Tài liệu luật hôn nhân và gia đình | Trường đại học Quốc gia Hà Nội

Tài liệu luật hôn nhân và gia đình | Trường đại học Quốc gia Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT – ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
Luật hôn nhân & gia đình
Giảng viên: T Ngô Thanh Hương
Thơ
Lớp
………………………….
Hà Nội, ngày năm 2023
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của
vợ chồng.
Khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng
Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận (chế độ tài sản ước định)
Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng trước khi kết hôn
Khái niệm hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng.
Điều kiện, thời điểm có hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng.
Về hình thức của thỏa thuận
Về nội dung của thỏa thuận
Vai trò, ý nghĩa của hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng
Trường hợp thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu
Chương 2: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện hiệu lực của chế độ tài sản
của vợ chồng theo thỏa thuận
2.1. Thực tiễn áp dụng hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng.
2.1.1. Mặt tích cực thuận lợi
2.1.2. Mặt hạn chế bất cập
2.2. Quan điểm và đề xuất hướng giải quyết về quy định hiệu lực của chế độ tài sản theo
thỏa thuận của vợ chồng
Đề bài
hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng.
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của
vợ chồng.
niệm chế độ tài sản của vợ chồng
Chế độ tài sản của vợ chồng được dự liệu xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của gia đình
đối với sự phát triển của xã hội, do tính chất, mục đích của quan hệ hôn nhân được xác lập, chế
độ tài sản của vợ chồng được quy định phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế xã hội, phong tục,
tập quán, truyền thống văn hoá của đất nước. Các nhà làm luật đã quan tâm xây dựng các quy
định về chế độ tài sản của vợ chồng là một trong những chế định quan trọng, cơ bản nhất của
pháp luật hôn nhân và gia đình.
Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh về tài sản của vợ
chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với
tài sản chung, tài sản riêng; nguyên tắc phân chia tài sản giữa vợ và chồng.
Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận (chế độ tài sản ước định)
Đây là loại chế độ tài sản dựa trên sự thoả thuận của vợ chồng (hôn ước). Miễn sao sự thoả
thuận đó không trái với trật tự công cộng, với đạo đức, với thuần phong mỹ tục và những quy
định của pháp luật. Luận văn phân tích và khẳng định hệ thống pháp luật về HN&GĐ của Nhà
nước ta từ năm 1945 đến Luật HN&GĐ năm 2000 không quy định về loại chế độ tài sản này.
Hiện nay, Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã bổ sung quy định về áp dụng chế độ
tài sản của vợ chồng: “Vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc
chế độ tài sản theo thoả thuận”
Chế độ tài sản theo thỏa thuận là chế độ tài sản do vợ chồng cùng nhau bàn bạc, thảo luận
trước khi kết hôn về các nội dung liên quan đến tài sản chung, tài sản riêng, quyền và nghĩa vụ
của vợ chồng đối với tài sản cũng như việc phân chia tài sản của vợ chồng khi chấm dứt chế độ
tài sản vợ chồng trên cơ sở tự do, tự nguyện và thỏa thuận này được gọi là thỏa thuận xác lập
chế độ tài sản của vợ chồng.
Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng trước khi kết hôn
Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng trước khi kết hôn là việc mà vợ chồng tự thỏa thuận với
nhau về việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với tài sản của họ. Thông thường, thỏa thuận này
được thể hiện dưới dạng văn bản với nhiều tên gọi khác nhau như hợp đồng tiền hôn nhân, hôn ước h
thỏa thuận trước hôn nhân. Khi không có thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng thì tài sản của họ
mới theo sự điều chỉnh của pháp luật ( chế độ tài sản vợ chồng theo pháp định). Trên thực tế, việc quy
định như vậy bảo đảm được quyền tự định đoạt của cá nhân đối với tài sản của mình. Đặc biệt, điều đó
còn cho phép vợ chồng có thể tự bảo toàn được khối tài sản riêng của mình, tránh hoặc làm giảm đi sự
xung đột sau khi chia tay.
Khái niệm hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng.
Hiệu lực thỏa thuận là giá trị pháp lý của thỏa thuận làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của
các bên tham gia và giá trị pháp lý ràng buộc các bên tham gia thỏa thuận phải tôn trọng và phải
thi hành nghiêm túc các quyền và nghĩa vụ đó.
Điều kiệ , thời điểm có hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng.
Theo quy định tại Điều 47 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 “Trong trường hợp hai bên
kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết
hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo
thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn”. Với quy định này thì trước khi đăng ký
kết hôn các bên vợ chồng phải lựa chọn chế độ tài sản (CĐTS) của vợ chồng và phải lập
văn bản có công chứng hoặc chứng thực nhằm đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên trong
khối tài sản của mình. Thời điểm chế độ thỏa thuận tài sản của vợ chồng phát sinh hiệu lực từ
lúc được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Như vậy, văn
bản thỏa thuận là văn bản riêng và không được ghi nhận trong Giấy chứng nhận đăng ký kết
hôn, cũng như không phải là điều kiện bắt buộc trong thủ tục đăng ký kết hôn.
Về hình thức của thỏa thuận
Theo quy định tại Luật Hôn nhân và Gia đình thì Thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ
chồng phải được xác lập trước khi kết hôn và chỉ có hiệu lực khi được lập bằng văn bản có công
chứng hoặc chứng thực.
Về nội dung của thỏa thuận
Để một thỏa thuận có hiệu lực và phù hợp với quy định của pháp luật cũng như được cả vợ
chồng công nhận, pháp luật quy định về những nội dung cơ bản được ghi nhận trong văn bản
thỏa thuận như sau:
Thứ nhất, tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng. Đây là nội
dung căn bản quan trọng nhất, xác định tài sản nào là tài sản chung và là tài sản riêng của vợ
chồng. Thỏa thuận này nhằm tách bạch tài sản của mỗi bên trong quan hệ vợ chồng. Một trong
những nội dung bắt buộc của Thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng là nội dung liên
quan đến xác định quyền sở hữu đối với tài sản. Theo đó, vợ chồng có thể thỏa thuận xác định
tài sản bằng một trong các phương pháp như sau:
(i) Tài sản giữa vợ và chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng;
(ii) Giữa vợ và chồng không có tài sản riêng của vợ, chồng mà tất cả tài sản do vợ, chồng có
được trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc tài sản chung;
(iii) Giữa vợ và chồng không có tài sản chung mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi
kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu riêng của người có được tài sản đó;
(iv) Xác định theo thỏa thuận khác của vợ chồng.
Thứ hai, quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có
liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình. Qua đó, nhằm để xác định nghĩa
vụ tài sản của mỗi bên đối với bên thứ ba trong giao dịch dân sự. Nội dung này có thể bao gồm
các quy định về:
uyền, nghĩa vụ chung của vợ chồng đối với tài sản chung, đối với các giao dịch do vợ
chồng cùng xác lập, các nghĩa vụ đối với con chung cũng như đối với nhu cầu thiết yếu của gia
đình hoặc các nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà pháp luật quy định là nghĩa vụ chung của vợ
chồng;
uyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mỗi bên, nghĩa vụ riêng về tài sản
của mình;
ghĩa vụ cung cấp thông tin về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận khi xác lập,
thực hiện giao dịch với người thứ ba.
Thứ ba, điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt CĐTS. Đây được xem
là ghi nhận về hậu quả pháp lý của thỏa thuận trong trường hợp thỏa thuận bị vô hiệu hoặc
chấm dứt theo quy định của pháp luật. Các bên có thể thỏa thuận việc phân chia tài sản khi
chấm dứt chế độ tài sản theo tỷ lệ đóng góp của mỗi bên vào tài sản chung hoặc có thể thỏa
thuận sẽ được phân chia thành hai phần bằng nhau cho vợ chồng.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định vợ chồng có thể thỏa thuận những nội dung khác có liên
quan trong văn bản thỏa thuận. Trong quan hệ tài sản các bên vợ chồng có quyền thỏa thuận sửa
đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận ban đầu. Với hình thức và nội dung của thỏa thuận CĐTS
được thực hiện tương tự như thỏa thuận trước đây. Cũng cần lưu ý rằng, khi thực hiện CĐTS
theo thỏa thuận mà phát sinh những vấn đề chưa được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận
không rõ ràng thì áp dụng quy định tại các điều 29, 30, 31 và 32 của Luật HN&GĐ năm 2014
và các quy định tương ứng của CĐTS theo luật định.
