















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61686166
I. Một số vấn đề lí luận về sự ảnh hưởng của tư tưởng trọng nam khinh nữ đến việc
thực hiện bình đẳng giới trong gia đình 1. Các vấn đề lí luận về tư tưởng trọng nam
khinh nữ (không quá 1.5 trang)
1.1. Khái niệm tư tưởng trọng nam khinh nữ
Tư tưởng "trọng nam khinh nữ" là sự phân biệt đối xử dựa trên giới tính, trong
đó vai trò của người đàn ông được đánh giá cao hơn so với phụ nữ trong các lĩnh vực xã
hội, gia đình và văn hóa. “Nam” và “nữ” là đại diện cho hai giới tính khác nhau trong
xã hội. Còn “trọng” là sự ưu ái, coi trọng. Ngược lại, “khinh” là sự khinh thường, thiếu
tôn trọng,... Những từ này được đặt xen kẽ trong câu tạo thành một tư tưởng về sự phân
biệt giới tính, phân biệt đối xử và bất bình đẳng giới.
1.2. Đặc điểm của tư tưởng trọng nam khinh nữ
Thứ nhất, một trong những đặc điểm rõ rệt của tư tưởng “trọng nam khinh nữ” là
sự ưu tiên dành cho nam giới trong mọi lĩnh vực của xã hội. Quan niệm này coi trọng
vai trò, giá trị và quyền lợi của nam giới hơn nữ giới, đặc biệt trong các quyết định liên
quan đến gia đình, công việc và xã hội. Thứ hai, đây không phải là hiện tượng mới xuất
hiện mà có nguồn gốc sâu trong lịch sử, trong truyền thống văn hóa Nho giáo, gia tộc
nam quyền ở nhiều xã hội Đông Á, trong đó có Việt Nam. Nó đã được cô đọng, tái sản
xuất qua nhiều thế hệ. Các giá trị và quan niệm này được truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác trong gia đình, qua giáo dục, cách ứng xử, truyền thống.
1.3. Nguồn gốc của tư tưởng trọng nam khinh nữ
Tư tưởng “trọng nam khinh nữ” có nguồn gốc từ tư tưởng Nho giáo, bắt đầu từ
khi Khổng Tử sáng lập vào thế kỷ V TCN. Nho giáo ban đầu nhấn mạnh các giá trị như
“tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” với mục tiêu xây dựng xã hội hài hòa và công
bằng. Tuy nhiên, đến thời Hán Vũ Đế, Nho giáo được áp dụng như quốc giáo nhưng lại
bị sửa đổi để phù hợp với chế độ quân chủ chuyên quyền, qua đó hình thành các quan
hệ xã hội bất bình đẳng. Trong đó, phụ nữ bị coi là phụ thuộc vào nam giới, với các quan
niệm như “phu xướng phụ tùy” và “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu”. Khi Nho giáo
du nhập vào Việt Nam, tư tưởng trọng nam khinh nữ tiếp tục ảnh hưởng sâu rộng, làm
cho phụ nữ không có quyền tham gia học hành hay chính sự, và họ bị xếp vào vị trí thấp
trong xã hội. Quan niệm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” thể hiện rõ sự phân biệt
giới tính trong xã hội phong kiến. Mặc dù chế độ phong kiến đã sụp đổ, những tàn dư
của tư tưởng này vẫn còn tồn tại, ảnh hưởng đến suy nghĩ và hành động của nhiều người,
nhất là trong việc đánh giá vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội.
2. Các vấn đề lí luận về thực hiện bình đẳng giới trong gia đình
2.1. Khái niệm về bình đẳng giới
Theo khoản 3 điều 5 luật bình đẳng giới năm 2006 quy định: “ Bình đẳng giới là
việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lOMoAR cPSD| 61686166
lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về
thành quả của sự phát triển đó ”.
2.2. Khái niệm về gia đình
Theo khoản 2 điều 3 luật hôn nhân và gia đình năm 2014 về giải thích từ ngữ quy
định: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết
thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau
theo quy định của luật này.” Gia đình là nơi đầu tiên mà các cá nhân được tiếp xúc, nên
gia đình đóng vai trò cơ bản và quan trọng trong việc định hình và truyền tải những kiến
thức, những vấn đề về giới. Vì lẽ đó gia đình có một vai trò quan trọng trong việc hình
thành nhận thức và thực hiện bình đẳng giới của từng cá nhân trong gia đình nói riêng
và trong xã hội nói chung.
2.3. Khái niệm về bình đẳng giới trong gia đình1
Bình đẳng giới trong gia đình là việc vợ và chồng, con trai và con gái, các thành
viên nam và nữ trong gia đình có vị thế ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát
huy năng lực cho sự phát triển của bản thân và gia đình, được thụ hưởng thành quả và
tham gia quyết định các vấn đề của bản thân và của gia đình như nhau.
Bình đẳng giới không có nghĩa là bằng nhau. Do đặc điểm sinh học của nam và
nữ khác nhau, thứ bậc của mỗi thành viên trong gia đình cũng khác nhau nên mỗi thành
viên có thể thực hiện vai trò khác nhau, có các tiếp cận các nguồn lực gia đình khác nhau
và thụ hưởng thành quả khác nhau và sự khác nhau đó xuất phát từ năng lực, sở thích và
hoàn cảnh của mỗi cá nhân quyết định. Và dù có sự khác nhau trong các vấn đề đó cũng
không làm thay đổi vị thế ngang nhau của nam và nữ trong gia đình.
2.4. Nội dung bình đẳng giới trong các quan hệ gia đình
Trong gia đình có các mối quan hệ giới sau đây: quan hệ giữa vợ và chồng; quan
hệ giữa con trai và con gái; quan hệ giữa các thành viên nam và thành viên nữ khác trong
gia đình. Ba mối quan hệ này có tác động lẫn nhau đặc biệt mối quan hệ vợ chồng là nền
tảng cho các quan hệ còn lại. Khi mối quan hệ vợ chồng được đảm bảo bình đẳng giới
các mối quan hệ giới khác cũng sẽ bình đẳng.
2.4.1. Bình đẳng giới trong quan hệ giữa vợ và chồng
Pháp luật khẳng định vợ và chồng phải tôn trọng danh dự, nhân phẩm, cùng chia
sẻ trách nhiệm, hỗ trợ nhau trong công việc gia đình và xã hội. Các quy định nhấn mạnh
việc không phân biệt giới trong lao động, học tập, ra quyết định, sở hữu tài sản hay tham
gia đời sống cộng đồng. Theo Luật Bình đẳng giới, Bộ luật Lao động, Luật Hôn nhân
và gia đình 2014, các quyền lợi, cơ hội giữa nam và nữ đều được pháp luật bảo đảm
trong đời sống hôn nhân và gia đình.
