



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61573419 lOMoAR cPSD| 61573419 lOMoAR cPSD| 61573419 lOMoAR cPSD| 61573419 lOMoAR cPSD| 61573419 lOMoAR cPSD| 61573419 lOMoAR cPSD| 61573419 lOMoAR cPSD| 61573419 lOMoAR cPSD| 61573419 lOMoAR cPSD| 61573419
Câu 10: Bằng kiến thức đã học, hãy làm rõ khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh được nêu ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam. lOMoAR cPSD| 61573419
Đến nay chúng ta sử dụng khái niệm nay: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam; kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”[1].
Khái niệm trên nêu rõ cấu trúc, nguồn gốc, nội dung và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với Đảng và dân tộc ta.
* Thứ nhất, về cấu trúc: Khái niệm nêu rõ “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản cách mạng Việt Nam”. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh tập trung bàn đến các vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, bao gồm: xác định con đường của cách mạng Việt Nam; mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng; lực
lượng tiến hành; phương pháp tiến hành và giai cấp lãnh đạo cách mạng.
Nhận thức như vậy để khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cần tránh những khuynh hướng sai lệch và xuyên tạc cho rằng:
Một là, không có tư tưởng Hồ Chí Minh: cho rằng không có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh mà chỉ một vài phát biểu ngắn gọn của Người.
Hai là, cái gì cũng quy về tư tưởng Hồ Chí Minh mà không hiểu tư tưởng của Người chỉ gắn với những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam, như vậy vô tình hạ thấp chứ không phải đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Ví dụ: tư tưởng Hồ
Chí Minh về phòng cháy chữa cháy…
Phải hiểu: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một khái niệm khoa học, vì thế hết sức cô đọng, chặt chẽ, có nội hàm lý luận cao,
có sức sống mãnh liệt và giá trị lý luận, thực tiễn rất to lớn không những với cách mạng Việt Nam mà còn đối với sự
nghiệp cách mạng giải phóng giai cấp, giải phóng loài người trên phạm vi toàn thế giới.
* Thứ hai, về nguồn gốc: Đảng ta đã chỉ rõ ba nguồn gốc lý luận hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Bao gồm: Chủ
nghĩa Mác – Lênin, các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa của nhân loại. Đặc biệt, chủ nghĩa
Mác - Lênin có vai trò quyết định nhất tới việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh bởi đã trang bị cho Người thế giới
quan và phương pháp luận Mác xít. Với thế giới quan và phương pháp luận Mác xít, Hồ Chí Minh có sự chuyển biến
về chất trong tư tưởng cách mạng của mình để có thể hấp thụ và chuyển hóa được những giá trị tích cực và tiến bộ
trong truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, giúp Người nhận định, đánh giá, phân
tích, tổng kết rất nhiều những học thuyết, quan điểm khác nhau và đặc biệt là những kinh nghiệm hoạt động thực tiễn
một cách khoa học, để từ đó nâng trí tuệ của Người lên một tầm cao mới tìm ra con đường cứu nước đúng đắn – con
đường cách mạng vô sản.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết duy nhất từ trước tới nay đặt ra mục tiêu, chỉ rõ con đường giải phóng triệt để giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới thoát khỏi tình trạng bị nô dịch và bóc lột,
thoát khỏi đói nghèo và tha hoá về nhiều mặt. Đồng thời, học thuyết đó chỉ ra lực lượng cách mạng thực hiện sự nghiệp
giải phóng và phát triển xã hội là giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đem lại cho họ niềm tin vào khả năng và
sức mạnh của chính mình.
Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin còn thể hiện ở chỗ đó là học thuyết mở, không cứng
nhắc, bất biến mà nó đòi hỏi luôn được bổ sung, tự đổi mới, tự phát triển trong dòng phát triển trí tuệ của nhân loại.
Mác-Ăngghen cũng như Lênin đã nhiều lần khẳng định học thuyết của các ông không phải là cái đã xong xuôi, bất
biến, không phải là giáo điều mà chỉ là kim chỉ nam cho hành động. Nó gắn liền với sự phát triển của phong trào cách
mạng, với thực tiễn vận động của lịch sử, hay nói cách khác học thuyết đó chỉ đưa ra cơ sở và phương pháp luận cho
suy nghĩ và hành động. Điều đó hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa giáo điều xơ cứng. lOMoAR cPSD| 61573419
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá một cách khách quan, chính xác, đầy đủ và sâu sắc vai trò của chủ
nghĩa Mác - Lênin trong quá trình cách mạng Việt Nam. Vào năm 1927, Hồ Chí Minh đã viết: “…Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê- nin”[2].