Vai trò, ý nghĩa của hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng
Pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, quản lí nền kinh tế. Vì vậy, bên cạnh việc
ban hành pháp luật buộc tất cả mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành. Việc quy định chế
độ tài sản của vợ chồng trong Luật HN&GĐ có những ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã
hội:
Chế độ tài sản với ý nghĩa là một chế định trong pháp luật HN&GĐ được Nhà nước quy định
dựa trên sự phát triển của các điều kiện kinh tế xã hội. Nó thể hiện tính giai cấp, bản chất của
chế độ chính trị xã hội cụ thể. Nhìn vào chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong pháp
luật của Nhà nước, người ta có thể nhận biết được trình độ phát triển các điều kiện KT
chí của Nhà nước thể hiện bản chất của chế độ xã hội đó. Tương ứng với mỗi chế độ xã hội cụ
thể là một chế độ HN&GĐ, trong đó có các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng.
Chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong pháp luật có vai trò dùng để xác định các
loại tài sản trong quan hệ giữa vợ chồng và gia đình. Khi hai bên nam nữ kết hôn với nhau trở
vợ chồng, chế độ tài sản của vợ chồng được dữ liệu với những thành phần tài sản của vợ
chồng. Dù vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận hay pháp định, dù chế độ tài sản
cộng đồng hay theo tiêu chuẩn phân sản thì các loại tài sản của vợ chồng luôn được pháp luật
quy định rõ.
Chế độ tài sản vợ chồng được sử dụng với ý nghĩa là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh
chấp về tài sản giữa vợ chồng với nhau hoặc với những người khác trong thực tế, nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng về tài sản của các bên vợ chồng hoặc người thứ ba tham gia vào
giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng. Khi vợ, chồng tham gia các giao dịch nhằm đáp
ứng cho nhu cầu thiết yếu của gia đình. Những giao dịch đó được xác lập vì lợi ích chung của
gia đình nên cả vợ và chồng đều phải liên đới trách nhiệm trong việc thực hiện giao dịch với
người khác. Trong suốt thời kì hôn nhân, vợ chồng sẽ tham gia rất nhiều các giao dịch vì cuộc
sống chung của gia đình hay vì mục đích riêng của mỗi vợ chồng mà các cơ quan có thẩm
quyền có cơ sở để giải quyết các tranh chấp liên quan, bảo vệ quyền lợi của các bên, góp phần
tạo sự ổn định trật tự xã hội.
Trường hợp thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu
Thỏa thuận giữa vợ và chồng về CĐTS, dù hiện nay pháp luật chưa quy định chính thức là
một hợp đồng, nhưng về nguyên tắc là một loại giao dịch. Và với tư cách là một loại giao dịch,
các thỏa thuận này phải tuân thủ những điều kiện nhất định để phát sinh hiệu lực. Theo Điều 50
Luật HN&GĐ năm 2014 quy định:
“1. Thỏa thuận về CĐTS của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu khi thuộc một trong các
trường hợp sau đây:
a) Không tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Bộ luật Dân sự và các
luật khác có liên quan;
b) Vi phạm một trong các quy định tại các Điều 29, 30, 31 và 32 của Luật này;
c) Nội dung của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế
và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình.
2. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp
hướng dẫn khoản 1 Điều này”.
Như vậy, với quy định này có thể thấy có ba lý do để Tòa án có thể tuyên bố vô hiệu đối với
một thỏa thuận về CĐTS giữa vợ và chồng.
Thứ nhất, không tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Bộ luật Dân sự
và các luật khác có liên quan. Theo quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự
được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo
đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường
hợp luật có quy định”.
Mặt khác, tại khoản 1 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định:
“1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm
a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này”.
Như vậy, trong trường hợp nam chưa đủ 20 tuổi hoặc nữ chưa đủ 18 tuổi có thỏa thuận về chế
độ tài sản vợ chồng thì thỏa thuận này sẽ bị vô hiệu. Bởi một trong các bên chưa có đầy đủ năng
lực pháp luật dân sự.Với quy định trên, nếu việc kết hôn bị tuyên bố hủy do vi phạm điều kiện
về độ tuổi, hay điều kiện về sự tự nguyện thì thỏa thuận về CĐTS giữa vợ và chồng cũng bị
tuyên bố vô hiệu theo.
Thứ hai, thỏa thuận về CĐTS của vợ chồng vi phạm một trong các quy định tại các Điều 29,
và 32 của Luật HN&GĐ năm 2014. Các quy định tại Điều 29, 30, 31, 32 Luật HN&GĐ
năm 2014 tạo thành một CĐTS cơ sở mà dù là CĐTS thỏa thuận hay CĐTS theo luật định cũng
phải tuân thủ. Vi phạm một trong các nguyên tắc này thì thỏa thuận về CĐTS sẽ bị tuyên bố vô
hiệu. Có thể lấy ví dụ nguyên tắc “vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc
tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia
đình và lao động có thu nhập”. Nguyên tắc này rất quan trọng trong việc xác định sự bình đẳng
của vợ chồng về quyền, nghĩa vụ trong gia đình. Theo đó, nếu trong thỏa thuận về CĐTS giữa
vợ và chồng có quy định cho rằng “trong thời kỳ hôn nhân chỉ có người chồng là lao động có
thu nhập cho nên mọi định đoạt về tài sản chung cần phải có ý kiến của người chồng” thì thỏa
thuận đó sẽ vô hiệu.
Thứ ba, nội dung của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được
thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình.
Theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 6 Thông tư liên tịch số 01/TTLT
BTP ngày 06/01/2016 thì: “Nội dung của thỏa thuận về CĐTS của vợ chồng bị vô hiệu do vi
phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và các quyền, lợi ích hợp pháp
khác của cha, mẹ, con và các thành viên khác của gia đình quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50
của Luật HN&GĐ năm 2014 là trường hợp thỏa thuận đó nhằm trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng
quy định từ Điều 110 đến Điều 115 của Luật HN&GĐ năm 2014 hoặc để tước bỏ quyền thừa kế
của những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo quy định của Bộ luật Dân
sự hoặc vi phạm các quyền, lợi ích hợp pháp của cha, mẹ, con và các thành viên khác của gia
đình đã được Luật HN&GĐ và pháp luật khác có liên quan quy định”.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện chế độ tài sản của vợ chồng
theo thỏa thuận
2.1. Thực tiễn áp dụng hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng.
Luật HN&GĐ 2014 ghi nhận chế định về chế độ tài sản theo thoả thuận giữa vợ chồng đã cho
thấy có sự thay đổi lớn trong nhận thức của các nhà làm luật đối với chế độ tài sản giữa vợ
chồng. Và khi chế định này được áp dụng trên thực tế cũng đã thể hiện được những điểm tích
cực và tạo được thuận lợi ban đầu.
Mở ra thêm một sự lựa chọn mới về chế độ tài sản của vợ chồng cho các bên
Trước khi Luật HN&GĐ 2014 ra đời thì pháp luật chỉ công nhận duy nhất một chế độ tài sản
giữa vợ chồng đó là chế độ tài sản pháp định. Tuy nhiên, từ khi Luật HN&GĐ 2014 ra đời, cụ
thể tại Khoản 1 Điều 28 Luật này thì bên cạnh chế độ tài sản pháp định đã bổ sung thêm chế độ
tài sản theo thỏa thuận và vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng một trong hai chế độ này. Qua
đó, cho thấy có sự thay đổi lớn trong tư duy của các nhà làm luật đối với chế độ tài sản giữa vợ
chồng, đồng thời làm cho chế độ tài sản này không còn cứng nhắc mà trở nên mềm dẻo, linh
hoạt hơn.