1 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Bình đẳng giới, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2024, tr.205 - 206. lOMoAR cPSD| 61686166
Bình đẳng giới với nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên quan
đến hôn nhân và gia đình. Quan hệ vợ chồng được xem là trung tâm của gia đình. Bình
đẳng giới thể hiện ở việc vợ và chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong mọi lĩnh
vực như quản lý tài sản chung, chăm sóc con cái, phân công lao động gia đình và tham
gia các hoạt động xã hội. Các quy định nêu rõ mỗi bên phải tôn trọng quyền tự do cá
nhân của nhau, tránh áp đặt, cưỡng ép hay tạo ra sự phụ thuộc về kinh tế và tinh thần.
Theo Luật Hôn nhân và gia đình 2014, vợ chồng có quyền bình đẳng trong đại diện cho
gia đình trong các giao dịch; quyền quyết định nơi cư trú; quyền lựa chọn nghề nghiệp;
quyền sở hữu, định đoạt tài sản; quyền chăm sóc, giáo dục con cái; quyền tham gia lao
động và hưởng thụ các điều kiện phát triển.
Bình đẳng giới với nhau trong việc thực hiện công việc gia đình và làm việc
nhà. Luật HN&GĐ 2014 quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn
trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc
trong gia đình” bên cạnh đó luật này còn quy định “Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng
lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi
mình.” Như vậy phân công công việc gia đình phải dựa trên sự thỏa thuận, phù hợp với
điều kiện và khả năng của mỗi người, không phụ thuộc vào định kiến giới. Điều này
nhằm đảm bảo phụ nữ không bị quá tải với công việc nội trợ và có cơ hội phát triển như
nam giới. Các số liệu cho thấy đa số phụ nữ phải gánh nhiều việc hơn trong gia đình,
tuy nhiên pháp luật và chính sách xã hội hướng đến giảm sự mất cân bằng này.
Vợ chồng bình đẳng với nhau trong các quan hệ tài sản: Luật Hôn nhân và gia
đình 2014 (các Điều 29–33, 43…) quy định rõ vợ chồng bình đẳng trong sở hữu, sử
dụng và định đoạt tài sản chung; chế độ tài sản; cấp dưỡng; thừa kế. Mọi giao dịch với
tài sản chung có giá trị lớn phải được sự đồng ý của cả hai. Tài sản riêng bao gồm tài
sản có trước khi kết hôn, được tặng cho riêng, được thừa kế riêng hoặc tài sản chia riêng
theo thỏa thuận. Quy định này nhằm ngăn ngừa tình trạng một bên lạm quyền chiếm
đoạt hoặc kiểm soát tài sản của bên kia.
Vợ chồng bình đẳng với nhau trong việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình. Thực
hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình là trách nhiệm của vợ, chồng và gia
đình: “Kế hoạch hóa gia đình là nỗ lực của Nhà nước, xã hội để mỗi cá nhân, cặp vợ
chồng chủ động, tự quyền quyết định số con và khoảng cách giữa các lần sinh nhằm bảo
vệ sức khỏe, nuôi dạy con có trách nhiệm phù hợp với chuẩn mực xã hội và điều kiện
sống của gia đình”. Bên cạnh đó Luật HN&GĐ 2014 quy định gia đình có trách nhiệm
“thực hiện kế hoạch hóa gia đình”. Vợ chồng có quyền và nghĩa vụ bình đẳng với nhau
trong việc thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình như số lần sinh con,
khoảng cách giữa các lần sinh con, sử dụng biện pháp tránh thai,...Đây là quy định quan
trọng để đấu tranh chống lại tư tưởng phong kiến trọng nam, khinh nữ dẫn đến lựa chọn lOMoAR cPSD| 61686166
giới tính thai nhi hoặc đòi hỏi người vợ có thai nhiều lần hoặc tư tưởng áp đặt trách nhiệm
thực hiện biện pháp tránh thai cho người vợ.
2.4.2. Bình đẳng giới trong quan hệ giữa con trai và con gái
Bình đẳng về quyền được sống; tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân
phẩm và danh dự. Với tư cách là một con người, dù là nam hay nữ, trẻ em sinh ra đều
có quyền được sống Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Mọi người có quyền sống.
Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”.
Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em mà Việt Nam là thành viên ghi nhận: “Các
quốc gia thành viên công nhận rằng, mọi trẻ em có quyền cố hữu được sống”. Nguyên
tắc hiến định này đặt ra trách nhiệm trước hết đối với các thành viên của gia đình mà cao
nhất là trách nhiệm của cha mẹ. Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em số
25/2004/QH11 tại Điều 14 có quy định: “Trẻ em được gia đình, nhà nước và xã hội tôn
trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự”. Như vậy khi trẻ được sinh ra,
không phân biệt là trai hay gái đều có quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng, thân
thể, danh dự và nhân phẩm. Gia đình phải áp dụng các biện pháp thích hợp để bảo vệ cả
trẻ em trai và trẻ em gái khỏi mọi hình thức bạo lực về thể xác hoặc tinh thần; không
phân biệt đối xử, gây tổn thương hay xúc phạm, ngược đãi trẻ em.
Bình đẳng về quyền được chăm sóc và nuôi dưỡng: Điều 12 Luật Bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định: “Trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng
để phát triển thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức”. Người chịu trách nhiệm đảm bảo
trực tiếp quyền này cho trẻ em chính là cha mẹ, người giám hộ. Trẻ em – bất kể là trẻ
em trai hay gái, tàn tật hay bình thường đều có quyền được hưởng ngang nhau sự quan
tâm, chăm sóc của cha mẹ và những người thân trong gia đình. Trong gia đình, con trai
và con gái đều có phải được tạo mọi điều kiện tốt nhất để phát triển, được chăm lo dinh
dưỡng đầy đủ,… tùy thuộc vào khả năng tài chính mà gia đình có; các thành viên trong
gia đình phải gương mẫu về mọi mặt cho trẻ noi theo.
Bình đẳng về quyền được học tập, phát triển năng khiếu: Điều 18 Luật bình
đẳng giới quy định: “Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều
kiện như nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển”. Sự quan tâm, giáo
dục của gia đình đối với trẻ em là điều kiện quan trọng giúp mỗi con người hòa nhập
vào cộng đồng và xã hội, thích ứng với đòi hỏi về nghề nghiệp, đạo đức, vốn sống của
mỗi con người; sự quan tâm của họ đối với trẻ em còn giúp cho con cái tránh những tệ
nạn xã hội nảy sinh. Bởi thế, trẻ em cần phải được cha mẹ tạo điều kiện được học tập
đầy đủ, giữa trẻ em trai và trẻ em gái bình đẳng với nhau về độ tuổi đi học. Ngoài ra, trẻ
em cũng cần phải được nghỉ ngơi, vui chơi hợp lý, tham gia các hoạt động khác nhau
phù hợp với lứa tuổi của mình – không kể đó là trẻ em trai hay trẻ em gái. Không được
có tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, dẫn đến chỉ tạo điều kiện cho những trẻ em trai được lOMoAR cPSD| 61686166
vui chơi, phát triển còn trẻ em gái ngoài giờ học là phải lao động, làm việc nhà, không
có thời gian để phát triển những năng khiếu, khả năng của bản thân.