Theo Người, chủ nghĩa Mác - Lênin không những là kim chỉ nam mà còn là “mặt trời soi sáng” con đường chúng ta
đi đến thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Trả lời phỏng vấn nhà báo Pháp vào tháng
7-1969, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng tôi giành được thắng lợi là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn mạnh
rằng… chúng tôi giành được những thắng lợi đó trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác
- Lênin”. Bác vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Hồ Chí
Minh nhận thấy chủ nghĩa Mác - Lênin chủ yếu vẫn được hình thành trên nền tảng triết lý phương Tây, mang dấu ấn
đấu tranh giai cấp ở phương Tây. Để hoàn thiện, Người đã bổ sung chủ nghĩa Mác - Lênin bằng dân tộc học phương
Đông, bởi phương Tây chưa phải là toàn thế giới. Ví như, Thứ nhất, xác định mâu thuẫn cơ bản nhất trong xã hội: Ở
Phương Tây sau khi các cuộc cách mạng tư sản thành công, các quốc gia tư bản được thành lập thì mâu thuẫn cơ bản
và chủ yếu là giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản; còn ở Việt Nam lúc này là thuộc địa của thực dân Pháp mâu thuẫn
giữa toàn thể dân tộc với bọn đế quốc xâm lược và phong kiến tay sai là mâu thuẫn cơ bản nhất, chủ yếu nhất. Thứ
hai, mục đích của cách mạng: Trên cơ sở xác định mâu thuẫn cơ bản nhất trong xã hội, quan điểm của chủ nghĩa Mác
cho rằng trước hết phải thực hiện nhiệm vụ giải phóng giai cấp, trong khi đó ở một nước thuộc địa như Việt Nam theo
Hồ Chí Minh trước hết cách mạng phải nhằm giải phóng dân tộc, vấn đề này ở các nước tư bản châu Âu cơ bản đã
được giai cấp tư sản làm trong cuộc cách mạng tư sản. Thứ ba, quan điểm về Đảng và xây dựng Đảng:
Để thực hiện được mục đích của cuộc cách mạng, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác phải có Đảng lãnh đạo, Đảng đó
là đội tiên phong của giai cấp vô sản, nó là sản phẩm của sự kết hợp giữa hai yếu tố: chủ nghĩa Mác cộng với phong
trào công nhân. Ở Việt Nam, để cách mạng thắng lợi, Bác khẳng định phải có Đảng chân chính lãnh đạo, “Đảng phải
lấy chủ nghĩa Mác-Lê làm cốt” và ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam phải có thêm yếu tố phong trào yêu nước và
ngay từ đầu Đảng đã cắm rễ sâu trong lòng dân tộc.
Nếu Hồ Chí Minh không vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta để
xây dựng hệ thống lý luận cách mạng soi đường cho cách mạng Việt Nam thì làm sao chúng ta có thể chớp thời cơ và
giành thắng lợi nhanh gọn trong thời gian chưa đầy hai tuần của tháng Tám năm 1945 và tiếp theo là thắng lợi trong
hai cuộc kháng chiến thần thánh, quá độ lên chủ nghĩa xã hội khi cả nước có chiến tranh với tư duy “chủ nghĩa xã hội thời chiến”.
Như vậy Bác đã tiếp thu có chọn lọc các yếu tố tích cực, biết kế thừa có phê phán, chọn lọc mọi tinh hoa văn hóa nhân
loại để làm giàu cho tư tưởng của mình, đúng như Bác đã nói “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng
đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm
việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử,
Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho loài người,
mưu phúc lợi cho xã hội… Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”[3]. *
Thứ ba, về nội dung: Theo quan điểm của Đảng được trình bày tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, tư
tưởng Hồ Chí Minh gồm 9 nội dung cơ bản:
Một là, tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại. Hai là, tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Ba là, tư tưởng về quyền làm chủ
của nhân dân, xây dựng nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân. Bốn là, tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư. Năm là, tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. Sáu là, tư tưởng về
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Bảy là, tư tưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân. Tám là, tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân. Chín là, tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người
lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. (Những nội dung này sẽ được làm rõ trong những bài tiếp theo) lOMoAR cPSD| 61573419 *
Thứ tư, về giá trị: Là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường
cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”. Tài sản tinh thần là khái niệm khó có thể nhận diện một
cách cụ thể nhưng nó lại có khả năng gắn kết cộng đồng, kết dính tâm thức dân tộc. Trong thực tế tài sản vật chất có
thể mất đi nhưng tài sản tinh thần thì luôn bền vững bởi nó góp phần tạo dựng nên truyền thống văn hóa, tạo nên hệ
thống giá trị chuẩn mực của xã hội đồng thời định hướng giá trị cho tương lai.
Khi nói đến tài sản tinh thần là nói đến sức sống của một di sản trong cộng đồng, trong lòng dân tộc. Nhân dân ta,
Đảng ta đã thừa hưởng một tài sản tinh thần to lớn là tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó chính là niềm tự hào lớn lao của dân
tộc Việt Nam. Xác định tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và của dân tộc ta không chỉ thuần
túy như một sự đề cập về vấn đề sở hữu mà còn xác định ý thức trách nhiệm trong việc giữ gìn, làm giàu và phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng lý luận và định hướng cho Đảng ta xây dựng đường lối đúng đắn, tổ chức lực lượng
cách mạng và dẫn dắt nhân dân đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong toàn bộ tiến trình của cách mạng nước ta:
thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thắng lợi trong kháng chiến
chống Pháp và thắng lợi trong kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Đảng ta đã chỉ rõ: Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và là kim chỉ nam
cho hành động của Đảng, đã đem lại thắng lợi cho công cuộc đổi mới ở nước ta, sẽ tiếp tục dẫn dắt chúng ta trên con
đường xây dựng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” và trong giai đoạn hiện
nay là soi đường cho Đảng và nhân dân ta trên con đường thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thông qua việc học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh để bồi dưỡng, củng cố cho cán bộ, đảng viên lập trường,
quan điểm cách mạng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tích cực đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Câu 11: Phân tích sự cần thiết, tầm quan trọng của việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh.