Việc các bên lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận là cơ sở
Phân định rạch ròi về tài sản cho mỗi bên
Khi chế độ này được lựa chọn thì các bên buộc phải cung cấp thông tin về những nguồn tài
sản mà mình đang sở hữu, trên cơ sở đó xác lập nên văn bản thỏa thuận quy định rõ đâu là tài
sản riêng và đâu là tài sản đưa vào tài sản chung, tài sản phục vụ nhu cầu đời sống. Nhờ vậy
mỗi bên vợ, chồng phân định rạch ròi về tài sản để phục vụ cho nhu cầu riêng và chung của
Bảo vệ tài sản của mỗi bên vợ, chồng
Ngoài việc thỏa thuận về tài sản thì trong văn bản thỏa thuận còn quy định về quyền và nghĩa
vụ của các bên đối với tài sản chung, riêng. Chính vì vậy, tài sản của mỗi bên sẽ được bảo vệ,
đồng thời hạn chế tình trạng xâm hại hay phá tán tài sản thường diễn ra khi áp dụng chế độ tài
sản theo pháp định.
Bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba khi xác lập, thực hiện giao dịch với vợ,
chồng
Khi tiến hành thực hiện xác lập, thực hiện các giao dịch thì vợ, chồng có nghĩa vụ cung cấp
cho bên thứ ba biết về những thông tin liên quan đến tài sản dùng để thực hiện giao dịch đó mà
văn bản thỏa thuận sẽ là căn cứ để việc cung cấp th xác nhất. Nhờ vậy, việc xác
lập, thực hiện các giao dịch sẽ thuận lợi và mang tính an toàn hơn cho vợ, chồng và đặc biệt là
bên thứ ba.
Tạo điều kiện cho hoạt động tiêu dùng, kinh doanh riêng của mỗi bên
Chế độ tài sản này được áp dụng sẽ làm cho tài sản chung của vợ chồng ít hơn so với việc áp
dụng chế độ tài sản luật định, mỗi bên vợ chồng sẽ có nhiều hơn các nguồn tài sản riêng và đây
chính là điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy việc tiêu dùng cá ân của mỗi bên vào các nhu
cầu vật chất, tinh thần. Ngoài ra, với nguồn tài sản riêng này thì vợ, chồng sẽ thuận lợi hơn
trong việc thực hiện các thỏa thuận hay ký kết các hợp đồng dịch vụ, đầu tư kinh doanh nhằm
phục vụ cho nhu cầu cá nhân hay làm tăng ối lượng tài sản riêng của mình.
Giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Văn bản thỏa thuận về tài sản này sẽ là căn cứ để Tòa án xác định đâu là tài sản riêng, đâu là
tài sản chung và đâu là tài sản phát sinh thêm để giải quyết tranh chấp.Nếu có khi ly hôn, văn
bản thỏa thuận về tài sản được xem như luật riêng của các bên. Từ đó, Tòa án chỉ cần căn cứ
vào sự thỏa thuận của các bên nếu như sự thỏa thuận đó hợp pháp.
ế
Cuộc sống hôn nhân không phải lúc nào cũng tràn ngập màu hồng, đã gọi là cuộc sống thì
phải có đủ các khía cạnh vui, buồn, sướng, khổ và khó khăn là một phần của cuộc sống này.Chế
độ tài sản theo thỏa thuận giữa vợ và chồng là một trong những quy định mới mang tính hội
nhập, hướng ngoại cao, thuận lợi cho phân định tài sản khi kết hôn nhưng nó vẫn còn tồn đọng
những hạn chế vướng mắc cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Nhóm nghiên cứu sẽ phân tích một số
điểm hạn chế, bất cập như sau:
Chế độ này ít được lựa chọn trên thực tế
Trên thực tế, chế định về tài sản theo thỏa thuận giữa vợ và chồng là một chế độ mới nhằm
phục vụ các yêu cầu về tài sản trong hôn nhân nhưng vẫn ít được lựa chọn bởi các lý do sau:
Thứ nhất, việc quy định chế độ này trong văn bản pháp luật vẫn chưa được người dân biết
đến nhiều. Khi một văn bản pháp luật ra đời thì phải mất một khoảng thời gian khá dài từ khi
nghiên cứu cho tới khi có dự thảo trình dự thảo – phê duyệt nhưng chẳng mấy khi người dân
quan tâm đến điều này và rồi khi các chế độ mới ra đời cũng xảy ra tương tự. Phải chăng chính
người dân đang thờ ơ với những khuôn khổ pháp luật bảo vệ cho bản thân họ hay vì công tác
tuyên truyền, phổ biến luật cho người dân từ phía nhà nước vẫn còn hạn chế?
Đối tượng có thể áp dụng chế định này là các đôi nam nữ chuẩn bị bước vào con đường hôn
nhân. Họ có thể không biết thông tin về chế độ này cũng như cách thức tiến hành thủ tục như
thế nào cho hợp lý trong việc thỏa thuận tài sản của họ. Bên cạnh đó, so với các quốc gia khác
như Mỹ, Pháp hay Nhật mọi người có xu hướng kết hôn muộn, lúc đó các cá nhân đã có một
khối tài sản nhất định có thể có nguồn gốc từ gia đình hoặc từ thu nhập mà khi tiến đến hôn
nhân họ muốn rạch ròi trong tài sản nhất là ở lĩnh vực kinh doanh riêng khi muốn đưa ra quyết
định đầu tư hoặc dễ dàng cấp dưỡng cho con riêng (nếu có) nên họ sẽ quan tâm và tìm hiểu rõ
hơn quy định của pháp luật về điều này. Cho nên, nếu cá nhân quan tâm đến vấn đề nào đó thì
họ sẽ tìm hiểu kỹ về các quy định có liên quan để có thể đảm bảo tối đa quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Còn tại Việt Nam, các cặp đôi kết hôn khi vẫn còn trẻ, chưa có nhiều tài sản nên
chưa thật sự quan tâm đến CĐTS này.
Về mặt tuyên truyền, trong công tác này chưa thực sự phát huy trong việc sâu sát, gần gũi với
người dân khi tuyên truyền. Hầu như những người chuẩn bị kết hôn không nắm rõ và định hình
được các quy định pháp luật về tài sản theo thỏa thuận trong đời sống hôn nhân nên vẫn còn
nhiều điểm hạn chế.
Thứ hai, các quy định mới mang tính chất thỏa thuận nên chưa có điểm tương đồng, phù hợp
với phong tục tập quán của người dân, đây vẫn là một trong những lý do chính đem lại khó khăn
trong công tác pháp chế. Đối với một đất nước có truyền thống lâu đời về nét sống tình cảm thì
việc chọn cách thức “bên ngoài” có sự “rạch ròi, chặt chẽ” là điều không mấy được ủng hộ cho
dù Việt Nam đang trên đà hội nhập và phát triển cùng thế giới.
Từ xưa, ông bà ta thường quan niệm trong đời sống vợ chồng luôn thủy chung, son sắc, chịu
thương chịu khó, người vợ người chồng gắn kết nhau bằng chữ duyên chữ nợ và cùng sống với
nhau. Việc phân chia tài sản lại là việc không có đối với các cặp vợ chồng vì họ quan niệm cùng
sống, cùng ăn, cùng ở; “của chồng công vợ” là câu thành ngữ nêu vai trò quan trọng của người
vợ đối với thành công của người chồng, người chồng có làm nên việc gì cũng đều có công sức
đóng góp của người vợ, vì thế giữa vợ chồng không nên tách bạch, rạch ròi.Hơn nữa, vấn đề tài
sản là một vấn đề nhạy cảm khi nói đến trong hôn nhân. Vì khi một đôi nam nữ yêu nhau thì họ
mới tiến tiếp đến hôn nhân, tài sản là một phần để đảm bảo điều kiện kinh tế cho cuộc hôn nhân
đó tồn tại.
Nghiên cứu mối liên hệ này cho chúng ta thấy được các giá trị quyền con người nói chung, sự
tương đồng, sự khác biệt và những tác động qua lại giữa quyền của các bên tham gia quan hệ
hôn nhân gia đình, phong tục tập quán và giá trị đạo đức truyền thống, từ đó thấy được sự ảnh
hưởng của chúng đối với quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về các quy định tài sản
trong hôn nhân ở Việt Nam hiện nay. Có thể khẳng định, các mối quan hệ hôn nhân chỉ được
pháp luật điều chỉnh một cách tổng thể nhất chứ không đi vào cụ thể các vấn đề phát sinh trong
quan hệ hôn nhân và gia đình. Điều đó làm nét đẹp văn hóa của các dân tộc không bị đồng nhất
và hòa tan. Bên cạnh đó, con người sống với nhau bằng tình cảm gắn kết là chính cùng các mối
quan hệ nhân thân sẽ tạo nên những cuộc hôn nhân bền vững và hạnh phúc. Ngoài ra việc lập ra
một văn bản thỏa thuận cũng có thể tốn thêm thời gian – chi phí của các bên.