Bình đẳng về nghĩa vụ tham gia các công việc của gia đình: Con trai và con gái
bình đẳng trong việc hưởng quyền nhưng đồng thời cũng bình đẳng về nghĩa vụ. Với
trách nhiệm là thành viên sống trong gia đình, con trai và con gái của nghĩa vụ đóng góp
công sức, tài sản để giải quyết các yêu cầu của đời sống chung. Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014 quy định: “Khi sống cùng với cha mẹ, con có nghĩa vụ tham gia công
việc gia đình, lao động, sản xuất, tạo thu nhập nhằm bảo đảm đời sống chung của gia
đình; đóng góp thu nhập vào việc đáp ứng nhu cầu của gia đình phù hợp với khả năng
của mình”. Dưới góc độ bình đẳng giới, con trai và con gái thực hiện các công việc trong
gia đình phù hợp với lứa tuổi, sức khỏe và khả năng của họ. Sự phân công lao động theo
giới mang tính chất định kiến đối với nam, nữ là trái pháp luật.
2.4.3. Bình đẳng giới trong quan hệ giữa các thành viên nam và thành viên nữ khác trong gia đình
Ngoài quan hệ giữa vợ và chồng, giữa con trai và con gái, bình đẳng giới còn cần
được thực hiện giữa các thành viên nam và nữ khác trong gia đình. Luật Hôn nhân và
Gia đình năm 2014 quy định: “Các thành viên gia đình có quyền, nghĩa vụ quan tâm,
chăm sóc, giúp đỡ, tôn trọng nhau” và “Trong trường hợp sống chung thì các thành viên
gia đình có nghĩa vụ tham gia công việc gia đình, lao động tạo thu nhập; đóng góp công
sức, tiền hoặc tài sản khác để duy trì đời sống chung của gia đình phù hợp với khả năng
thực tế của mình.” Cụ thể, Luật quy định về quyền, nghĩa vụ của các anh chị em với
nhau; ông bà và cháu; chú, bác, cô, cậu, dì, thím... đối với cháu mình. Những quy định
này không có sự phân biệt về giới tính của các chủ thể.Trong các mối quan hệ này, bình
đẳng giới thể hiện ở việc nam và nữ đều được tôn trọng, được thừa nhận về vai trò và vị
trí trong gia đình cũng như trong các quan hệ xã hội, được bảo vệ như nhau trước pháp
luật.Bình đẳng giới trong gia đình có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng gia đình
ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững và góp phần thực hiện bình đẳng giới trong xã hội.
2.5. Ý nghĩa của bình đẳng giới trong gia đình 2
Thứ nhất: Bình đẳng giới trong gia đình là môi trường lành mạnh để con người,
đặc biệt là trẻ em được đối xử bình đẳng, được giáo dục về quyền bình đẳng, được hành động bình đẳng.
Thứ hai: bình đẳng giới trong gia đình là tiền đề quan trọng cho sự thành công
trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em
Thứ ba: Bình đẳng giới trong gia đình góp phần tăng chất lượng cuộc sống của
các thành viên trong gia đình, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước
2 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Bình đẳng giới, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2024, tr. 209-213. lOMoAR cPSD| 61686166
Thứ tư: Bình đẳng giới trong gia đình góp phần giải phóng phụ nữ và góp phần
xây dựng thể chế gia đình bền vững
II. Thực trạng ảnh hưởng của tư tưởng trọng nam khinh nữ đến việc thực hiện
bình đẳng giới trong gia đình tại Việt Nam hiện nay 1. Thực trạng ảnh hưởng của
tư tưởng trọng nam khinh nữ đến việc thực hiện bình đẳng giới trong quan hệ giữa vợ và chồng
a. Về mặt tích cực
Cùng với sự phát triển của thời đại, vai trò của phụ nữ đã có sự thay đổi đáng kể theo
hướng tích cực, theo đó ảnh hưởng của tư tưởng trọng nam khinh nữ đến việc thực hiện
bình đẳng giới trong gia đình cũng không còn mạnh mẽ như trong các thời đại trước.
Trước hết về vấn đề bình đẳng giữa vợ và chồng trong các quan hệ dân sự và các quan
hệ khác. Trong những năm gần đây, tỉ lệ phụ nữ tham gia vào các quan hệ xã hội đã đạt
mức tương đối cao so với các giai đoạn trước đó, từ những việc trong gia đình hay xa
hơn là các hoạt động chính trị, kinh tế, v.v.. Cụ thể, trong lĩnh vực chính trị, tỷ lệ đại
biểu Quốc hội nữ đã tăng từ 18% (giai đoạn 1986 - 1991) lên 30,26% (giai đoạn 2021 -
2025), vượt chỉ tiêu đặt ra và cao hơn mức trung bình của thế giới; tỷ lệ nữ lãnh đạo chủ
chốt tại ủy ban nhân dân các cấp cũng tăng: từ 32,14% lên 37,7% ở cấp tỉnh và từ 21,95%
lên 24,94% ở cấp xã so với nhiệm kỳ trước. Trong lĩnh vực kinh tế, số lượng doanh
nghiệp do phụ nữ làm chủ đã tăng gần gấp đôi, từ 21% đến 40% trong giai đoạn 2010 -
2020; tỷ lệ phụ nữ giữ vị trí quản lý, lãnh đạo tại doanh nghiệp đã tăng lên đáng kể, năm
2010, tỷ lệ này chỉ chiếm 20%, đến năm 2023 đã tăng lên 28%. Đối với lĩnh vực y tế,
phụ nữ chiếm hơn 70% lực lượng lao động, bao gồm bác sĩ, y tá và nhân viên y tế khác;
giai đoạn dịch bệnh COVID-19 diễn ra, nhiều phụ nữ đi đầu trong hoạt động phòng,
chống dịch, chăm sóc bệnh nhân và hỗ trợ cộng đồng, v.v..3Nữ giới cũng giống như nam
giới, được pháp luật đảm bảo về quyền học tập, bồi dưỡng để nâng cao trình độ hiểu
biết, tăng cường chuyên môn, nghiệp vụ. Phụ nữ giờ đây có thể tự do lựa chọn vị trí của
mình trên nhiều lĩnh vực dù là nội trợ hay kinh tế, khoa học - công nghệ và khẳng định
nữ giới hoàn toàn có thể đáp ứng và hoàn thành tốt những công việc vốn được quan
niệm là dành cho nam giới.