Câu 12 Phân tích , làm rõ ý nghĩa của việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh đối với học viên Lào ở chương trình
cử nhân chính trị.
Câu 13 Phân tích, làm rõ cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh Cơ sở nào qu ết định trực tiếp đối với việc
hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
Câu 14 Phân tích vai tr của nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh trong quá trình hình thành và phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh. Câu 15 Phân tích quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Giai đoạn nào đóng vai tr quan
trọng nhất? Vì sao?.
Câu 16 Phân tích, làm rõ giá trị, ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh.
Câu 17 Phân tích tính đúng đắn, sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Câu 18: Làm rõ sự cần thiết phải vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong
sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
Câu 19 Phân tích đặc điểm tình hình nước CHDCND Lào hiện nay và sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hộ
Câu 20 Phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về tính tất ếu và vai tr lãnh đạo của ảng Cộng sản Việt Nam. lOMoAR cPSD| 61573419
Câu 21 Phân tích nh ng ngu n tắc trong hoạt động của ảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Liên hệ với ảng nhân
dân Cách mạng Lào?
Câu 22 Phân tích nh ng nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về hà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Liên hệ với việc xây dựng hà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào?
Câu 23: Cần chú ý nh ng vấn đề gì trong xây dựng ảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện na theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nhà nước dân chủ, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; có nền dân chủ
lập hiến, quản lý đất nước bằng pháp luật luôn được Đảng ta vận dụng sáng tạo, ngày một hoàn thiện trong xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng qua các thời kỳ.
Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền được Đảng ta vận dụng trong xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thứ nhất, Lãnh tụ Hồ Chí Minh xác định bản chất dân chủ của Nhà nước ta: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi
ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp
kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”1. Theo Hồ
Chí Minh, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân; vấn đề cốt tử là làm sao để nhân dân thực sự làm chủ
vận mệnh của đất nước. Để quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm và thực thi trong cuộc sống, cần xây dựng và
hoàn thiện thể chế, phương thức, cơ chế thực hiện. Người chỉ rõ, phải xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, trong
đó nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng Nhà nước pháp quyền và các tổ chức xã hội do chính họ lập ra
và quản lý. Theo đó, nhân dân vừa là người cử ra chính quyền các cấp, vừa là người quản lý, kiểm tra, kiểm soát toàn
bộ hoạt động của bộ máy quyền lực đó. Quan điểm về quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân được Lãnh tụ
Hồ Chí Minh và Đảng ta đề cập hết sức đầy đủ và sâu sắc; được thể chế hóa trong các bản Hiến pháp. Điều 2, Hiến
pháp năm 2013 quy định: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ,
tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức; 3. Quyền lực Nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân được Đảng ta đúc kết thành cơ chế, chính
sách quản lý, điều hành đất nước: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Cơ chế đó phát huy được tính
tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị - xã hội, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, đáp ứng đòi
hỏi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Thứ hai, Nhà nước pháp quyền mà Đảng ta xây dựng là nhà nước tôn trọng pháp luật, được tổ chức và hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Ngay sau khi tổ chức thành công Cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội đầu tiên
(06/01/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo khẩn trương xây dựng và thông qua Hiến pháp năm 1946, đặt nền
móng cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Quá trình chỉ đạo xây dựng Hiến pháp và pháp luật, tổ
chức và vận hành nhà nước, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở, Nhà nước ta là Nhà nước của dân, pháp luật của ta là pháp
luật dân chủ, bảo vệ quyền lợi của nhân dân, nhưng phải nghiêm minh và phát huy hiệu lực thực tế: “Nghiêm chỉnh
thực hiện dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ địch. Triệt để chấp hành mọi chế độ và pháp luật của Nhà nước”2.
Người luôn nêu gương trong việc khuyến khích nhân dân phê bình, giám sát công việc của Chính phủ; đồng thời, nhắc
nhở cán bộ các cấp, các ngành, trước hết là cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp phải gương mẫu trong việc tuân lOMoAR cPSD| 61573419
thủ pháp luật. Để tiến tới một nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, có hiệu lực, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, biết quản lý nhà nước, thành thạo
nghiệp vụ hành chính và nhất là phải có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tận tâm, tận lực suốt đời phục
vụ nhân dân. Đồng thời, luôn đề phòng và chủ động khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước, kiên
quyết chống ba thứ giặc nội xâm là: Tham ô, lãng phí, quan liêu. Cùng với đó, Người rất coi trọng việc giáo dục pháp
luật cho nhân dân, góp phần nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn hóa chính trị và tính tích cực
công dân, khuyến khích nhân dân tham gia vào các công việc của Nhà nước.