Thời điểm lập văn bản thỏa thuận
Theo Điều 47 Luật HN&GĐ Việt Nam 2014 quy định: “Trong trường hợp hai bên kết hôn
lựa chọn CĐTS theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình
thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận
được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn”. Tuy nhiên, theo yêu cầu của khoản 2 Điều 18 của
Luật Hộ tịch Việt Nam năm 2014 “Giấy chứng nhận kết hôn phải có các thông tin sau đây: a)
Họ, chữ đệm và tên; ngày, tháng, năm sinh; dân tộc; quốc tịch; nơi cư trú; thông tin về giấy tờ
chứng minh nhân thân của hai bên nam, nữ; b) Ngày, tháng, năm đăng ký kết hôn; c) Chữ ký
hoặc điểm chỉ của hai bên nam, nữ và xác nhận của cơ quan đăng ký hộ tịch”. Theo quy định
nêu trên và đối chiếu các quy định khác của Luật này về thủ tục đăng ký kết hôn không thấy
quy định về việc cơ quan đăng ký kết hôn hoặc phải ghi nhận có sự tồn tại của CĐTS thỏa thuận
(trong giấy chứng nhận đăng ký kết hôn hoặc trong sổ lưu), hoặc phải kiểm tra về việc có hay
không tồn tại CĐTS thỏa thuận.
Như vậy, quy định bắt buộc về thời điểm phải xác lập CĐTS thỏa thuận là trước khi kết hôn
không có điều kiện để đảm bảo thực hiện. Do đó, kiến nghị cần bổ sung thêm vào trong các
thông tin cần có của giấy chứng nhận kết hôn thông tin rằng “Vợ, chồng kết hôn trên cơ sở
CĐTS thoả thuận” (nếu có). Quy định này rất cần thiết trong việc quản lý của nhà nước, đặc
biệt trong giải quyết tranh chấp về tài sản cũng như để bảo vệ người thứ ba trong việc tiếp cận
thông tin có liên quan đến quan hệ tài sản giữa vợ chồng.
Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng chỉ “lập một lần”
Khi pháp luật đã công nhận chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng và để quy định này có
thể áp dụng vào thực tiễn thì không thể bỏ qua bước quan trọng trước hết chính là việc xác lập
thỏa thuận.
Việt Nam, các nhà làm luật quy định về thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng tại
Điều 47 Luật HN&GĐ 2014 trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa
thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng
hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được lập kể từ ngày đăng ký hết
hôn và chỉ có hiệu lực kể từ ngày đăng ký kết hôn. Việc vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng
chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận chỉ diễn ra trước khi kết hôn,
khi đã kết hôn rồi thì vợ chồng không thể lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận giữa vợ chồng
nữa. Trường hợp trước khi đi đến cuộc sống hôn nhân vợ chồng đã chọn chế độ tài sản theo
thỏa thuận và đã xác lập giao kết nhưng sau thời gian chung sống lại hủy bỏ thì nếu như cảm
thấy cần và muốn chọn lại chế độ tài sản theo thỏa thuận nhưng lúc này theo pháp luật thì không
thể lập lại thỏa thuận được. Từ đây ta có thể thấy quy định về thời điểm lập thỏa thuận sẽ kéo
theo việc khi vợ chồng đã hủy bỏ thỏa thuận về chế độ tài sản dù theo lý do chủ quan hay khách
quan thì đều không có cơ hội để xác lập lại một lần nữa. Đây là một hạn chế của quy định pháp
luật hôn nhân về chế định chế độ tài sản của vợ chồng đáng lưu tâm đến.
Về mặt nội dung văn bản thỏa thuận
Để duy trì cuộc sống hôn nhân thì điều không thể thiếu chính là mặt tài chính trong gia đình
cho nên tài sản vợ chồng là một trong những nội dung quan trọng của pháp luật HN&GĐ. Sau
khi kết hôn, tài sản chung được hình thành, các lợi ích và các quyền chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt đối với khối tài sản này cũng vì thế mà hình thành.
Trường hợp lựa chọn áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì vợ chồng có thể
thỏa thuận về xác định tài sản theo một trong các nội dung quy định tại Điều 48 Luật HN&GĐ
2014 chi tiết tại Điều 15 Nghị định số 126/2014/NĐ CP quy định về việc xác định tài sản của
vợ chồng theo thỏa thuận. Cụ thể bao gồm: thứ nhất là tài sản của vợ chồng bao gồm tài sản
chung và tài sản riêng của vợ, chồng; thứ hai là giữa vợ và chồng không có tài sản riêng của vợ,
chồng mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân đều
thuộc tài sản chung; thứ ba là giữa vợ và chồng không có tài sản chung mà tất cả tài sản do vợ,
chồng có được trước khi kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu riêng của người có
được tài sản đó; cuối cùng là xác định theo thỏa thuận khác của vợ chồng.
Từ đó cho thấy, Luật HN&GĐ 2014 về mặt nội dung trong thỏa thuận còn hạn chế, chỉ được
thỏa thuận về tài sản trong khi xoay quanh cuộc sống hôn nhân không chỉ có vấn đề tài sản mà
còn vấn đề khác như nhân thân. Việc cuộc sống vợ chồng không thể đi đến hạnh phúc bền lâu là
chuyện không thể biết trước. Khi cảm thấy không còn hoà hợp trong cuộc sống vợ chồng, thì ly
giải pháp mà cả hai đưa ra. Tuy nhiên, một vấn đề được bàn tới trong “hậu ly hôn” đó là
phân chia tài sản, phân chia tài sản chung, tài sản riêng trước và sau khi kết hôn, các vấn đề liên
quan đến trách nhiệm với con cái (nếu có),... Đây cũng là vấn đề vướng mắc trong hầu hết các
vụ án ly hôn thời gian gần đây
Quan điểm và đề xuất hướng giải quyết về quy định hiệu lực của chế độ tài sản
theo thỏa thuận của vợ chồng
Một là Thời điểm lập văn bản thỏa thuận theo quy định của Luật HN&GĐ hiện hành chỉ mới
cho phép các bên được lập văn bản thỏa thuận này trước khi kết hôn. Tuy nhiên, Luật quy định
như vậy chưa thực sự phù hợp với thực tiễn. Việc lập văn bản thỏa thuận trước hay sau khi kết
hôn theo quan điểm của nhóm không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Vì
vậy, Luật cần phải sửa đổi nội dung này cho phù hợp hơn. Chẳng hạn như cho phép các bên
nam nữ được tự do lựa chọn thời điểm lập miễn sao tuân thủ về nội dung và hình thức theo quy
định để văn bản có hiệu lực.
Đối với quy định văn bản về CĐTS theo thỏa thuận của vợ chồng chỉ được lập một
lần và khi thấy cần thiết thì được sửa đổi bổ sung. Tuy nhiên, kiến nghị bỏ quy định này.
Việc lập, hủy bỏ, lập lại là quyền của các bên đối với tài sản của họ. Cho nên, Luật không nên
khống chế đối với việc hủy bỏ và sẽ không được lập lại văn bản CĐTS theo thỏa thuận của vợ
chồng nữa.
Về nội dung, Luật hiện hành tại Điều 48 và Điều 15 Nghị định số 126/2014 chỉ mới
cho phép các bên được quyền thỏa thuận về tài sản mà thôi. Còn các vấn đề khác, chẳng hạn
như về nhân thân, về con thì chưa cho phép các bên được phép thỏa thuận trong văn bản. Đây
cũng là một quy định cần xem xét lại. Bởi vì qua việc nghiên cứu nội dung trong văn bản thỏa
thuận về hôn ước của một số nước thì hầu như các quốc gia này đều cho phép các bên được
quyền thỏa thuận phạt vi phạm nếu một trong hai bên vi phạm về quyền và nghĩa vụ của vợ
chồng. Chẳng hạn như: nếu bên nào ngoại tình thì phải nộp phạt cho bên còn lại một khoản tiền
tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên. Mục đích quốc gia họ cho phép các cặp vợ chồng được
thỏa thuận nội dung này cũng là để nâng cao ý thức của vợ chồng trong đời sống hôn nhân và
bảo vệ cho gia đình của họ. Còn tại Việt Nam những nội dung như thế này chưa được cho phép
thỏa thuận. Nếu một trong hai bên có vi phạm thì có các quy định của Nhà nước để xử lý.
| 1/12

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT – ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
Luật hôn nhân & gia đình
Giảng viên: T Ngô Thanh Hương Thơ Lớp
…………………………. Hà Nội, ngày năm 2023
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng.
Khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng
Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận (chế độ tài sản ước định)
Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng trước khi kết hôn
Khái niệm hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng.
Điều kiện, thời điểm có hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng.
Về hình thức của thỏa thuận
Về nội dung của thỏa thuận
Vai trò, ý nghĩa của hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng
Trường hợp thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu
Chương 2: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện hiệu lực của chế độ tài sản
của vợ chồng theo thỏa thuận

2.1. Thực tiễn áp dụng hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng.
2.1.1. Mặt tích cực – thuận lợi
2.1.2. Mặt hạn chế bất cập
2.2. Quan điểm và đề xuất hướng giải quyết về quy định hiệu lực của chế độ tài sản theo
thỏa thuận của vợ chồng Đề bài
hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng.
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng.
niệm chế độ tài sản của vợ chồng
Chế độ tài sản của vợ chồng được dự liệu xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của gia đình
đối với sự phát triển của xã hội, do tính chất, mục đích của quan hệ hôn nhân được xác lập, chế
độ tài sản của vợ chồng được quy định phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế xã hội, phong tục,
tập quán, truyền thống văn hoá của đất nước. Các nhà làm luật đã quan tâm xây dựng các quy
định về chế độ tài sản của vợ chồng là một trong những chế định quan trọng, cơ bản nhất của
pháp luật hôn nhân và gia đình.
Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh về tài sản của vợ
chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với
tài sản chung, tài sản riêng; nguyên tắc phân chia tài sản giữa vợ và chồng.
Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận (chế độ tài sản ước định)
Đây là loại chế độ tài sản dựa trên sự thoả thuận của vợ chồng (hôn ước). Miễn sao sự thoả
thuận đó không trái với trật tự công cộng, với đạo đức, với thuần phong mỹ tục và những quy
định của pháp luật. Luận văn phân tích và khẳng định hệ thống pháp luật về HN&GĐ của Nhà
nước ta từ năm 1945 đến Luật HN&GĐ năm 2000 không quy định về loại chế độ tài sản này.
Hiện nay, Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã bổ sung quy định về áp dụng chế độ
tài sản của vợ chồng: “Vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc
chế độ tài sản theo thoả thuận”
Chế độ tài sản theo thỏa thuận là chế độ tài sản do vợ chồng cùng nhau bàn bạc, thảo luận
trước khi kết hôn về các nội dung liên quan đến tài sản chung, tài sản riêng, quyền và nghĩa vụ
của vợ chồng đối với tài sản cũng như việc phân chia tài sản của vợ chồng khi chấm dứt chế độ
tài sản vợ chồng trên cơ sở tự do, tự nguyện và thỏa thuận này được gọi là thỏa thuận xác lập
chế độ tài sản của vợ chồng.
Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng trước khi kết hôn
Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng trước khi kết hôn là việc mà vợ chồng tự thỏa thuận với
nhau về việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với tài sản của họ. Thông thường, thỏa thuận này
được thể hiện dưới dạng văn bản với nhiều tên gọi khác nhau như hợp đồng tiền hôn nhân, hôn ước h
thỏa thuận trước hôn nhân. Khi không có thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng thì tài sản của họ
mới theo sự điều chỉnh của pháp luật ( chế độ tài sản vợ chồng theo pháp định). Trên thực tế, việc quy
định như vậy bảo đảm được quyền tự định đoạt của cá nhân đối với tài sản của mình. Đặc biệt, điều đó
còn cho phép vợ chồng có thể tự bảo toàn được khối tài sản riêng của mình, tránh hoặc làm giảm đi sự xung đột sau khi chia tay.
Khái niệm hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng.
Hiệu lực thỏa thuận là giá trị pháp lý của thỏa thuận làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của
các bên tham gia và giá trị pháp lý ràng buộc các bên tham gia thỏa thuận phải tôn trọng và phải
thi hành nghiêm túc các quyền và nghĩa vụ đó.
Điều kiệ , thời điểm có hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng.
Theo quy định tại Điều 47 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 “Trong trường hợp hai bên
kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết
hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo
thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn”. Với quy định này thì trước khi đăng ký
kết hôn các bên vợ chồng phải lựa chọn chế độ tài sản (CĐTS) của vợ chồng và phải lập
văn bản có công chứng hoặc chứng thực nhằm đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên trong
khối tài sản của mình. Thời điểm chế độ thỏa thuận tài sản của vợ chồng phát sinh hiệu lực từ
lúc được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Như vậy, văn
bản thỏa thuận là văn bản riêng và không được ghi nhận trong Giấy chứng nhận đăng ký kết
hôn, cũng như không phải là điều kiện bắt buộc trong thủ tục đăng ký kết hôn.
Về hình thức của thỏa thuận
Theo quy định tại Luật Hôn nhân và Gia đình thì Thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ
chồng phải được xác lập trước khi kết hôn và chỉ có hiệu lực khi được lập bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực.
Về nội dung của thỏa thuận
Để một thỏa thuận có hiệu lực và phù hợp với quy định của pháp luật cũng như được cả vợ
chồng công nhận, pháp luật quy định về những nội dung cơ bản được ghi nhận trong văn bản thỏa thuận như sau:
Thứ nhất, tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng. Đây là nội
dung căn bản quan trọng nhất, xác định tài sản nào là tài sản chung và là tài sản riêng của vợ
chồng. Thỏa thuận này nhằm tách bạch tài sản của mỗi bên trong quan hệ vợ chồng. Một trong
những nội dung bắt buộc của Thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng là nội dung liên
quan đến xác định quyền sở hữu đối với tài sản. Theo đó, vợ chồng có thể thỏa thuận xác định
tài sản bằng một trong các phương pháp như sau:
(i) Tài sản giữa vợ và chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng;
(ii) Giữa vợ và chồng không có tài sản riêng của vợ, chồng mà tất cả tài sản do vợ, chồng có
được trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc tài sản chung;
(iii) Giữa vợ và chồng không có tài sản chung mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi
kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu riêng của người có được tài sản đó;
(iv) Xác định theo thỏa thuận khác của vợ chồng.
Thứ hai, quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có
liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình. Qua đó, nhằm để xác định nghĩa
vụ tài sản của mỗi bên đối với bên thứ ba trong giao dịch dân sự. Nội dung này có thể bao gồm các quy định về:
uyền, nghĩa vụ chung của vợ chồng đối với tài sản chung, đối với các giao dịch do vợ
chồng cùng xác lập, các nghĩa vụ đối với con chung cũng như đối với nhu cầu thiết yếu của gia
đình hoặc các nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà pháp luật quy định là nghĩa vụ chung của vợ chồng;
uyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mỗi bên, nghĩa vụ riêng về tài sản của mình;
ghĩa vụ cung cấp thông tin về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận khi xác lập,
thực hiện giao dịch với người thứ ba.
Thứ ba, điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt CĐTS. Đây được xem
là ghi nhận về hậu quả pháp lý của thỏa thuận trong trường hợp thỏa thuận bị vô hiệu hoặc
chấm dứt theo quy định của pháp luật. Các bên có thể thỏa thuận việc phân chia tài sản khi
chấm dứt chế độ tài sản theo tỷ lệ đóng góp của mỗi bên vào tài sản chung hoặc có thể thỏa
thuận sẽ được phân chia thành hai phần bằng nhau cho vợ chồng.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định vợ chồng có thể thỏa thuận những nội dung khác có liên
quan trong văn bản thỏa thuận. Trong quan hệ tài sản các bên vợ chồng có quyền thỏa thuận sửa
đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận ban đầu. Với hình thức và nội dung của thỏa thuận CĐTS
được thực hiện tương tự như thỏa thuận trước đây. Cũng cần lưu ý rằng, khi thực hiện CĐTS
theo thỏa thuận mà phát sinh những vấn đề chưa được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận
không rõ ràng thì áp dụng quy định tại các điều 29, 30, 31 và 32 của Luật HN&GĐ năm 2014
và các quy định tương ứng của CĐTS theo luật định.