Ngoài ra, tư tưởng trọng nam khinh nữ giữa vợ và chồng còn dẫn đến một thực trạng
đáng báo động trên phương diện bảo đảm quyền sống, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm,
đó là bạo lực gia đình trên cơ sở giới. Tuy nhiên, một dấu hiệu tích cực rằng những năm
gần đây nỗ lực phòng, chống bạo lực gia đình trên cơ sở giới đã có những bước tiến
đáng ghi nhận. Năm 2023, công tác phòng, chống bạo lực gia đình đạt được một số kết
quả đáng khích lệ, các chỉ tiêu về bạo lực gia đình hầu như đạt và vượt mục tiêu đề ra
3 Tôn Ngọc Hạnh, (ngày 12/11/2024), Đóng góp của phụ nữ Việt Nam qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi
mới, Tạp chí Cộng sản, truy cập ngày 17/11/2025: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-
dungdang/-/2018/996002/dong-gop-cua-phu-nu-viet-nam-qua-gan-40-nam-tien-hanh-cong-cuoc-doi-moi.aspx lOMoAR cPSD| 61686166
đến năm 2025 tại Nghị quyết 28/NQ-CP về Ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng
giới giai đoạn 2021 – 2030 như: 74,6% người bị bạo lực gia đình, bạo lực trên cơ sở giới
được phát hiện được tiếp cận biện pháp hỗ trợ tư vấn; 100% người gây bạo lực gia đình,
bạo lực trên cơ sở giới được phát hiện ở mức chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự được
tư vấn, tham vấn. Theo Báo cáo của Chính phủ, năm 2023, cả nước có 3.122 hộ xảy ra
bạo lực gia đình với hơn 3.240 vụ, giảm 1.214 vụ so với con số 4.454 vụ của năm 20024.
b. Về mặt hạn chế
Mặc dù được coi là một nước có tỉ lệ nữ tham gia chính trị thuộc nhóm đứng đầu thế
giới5 với tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội Khóa XV đạt 30,26% nhưng tỉ lệ phụ nữ nắm giữ vị
trí lãnh đạo chủ chốt lại ít hơn khi so với Quốc hội Khóa XIV. Tại Kỳ họp thứ 7 Quốc
hội Khoá XV Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội cũng cho biết: tỷ lệ phụ nữ tham gia lĩnh vực
chính trị chưa tương xứng với trình độ, năng lực của phụ nữ hiện nay và chưa đạt được
chỉ tiêu của Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ
nữ thời kỳ đầy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước6. Điều này là minh chứng
cho những tồn đọng trong ảnh hưởng của quan niệm trọng nam khinh nữ đến việc bình
đẳng của vợ chồng trong tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội khi
người phụ nữ không thể được trao cho những gì xứng đáng với năng lực thật sự của họ.
Trong quan hệ gia đình, phụ nữ thường quyết định về chi tiêu hàng ngày, song nam
giới là người có tiếng nói quyết định trong các khoản chi tiêu lớn. Một cuộc khảo sát ghi
nhận 72,7% số người được hỏi cho rằng người vợ quyết định chi tiêu hàng ngày, trong
khi tỷ lệ này đối với người chồng chỉ là 8,2%, cho thấy sự phân biệt rõ rệt về vai trò kinh
tế trong gia đình. Tuy nhiên, khi liên quan đến các khoản chi tiêu hoặc đầu tư lớn, người
chồng thường là người ra quyết định chính, chiếm 38,3% trong khi người vợ chỉ chiếm
9.7%, phản ánh sự duy trì tư tưởng ưu tiên quyền lực tài chính của người chồng trong gia đình7.
4 Thu Hiền, (ngày 10/06/2024), Đẩy lùi bạo lực gia đình trên cơ sở thượng tôn pháp luật và chính sách nhất quán,
Tạp chí Con số sự kiện: https://consosukien.vn/day-lui-bao-luc-gia-dinh-tren-co-so-thuong-ton-phap-luatva-
chinh-sach-nhat-quan.htm, truy cập ngày 17/11/2024
5 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, (2023), Việt Nam có tỉ lệ nữ tham gia chính trị thuộc nhóm đứng đầu thế
giới: https://molisa.gov.vn/baiviet/236568?tintucID=236568, truy cập ngày 10/11/2025
6 Phi Long, (2024), Tỷ lệ phụ nữ tham gia chính trị chưa tương xứng với sự phát triển hiện nay, Báo điện tử tiếng
nói Việt Nam VOV: https://vov.vn/chinh-tri/ty-le-phu-nu-tham-gia-chinh-tri-chua-tuong-xung-voi-su-phattrien-
hien-nay-post1096758.vov, truy cập ngày 10/11/2025
7 Cơ quan Liên Hợp Quốc về Bình đẳng giới và Trao quyền cho phụ nữ (UN Women), Tổng quan về bình đẳng
giới ở Việt Nam 2021 (CGEP), 2021, tr.196: https://vietnam.un.org/sites/default/files/2021-12/CGEP_Full
%20report_Ti%E1%BA%BFng%20Vi%E1%BB%87t.pdf, truy cập ngày 17/11/2024 lOMoAR cPSD| 61686166
Sự bất bình đẳng còn thể hiện trong quyền sở hữu tài sản. Số liệu điều tra của khảo
sát người đứng tên sở hữu nhà ở nước ta cho thấy rất rõ tình trạng bất bình đẳng ở quyền
tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực trong các gia đình. Trong vấn đề quyền tài sản giữa
vợ chồng, kết quả khảo sát cho thấy, với 739 người có nhà, đất, tỷ lệ người chồng đứng
tên cao một cách đáng kể (78,3%), trong khi tỷ lệ người vợ đứng tên là 9,9% và cả hai
cùng đứng tên là 11,8%8. Bất bình đẳng giới trong lĩnh vực tài sản còn thể hiện ở việc
người chồng nắm giữ phần lớn các tài sản có giá trị như phương tiện sản xuất, công cụ
kinh doanh, ô tô, tư liệu sản xuất, trong khi người vợ thường chỉ sở hữu hoặc quản lý
các tài sản nhỏ và có giá trị thấp9. Có thể thấy quyền tham gia, tiếp cận và kiểm soát các
nguồn lực kinh tế trong gia đình của phụ nữ vẫn còn bị hạn chế. Bên cạnh đó, không ít
phụ nữ hoàn toàn không được tham gia quản lý tài chính và phụ thuộc vào quyết định
kinh tế từ nam giới, cho thấy sự bất bình đẳng giới vẫn hiện hữu trong cấu trúc quyền
lực kinh tế của gia đình.