Thứ ba, Nhà nước ta do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân
và tính dân tộc rộng rãi. Sinh thời, Hồ Chí Minh thường nhắc nhở các tổ chức đảng và đảng viên: Đảng ta là đảng cầm
quyền chứ không phải đảng trị, mọi cán bộ, đảng viên phải biết tôn trọng Nhà nước, gương mẫu chấp hành Hiến pháp
và pháp luật của Nhà nước. Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Người căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi
đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải
giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”3.
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân và vì dân phải tiếp tục quán triệt sâu sắc tư tưởng, học tập, làm theo tấm gương Hồ Chí
Minh về quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân. Bởi, đây là nền tảng tư tưởng, lý luận quan trọng trong tổ
chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền kiểu mới do nhân dân làm chủ.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân trong tình hình mới
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một bước đột phá trong tư duy về xây dựng nhà nước trong thời
kỳ đổi mới của Đảng ta trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Đó là cơ sở chính trị
cho việc tiếp tục đẩy mạnh việc nghiên cứu về nhà nước pháp quyền và thúc đẩy việc đổi mới một cách căn bản, có
hệ thống tổ chức và phương thức hoạt động của nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng,
khẳng định “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”4. Do vậy, trong thực hiện
cần tiếp tục quán triệt và vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Trước hết, nắm vững mục tiêu là tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tất cả vì độc lập dân tộc,
dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Lựa chọn ra và thực thi những cơ chế, hình thức dân chủ hữu hiệu để nhân
dân quyết định những công việc trọng đại của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn đã chỉ rõ, chừng nào
và khi nào Nhà nước chưa tạo đủ điều kiện để nhân dân thực hiện phát huy quyền làm chủ của mình ở cơ sở, hoặc để
xảy ra dân chủ cực đoan, dân chủ quá trớn, gây trở ngại cho hoạt động điều hành và quản lý của bộ máy chính quyền
cơ sở, thì chừng đó quyền lực Nhà nước ở địa phương bị suy giảm, cản trở việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Nội dung này có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là khi các thế lực thù địch đang lợi dụng chiêu bài “dân chủ” và “nhân
quyền” cũng như các thủ đoạn khác để vu cáo, xuyên tạc chế độ dân chủ, chống phá cách mạng nước ta. Vì vậy, phải
nâng cao dân trí, động viên, giáo dục và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân sử dụng quyền làm chủ, quyền lực của
mình tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Thứ hai, xây dựng nhà nước luôn đi đôi khắc phục được những căn bệnh cố hữu của các nhà nước kiểu cũ. Tuyệt đối
không mơ hồ trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch đối với các giá trị văn hóa dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Đồng thời, kiên quyết chống luận điệu xuyên tạc, mị dân, núp dưới chiêu bài “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”
tư sản để xuyên tạc những giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã xây dựng, vun đắp trong cuộc
đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức. Theo Hồ Chí Minh, để xây dựng Nhà nước trong
sạch, vững mạnh, hiệu quả phải kết hợp chặt chẽ giữa “đức trị” và “pháp trị”, kết hợp giữa “xây” và “chống”, không
được coi nhẹ mặt nào. Xây là ra sức giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng cho nhân dân, trước hết là cán lOMoAR cPSD| 61573419
bộ, công chức, đảng viên, những người có chức, có quyền, đi đôi với việc chống chủ nghĩa cá nhân, dùng pháp luật
nghiêm trị những kẻ vi phạm pháp luật và thoái hóa đạo đức, làm hại dân, hại nước. Cán bộ các cấp trong bộ máy công
quyền nhà nước từ Trung ương đến cơ sở phải thực sự gần dân, biết lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, làm
việc gì cũng phải bàn bạc kỹ và học hỏi kinh nghiệm của nhân dân, thực sự yêu dân, kính dân, tin cậy và trọng dân.
Thứ tư, luôn đề phòng và chủ động khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước, kiên quyết chống ba thứ
giặc nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu. Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước
phụ thuộc vào tính nghiêm minh của việc thi hành pháp luật và sự trong sạch, gương mẫu về đạo đức của những người
cầm quyền. Vì vậy, phải luôn nêu cao cảnh giác với những biểu hiện tha hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ, công chức,
giữ cho Nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh.
Thứ năm, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong các cơ quan quyền lực của Nhà
nước về phẩm chất chính trị, đạo đức, phong cách, năng lực lãnh đạo, quản lý để họ thực sự là “người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân”, toàn tâm, toàn ý phục vụ lợi ích của nhân dân. Cùng với nâng cao bản lĩnh chính trị, giáo dục
đạo đức cách mạng, phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức nhà nước có đủ tri thức về chính trị học, xã hội học,
về hệ thống chính trị, pháp luật, quản lý hành chính nhà nước, về tổ chức lao động khoa học và tâm lý quản lý, v.v.
Thứ sáu, tăng cường vai trò lãnh đạo và đổi mới phương thức cầm quyền, lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân và vì dân, đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
thời kỳ mới. Bởi, thực tiễn đã chỉ rõ: sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là nhân tố quyết định để bảo
đảm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, bảo đảm cho hệ thống
chính trị có đủ khả năng đưa đất nước ta từng bước vượt qua nguy cơ, thách thức, vững vàng đi theo con đường cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân vẫn mãi có ý nghĩa về lý luận và
thực tiễn sâu sắc. Ngày nay, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và hội nhập, Đảng ta tiếp tục kế thừa tư tưởng của
Người để xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là điều vô cùng cần thiết và đúng đắn.