Vai trò, ý nghĩa của hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng
Pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, quản lí nền kinh tế. Vì vậy, bên cạnh việc
ban hành pháp luật buộc tất cả mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành. Việc quy định chế
độ tài sản của vợ chồng trong Luật HN&GĐ có những ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội:
Chế độ tài sản với ý nghĩa là một chế định trong pháp luật HN&GĐ được Nhà nước quy định
dựa trên sự phát triển của các điều kiện kinh tế xã hội. Nó thể hiện tính giai cấp, bản chất của
chế độ chính trị xã hội cụ thể. Nhìn vào chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong pháp
luật của Nhà nước, người ta có thể nhận biết được trình độ phát triển các điều kiện KT
chí của Nhà nước thể hiện bản chất của chế độ xã hội đó. Tương ứng với mỗi chế độ xã hội cụ
thể là một chế độ HN&GĐ, trong đó có các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng.
Chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong pháp luật có vai trò dùng để xác định các
loại tài sản trong quan hệ giữa vợ chồng và gia đình. Khi hai bên nam nữ kết hôn với nhau trở
vợ chồng, chế độ tài sản của vợ chồng được dữ liệu với những thành phần tài sản của vợ
chồng. Dù vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận hay pháp định, dù chế độ tài sản
cộng đồng hay theo tiêu chuẩn phân sản thì các loại tài sản của vợ chồng luôn được pháp luật quy định rõ.
Chế độ tài sản vợ chồng được sử dụng với ý nghĩa là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh
chấp về tài sản giữa vợ chồng với nhau hoặc với những người khác trong thực tế, nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng về tài sản của các bên vợ chồng hoặc người thứ ba tham gia vào
giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng. Khi vợ, chồng tham gia các giao dịch nhằm đáp
ứng cho nhu cầu thiết yếu của gia đình. Những giao dịch đó được xác lập vì lợi ích chung của
gia đình nên cả vợ và chồng đều phải liên đới trách nhiệm trong việc thực hiện giao dịch với
người khác. Trong suốt thời kì hôn nhân, vợ chồng sẽ tham gia rất nhiều các giao dịch vì cuộc
sống chung của gia đình hay vì mục đích riêng của mỗi vợ chồng mà các cơ quan có thẩm
quyền có cơ sở để giải quyết các tranh chấp liên quan, bảo vệ quyền lợi của các bên, góp phần
tạo sự ổn định trật tự xã hội.
Trường hợp thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu
Thỏa thuận giữa vợ và chồng về CĐTS, dù hiện nay pháp luật chưa quy định chính thức là
một hợp đồng, nhưng về nguyên tắc là một loại giao dịch. Và với tư cách là một loại giao dịch,
các thỏa thuận này phải tuân thủ những điều kiện nhất định để phát sinh hiệu lực. Theo Điều 50
Luật HN&GĐ năm 2014 quy định:
“1. Thỏa thuận về CĐTS của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Không tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Bộ luật Dân sự và các luật khác có liên quan;
b) Vi phạm một trong các quy định tại các Điều 29, 30, 31 và 32 của Luật này;
c) Nội dung của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế
và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình.
2. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp
hướng dẫn khoản 1 Điều này”.
Như vậy, với quy định này có thể thấy có ba lý do để Tòa án có thể tuyên bố vô hiệu đối với
một thỏa thuận về CĐTS giữa vợ và chồng.
Thứ nhất, không tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Bộ luật Dân sự
và các luật khác có liên quan. Theo quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường
hợp luật có quy định”.
Mặt khác, tại khoản 1 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định:
“1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm
a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này”.
Như vậy, trong trường hợp nam chưa đủ 20 tuổi hoặc nữ chưa đủ 18 tuổi có thỏa thuận về chế
độ tài sản vợ chồng thì thỏa thuận này sẽ bị vô hiệu. Bởi một trong các bên chưa có đầy đủ năng
lực pháp luật dân sự.Với quy định trên, nếu việc kết hôn bị tuyên bố hủy do vi phạm điều kiện
về độ tuổi, hay điều kiện về sự tự nguyện thì thỏa thuận về CĐTS giữa vợ và chồng cũng bị tuyên bố vô hiệu theo.
Thứ hai, thỏa thuận về CĐTS của vợ chồng vi phạm một trong các quy định tại các Điều 29,
và 32 của Luật HN&GĐ năm 2014. Các quy định tại Điều 29, 30, 31, 32 Luật HN&GĐ
năm 2014 tạo thành một CĐTS cơ sở mà dù là CĐTS thỏa thuận hay CĐTS theo luật định cũng
phải tuân thủ. Vi phạm một trong các nguyên tắc này thì thỏa thuận về CĐTS sẽ bị tuyên bố vô
hiệu. Có thể lấy ví dụ nguyên tắc “vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc
tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia
đình và lao động có thu nhập”. Nguyên tắc này rất quan trọng trong việc xác định sự bình đẳng
của vợ chồng về quyền, nghĩa vụ trong gia đình. Theo đó, nếu trong thỏa thuận về CĐTS giữa
vợ và chồng có quy định cho rằng “trong thời kỳ hôn nhân chỉ có người chồng là lao động có
thu nhập cho nên mọi định đoạt về tài sản chung cần phải có ý kiến của người chồng” thì thỏa thuận đó sẽ vô hiệu.
Thứ ba, nội dung của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được
thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình.
Theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 6 Thông tư liên tịch số 01/TTLT
BTP ngày 06/01/2016 thì: “Nội dung của thỏa thuận về CĐTS của vợ chồng bị vô hiệu do vi
phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và các quyền, lợi ích hợp pháp
khác của cha, mẹ, con và các thành viên khác của gia đình quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50
của Luật HN&GĐ năm 2014 là trường hợp thỏa thuận đó nhằm trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng
quy định từ Điều 110 đến Điều 115 của Luật HN&GĐ năm 2014 hoặc để tước bỏ quyền thừa kế
của những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo quy định của Bộ luật Dân
sự hoặc vi phạm các quyền, lợi ích hợp pháp của cha, mẹ, con và các thành viên khác của gia
đình đã được Luật HN&GĐ và pháp luật khác có liên quan quy định”.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận
2.1. Thực tiễn áp dụng hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng.
ự – ậ ợ
Luật HN&GĐ 2014 ghi nhận chế định về chế độ tài sản theo thoả thuận giữa vợ chồng đã cho
thấy có sự thay đổi lớn trong nhận thức của các nhà làm luật đối với chế độ tài sản giữa vợ
chồng. Và khi chế định này được áp dụng trên thực tế cũng đã thể hiện được những điểm tích
cực và tạo được thuận lợi ban đầu.
Mở ra thêm một sự lựa chọn mới về chế độ tài sản của vợ chồng cho các bên
Trước khi Luật HN&GĐ 2014 ra đời thì pháp luật chỉ công nhận duy nhất một chế độ tài sản
giữa vợ chồng đó là chế độ tài sản pháp định. Tuy nhiên, từ khi Luật HN&GĐ 2014 ra đời, cụ
thể tại Khoản 1 Điều 28 Luật này thì bên cạnh chế độ tài sản pháp định đã bổ sung thêm chế độ
tài sản theo thỏa thuận và vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng một trong hai chế độ này. Qua
đó, cho thấy có sự thay đổi lớn trong tư duy của các nhà làm luật đối với chế độ tài sản giữa vợ
chồng, đồng thời làm cho chế độ tài sản này không còn cứng nhắc mà trở nên mềm dẻo, linh hoạt hơn.
Việc các bên lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận là cơ sở
Phân định rạch ròi về tài sản cho mỗi bên
Khi chế độ này được lựa chọn thì các bên buộc phải cung cấp thông tin về những nguồn tài
sản mà mình đang sở hữu, trên cơ sở đó xác lập nên văn bản thỏa thuận quy định rõ đâu là tài
sản riêng và đâu là tài sản đưa vào tài sản chung, tài sản phục vụ nhu cầu đời sống. Nhờ vậy
mỗi bên vợ, chồng phân định rạch ròi về tài sản để phục vụ cho nhu cầu riêng và chung của
Bảo vệ tài sản của mỗi bên vợ, chồng
Ngoài việc thỏa thuận về tài sản thì trong văn bản thỏa thuận còn quy định về quyền và nghĩa
vụ của các bên đối với tài sản chung, riêng. Chính vì vậy, tài sản của mỗi bên sẽ được bảo vệ,
đồng thời hạn chế tình trạng xâm hại hay phá tán tài sản thường diễn ra khi áp dụng chế độ tài sản theo pháp định.
Bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba khi xác lập, thực hiện giao dịch với vợ, chồng
Khi tiến hành thực hiện xác lập, thực hiện các giao dịch thì vợ, chồng có nghĩa vụ cung cấp
cho bên thứ ba biết về những thông tin liên quan đến tài sản dùng để thực hiện giao dịch đó mà
văn bản thỏa thuận sẽ là căn cứ để việc cung cấp th
xác nhất. Nhờ vậy, việc xác
lập, thực hiện các giao dịch sẽ thuận lợi và mang tính an toàn hơn cho vợ, chồng và đặc biệt là bên thứ ba.
Tạo điều kiện cho hoạt động tiêu dùng, kinh doanh riêng của mỗi bên
Chế độ tài sản này được áp dụng sẽ làm cho tài sản chung của vợ chồng ít hơn so với việc áp
dụng chế độ tài sản luật định, mỗi bên vợ chồng sẽ có nhiều hơn các nguồn tài sản riêng và đây
chính là điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy việc tiêu dùng cá
ân của mỗi bên vào các nhu
cầu vật chất, tinh thần. Ngoài ra, với nguồn tài sản riêng này thì vợ, chồng sẽ thuận lợi hơn
trong việc thực hiện các thỏa thuận hay ký kết các hợp đồng dịch vụ, đầu tư kinh doanh nhằm
phục vụ cho nhu cầu cá nhân hay làm tăng ối lượng tài sản riêng của mình.
Giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Văn bản thỏa thuận về tài sản này sẽ là căn cứ để Tòa án xác định đâu là tài sản riêng, đâu là
tài sản chung và đâu là tài sản phát sinh thêm để giải quyết tranh chấp.Nếu có khi ly hôn, văn
bản thỏa thuận về tài sản được xem như luật riêng của các bên. Từ đó, Tòa án chỉ cần căn cứ
vào sự thỏa thuận của các bên nếu như sự thỏa thuận đó hợp pháp. ế ấ ậ
Cuộc sống hôn nhân không phải lúc nào cũng tràn ngập màu hồng, đã gọi là cuộc sống thì
phải có đủ các khía cạnh vui, buồn, sướng, khổ và khó khăn là một phần của cuộc sống này.Chế
độ tài sản theo thỏa thuận giữa vợ và chồng là một trong những quy định mới mang tính hội
nhập, hướng ngoại cao, thuận lợi cho phân định tài sản khi kết hôn nhưng nó vẫn còn tồn đọng
những hạn chế vướng mắc cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Nhóm nghiên cứu sẽ phân tích một số
điểm hạn chế, bất cập như sau:
Chế độ này ít được lựa chọn trên thực tế
Trên thực tế, chế định về tài sản theo thỏa thuận giữa vợ và chồng là một chế độ mới nhằm
phục vụ các yêu cầu về tài sản trong hôn nhân nhưng vẫn ít được lựa chọn bởi các lý do sau:
Thứ nhất, việc quy định chế độ này trong văn bản pháp luật vẫn chưa được người dân biết
đến nhiều. Khi một văn bản pháp luật ra đời thì phải mất một khoảng thời gian khá dài từ khi
nghiên cứu cho tới khi có dự thảo – trình dự thảo – phê duyệt nhưng chẳng mấy khi người dân
quan tâm đến điều này và rồi khi các chế độ mới ra đời cũng xảy ra tương tự. Phải chăng chính
người dân đang thờ ơ với những khuôn khổ pháp luật bảo vệ cho bản thân họ hay vì công tác
tuyên truyền, phổ biến luật cho người dân từ phía nhà nước vẫn còn hạn chế?
Đối tượng có thể áp dụng chế định này là các đôi nam nữ chuẩn bị bước vào con đường hôn
nhân. Họ có thể không biết thông tin về chế độ này cũng như cách thức tiến hành thủ tục như
thế nào cho hợp lý trong việc thỏa thuận tài sản của họ. Bên cạnh đó, so với các quốc gia khác
như Mỹ, Pháp hay Nhật mọi người có xu hướng kết hôn muộn, lúc đó các cá nhân đã có một
khối tài sản nhất định có thể có nguồn gốc từ gia đình hoặc từ thu nhập mà khi tiến đến hôn
nhân họ muốn rạch ròi trong tài sản nhất là ở lĩnh vực kinh doanh riêng khi muốn đưa ra quyết
định đầu tư hoặc dễ dàng cấp dưỡng cho con riêng (nếu có) nên họ sẽ quan tâm và tìm hiểu rõ
hơn quy định của pháp luật về điều này. Cho nên, nếu cá nhân quan tâm đến vấn đề nào đó thì
họ sẽ tìm hiểu kỹ về các quy định có liên quan để có thể đảm bảo tối đa quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Còn tại Việt Nam, các cặp đôi kết hôn khi vẫn còn trẻ, chưa có nhiều tài sản nên
chưa thật sự quan tâm đến CĐTS này.
Về mặt tuyên truyền, trong công tác này chưa thực sự phát huy trong việc sâu sát, gần gũi với
người dân khi tuyên truyền. Hầu như những người chuẩn bị kết hôn không nắm rõ và định hình
được các quy định pháp luật về tài sản theo thỏa thuận trong đời sống hôn nhân nên vẫn còn nhiều điểm hạn chế.
Thứ hai, các quy định mới mang tính chất thỏa thuận nên chưa có điểm tương đồng, phù hợp
với phong tục tập quán của người dân, đây vẫn là một trong những lý do chính đem lại khó khăn
trong công tác pháp chế. Đối với một đất nước có truyền thống lâu đời về nét sống tình cảm thì
việc chọn cách thức “bên ngoài” có sự “rạch ròi, chặt chẽ” là điều không mấy được ủng hộ cho
dù Việt Nam đang trên đà hội nhập và phát triển cùng thế giới.
Từ xưa, ông bà ta thường quan niệm trong đời sống vợ chồng luôn thủy chung, son sắc, chịu
thương chịu khó, người vợ người chồng gắn kết nhau bằng chữ duyên chữ nợ và cùng sống với
nhau. Việc phân chia tài sản lại là việc không có đối với các cặp vợ chồng vì họ quan niệm cùng
sống, cùng ăn, cùng ở; “của chồng công vợ” là câu thành ngữ nêu vai trò quan trọng của người
vợ đối với thành công của người chồng, người chồng có làm nên việc gì cũng đều có công sức
đóng góp của người vợ, vì thế giữa vợ chồng không nên tách bạch, rạch ròi.Hơn nữa, vấn đề tài
sản là một vấn đề nhạy cảm khi nói đến trong hôn nhân. Vì khi một đôi nam nữ yêu nhau thì họ
mới tiến tiếp đến hôn nhân, tài sản là một phần để đảm bảo điều kiện kinh tế cho cuộc hôn nhân đó tồn tại.
Nghiên cứu mối liên hệ này cho chúng ta thấy được các giá trị quyền con người nói chung, sự
tương đồng, sự khác biệt và những tác động qua lại giữa quyền của các bên tham gia quan hệ
hôn nhân gia đình, phong tục tập quán và giá trị đạo đức truyền thống, từ đó thấy được sự ảnh
hưởng của chúng đối với quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về các quy định tài sản
trong hôn nhân ở Việt Nam hiện nay. Có thể khẳng định, các mối quan hệ hôn nhân chỉ được
pháp luật điều chỉnh một cách tổng thể nhất chứ không đi vào cụ thể các vấn đề phát sinh trong
quan hệ hôn nhân và gia đình. Điều đó làm nét đẹp văn hóa của các dân tộc không bị đồng nhất
và hòa tan. Bên cạnh đó, con người sống với nhau bằng tình cảm gắn kết là chính cùng các mối
quan hệ nhân thân sẽ tạo nên những cuộc hôn nhân bền vững và hạnh phúc. Ngoài ra việc lập ra
một văn bản thỏa thuận cũng có thể tốn thêm thời gian – chi phí của các bên.