8 Hồ Hương, (27/09/2023), Nỗ lực thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam, đáp ứng được các yêu câu của quá trinh
hội nhập, Cổng thông tin điện từ Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
https://quochoi.vn/hoatdongcuaquochoi/cackyhopquochoi/quochoikhoaXIII/Pages/danh-sach-ky-hop.aspx?
ItemID=80396&CategoryId=08, truy cập 05/11/2025
9 Cơ quan Liên Hợp Quốc về Bình đẳng giới và Trao quyền cho phụ nữ (UN Women), Tổng quan về bình đẳng
giới ở Việt Nam 2021 (CGEP), 2021, tr.197: https://vietnam.un.org/sites/default/files/2021-12/CGEP_Full
%20report_Ti%E1%BA%BFng%20Vi%E1%BB%87t.pdf, truy cập ngày 17/11/2024 lOMoAR cPSD| 61686166
Ngoài ra, về phương diện bảo đảm quyền sống, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm, dù
có những mặt tiến triển là vậy nhưng tình trạng bạo lực gia đình trên cơ sở giới giữa vợ
và chồng vẫn diễn ra với những chỉ số đáng báo động trong xã hội hiện nay. Nghiên cứu
quốc gia do GSO và UNFPA thực hiện năm 2019 cho thấy 62,9% người vợ phải chịu ít
nhất một hoặc nhiều hình thức bạo lực do chồng gây ra trong đời và 31,6 % bị bạo lực
trong 12 tháng trước khảo sát10. Gần 6.000 phụ nữ trong độ tuổi từ 15 - 64 được phỏng
vấn và kết quả cho thấy ở Việt Nam hầu hết bạo lực đối với phụ nữ thường do chồng
gây ra. Những con số này cho thấy quyền được sống an toàn và được tôn trọng của người
vợ vẫn chưa được bảo đảm đầy đủ, đòi hỏi sự nỗ lực hơn nữa trong việc thúc đẩy bình
đẳng và bảo vệ nhân phẩm trong hôn nhân.
Bên cạnh đó, một nghiên cứu mới đây của Bộ Y tế và Trung tâm sáng kiến sức khỏe
- dân số cho thấy, áp lực phải sinh con trai là một trong những nguyên nhân hàng đầu
gây ra trầm cảm sau sinh ở phụ nữ. Nhưng tình trạng càng trầm trọng hơn ở lần mang
thai thứ hai trong trường hợp gia đình đã có con gái trước đó11. Phụ nữ sinh con gái còn
có nguy cơ bị chồng bạo hành trong quá trình mang thai, bao gồm cả bạo hành thể xác
lẫn tinh thần gấp hai lần so với phụ nữ có con trai.
Trong công việc gia đình, "đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm" trở thành một định
kiến về vai trò giới trong gia đình. Người phụ nữ thường được gắn với công việc nhà,
chăm sóc con cái, trong khi nam giới được cho là người chịu trách nhiệm đáp ứng nhu
10 Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc tại Việt Nam (UNFPA) (2020), Công bố Báo cáo điều tra quốc gia về bạo lực đối
với phụ nữ ở Việt Nam năm 2019: “Hành trình để thay đổi”: https://byvn.net/QC3Y, truy cập ngày 05/11/2025
11 Chi cục Dân số Thành phố Hồ Chí Minh, (2020), Trầm cảm vì áp lực sinh con trai – khoảng trống chăm sóc y
tế: https://dansohcm.gov.vn/tin-chuyen-nghanh/7497/tram-cam-vi-ap-luc-sinh-con-trai-khoang-trong-cham-socy-
te, truy cập ngày 10/11/2025 lOMoAR cPSD| 61686166
cầu về vật chất của gia đình. Điều này tạo nên áp lực cho cả người vợ và người chồng
trong gia đình. Thực tế, báo cáo số 237/BC-CP của Chính phủ ngày 16/5/2023 về kết
quả thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2023 cho biết, số giờ trung
bình làm công việc nội trợ và chăm sóc trong gia đình không được trả công của phụ nữ
là 2,3 giờ/ngày, gấp 1,8 lần so với nam giới. Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai
đoạn 2021-2030 đề ra mục tiêu giảm số giờ trung bình làm công việc nội trợ và chăm
sóc trong gia đình không được trả công của phụ nữ còn 1,7 lần vào năm 2025 và 1,4 lần
vào năm 2030 so với nam giới12. Nhưng ngay cả khi chỉ tiêu này đạt so với kế hoạch thì
sự chênh lệch vẫn còn tồn tại và đây vẫn là một chặng đường dài trong công cuộc giảm
thiểu sự bất bình đẳng trong phân công lao động trong gia đình giữa vợ chồng, mà cội
nguồn của nó là tư tưởng trọng nam khinh nữ.
2. Thực trạng ảnh hưởng của tư tưởng trọng nam khinh nữ đến việc thực hiện bình
đẳng giới giữa con trai và con gái
a. Về mặt tích cực
Về quyền được thương yêu, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, được tôn trọng về sức
khỏe, thân thể, danh dự, nhân phẩm; được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, có thể nói
đây là khía cạnh biểu hiện rõ nhất mặt tích cực trong việc bảo đảm bình đẳng giới giữa
con trai và con gái khi những dấu vết ảnh hưởng của tư tưởng trọng nam khinh nữ đã
được giảm đi đáng kể. Theo đó tỉ lệ con trai và con gái được đối xử công bằng trong
việc kế thừa tài sản đạt mức tương đối cao, giảm bớt tình trạng chỉ ưu tiên con trai là
người thừa kế. Tỉ lệ nhập học từ cấp tiểu học đến cấp trung học cơ sở của trẻ em gái và
trẻ em trai là tương đương nhau, trong đó: Bậc tiểu học, tỷ lệ đi học chung của trẻ em
trai là 101,1%, của trẻ em gái là 100,8%; bậc THCS tương ứng là 92,2% và 93,5%; bậc
THPT, tỷ lệ đi học chung của trẻ em trai thấp hơn trẻ em gái 7,1 điểm phần trăm13. Thậm
chí khi xét ở bậc đại học và cao đẳng, tỉ lệ sinh viên nữ đã được xác định cao hơn so với
tỉ lệ sinh viên nam và việc tỉ lệ lao động nữ có trình độ đại học vượt qua nam giới được
dự đoán là hoàn toàn có thể xảy ra trong tương lai14.