Câu 24: Phân tích, làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đại đoàn kết là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các tầng
lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, cái gốc của cây. Nhưng đã
có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác.
1. Nét đặc sắc trong nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Thứ nhất, đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở thống nhất giữa lợi ích của quốc gia dân tộc với quyền lợi cơ
bản của các giai tầng trong xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có thái độ “cầu đồng tồn dị” - chấp nhận sự khác biệt của các giai tầng trong xã hội nhưng
không trái với mục tiêu chung: Độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc Việt Nam luôn phải đương đầu với những kẻ thù xâm lược đến từ phương Bắc,
sau này là từ phương Tây. Dựng nước gắn liền với giữ nước. Theo Hồ Chí Minh, mẫu số chung của mọi giai tầng trong
xã hội Việt Nam, đó là khát vọng được độc lập, khát vọng vươn tới một cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc.
Người khẳng định: “Người Việt Nam ai cũng yêu nước, muốn nước thống nhất độc lập, ta khéo nhen chút than hồng
ấy, nó sẽ cháy lên thành ngọn lửa”.
Thứ hai, tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của nhân dân.
Dân trong tư tưởng Hồ chí Minh là những người cùng chung một nước, chung một cộng đồng, chung một lãnh thổ
thống nhất. Người gọi nhân dân là “quốc dân”, là “đồng bào”, là “người trong một nước”. Dân là những người có
chung một cội nguồn, tất cả sinh cùng một bọc, là “con Lạc cháu Hồng”, là “con Rồng cháu Tiên”, đều là con cháu lOMoAR cPSD| 61573419
Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Đó là toàn bộ đồng bào trong đại gia đình các dân tộc VN, kể cả những người ở
nước ngoài, “không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu, nghèo, giai cấp, tôn giáo”, trừ bọn tay sai cho đế quốc thực dân,
bọn Việt gian, bọn phản bội lại lợi ích Tổ quốc.
Nguyên tắc này vừa là sự kế thừa tư duy chính trị truyền thống của dân tộc “Dân là gốc của nước”, vừa là sự quán triệt
quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Hồ Chí Minh cho rằng: Dân là gốc
rễ, là nền tảng của đại đoàn kết. "Trong bầu trời không gì quý bằng Nhân dân. Trong thế giới, không gì mạnh bằng lực
lượng đoàn kết của Nhân dân". Dân là chủ thể của đại đoàn kết. Dân là nguồn sức mạnh vô tận, vô địch của khối đại
đoàn kết. Dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng Cộng sản và hệ thống chính trị. Do đó, cần phát huy sức mạnh của Nhân
dân. Đoàn kết phải thực sự tạo thành sức mạnh vật chất và tinh thần. Đoàn kết phải thông qua các tổ chức chặt chẽ để
tập hợp các tầng lớp Nhân dân. Trong Di chúc Người căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực ký quý báu của Đảng và Nhân dân ta”.
Năm 1950, Bác Hồ đến thăm và nói chuyện với lớp đào tạo cán bộ Tư pháp. Đó là một đêm mùa Hè ở vùng núi chiến
khu Việt Bắc, tiết trời rất nóng nực. Bác mặc chiếc áo sơ-mi bằng vải màu vàng đã sờn bạc, để lộ bên trong chiếc áo
may-ô nhuộm màu nâu. Dưới ánh đèn dầu le lói, một tay cầm chiếc quạt giấy, tay kia Bác rút trong cặp ra một xếp
giấy, gồm những câu hỏi mà học viên trong lớp đã gửi lên để nhờ Bác giải đáp. Bác đọc từng câu, vừa trả lời vừa giải
thích thật cặn kẽ và dễ hiểu. Đáng nhớ nhất có câu hỏi: “Làm thế nào để Tư pháp gần được dân?”. Bác trả lời: “Muốn
gần dân thì đừng xa dân!”.
Sự ủng hộ của nhân dân là hết sức to lớn. Ví dụ: Sự ủng hộ về vật chất và tinh thần cho Chính phủ ta sau khi CMT8
thành công, Tổng tuyển cử, “Tuần lễ vàng”, “Hũ gạo cứu đói”…
Thứ ba, đại đoàn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đoàn kết lâu dài, chặt chẽ.
Đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đoàn kết trên lập trường vô sản, theo ngọn cờ chủ nghĩa Mác – Lênin, đó
là một tập hợp có tổ chức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nền tảng là khối liên minh công - nông - trí thức.
Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài. Đoàn kết là một chính sách dân
tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải
đoàn kết để xây dựng nước nhà”. Đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ, đồng thời phải củng cố. Nền có vững, nhà mới chắc
chắn, gốc có tốt thì cây mới tốt tươi.