Thời điểm lập văn bản thỏa thuận
Theo Điều 47 Luật HN&GĐ Việt Nam 2014 quy định: “Trong trường hợp hai bên kết hôn
lựa chọn CĐTS theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình
thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận
được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn”. Tuy nhiên, theo yêu cầu của khoản 2 Điều 18 của
Luật Hộ tịch Việt Nam năm 2014 “Giấy chứng nhận kết hôn phải có các thông tin sau đây: a)
Họ, chữ đệm và tên; ngày, tháng, năm sinh; dân tộc; quốc tịch; nơi cư trú; thông tin về giấy tờ
chứng minh nhân thân của hai bên nam, nữ; b) Ngày, tháng, năm đăng ký kết hôn; c) Chữ ký
hoặc điểm chỉ của hai bên nam, nữ và xác nhận của cơ quan đăng ký hộ tịch”. Theo quy định
nêu trên và đối chiếu các quy định khác của Luật này về thủ tục đăng ký kết hôn không thấy
quy định về việc cơ quan đăng ký kết hôn hoặc phải ghi nhận có sự tồn tại của CĐTS thỏa thuận
(trong giấy chứng nhận đăng ký kết hôn hoặc trong sổ lưu), hoặc phải kiểm tra về việc có hay
không tồn tại CĐTS thỏa thuận.
Như vậy, quy định bắt buộc về thời điểm phải xác lập CĐTS thỏa thuận là trước khi kết hôn
không có điều kiện để đảm bảo thực hiện. Do đó, kiến nghị cần bổ sung thêm vào trong các
thông tin cần có của giấy chứng nhận kết hôn thông tin rằng “Vợ, chồng kết hôn trên cơ sở
CĐTS thoả thuận” (nếu có). Quy định này rất cần thiết trong việc quản lý của nhà nước, đặc
biệt trong giải quyết tranh chấp về tài sản cũng như để bảo vệ người thứ ba trong việc tiếp cận
thông tin có liên quan đến quan hệ tài sản giữa vợ chồng.
Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng chỉ “lập một lần”
Khi pháp luật đã công nhận chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng và để quy định này có
thể áp dụng vào thực tiễn thì không thể bỏ qua bước quan trọng trước hết chính là việc xác lập thỏa thuận.
Ở Việt Nam, các nhà làm luật quy định về thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng tại
Điều 47 Luật HN&GĐ 2014 trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa
thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng
hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được lập kể từ ngày đăng ký hết
hôn và chỉ có hiệu lực kể từ ngày đăng ký kết hôn. Việc vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng
chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận chỉ diễn ra trước khi kết hôn,
khi đã kết hôn rồi thì vợ chồng không thể lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận giữa vợ chồng
nữa. Trường hợp trước khi đi đến cuộc sống hôn nhân vợ chồng đã chọn chế độ tài sản theo
thỏa thuận và đã xác lập giao kết nhưng sau thời gian chung sống lại hủy bỏ thì nếu như cảm
thấy cần và muốn chọn lại chế độ tài sản theo thỏa thuận nhưng lúc này theo pháp luật thì không
thể lập lại thỏa thuận được. Từ đây ta có thể thấy quy định về thời điểm lập thỏa thuận sẽ kéo
theo việc khi vợ chồng đã hủy bỏ thỏa thuận về chế độ tài sản dù theo lý do chủ quan hay khách
quan thì đều không có cơ hội để xác lập lại một lần nữa. Đây là một hạn chế của quy định pháp
luật hôn nhân về chế định chế độ tài sản của vợ chồng đáng lưu tâm đến.
Về mặt nội dung văn bản thỏa thuận
Để duy trì cuộc sống hôn nhân thì điều không thể thiếu chính là mặt tài chính trong gia đình
cho nên tài sản vợ chồng là một trong những nội dung quan trọng của pháp luật HN&GĐ. Sau
khi kết hôn, tài sản chung được hình thành, các lợi ích và các quyền chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt đối với khối tài sản này cũng vì thế mà hình thành.
Trường hợp lựa chọn áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì vợ chồng có thể
thỏa thuận về xác định tài sản theo một trong các nội dung quy định tại Điều 48 Luật HN&GĐ
2014 chi tiết tại Điều 15 Nghị định số 126/2014/NĐ CP quy định về việc xác định tài sản của
vợ chồng theo thỏa thuận. Cụ thể bao gồm: thứ nhất là tài sản của vợ chồng bao gồm tài sản
chung và tài sản riêng của vợ, chồng; thứ hai là giữa vợ và chồng không có tài sản riêng của vợ,
chồng mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân đều
thuộc tài sản chung; thứ ba là giữa vợ và chồng không có tài sản chung mà tất cả tài sản do vợ,
chồng có được trước khi kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu riêng của người có
được tài sản đó; cuối cùng là xác định theo thỏa thuận khác của vợ chồng.
Từ đó cho thấy, Luật HN&GĐ 2014 về mặt nội dung trong thỏa thuận còn hạn chế, chỉ được
thỏa thuận về tài sản trong khi xoay quanh cuộc sống hôn nhân không chỉ có vấn đề tài sản mà
còn vấn đề khác như nhân thân. Việc cuộc sống vợ chồng không thể đi đến hạnh phúc bền lâu là
chuyện không thể biết trước. Khi cảm thấy không còn hoà hợp trong cuộc sống vợ chồng, thì ly
giải pháp mà cả hai đưa ra. Tuy nhiên, một vấn đề được bàn tới trong “hậu ly hôn” đó là
phân chia tài sản, phân chia tài sản chung, tài sản riêng trước và sau khi kết hôn, các vấn đề liên
quan đến trách nhiệm với con cái (nếu có),... Đây cũng là vấn đề vướng mắc trong hầu hết các
vụ án ly hôn thời gian gần đây
Quan điểm và đề xuất hướng giải quyết về quy định hiệu lực của chế độ tài sản
theo thỏa thuận của vợ chồng
Một là Thời điểm lập văn bản thỏa thuận theo quy định của Luật HN&GĐ hiện hành chỉ mới
cho phép các bên được lập văn bản thỏa thuận này trước khi kết hôn. Tuy nhiên, Luật quy định
như vậy chưa thực sự phù hợp với thực tiễn. Việc lập văn bản thỏa thuận trước hay sau khi kết
hôn theo quan điểm của nhóm không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Vì
vậy, Luật cần phải sửa đổi nội dung này cho phù hợp hơn. Chẳng hạn như cho phép các bên
nam nữ được tự do lựa chọn thời điểm lập miễn sao tuân thủ về nội dung và hình thức theo quy
định để văn bản có hiệu lực.
Đối với quy định văn bản về CĐTS theo thỏa thuận của vợ chồng chỉ được lập một
lần và khi thấy cần thiết thì được sửa đổi bổ sung. Tuy nhiên,
kiến nghị bỏ quy định này.
Việc lập, hủy bỏ, lập lại là quyền của các bên đối với tài sản của họ. Cho nên, Luật không nên
khống chế đối với việc hủy bỏ và sẽ không được lập lại văn bản CĐTS theo thỏa thuận của vợ chồng nữa.
Về nội dung, Luật hiện hành tại Điều 48 và Điều 15 Nghị định số 126/2014 chỉ mới
cho phép các bên được quyền thỏa thuận về tài sản mà thôi. Còn các vấn đề khác, chẳng hạn
như về nhân thân, về con thì chưa cho phép các bên được phép thỏa thuận trong văn bản. Đây
cũng là một quy định cần xem xét lại. Bởi vì qua việc nghiên cứu nội dung trong văn bản thỏa
thuận về hôn ước của một số nước thì hầu như các quốc gia này đều cho phép các bên được
quyền thỏa thuận phạt vi phạm nếu một trong hai bên vi phạm về quyền và nghĩa vụ của vợ
chồng. Chẳng hạn như: nếu bên nào ngoại tình thì phải nộp phạt cho bên còn lại một khoản tiền
tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên. Mục đích quốc gia họ cho phép các cặp vợ chồng được
thỏa thuận nội dung này cũng là để nâng cao ý thức của vợ chồng trong đời sống hôn nhân và
bảo vệ cho gia đình của họ. Còn tại Việt Nam những nội dung như thế này chưa được cho phép
thỏa thuận. Nếu một trong hai bên có vi phạm thì có các quy định của Nhà nước để xử lý.