b. Về mặt hạn chế
Về quyền được sống, quan niệm trọng nam khinh nữ, sinh con trai mới có thể nối dõi
tông đường vẫn tồn tại trong tư tưởng của một bộ phận xã hội, dẫn đến vẫn tồn tại hành
vi lựa chọn giới tính thai nhi, gây ra tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh. Số liệu
12 TS. Trần Thị Hồng, (ngày 21/10/2024), Bình đẳng giới trong hôn nhân - Thực trạng và giải pháp, Báo điện tử
Phụ nữ Việt Nam: https://phunuvietnam.vn/binh-dang-gioi-trong-hon-nhan-thuc-trang-va-giai-
phap20241021145853008.htm, truy cập ngày 9/11/2025
13 Thu Hòa, (2020), Thành tựu giáo dục và đào tạo qua kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, Tạp chí
Con số sự kiện: https://consosukien.vn/tha-nh-tu-u-gia-o-du-c-va-da-o-ta-o-qua-ke-t-qua-to-ng-die-u-tra-danso-
va-nha-o-nam-2019.htm, truy cập ngày 17/11/2025
14 Tùng Nguyên, (2025), Lao động nữ có trình độ đại học sắp vượt qua nam giới?, Báo điện tử Dân trí:
https://dantri.com.vn/lao-dong-viec-lam/lao-dong-nu-co-trinh-do-dai-hoc-sap-vuot-qua-nam-
gioi20250219150338440.htm, truy cập ngày 17/11/2025 lOMoAR cPSD| 61686166
của Tổng cục Dân số – kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế) cho thấy, mất cân bằng giới tính
khi sinh ở Việt Nam tuy xuất hiện muộn hơn một số nước nhưng tăng nhanh và lan rộng,
xảy ra ở cả thành thị và nông thôn. Xét ở phạm vi vùng kinh tế – xã hội, năm 2006 có
3/6 vùng mất cân bằng giới tính khi sinh thì đến năm 2021 cả 6/6 vùng đã bị mất cân
bằng giới tính khi sinh ở cả thành thị và nông thôn. Hơn nữa, Việt Nam là một trong
những quốc gia hiếm hoi trên thế giới có sự chênh lệch giới tính khi sinh ngay từ đứa
con đầu tiên (110/100), tức là các cặp vợ chồng đã nghĩ đến lựa chọn giới tính khi sinh ngay ở lần sinh đầu15.
Không dừng lại, vấn đề trên sẽ dẫn đến một tình trạng phức tạp khác đó là tình trạng
phá thai chọn lọc giới tính. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến quyền được sống, được
sinh ra của những bé gái, mà còn gây ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe, cơ thể cho người
phụ nữ phải tham gia quá trình phá thai này.
Bên cạnh đó, mặc dù đã có sự tiến triển rõ rệt trong quyền được đi học và tiếp cận
giáo dục của trẻ em gái thế nhưng trẻ em trai vẫn được ưu tiên học hành hơn, đặc biệt
khi ở các vùng nông thôn và miền núi nơi tỉ lệ trẻ em gái phải bỏ học sớm để đỡ đần
chuyện gia đình cao hơn tỉ lệ trẻ em trai, trong đó bao gồm lao động chân tay và kết hôn sớm16.
Không chỉ trong giáo dục, định kiến giới còn thể hiện rõ trong lựa chọn nghề nghiệp
của con cái trong gia đình. Trong quan niệm truyền thống của người Việt Nam, con trai
phải gánh vác trách nhiệm là người “chủ” gia đình trong tương lai, là trụ cột chính về
kinh tế nên việc có công ăn việc làm ổn định, thu nhập đảm bảo là tiêu chí quan trọng
bậc nhất trong quá trình trưởng thành. Số liệu dưới đây sẽ cho thấy sự khác nhau trong
mong muốn của cha, mẹ về nghề nghiệp của con trai và con gái trong tương lai:
15 Trạm Y tế phường Phước Bình, (2023), Mất cân bằng giới tính khi sinh: Thách thức lớn trong phát triển dân
số của Việt Nam: https://tytphuongphuocbinh.medinet.gov.vn/chuyen-muc/mat-can-bang-gioi-tinh-khi-
sinhthach-thuc-lon-trong-phat-trien-dan-so-cua-viet-cmobile10717-103678.aspx, truy cập ngày 10/11/2025 16
Hoài Nam, (2024), Tỷ lệ bỏ học cao ở trẻ nữ vùng dân tộc, chị em lớn tuổi ngại công nghệ, Báo điện tử Dân trí:
https://dantri.com.vn/lao-dong-viec-lam/ty-le-bo-hoc-cao-o-tre-nu-vung-dan-toc-chi-em-lon-tuoi-ngai-
congnghe-20240912155934193.htm, truy cập ngày 10/11/2025 lOMoAR cPSD| 61686166 Lĩnh vực nghề nghiệp Con trai Con gái
Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) Buôn bán tự do 64 32,0 8 4,2 Công nhân 30 15,0 22 11,5 Viên chức nhà nước 74 37,0 131 68,2 Khác 32 16,0 31 16,1 Tổng 200 100 192 100
Nguồn: Kết quả khảo sát của Đề tài tháng 2/2020.
Nhìn chung, quan điểm của cha mẹ trong việc lựa chọn nghề nghiệp cho con cái ở
các bậc cha mẹ tương đối đồng nhất, khi cho rằng con gái phù hợp hơn cả ở những công
việc mang tính hành chính nhà nước, với quan niệm ăn sâu tiềm thức là chỉ có công việc
trong khu vực nhà nước mới là những công việc ổn định nhất. Nhiều gia đình cũng có
quan điểm rằng con trai mới ở với mình lâu dài, còn con gái sẽ đi lấy chồng vì thế ít đầu
tư cho con gái hơn. Từ những dữ liệu trên đã thể hiện rõ được thực trạng xã hội hiện nay
trong vấn đề giáo dục và chăm sóc con cái vẫn còn bị ảnh hưởng bởi tư tưởng “Trọng nam khinh nữ”.
3. Thực trạng ảnh hưởng của tư tưởng trọng nam khinh nữ đến việc thực hiện bình
đẳng giới trong quan hệ giữa các thành viên nam và thành viên nữ khác trong gia đình
Từ số liệu cuộc khảo sát “Một số vấn đề cơ bản về bình đẳng giới ở vùng dân tộc
thiểu số nước ta”, tiến hành năm 2018 - 2019 tại 8 tỉnh của Việt Nam với 2.894 đại diện
hộ gia đình, tuổi 17 - 69, thuộc 18 DTTS.
Nhìn chung, nữ giới vẫn đảm nhận chính các công việc trong nhà, gánh vác hầu
hết các trách nhiệm nội trợ như chăm sóc con cái, người già, nấu ăn, dọn dẹp, giặt giũ,... lOMoAR cPSD| 61686166
với tỷ lệ đồng ý là việc phụ nữ làm chủ yếu luôn ở mức rất cao (trên 70%). Ngược lại,
nam giới tập trung vào vai trò “đối ngoại” như đại diện gia đình tiếp khách, quản lý công
việc chung và các công việc đòi hỏi sức lực/kỹ thuật, củng cố vị thế "trụ cột". Mặc dù
số liệu cho thấy đã có sự chia sẻ công việc giữa hai giới, nhưng tỷ lệ này vẫn còn hạn
chế. Sự chia sẻ thực tế bị lu mờ bởi gánh nặng công việc nhà vẫn dồn lên vai phụ nữ.