Thứ tư, đại đoàn kết phải chân thành, thẳng thắn, thân ái; đoàn kết phải gắn liền với tự phê bình và phê bình. Xuất phát
từ tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc của con người Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương tập hợp mọi lực
lượng dân tộc trong khối đại đoàn kết. Đồng thời, Người cho rằng, trong đoàn kết có đấu tranh, đấu tranh để củng cố
đoàn kết. “Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai
của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”. Do đó, trong đoàn kết phải thực hiện tự phê bình và
phê bình, để khắc phục, sửa chữa khuyết điểm, phát huy những ưu điểm, củng cố nội bộ, củng cố tổ chức, tăng cường đoàn kết.
Trong tác phẩm Di chúc, điều mong muốn cuối cùng của Người là: Toàn đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây
dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
2. Khái niệm về đại đoàn kết dân tộcHồ Chí Minh đưa ra quan niệm về đại đoàn kết, đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về địa đoàn kết dân tộc là một bộ phận quan trọng hợp thành trong hệ thống tư tưởng của
Người về những vẫn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Nghiên cứu toàn bộ di cảo của Người có thể nhận thấy cum
từ “đoàn kết” được Người nhắc tới hơn hai ngàn lần và cụm từ “đại đoàn kết” được Người nhắc tới tám mươi lần, điều
đó nói lên sự quan tâm đối với vấn đề đoàn kết ở mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh của lich sử, đồng thời tỏ rõ tầm chiến
lược tư tưởng đoàn kết của Người. Đoàn kết có thể hiểu một cách đơn giản là sự tập hợp, kết thành một khối thống lOMoAR cPSD| 61573419
nhất, cùng hoạt động vì một mục đích chung nào đó. Còn đại đoàn kết là đoàn kết rộng rãi tức muốn nhấn mạnh tới
thành phần, quy mô, lực lượng của khối đoàn kết.
Hồ Chí Minh nới nhiều tới đoàn kết, đại đoàn kết, tuy nhiên chỉ một lần duy nhất Người định nghĩa về khái niệm đại
đoàn kết: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông
dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, cái gốc
của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”. Tư tưởng về đại đoàn kết tiếp
tục được Hồ Chí Minh cụ thể hóa hơn trong các cụm từ như” “đại đoàn kết toàn dân”, “đoàn kết toàn dân”, “đoàn kết
dân tộc”, “toàn dân tộc ta đoàn kết”. Tuy cách diễn đạt có thể khác nhau, nhưng nội hàm của các khái niệm trên đầu
thống nhất khi khẳng định lực lượng của khối đại đoàn kết là của toàn thể nhân dân Việt Nam.
Như vây, đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đại đoàn kết các dân tộc, giai cấp, mọi giới, mọi lứa tuổi,
mọi vùng của đất nước, đoàn kết mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong nước hay định cư
ở nước ngoài thành một khối vững chắc trên cơ sở thống nhất về mục tiêu chung và những lợi ích căn bản.
3. Vai trò của địa đoàn kết dân tộc
Hồ Chí Minh chỉ ra vai trò của đại đoàn kết dân tộc đối với cách mạng Việt Nam
Khi đề cập đến vị trí, vai trò của đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định, đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược cơ
bản, nhất quán, lâu dài, là vấn đề sống còn, quyết định thành công của cách mạng. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực
lượng nhằm hình thành và phát triển sức mạnh to lớn của toàn dân trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù của dân tộc, của
nhân dân. Theo Người, đoàn kết làm nên sức mạnh và là cội nguồn của mọi thành công: “Đoàn kết là một lực lượng
vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công,
thành công, đại thành công”.
Với Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không phải là một chủ trương, một chiến lược xuất phát từ nguyện vọng, từ ý muốn
chủ quan của lực lượng lãnh đạo mà là sự đúc kết những đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng do quần chúng
tiến hành. Nếu như xuất phát từ nhu cầu của lực lượng lãnh đạo cách mạng, đại đoàn kết dân tộc sẽ chỉ dừng lại là một
thủ đoạn chính trị nhằm đạt được mục đích, một ý đồ nhất định. Ngược lại, nhìn nhận đoàn kết dân tộc như một đòi
hỏi tự thân, khách quan của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng thì đại đoàn kết là sự nghiệp của
dân, do dân và vì dân. Do đó, trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Người yêu cầu không được có bất cứ lúc nào lơ là
nhiệm vụ xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại trong nhận thức
mà được cụ thể hóa trong mọi bước đi, giai đoạn phát triển của cách mạng, Người nói: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho
thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà”
4. Lực lượng của khối đại đoàn kết dân tộc
Hồ Chí Minh chỉ ra lực lượng của khối đại đoàn kết dân tộc là toàn dân trong đó lấy liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng
Kế thừa và nâng tầm tư duy chính trị truyền thống của cha ông: “Nước lấy dân làm gốc”; đồng thời thấm nhuần nguyên
lý mác xít “Cách mạng là ngày hội của quần chúng”, Hồ Chí Minh đã tìm sức mạnh và cái cẩm nang thần kỳ của công
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước ở lực lượng vô địch của nhân dân: “Trong bầu trời không có
gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, dân, nhân dân có một nội hàm rất rộng. Người dùng các khái niệm này để chỉ tất cả con dân của nước Việt
Nam, những người được gọi là “con Lạc cháu Hồng”. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Người là đoàn kết tất cả các
tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các chính đảng, đoàn thể, các dân tộc, tôn giáo, kể cả những người trước đây lầm
đường lạc lối nhưng đã biết hối cải, quy về với chính nghĩa của dân tộc. Đoàn kết trong tư tưởng của Người là đoàn
kết rộng rãi, mở rộng và tranh thủ tất cả những lực lượng và bộ phận có thể tranh thủ. Nguyên tắc đoàn kết rộng rãi
được dựa trên điểm tương đồng là: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, thì dù
những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. “Ai có tài, có sức, có đức,
có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. lOMoAR cPSD| 61573419
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh luôn có sự kết hợp hài hòa, quyện chặt và nhất quán giữa yếu tố dân tộc và yếu
tố giai cấp. Đoàn kết dân tộc trên cơ sở lấy liên minh công nông làm gốc, không một lúc nào quên đi lợi ích giai cấp
song Người cũng có một tư duy vượt trước khi khẳng định chủ ghĩa dân tộc là một động lực lớn của cách mạng Việt Nam.
