tầng lớp
sinh viên, thanh niên tri thức, Hồ Chí Minh đã sớm xác định những phẩm chất
đạo đức tối cần thiết để họ có phương hướng phấn đấu rèn luyện. Trong bài nói
tại đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ hai(7-5-1958), những phẩm chất đó được
Người tóm tắt trong “sáu cái yêu:
Yêu Tổ quốc: Yêu như thế nào? Yêu là phải làm saocho tổ quốc ta giàu mạnh thì
phải ra sức lao động, ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm.
Yêu nhân dân: Mình phải hiểu rõ sinh hoạt của nhân dân, biết nhân còn cực khổ
như thế nào, biết chia sẽ những lo lắng, những buồn vui, những công tác nặng nhọc với nhân dân.
Yêu chủ nghĩa xã hội: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ
nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một ấm
no thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm. lOMoAR cPSD| 22014077
Yêu lao động: Muốn thật thà yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội
thì phải yêu lao động vì không có lao động thì chỉ là nói suông.
Yêu khoa học và kỹ luật: Bởi vì tiến lên xã hội chủ nghĩa thì phải có khoa học và kỹ thuật”.
Theo Người để có được những phẩm chất như vậy, sinh viên phải rèn luyện cho
mình những đức tính như: trung thành, tận tụy, thật thà và chính trực. Phải xác
định rõ nhiệm vụ của mình, “không phải nước nhà đã cho mình những gì. Mà
phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi
nước nhà nhiều hơn? Minh đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng
nào”. Trong học tập, rèn luyện, phải kết hợp lý luận với thực hành, học tập với
lao động; phải chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng háo
danh, hám lợi. “chống tâm lý ham sung sướng và tránh khó nhọc. Chống thói
xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay. Chống lười biếng, xa sĩ. Chống
cách sinh hoạt ủy mị. Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang”. Phải trả lời được
câu hỏi: Học để làm gì? Học để phục vụ ai? Phải xác định rõ thế nào là tốt, thế
nào là xấu?ai là bạn, ai là thù?... Người chỉ rõ: “ ai làm gì lợi ích cho nhân dân,
cho Tổ quốc ta đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc
ta đều là thù. Đối với mình, những tư tưởng và hành động có lợi ích cho Tổ quốc
và đồng bào là kẻ thù… Điều gì phải thì phải cố làm cho kỳ được, dù là việc
nhỏ. Điều gì trái, thì hết sức tránh, dù là một điều trái nhỏ”.
2. Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
a) Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên hiện nay.
Hiện nay, trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, trước xu thế toàn cầu hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế, thế hệ trẻ Việt Nam luôn kiên định lý tưởng xã hội
chủ nghĩa mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công vun trồng. Họ đã và
đang chứng tỏ bản lĩnh, sức trẻ, sự sáng tạo và tinh thần dám nghĩ, dám làm của
mình. Họ đang ra sức tu dưỡng, học tập và rèn luyện về mọi phương diện, tích
cực lao động sản xuất, tiến vào khoa học - công nghệ, để cùng với toàn Đảng,
toàn dân thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
nhằm xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Rất nhiều phong trào thi đua, như Thanh niên tình nguyện,
Thanh niên lập nghiệp, Tuổi trẻ học đường,... được đông đảo đoàn viên, thanh
niên, sinh viên và học sinh hưởng ứng, thực hiện. Đảng, Nhà nước và xã hội đã
có nhiều hình thức ghi nhận và tôn vinh những thanh niên, sinh viên và học sinh
tiêu biểu, xuất sắc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước. Có thể nói, thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay vẫn xứng
đáng với niềm tin yêu, sự khen ngợi và kỳ vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
'Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong,
không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức
cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ
nghĩa vừa 'hồng' vừa 'chuyên''(11). lOMoAR cPSD| 22014077
Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, do ảnh hưởng từ những mặt trái của nền kinh tế
thị trường cũng như của xu thế toàn cầu hóa, và đặc biệt, do không nghiêm túc
trong rèn luyện, phấn đấu, một bộ phận thanh, thiếu niên ở nước ta đang có
những biểu hiện tiêu cực đáng lo ngại, như phai nhạt lý tưởng, chạy theo lối
sống buông thả, lười học tập và tu dưỡng đạo đức, thích hưởng thụ, ngại lao
động, chuộng những sinh hoạt thiếu lành mạnh hoặc phản văn hóa, nghiện ngập,
thậm chí vi phạm pháp luật... Những hiện tượng đó, trước hết là nguy cơ đe dọa
tương lai của chính bản thân họ, đồng thời cản trở sự phát triển theo hướng lành
mạnh, tiến bộ và văn minh của xã hội ta hiện nay. Mặt khác, cũng cần nói rằng,
các thế lực thù địch đang 'chờ đợi' và sẽ ra sức khai thác, lợi dụng những hiện
tượng đó để tiến hành chiến lược 'diễn biến hòa bình' hòng chống phá và ngăn
chặn sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, hơn bao giờ hết, toàn Đảng
và toàn dân ta càng phải chăm lo giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ; coi đó là một
trong những nhiệm vụ hàng đầu, bởi nó liên quan trực tiếp đến tương lai của đất
nước. Đó cũng là một biểu hiện, một nội dung quan trọng của chiến lược 'lấy
dân làm gốc'. Có thể khẳng định, cùng với những biện pháp tích cực và đồng bộ
khác, cuộc vận động 'Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh' mà
Đảng ta vừa phát động chính là một cơ hội tốt cho thế hệ trẻ rèn luyện, phấn đấu vươn lên.
b) Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà đạo đức học lỗi lạc mà còn là một
tấm gương đạo đức vô song. Chính điều này đã đem lại cho tư tưởng và tấm
gương đạo đức của Người có một sức mạnh mãnh liệt và sự cổ vũ lớn lao không
chỉ với nhân dân Việt Nam mà còn cả với nhân dân thế giới trong cuộc đấu tranh
vì dân chủ và tiến bộ xã hội. Để trở thành người có ích cho xã hội, người chủ
tương lai của nước nhà, thế hệ trẻ của Việt Nam nói chung và thanh niên, sinh
viên trí thức nói riêng cần phải học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh. Dưới đây là một số nội dung cơ bản:
Một là, học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải
phong dân tộc, giải phóng giai cấp va giải phóng con người.
Hai là, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếpsống
giản dị và đức tính khiêm tốn phi thường.
Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân
Và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và
nhân hậu với con người.
Trong tình hình hiện nay, để phong trào học tập và làm thao tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh của sinh viên có hiệu quả, đòi hỏi phải có sự phối kết hợp của
nhiều nhân tố: sự giáo dục và việc tự tu dưỡng, rèn luyện của sinh viên; sự nêu
gương của mọi người trong xã hội, của bố mẹ trong gia đình, của cán bộ, đảng
viên, của các thầy, cô giáo, các cán bộ quản lý giáo dục và sự hướng dẫn của dư
luận xã hội và pháp luật. Nếu coi thường một trong những nhân tố trên, việc học
tập và rèn luyện sẽ khó đạt được kết quả như mong muốn. lOMoAR cPSD| 22014077 3. Liên hệ bản thân
Trước hết, đạo đức buộc tôi phải nhìn lại bản thân mình, tìm hiểu bản thân
mình và biết được điều gì thật sự làm cho tôi hạnh phúc. Vấn đề đạo đức đầu
tiên đối với tôi là khám phá chính mình. Nếu tôi tiến hành công việc này một
cách trung thực và dũng cảm, tôi sẽ khám phá ra những thứ mà tôi không thể
ngờ được rằng chúng đang hiện hữu trong tôi, những thứ vốn được che đậy ở
bên trong. Tôi đã từng nghe các nhà khoa học nói là tôi chỉ mới sử dụng 5%
năng lực của mình trong cuộc sống hằng ngày, 95% còn lại tôi chưa bao giờ sử
dụng đến vì tôi chưa bao giờ phát hiện ra chúng. Thật là uổng phí! Và đối với
những người khác, điều này cũng xảy ra tương tự. Quá ư là uổng phí! Vì thế,
việc khám phá những tiềm năng của bản thân trở thành nhiệm vụ hàng đầu đối
với tôi. Tôi là một người thiếu đạo đức nếu tôi chỉ dùng 5% năng lực của mình.
Từ việc nghiên cứu đề tài này tôi đã tìm ra cho mình một phương hướng phấn
đấu để khẳng định mình và hoàn thiện bản thân mình. để đáp ứng những yêu
cầu của công cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một là, bồi
dưỡng đạo đức cách mạng: Đạo đức cách mạng là đạo đức mới, là phẩm chất
không thể thiếu và là cái gốc của con người xã hội chủ nghĩa. Bởi, 'Cũng như
sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc,
không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức
thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân'. Lĩnh hội các đức tính:
cần, kiệm, liêm, chính. Những phẩm chất này giống như bốn mùa của trời đất;
nếu thiếu một trong bốn phẩm chất đó thì con người không thể trở thành người
theo đúng nghĩa. Nhưng, đạo đức cách mạng không phải là cái có sẵn, không
phải từ trên trời rơi xuống, mà là kết quả của sự đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng
ngày của mỗi người. Đối với thế hệ trẻ, phải luôn nỗ lực rèn uyện đạo đức cách
mạng: thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; sống trong sạch, có chí
tiến thủ và đoàn kết, không kiêu ngạo; tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân; phê phán những thói hư, tật xấu; thường xuyên tiến hành phê bình và tự
phê bình... để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Hai là, bồi dưỡng tri thức lý luận và văn hóa, khoa học - kỹ thuật: Theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh, thanh niên phải vừa có đức, vừa có tài. Bởi vì, người có đức mà
không có tài thì làm việc gì cũng khó; người có tài mà không có đức sẽ trở nên
vô dụng. Hơn nữa, chính sự dốt nát là một trong những nguyên nhân cơ bản kìm
hãm sự phát triển: 'Dốt thì dại, dại thì hèn'(8). Vì vậy, để trở thành người có trí
tuệ, có tri thức, tức là có tài, bên cạnh việc trau dồi đạo đức cách mạng, thanh
niên còn phải hăng hái học tập, trong đó có học tập lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin. Nghiên cứu, học tập lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là nhằm trang bị
và nâng cao trình độ lý luận cách mạng - ngọn đèn pha soi sáng cho hoạt động thực tiễn.
Cùng với việc học tập lý luận cách mạng, các thế hệ trẻ còn phải tích cực học tập
văn hóa, khoa học - kỹ thuật...; sử dụng những tri thức đó để xây dựng xã hội
mới. bởi chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu. Để
thế hệ trẻ có thể tích lũy được những tri thức cần thiết, tạo tiền đề phát huy năng