Theo báo cáo số 237/BC- CP của chính phủ ngày 16/05/2023, trung bình mỗi
ngày phụ nữ giành 2.3 giờ cho công việc nội trợ và chăm sóc gia đình không được trả
công, cao gấp 1.8 lần so với nam giới. Theo kết quả nghiên cứu khảo sát về công việc
chăm sóc không lương của phụ nữ trong dịch Covid-19 tại TPHCM của nhóm nghiên
cứu ĐH Văn Lang, Sở LĐ-TBXH TP.HCM và Cơ quan Liên Hiệp Quốc về BĐG và
Trao quyền cho phụ nữ (UN Women) thực hiện đã chỉ ra rằng: có đến 61% nữ và 59%
nam tham gia khảo sát cho rằng đó là việc của nữ giới. Gần 50% phụ nữ cũng chia sẻ,
họ phải làm việc nhà vì không ai làm. Chỉ có 30,5% phụ nữ thực hiện những công việc
này vì yêu thích. Đôi khi họ làm việc nhà vì yêu cầu của người khác như bố mẹ, từ chồng
khi mặc định đây là việc của phụ nữ.
Dù pháp luật quy định “Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm
chia sẻ công việc gia đình”16, song tư tưởng đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm khiến
phần lớn phụ nữ phải gánh vác công việc không tên trong gia đình mà không được chia
sẻ công bằng. Hậu quả là phụ nữ bị hạn chế thời gian, cơ hội học tập, làm việc và phát
triển bản thân, trái với tinh thần bình đẳng mà luật đã đề ra. Trong mối quan hệ giữa các
thế hệ trong gia đình, vẫn còn tồn tại sự thiên vị trong cách đối xử giữa con trai và con
gái, cháu trai và cháu gái. Nhiều ông bà vẫn ưu ái cháu trai hơn, coi cháu trai là người
nối dõi, trong khi ít quan tâm hơn đến cháu gái. Trong việc phân công lao động trong
gia đình, nhiều người vẫn cho rằng phụ nữ phải khéo léo, đảm đang, còn nam giới không
cần tham gia việc nhà. Việc giáo dục con trẻ trong gia đình theo khuôn mẫu giới này
khiến tư tưởng bất bình đẳng tiếp tục được duy trì, làm cho quy định pháp luật về bình
đẳng giới không đi vào thực tiễn đời sống.
4. Nguyên nhân của những thực trạng trên
4.1. Nguyên nhân cho mặt tích cực
Về phương diện nhận thức của con người. Đầu tiên là sự xuất hiện của những nghiên
cứu khoa học giúp con người nhận ra rằng năng lực, trí tuệ của mỗi cá nhân là không
phụ thuộc vào giới tính của họ. Bên cạnh đó là sự ý thức của mỗi cá nhân, đặc biệt là
phụ nữ, về quyền và lợi ích hợp pháp mà bản thân xứng đáng được nhận. Chính những
điều này đã giúp cho họ có can đảm đứng lên đấu tranh và cất tiếng nói cho những lợi
ích của bản thân và những người khác.
16 Khoản 5 Điều 18 Luật Bình đẳng giới năm 2006 lOMoAR cPSD| 61686166
Về phương diện xã hội, việc hội nhập quốc tế đã giúp các tư tưởng tiến bộ ngày càng
được lan tỏa rộng rãi tới nhiều nơi trên thế giới. Đặc biệt là Công ước xóa bỏ mọi hình
thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) mà Việt Nam là thành viên, việc tham gia
công ước này là bước đầu để các quốc gia xây dựng hệ thống pháp luật bảo đảm bình
đẳng giới, giảm thiểu tình trạng phân biệt đối xử trên cơ sở giới.
Từ những điều ước quốc tế là cơ sở để hình thành các quy định pháp luật trong nước
được lồng ghép những yếu tố giới. Tại đó luôn chứa đựng những quy định thể hiện sự
ngang bằng trong địa vị giữa vợ và chồng, con trai và con gái, thành viên nam và thành
viên nữ trong gia đình. Có thể kể đến những quy định pháp luật đặt mọi người trong một
hệ quy chiếu chung, không phân biệt giới và giới tính như “1. Mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật; 2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh
tế, văn hóa, xã hội.”17; hoặc những quy định pháp luật về quyền bình đẳng trong các
quan hệ gia đình và nghĩa vụ tôn trọng quyền bình đẳng ấy của mỗi người “Vợ chồng có
nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng
nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”18. Những quy định pháp luật này
chính là sự đảm bảo đầu tiên đối với người phụ nữ trước những tư tưởng “trọng nam
khinh nữ”. Trước nhất là giúp cho những quyền và lợi ích hợp pháp của người họ được
bảo vệ, và từ sự bảo vệ ấy sẽ giúp họ có được tự tin tham gia các lĩnh vực trong đời sống
xã hội. Trong đó đặc biệt phải kể đến Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn
2021 – 2030 đã đưa ra các mốc thời gian cùng những mục tiêu cụ thể cần đạt được, việc
đặt ra những mục tiêu rõ ràng như vậy cũng góp phần không nhỏ để có thể trong vạch
ra những đường lối chính xác, những kế hoạch chi tiết để tiến tới thực hiện bình đẳng giới trong xã hội.
4.2. Nguyên nhân cho mặt hạn chế
Những hạn chế trong việc thực hiện bình đẳng giới hiện nay có thể được lý giải từ
nhiều góc độ: xã hội – văn hóa, kinh tế, thể chế và nhận thức cá nhân.
Về phương diện xã hội – văn hóa, tư tưởng trọng nam khinh nữ có nguồn gốc sâu
xa từ xã hội nông nghiệp phụ quyền, nơi nam giới được xem là trụ cột kinh tế và đại
diện cho danh dự gia đình, còn phụ nữ chủ yếu gắn với vai trò sinh nở và nội trợ. Quan
niệm “đàn ông làm việc lớn, đàn bà lo việc nhỏ” đã được duy trì qua nhiều thế hệ, củng
cố bằng giáo dục gia đình, chuẩn mực đạo đức truyền thống và các thiết chế văn hóa –
tôn giáo. Hệ quả là, trong tiềm thức của nhiều người, phụ nữ vẫn bị xem là yếu thế, cần
“được bảo vệ” hơn là “được bình đẳng”.