Trong lực lượng phong phú của Mặt trận, Đảng Cộng sản Việt Nam được xác định là một thành viên, bởi Đảng là bộ
phận ưu tú nhất của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, Đảng không phải là một thành viên bình thường, mà là người lãnh
đạo của khối đại đoàn kết toàn dân. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Đảng là tuyên truyền, giáo dục để quần
chúng giác ngộ sự cần thiết phải đoàn kết lại; chọn lựa những hình thức, phương pháp tổ chức thích hợp để có thể thu
hút rộng rãi các lực lượng yêu nước, tiến bộ trong dân chúng; hướng dẫn khối đại đoàn kết toàn dân đấu tranh, lao
động sáng tạo theo những mục tiêu, nhiệm vụ phù hợp với lợi ích thiêng liêng của dân tộc và nguyện vọng chính đáng
của nhân dân. Người cũng nhấn mạnh quyền lãnh đạo Mặt trận không phải Đảng tự phong cho mình, mà phải được
nhân dân thừa nhận: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ
phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng
rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.
Tóm lại, lực lượng góp thành sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc là toàn dân, trogn đó lấy liên minh công nhân - nôgn
dân - trí thức làm nền tảng được tập hợp trong một Mặt trận thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực tiễn đã
trả lời chỉ trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc này, địa đoàn kết dân tộc mới có sức sống bền vững và trường tồn.
5. Phương thức thực hiện đại đoàn kết dân tộc
Hồ Chí Minh chỉ ra phương thức thực hiện đại đoàn kết dân tộc
Đại đoàn kết được xây dựng trên cơ sở bảo đảm lượi ích tối cao của dân tộc và những lợi ích chính đáng của nhân dân
lao động. Thực tiễn lịch sử đã xác nhận, suy đến cùng, mối quan hệ giữa các tầng lớp nhân dân trở nên bền chặt hay
không do chính vấn đề lợi ích quy định. Ngược lại nếu không thỏa mãn những vấn đề tối thiểu về lợi ích thì mọi khẩu
hiệu về đoàn kết chỉ là những khẩu hiệu trống rỗng. Tuy nhiên, mối quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp luôn là
vấn đề hết sức phức tạp, chồng chéo, luôn chứa đựng những yếu tố thống nhất, mâu thuẫn và không ngừng vận động
biến đổi cùng với đời sống thực tiễn.
Mẫu số chung của khối đại đoàn kết dân tộc, theo Người là chân lý: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Độc lập, tự
do là nội dung cơ bản về quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của mỗi quốc gia dân tộc, của mỗi cá nhân, thành viên
trong dân tộc đó. Quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc là thiêng liêng và bất khả xâm phạm
của mỗi con người. Song, con người không bao giờ là một chủ thể tách biệt xã hội, con người luôn là con người xã
hội và sống trong lòng mỗi quốc gia dân tộc cụ thể. Vì lẽ đó, quyền của con người luôn gắn liền với quyền của quốc
gia, dân tộc. Con người chỉ có thể mưu cầu hạnh phúc cho chính mình, được sống và được tôn trọng phẩm giá khi
quốc gia dân tộc độc lập, tự do. Như vậy, xác định mục tiêu phản ánh được lợi ích cản bản, cấp bách và nóng bỏng
nhất của toàn thể dân tộc Việt Nam đang sống trong cảnh độc lập, tự do của Tổ quốc bị đe dọa là phương thức quan
trọng để quy tụ sức mạnh toàn dân tộc của Người.
Câu 25: Phân tích, làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về lực lượng và phương thức xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Liên hệ thực tiễn ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào?
Câu 26: Bối cảnh thế giới và sự cần thiết phải đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và đoàn kết quốc tế
Tìm hiểu, nghiên cứu tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, chúng ta không chỉ dừng ở việc nghiên cứu trước tác của lOMoAR cPSD| 61573419
Người trong toàn tập Hồ Chí Minh, Văn kiện Đảng toàn tập, mà một phương pháp rất quan trọng là chúng ta phải tìm
hiểu, nghiên cứu các hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức và trực tiếp thực hiện các hoạt động đối ngoại và đoàn kết
quốc tế của Người. Jean Lacouture (Giăng Lacutuya) một nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Pháp đã có một nhận định rất
sâu sắc: “Qua lăng kính tư tưởng của vị nguyên Tổng Bí thư Đảng cộng sản Đông Dương, kế đó là Đảng Lao động
Việt Nam xuất hiện một hệ thống học thuyết hình thành bởi những hành động hơn bởi những từ ngữ.”[1] Giáo sư Trần
Văn Giàu đã khẳng định sự đúng đắn trong phương pháp tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh từ hành động: “Cụ Hồ là
người chứng minh sự vận động bằng đi đứng”, thể hiện lý thuyết bằng hành động: “Xét cho cùng thì hành động, hành
động trước sau như một, lắm khi còn trung thành, chân thật hơn là lời nói và câu văn”[2].
Tìm hiểu tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, tiếp cận từ các hoạt động trực tiếp của Người từ khi ra đi tìm đường cứu
nước, trong thời kỳ hoạt động ở Pháp, Nga, Anh, Trung Quốc… (1911-1941) Bác đã có hàng loạt các hoạt động đối
ngoại và đoàn kết quốc tế. Đó là các hoạt động tìm hiểu các dân tộc bị áp bức, bóc lột ở các thuộc địa, tìm hiểu các
lực lượng tiến bộ trên thế giới, kể cả ở “mẫu quốc” chống lại chủ nghĩa thực dân, đế quốc…; tìm hiểu các thế lực phản
động hiếu chiến trong giới cầm quyền của các nước đế quốc, nhất là đế quốc Pháp để hiểu chúng và phân hóa chúng;
các hoạt động tuyên truyền, vận động tập hợp lực lượng quốc tế ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt Nam.
Trong thời kỳ ở Pháp và Nga, các hoạt động đối ngoại của Bác Hồ và các đồng chí của Người đã tranh thủ sự đồng
tình và ủng hộ của Đảng Cộng sản Pháp, của Hội liên hiệp các tổ chức thuộc địa, của Quốc tế cộng sản; các hoạt động
thiết lập các mối quan hệ với các lãnh đạo phong trào cách mạng thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng của các
dân tộc thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng. Thời kỳ hoạt động ở Trung Quốc, bằng các hoạt động ngoại giao
khôn khéo, Bác và các đồng chí của mình đã lợi dụng được chính quyền Quốc dân đảng Trung Quốc, đồng thời tranh
thủ được sự ủng hộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nên đã tổ chức ở Côn Minh “Việt Nam dân chúng hưởng ứng
Trung Quốc khẳng định hậu vận hội”, tạo thế hợp pháp cho các hoạt động cách mạng của ta. Tranh thủ chính quyền
của Tưởng Giới Thạch để chúng ta lập “Việt Nam độc lập đồng minh hội Hải ngoại biện sự xứ” là cơ quan đại diện
của mặt trận Việt Minh ở nước ngoài nhằm duy trì các quan hệ với quốc dân Đảng Trung Quốc và làm nơi liên lạc
quốc tế của ta. Với cơ quan đại diện này, cách mạng Việt Nam đã bắt liên lạc được với các lực lượng cách mạng ở
Trung Quốc và các nước Đông Nam Á.
Trình bày một số vấn đề trên đây giúp chúng ta đi tới một nhận thức: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và đoàn kết
quốc tế hình thành và phát triển gắn chặt với toàn bộ hơn 60 năm hoạt động cách mạng của Người. Do đó khi nghiên
cứu tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, chúng ta phải tiếp cận từ các bài viết, bài nói của Người, từ các văn kiện về
đường lối, chính sách đối ngoại, đoàn kết quốc tế của Đảng và nhà nước ta, từ các tác phẩm của các học trò xuất sắc
của Bác, từ các chiến sĩ cộng sản quốc tế, từ các chính khách, các nhân sĩ tri thức và bạn bè quốc tế viết và nói về Bác;
và rất coi trọng tiếp cận các hoạt động trực tiếp của Bác khi Người tiến hành các hoạt động đối ngoại và đoàn kết quốc
tế. Do đó tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về thế giới, về thời đại, về
chiến lược sách lược, về nghệ thuật ứng xử trong quan hệ quốc tế nhằm phục vụ thắng lợi sự nghiệp cách mạng trong
từng thời kỳ tiến lên giành thắng lợi cho sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng một nước Việt Nam
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu, là bạn với mọi quốc gia
vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Phong cách nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và đoàn kết quốc tế - tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh được thể hiện thông qua
hệ thống quan điểm, nguyên tắc, phương pháp, phong cách nghệ thuật ngoại giao sau: -
Quan điểm cơ bản – nền tảng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là: Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Tất cả hoạt động đối ngoại và đoàn kết quốc tế phải xuất phát từ lợi ích quốc gia, dân tộc, đặt lợi ích
quốc gia dân tộc lên trên hết trước hết. Tất cả phải nhằm mục tiêu bảo vệ độc lập chủ quyền của dân tộc, tự do và hạnh
phúc của nhân dân. Không có gì quý hơn độc lập tự do!