Về phương diện kinh tế, sự phân công lao động theo giới tính vẫn tồn tại rõ rệt. Phụ
nữ thường phải đảm nhận vai trò kép: vừa tham gia lao động sản xuất, vừa gánh vác
17 Điều 16 Hiến pháp năm 2013
18 Khoản 1 Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 lOMoAR cPSD| 61686166
trách nhiệm chăm sóc gia đình. Thu nhập, cơ hội thăng tiến và khả năng tiếp cận các
nguồn lực kinh tế của phụ nữ nhìn chung thấp hơn nam giới, đặc biệt trong khu vực phi
chính thức và nông thôn. Chính sự bất bình đẳng về kinh tế này lại củng cố thêm vị thế
phụ thuộc của phụ nữ trong gia đình và làm giảm khả năng tham gia bình đẳng vào các quyết định chung.
Về phương diện thể chế, mặc dù hệ thống pháp luật Việt Nam đã có bước tiến rõ rệt
trong việc cụ thể hóa bình đẳng giới, song việc triển khai thực thi còn thiếu đồng bộ và
giám sát còn hạn chế. Một số chính sách chưa có cơ chế bảo đảm hiệu quả hoặc nguồn
lực tài chính phù hợp, trong khi công tác thống kê, thu thập dữ liệu giới còn rời rạc, gây
khó khăn cho việc đánh giá tác động. Công tác tuyên truyền, giáo dục về giới đôi khi
vẫn mang tính hình thức, chưa tác động sâu đến nhận thức cộng đồng.
Về phương diện nhận thức, một bộ phận không nhỏ người dân, đặc biệt tại khu vực
nông thôn và miền núi, vẫn hiểu sai khái niệm bình đẳng giới, cho rằng những biện pháp
thúc đẩy bình đẳng giới là chính sách “thiên vị cho phụ nữ”, chứ không phải “bảo đảm
cơ hội như nhau cho cả hai giới”. Chính sự hiểu lệch này dẫn đến tâm lý thụ động từ
phía phụ nữ và thái độ thờ ơ, thậm chí phản đối từ phía nam giới, làm chậm quá trình
hiện thực hóa bình đẳng giới trong đời sống gia đình và xã hội.
III. Một số kiến nghị nhằm khắc phục ảnh hưởng của tư tưởng trọng nam khinh
nữ và đảm bảo bình đẳng giới trong gia đình
Thứ nhất, cần tăng cường công tác nghiên cứu, phân tích về tình trạng bất bình
đẳng giới và đánh giá hiệu quả các quy định, chính sách của pháp luật hiện hành về bình
đẳng giới. Cơ quan thẩm định văn bản quy phạm pháp luật phải có trách nhiệm phối hợp
chặt chẽ với cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới trong việc lồng ghép vấn đề
bình giới vào quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật19. Bộ Tư pháp cần
tiếp tục đẩy mạnh hoạt động hướng dẫn nghiệp vụ, tổ chức các lớp tập huấn nâng cao
kỹ năng thực hiện lồng ghép giới cho đội ngũ cán bộ pháp chế, cán bộ tư pháp các cấp.
Để có thể xây dựng được một hệ thống pháp lý về bình đẳng giới hoàn chỉnh, trước hết
cần có sự đánh giá khách quan, toàn diện về thực trạng bất bình đẳng giới hiện nay, cụ
thể: đánh giá mức độ chênh lệch, sự phân biệt đối xử về giới trên thực tế, tác động của
các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới đã và sẽ được ban hành, đồng thời dự báo ảnh
hưởng của những chính sách này đối với cả nam và nữ trong tương lai.
Thứ hai, cần triển khai các chính sách và chương trình giáo dục nhằm nâng cao
nhận thức của cộng đồng về bình đẳng giới21. Công tác giáo dục, truyền thông cần phải
hướng tới mọi đối tượng ở mọi giới tính, mọi lĩnh vực, mọi độ tuổi khác nhau. Đồng
19 Tạp chí Nhà nước, Giải pháp bảo đảm bình đẳng giới trong chính sách, pháp luật hiện nay,
https://tcnn.vn/news/detail/48247/Giai-phap-bao-dam-binh-dang-gioi-trong-chinhsach-phap-luat-
hiennay.html, [truy cập ngày 07-11-2025]. 21 Nhân dân, Bốn giải pháp góp phần bình đẳng giới trong gia đình,
https://nhandan.vn/bon-giai-phap-gop-phan-binh-dang-gioi-trong-gia-dinhpost444212.html, [truy cập ngày 07-11-2025]. lOMoAR cPSD| 61686166
thời, cần có các chính sách cụ thể cho từng địa phương, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa,
miền núi - nơi vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề về bình đẳng giới như tảo hôn, bạo lực giới,
và nhất là tư tưởng trọng nam khinh nữ,…Nhà nước cần khuyến khích sự tham gia tích
cực của các cá nhân, đặc biệt là nam giới trong các hoạt động xã hội, các câu lạc bộ,
chương trình học tập về kiến thức gia đình và bình đẳng giới. Bản thân phụ nữ cũng cần
nâng cao nhận thức về quyền, trách nhiệm của mình trong việc thực hiện bình đẳng giới
và phòng, chống bạo lực gia đình. Bên cạnh đó, việc thay đổi khuôn mẫu giới lạc hậu
đóng vai trò hết sức quan trọng, bởi nếu định kiến giới vẫn tồn tại, coi trọng nam giới
và đánh giá thấp vai trò của phụ nữ thì dù hệ thống pháp luật có hoàn thiện đến đâu cũng
khó đạt được hiệu quả thực thi. Do đó, công tác giáo dục và truyền thông về giới cần
được xem là biện pháp nền tảng để hình thành nhận thức xã hội đúng đắn và bền vững.
Thứ ba, tăng cường xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới.
Hiện nay, việc thiếu quy định cụ thể và chế tài xử phạt nghiêm minh đối với các hành vi
vi phạm pháp luật về bình đẳng giới đã tạo ra khoảng trống pháp lý đáng kể. Vì vậy, cần
bổ sung, hoàn thiện hệ thống chế tài nhằm tăng tính răn đe và phòng ngừa, đồng thời tạo
hành lang pháp lý vững chắc cho các cơ quan quản lý nhà nước trong hoạt động thanh
tra, kiểm tra và xử phạt vi phạm hành chính. Đây là biện pháp quan trọng góp phần bảo
đảm, thúc đẩy bình đẳng giới, đồng thời ngăn chặn và ứng phó hiệu quả với các hành vi
bạo lực, phân biệt đối xử trên cơ sở giới.
Thứ tư, cần nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, truyền thông và giáo dục
về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước liên quan đến
bình đẳng giới. Việc tuyên truyền cần hướng tới việc xóa bỏ định kiến giới trong mọi
lĩnh vực của đời sống, đặc biệt là trong hoạt động kinh tế, lao động và việc làm. Cần
thay đổi nhận thức xã hội về vai trò của phụ nữ trong gia đình – không chỉ giới hạn ở
công việc nội trợ, chăm sóc mà còn là người lao động, người sáng tạo, đóng góp tích
cực vào phát triển kinh tế và xây dựng xã hội.